Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013

Chân dung của Mẹ

Huỳnh Trung Chánh

Sau hiệp định Genève năm 1954 chia đôi đất nước, chánh quyền miền Nam ồ ạt gởi cán bộ về nông thôn xây dựng hạ tầng cơ sở. Xã Thủy Liễu, một xã hẻo lánh, nghèo nàn, bùn lầy nước động sát biên giới tỉnh Chương Thiện, từ lâu chìm trong quên lãng, bỗng trở thành vị trí chiến lược.

Vừa tốt nghiệp trường Quốc Gia Sư Phạm về trình diện Ty Tiểu Học Kiên Giang, Quân liền được "ưu ái" đề bạt làm hiệu trưởng trường tiểu học tân lập tại xã Thủy Liễu. Thủy Liễu là loại cây sinh sôi ven bờ sông rạch miền Nam. Người dân gọi thủy liễu là cây bần, tên mộc mạc, nghèo hèn, lam lũ như cuộc đời của họ. Bần cũng xanh um và rũ bóng nên thơ như liễu. Liễu có thể ví như cô gái thị thành ẻo lả, trau chuốt và bần như một cô gái quê rắn chắc, mặn mà. Cho nên người Trung Hoa gọi bần là liễu nước – thủy liễu -, cũng hợp tình lý. Xã Thủy Liễu hoang vu nhiều bần, không ngờ lại được ban một địa danh duyên dáng khiến cho Quân bị hố nặng, khi mừng húm chọn lựa nhiệm sở ở chốn khỉ ho cò gáy nầy. Ngược lại, hai người bạn đồng khóa của chàng, bị cử đi Tràm Chẹt và Xẻo Rô, địa danh cục mịch lại không cách tỉnh lỵ bao xa.

Là dân thị thành háo động mà nay phải chôn chân ở chốn hoang vắng buồn tênh, Quân chán nản vô cùng. Ngày tháng quen dần, Quân lại thương cái quê mùa đặc sệt của Thủy Liễu, cái quê mùa chứa chan bao tình tự dân tộc của miền Nam. Dân quê thật thà, chơn chất, và đặc biệt hiếu khách. Ai cũng niềm nở tiếp đón Quân theo tinh thần trọng kính thầy học ngày xưa. Học trò thì siêng năng dễ dạy. Thầy phán một lời nhỏ nhẹ, đã răm rắp tuân theo. Thầy cần điều gì thì cả đám lăng quăng tranh nhau phục vụ. Quân là ông thầy yêu nghề, thương trẻ…, nên trường học với chàng là một đại gia đình tràn ngập tình thương, giúp cho Quân vơi niềm cô đơn ở xứ lạ quê người.
Nhà trường sẵn có phòng ốc riêng cho hiệu trưởng trú ngụ. Những buổi chiều gió mát, Quân thường ra sau nhà, theo dõi những chiếc thuyền xuôi ngược trên sông, thơ mộng như bức tranh thủy mạc. Cảnh tượng êm đềm đó, thỉnh thoảng lại được chấm phá thêm bằng những câu hò trữ tình, trong vắt, lơ lửng khắp nẻo sông dài. Những câu hò đối đáp, đã có thời ngự trị miền Nam thanh bình, miền Nam của thi ca bình dân hồn nhiên sống động. Nền thi ca đó đã bị chiến tranh tàn phá lùi dần trong lãng quên. Vừa dứt tiếng súng, thì những chiếc máy đuôi tôm ồn ào đồng loã với những máy thu thanh văn minh, tiện lợi, đã ngăn chận sự hồi sinh của tiếng hát điệu hò. Quân tưởng chàng chỉ có thể thưởng thức được điệu hò khuôn sáo cải lương trình diễn bởi các ca sĩ chuyên nghiệp, mà không ngờ, ở chốn quê mùa xa tít nầy, nơi mà máy đuôi tôm và máy thu thanh chưa thực sự hoành hành, những câu hò ngọt ngào, hồn nhiên vẫn còn bàng bạc khắp không gian.

Đang thả hồn theo mộng, thì thuyền của đoàn cán bộ nông thôn đến rước Quân đi dự tiệc ở đầu Vàm cặp bến. Quân lững thững chậm chạp, khiến Đức, viên đoàn trưởng cán bộ, sốt ruột giục:
- Nhanh lên chớ ông "đốc".
Rồi Đức lại hối người đệ tử quẫy mạnh mái chèo để theo kịp chiếc xuồng của cô gái đi trước. Đức trẻ tuổi, đẹp trai, hoạt bát và nhậu rượu cũng rất cừ. Làm việc tại thôn ấp, nhậu nhẹt đôi khi cũng là một ưu điểm. Cứ cụng ly với nhau, thì ai cũng là kẻ thân tình, và chuyện gì rồi cũng giải quyết êm thấm được cả. Chờ cho hai chiếc xuồng đi song song với nhau, Đức tằng hằng lấy giọng, rồi hướng sang người đẹp, cất giọng hò:
- Hò ơ!… Nhìn em, má đỏ môi hồng…
Ơ, ơ… Mơ ngày hợp cẩn….ơ, ơ…
Mơ ngày hợp cẩn,…men lòng đã say…
Anh chàng Đức đã có hơi men, nên điệu hò cẩu thả sỗ sàng. Thông thường, người lịch sự hò đối đáp phải dè dặt xã giao thăm hỏi, khen ngợi nhẹ nhàng để dọ dẫm đối thủ. Nhiên hậu, tùy tình thế mà tấn công đứng đắn hay cợt nhã. Đức mở đầu bằng câu chọc ghẹo sàm sỡ ngay là một điều tối kỵ tự làm giảm tư cách, khiến Quân cũng hổ thẹn lây. Cô gái đang nhịp nhàng với mái chèo, cũng tỏ vẻ bối rối, nhưng rồi cũng bình tĩnh lại, cất tiếng hò đáp lễ:
- Hò ơ!… Có chồng say, trong chay ngoài bội,…
Ơ, ơ… Ngó vô nhà…, ơ, ơ… Ngó vô nhà, như hội tầm xuân…, ơ,ơ…
Hò ơ!… hội tầm xuân, tưng bừng náo nhiệt….(1)
Hò ơ,… Tánh em sợ ồn ào, … ơ, ơ…
Tánh em sợ ồn ào, nên chẳng thiết chồng say!.
Bị người đẹp chê bai say sưa ồn ào như làm chay, như hát bội, Đức đau điếng tỉnh rựơu, đã vậy, lại còn bị Phước, viên đoàn phó càm ràm:
- Anh làm mất mặt "bầu cua" quá! Để tôi hò thì mới xứng tay đối thủ.
Phước là trưởng ban văn nghệ đoàn, tuy dáng dấp anh ta ròm rõi như dân ghiền, mà giọng hát lại ngọt ngào điêu luyện, từng làm thổn thức bao trái tim thiếu nữ đương xuân. Phước nhập đề bằng tiếng hò ơ thật ấm:
- Hò ơ!… hò!
Em phảng phất như là tiên nữ
Điệu hát câu hò tình tứ miên man
Hò ơ!…
Lòng anh luống những mơ màng…
Tiên đồng ngọc nữ…
… anh với nàng nên duyên…
Phước có vẻ thích chí, tự tán thưởng mình bằng nụ cừơi chúm chím, rồi xoay qua Đức dạy đời:
- Nghe rõ chưa Đức. Từng lời tán tỉnh ngọt ngào thì cá mới cắn câu. Chớ "a thần phù" thả dê trắng trợn như mầy, thì bị hạ nhục nhã là phải rồi!
Tiếng hò ơ đáp lễ nhanh nhẹn của cô gái, thanh âm nhu mì nhỏ nhẹ khiến Phước rạng rỡ chờ đợi.
- Hò ơ !…
Hò ơ !…
Có chồng ghiền… như Ông tiên nho nhỏ
Ngó vô nhà…
ơ, ơ… ngó vô nhà, đèn đỏ đèn xanh…
Hò ơ !
Thân em là kẻ phàm trần…
ơ, ơ… dám đâu mơ mộng…
mơ mộng được gần tiên nâu…. (1)
Hình dáng ròm rõi như ghiền nặng, mà ham làm tiên, bị người đẹp bắt bí, chê là thứ tiên nâu, khiến Phước sượng sùng nín khe. Được thể, Đức móc họng trả thù:
- Mầy ghê lắm mà! Hò tiếp tục đi Phước!
- Hừ! Hò "dê", dê không được thì thôi. Còn nước non gì nữa mà hò với hẹn!
Anh cán bộ lơi chèo cho thuyền lùi lại, rồi phân bua với Quân:
- Tui đã cho hai ảnh biết trước cái con Tư Thơm nầy độc lắm. Hò lơ mơ bị nó sửa lưng liền hà. Thế mà có ai tin tui đâu.

Quân thường theo dõi sinh hoạt trên sông để thả hồn theo những điệu hát câu hò trữ tình, nên không có lạ gì người đẹp. Nàng tuổi độ đôi mươi, duyên dáng, thuỳ mị, nổi tiếng là hoa khôi của Thủy Liễu. Gia đình nàng thuộc hạng khá giả, nhưng vì chiến tranh nên phải bỏ ruộng vườn di tản đến quận Giồng Riềng. Mẹ chết sớm, do đó, nàng chỉ học xong lớp bảy trường quận thì phải nghỉ, để bươn chải buôn bán giúp gia đình. Mới hồi cư không lâu, phải xây dựng nhà cửa, tu bổ lại ruộng vườn, để có thêm lợi tức, rồi nàng buôn bán gạo lẻ tại chợ Thủy Liễu. Thế rồi cứ hai ngày nàng lại chèo xuồng đến nhà máy tại đầu Vàm xay lúa, và do đó, Quân có cơ hội để thưởng thức những điệu hò thi vị trầm bổng, hàm ẩn những ý nghĩa thâm trầm của nàng. Quân đã âm thầm yêu, thầm xây mộng, nhưng bản tính nhà giáo hiền lành, kín đáo chàng vẫn chưa dám tỏ tình. Thật ra, Quân cũng phân vân không hiểu chàng đã thực sự yêu hay chỉ hời hợt đam mê giọng hát của nàng, và nếu kết hôn thì liệu chàng có thể sống yên vui hạnh phúc với một cô gái quê mùa, học vấn thấp kém hay không? Từ khi chứng kiến bọn Đức và Phước thi nhau trêu ghẹo Thơm, thì ngọn lửa tình yêu âm ỉ bỗng bùng lên mãnh liệt. Quân sôi sục ý muốn tỏ tình với nàng, nhưng nàng thường đi trên sông, chàng dạy học trên bờ, thì khó mà tạo được cơ hội. Sau nhiều đêm trằn trọc, Quân đã tìm được phương thức và chuẩn bị kỹ lưỡng cho buổi gặp gỡ đặc biệt của chàng. Chọn đúng ngày Thơm theo thường lệ đi xay lúa, Quân lên tiếng nhờ học trò tìm phương tiện đưa chàng ra đầu Vàm để đón tàu đi về tỉnh lỵ. Đúng như dự tính, trong đám học trò tình nguyện, có thằng Út, em ruột của Thơm. Và dĩ nhiên, thằng bé được hân hạnh để phục vụ thầy. Thế là Út chạy ù đi kêu réo chị chở ông thầy quá giang. Tuy không làm điều gì ám muội, nhưng vì có âm mưu, nên Quân cũng thẹn thò, ngồi xa ở đầu xuồng. Lần đầu tiên được tự do ngắm nghía Thơm một cánh gần gụi, Quân càng thấy nàng đẹp hẳn ra. Nàng không son phấn, nên có nét dịu dàng tự nhiên, má ửng hồng ánh nắng, trán điểm lấm tấm mồ hôi, lại khiến tăng thêm nét mặn mà, duyên dáng. Vừa đến khúc sông vắng, Quân rề lại gần Thơm, nói nho nhỏ vừa đủ nghe:
- Cô Thơm ơi! Tôi không biết hò. Tôi chỉ có làm một bài thơ vụng về, mà đó là lòng thành thật của tôi. Xin đọc cô nghe nhé.
- Dạ!
Quân ngâm thơ chậm và nhỏ, vì lo ngại có đứa học trò nào nghe lỏm thì "kẹt" cho ông thầy quá!
- Anh muốn quì xuống, bên em
Van xin sám hối!
Tôi đã yêu! Tôi đã dám yêu em!
Ôi! Em là thần tiên tinh khiết vô biên,
Anh, tục tử vô duyên, bất tài kém đức.
Nghĩ phận mình, anh ngậm ngùi ray rức.
Anh thầm yêu, anh thao thức bâng khuâng.
Thoáng ước mơ, tâm trí đã điên cuồng
Và vụng dại, ngây ngô, phục tùng, quy lụy.
Hương vị tình yêu, anh nếm: đắng cay, ngọt ngào, thâm thúy…
Như trôi chập chờn… trong mộng mị liêu trai.
Anh âu lo, anh thấp thỏm từng ngày
Vì chẳng biết em đoái hoài hay hờ hững?
Nói đi em! Nói thật đi em! Cho dù phải là lời phủ phàng tàn nhẫn!
Rằng kẻ si dại nầy, có đáng thương tưởng gì không?

Với tư cách thầy dạy của Út, Quân đã đến nhà Thơm đôi lần. Tuy chưa hề trò chuyện, mà Thơm đã dành cho Quân cảm tình sâu đậm. Trong cử chỉ khiêm tốn, điềm đạm Quân ẩn hiện nét quyến rũ đặc biệt mà những chàng trai thị thành hời hợt khác xa vắng. Thơm linh cảm Quân chú ý mình, nhưng quả thật, nàng không thể tưởng tượng được Quân đã yêu quí đậm đà như thơ chàng diễn tả. Thơm cảm động vô vàn, muốn thú thật rằng mình cũng yêu chàng không kém, nhưng nàng cảm thấy kỳ quá, mắc cỡ làm sao á! Còn nếu như "thưa rằng em nhỏ dại không biết gì? Cha mẹ đặt đâu em ngồi đó" thì vừa trái lòng, vừa phụ tấm chân tình của chàng. Thơm bối rối, buông chèo, xuồng mất hướng đâm vào bờ, lủi dưới tàn cây bần rậm lá mà không hay biết. Ngập ngừng thật lâu, Thơm mới cất giọng hò nho nhỏ đủ cho Quân nghe mà thôi:
- Hò ơ ! dù nhân duyên quyền cha liệu lý
Cảm ân chàng tình ý triền miên
Hò ơ !
Rụt rè bày tỏ tình riêng
Xả thân đền đáp, truân chuyên chẳng sờn.
Đang bồn chồn chờ đợi, nghe nàng thổ lộ thâm tình, Quân mừng rỡ hỏi dồn dập:
- Em thương anh thật tình? Em bằng lòng làm vợ anh phải không?
Thơm cúi đầu e thẹn, má đỏ bừng, không đáp, nhưng Quân mường tượng như đầu nàng gật gật. Quân sung sướng nắm tay nàng hôn nhẹ, và cảm giác như toàn thân nàng rung động theo nhịp điệu bừng bừng của tim chàng. Quân thấy thương quá là thương. Tình thương bùng nổ như cơn giông bão, lại được cành bần xum xoe che khuất, khiến Quân mất tự chủ, ôm chầm lấy Thơm, đặt một nụ hôn dài.

oOo

Ỏ một thị xã nhỏ xíu, không có điều gì có thể giữ kín lâu dài được. Mối tình của ông "đốc" với cô thôn nữ, không bao lâu biến thành nguồn tin thời sự nóng hổi để cả làng có đề tài bàn bạc. Ồn ào nhất là hai cô giáo độc thân của trường. Họ vốn âm thầm mơ tưởng chàng hiệu trưởng khả ái, ngờ đâu lại bị cô gái quê mùa cướp mất, nên mặc tình trề, nhún, xiên xéo, nhỏ to. Tình trạng lúc đó thúc đẩy Quân xin cưới Thơm sớm hơn dự tính. Đám cưới nhà quê vui nhộn, nhờ cả làng cùng tham dự chia vui. Dường như ở làng nầy tính lòng vòng rồi thì ai cũng là bà con cô bác với nhau. Chàng rể làng Bần, được mọi người xúm nhau gọi là "dựơng tư", mà không hiểu liên hệ vai vế bên vợ thế nào để xưng hô, nên thật là lúng túng. Miếng vườn nhà Thơm, với hàng dừa hàng cau đơm trái, xen lẫn vài cây vú sữa, xoài… cùng những bụi chuối xanh um, diện tích khá rộng, yên tịnh và mát mẻ, là nơi lý tưởng cho hai vợ chồng son quấn quít trong tuần trăng mật. Thỉnh thoảng, cả hai tung tăng dắt tay nhau trên cánh đồng ruộng lúa, bơi xuồng trên đầm sen thoảng hương nhè nhẹ, hay thả thuyền bồng bềnh trên sông, lững lờ trôi dạt quanh đám bần đầy kỷ niệm thuở ban đầu.

Vợ chồng Quân càng sống bên nhau lại càng quí trọng, thương nhau nhiều hơn nữa. Hạnh phúc tràn đầy của họ lại được tô thắm thêm bằng sự ra đời của đứa con gái đầu lòng xinh xắn. Quân khai sanh tên con là Thủy Liễu, tuy nhiên, có lần nựng con thương quá, bỗng nhiên Quân gọi con "Bần cưng". Hai vợ chồng nhìn nhau, thấm ý mỉm cười. Thương con, người ta có tâm lý thích gọi con bằng những tên xấu xí, cục mịch, có khi thô lỗ nữa. Nhưng trong cái xấu xí, thô lỗ đó, dường như hàm ẩn tình thương yêu vô biên mà cha mẹ dành cho con. Chính vì vậy, vợ chồng Quân bỗng dưng thích gọi tên con là Bần. Gọi tên con, nựng con, bằng tên "xấu háy"thì mới thấm thiết mới "đã nư".

Ngoài những giây phút tuyệt vời bên vợ con, Quân cũng tìm thấy nguồn vui vô tận trong nghiệp thầy giáo của mình. Tuy làm hiệu trưởng, nhưng do tình trạng khiếm khuyết giáo chức, Quân đã phải đảm nhận thêm việc giảng dạy lớp năm, Quân dạy học tận tâm. Chàng hứng thú chăm sóc từng đứa học trò và khéo léo hướng dẫn chúng học hành tiến bộ. Nhờ vậy, học sinh Thủy Liễu đã gặt hái thành quả vẻ vang trong kỳ thi tuyển vào trường trung học quận và tỉnh. Quân lại có hoài bão là nâng cao trình độ dân trí ở thôn quê, vì chàng nghĩ rằng, bên cạnh sự dốt nát là sự nghèo đói, nghi kỵ, hận thù… thế rồi Quân tự động mở những lớp bình dân giáo dục; hai vợ chồng đi từ đầu làng cuối xóm để khuyến khích, năn nỉ những kẻ mù chữ đi học. Nhờ thiện chí của chàng, chỉ trong vòng một năm, tình trạng dốt nát không còn nữa.
Đáp lại lòng tận tâm của Quân, dân làng, từ lớn tới nhỏ ai cũng thương mến chàng. Tình thương nầy như sợi dây ràng buộc chàng với Thủy Liễu. Do đó, dầu sau hai năm phục vụ tại một xã hẻo lánh, chàng đã hội đủ điều kiện để xin hoán chuyển về tỉnh lỵ, nhưng chàng đã ngần ngừ rồi chấp nhận ở lại.
Tháng chạp, đêm hai mươi lăm trời tối đen. Tự nhiên Quân trằn trọc khó ngủ. Nhìn vợ và con ngủ thật yên lành, tinh khiết, bỗng Quân cảm thấy lo sợ bâng quơ. Mới hồi trưa, trong buổi tiệc thôi nôi, sinh nhựt đầu tiên của con gái, bác Chủ Tịch xã đã ân cần khuyên Quân nên đến đồn nghĩa quân ngủ cho an toàn. Có lẽ, lời khuyên nầy đã ám ảnh chàng và làm chàng mất ngủ. Tình hình an ninh miền quê chợt trở nên suy đồi mau chóng. Sau chiến dịch Đồng Khởi, những người tự xưng Cách Mạng đã đồng loạt dùng chính sách khủng bố, giết người bừa bãi. Tuy nhiên, Quân không hề nghĩ họ có thể nhẫn tâm tàn sát một thầy giáo không vũ khí như chàng.

Quân mơ hồ như có tiếng sột soạt xa xôi. Bé Bần thình lình giựt mình rồi khóc thét lên. Thơm ru con nhè nhẹ mà đứa bé vẫn còn thổn thức. Tiếng động nghe rõ dần, không khí nặng nề ngột ngạt. Thơm sợ hãi co rúc vào lòng chồng. Những bước chân đe doạ rõ ràng hướng về nhà chàng. Tiếng đập cửa, rồi cửa bị đạp tung ra. Bốn người mặc đồ đen lầm lì bước vào nhà.

Tên cầm khẩu súng AK.47 khoát tay bảo ba tên thuộc hạ cầm mã tấu:
- Bắt thằng nầy.
Thơm ôm cứng chồng giành lại. Nàng khóc như mưa van nài thảm thiết:
- Lạy chú Tám! Xin chú Tám làm ơn làm phước tha chồng con!…
Tên chỉ huy, cũng không phải người xa lạ, sẵn giọng:
- Lệnh mấy anh lớn. Tao không có quyền. Mầy câm miệng đi! Chộn rộn dằn nổ súng thì tao bắn chồng mầy chết liền đó!
Lời đe doạ đó khiến Thơm nín khe. Nàng cố gắng đè nén tiếng nức nở, rồi tuyệt vọng nhìn đám người sát nhân hùng hổ lôi kéo chồng ra đi.
Quân biết có nói giằng co với họ cũng vô ích. Chàng điềm đạm nhìn vợ, lắc đầu rồi dặn dò:
- Ráng lo cho con Bần ăn học nghe em!
Sáng hôm sau, người ta tìm thấy xác chết của Quân với bản án tử hình về tội phản động. Điều chua xót là kẻ giết người, mấy tháng trước vẫn còn "dốt đặc cán mai", nhờ Quân tận tâm dạy chữ, nên nay đã đủ sức để ra uy với bản án tử hình nguệch ngoạc.
Tang ma chồng xong, Thơm bồng con và dắt thêm cậu em út, về tỉnh lỵ sinh sống. Ông trưởng Ty Tiểu Học thương Quân, nên có nhã ý tuyển dụng Thơm làm giáo viên ấp tân sinh, nhưng nàng khước từ. Nàng chán ghét tội ác tại vùng sôi động, ngoài ra, cũng muốn bám tỉnh lỵ để tiện cho con học hành, đúng theo như lời ủy thác trối trăn của chồng. Trợ cấp tử tuất 12 tháng lương, giúp Thơm có một số vốn nhỏ để sang một căn nhà lá sệt sạt tại xóm Bánh Tầm.

Sau đó, gởi con cho người hàng xóm tốt bụng, Thơm bắt đầu bương chải tìm phương kế sinh nhai. Thoạt tiên, Thơm lặn lội đến vùng Tắc Cậu mua sỉ về chợ Rạch Giá bán lẻ. Khóm Tắc Cậu phẩm chất tương đương khóm Bến Lức nên rất được khách hàng ưa chuộng, nhưng đi bổ hàng cũng có lắm điều phiền phức. Thơm trẻ đẹp, thân gái đường xa, thường bị bọn trai, trong đó gồm cả những kẻ có thế lực địa phương, chọc ghẹo. Thơm chuyển qua nghề làm bánh mứt, nhưng hoa lợi không khá. Nàng lại xoay qua món bún cá, món ăn mà Quân hằng khen ngợi. Lần thử thời vận nầy lại có kết quả không ngờ. Thực khách đến lần đầu có thể vì hiếu kỳ hay vì chuộng cô bán hàng đẹp, nhưng khi đã ăn thử rồi, thì sẽ bao giờ quên được hương vị đặc biệt của món bún cá Kiên Giang. Thơm nắm được bí quyết bún cá, nhờ nàng khéo chọn lựa cá lóc đúng loại chắc thịt mà sớ lại không quá to dễ bị sảm và khô. Khi nấu cá vừa chín thì phải vớt ngay ra, để cá không bị rời rã và lạt lẽo. Nồi nước lèo thì Thơm dùng xương heo dậm thêm ít sò huyết, nên chất ngọt ngào dịu và đậm đà. Chỉ cần nàng hưới cái vá, dạo một vòng thì mớ trứng cá vàng ửng xôn xao, mùi nước béo ngào ngạt tỏa lên, thì có thực khách nào có thế cầm lòng được.

Hoa lợi gánh bún cá ngày càng vững vàng, khá hơn lương bổng của giới quân nhân công chức chịu chật vật với đồng lương cố định, khi vật giá leo thang mãi. Nhờ vậy, lần hồi Thơm tạo được căn nhà tươm tất tại hẻm bác sĩ Nam, tiện đường cho con đến trường nữ tiểu học sau nầy. Dù sống ở chốn nào thì người thiếu phụ goá chồng vẫn bị cả đám trai trẻ tranh nhau theo đuổi, nhưng Thơm dửng dưng khép kín cõi lòng, vì thật ra, dưới mắt nàng thì có ai xứng đáng bằng Quân đâu. Bao nhiêu tình thương Thơm dành hết cho cô con gái. Đáp lại, đứa bé cũng ngoan hiền, hiếu thảo, lúc nào cũng quấn quít bên mẹ như một cái đuôi mũm mỉm. Đi học, Bần chăm chỉ và thông minh, nên trong mấy năm tiểu học đã là một học sinh xuất sắc. Em thi đỗ vào trường trung học Nguyễn Trung Trực không khó, rồi tiếp tục học hành ngày một tiến bộ. Cô học trò trung học hiểu biết, nên cảm thấy mắc cỡ với cái tên "Bần" cục mịch. Cô làm nũng làm nịu yêu sách mẹ và câu quên hẳn tên Bần, và chỉ gọi tên cô là Thủy Liễu trước mặt mọi người. Dĩ nhiên, Thơm chìu con, nhưng thỉnh thoảng khi chỉ có hai mẹ con trong nhà, nàng cũng ôm ấp con trong lòng như thuở trước, để nựng nịu, hôn hít, rồi trìu mến gọi "Bần! Bần" nho nhỏ.

Cuối niên học lớp 10, Liễu được thầy cô chọn để trao giải thưởng danh dự toàn trường. Đó là động lực thúc đẩy em cố gắng học nhiều hơn nữa. Học giỏi lại đẹp giống mẹ, thành thử đám con trai trong trường mặc sức trồng cây si, nhưng Liễu ngây thơ và biết vâng lời mẹ, nên chỉ lo học, mà không để tâm đến chuyện tình yêu vớ vẫn. Những ngày cận Tết, đám học trò lớn tồng ngồng lớp 11 càng ham chơi phá phách, khiến ông thầy cũng uể oải, bèn cho về sớm. Bọn Liễu, Hạnh, Lan tung tăng dẫn nhau về, vừa đến Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín, sắp chia tay bỗng Hạnh liếng thoắng đề nghị:
- Ê! Tụi mình đi ăn tất niên với nhau một bữa đi.
- Hoan hô! Ý kiến đó hay lắm! Liễu lên tiếng.
- Vậy thì mình đi ăn món bún cá dì Tư Thơm đi! Lan góp ý.
Từ lâu, Liễu cố ý dấu bạn bè về nghề nghiệp của mẹ. Em có mặc cảm là nghề buôn gánh bán bưng của mẹ, tuy cũng đủ sức nuôi con, nhưng không mấy sang trọng như cha mẹ bạn bè thuộc giới sĩ quan, công chức. Liễu vội bàn ra:
- Nè mấy bồ! Tui đề nghị món cháo gà tại đình Nguyễn Trung Trực, hay cháo huyết bà Mười bến xe Hà Tiên!
- Tui đồng ý với bồ Lan, Hạnh xen vô, món bún cá hấp dẫn hơn. Ăn cháo quê thấy mồ à!
Liễu ráng gân cổ cãi, nhưng hai cô bạn ỷ vào đa số, lôi em qua cầu sông Kiên, ngồi quanh gánh bún cá. Lúc đó, mẹ Liễu bận bịu múc cháo cho khách hàng, chưa nhìn kỹ ba cô gai vừa đến, thì Lan nhanh nhẩu:
- Dì cho tụi con ba tô bún cá đi!
Dì Tư nhìn lên thấy cô con gái cưng của mình với hai cô bạn. Liễu duyên dáng trội hơn hai bạn xa làm bà rất hãnh diện. Từ nhỏ, đi học về Liễu thường chạy đến gánh bún cá, lăng xăng phụ giúp mẹ. Lớn lên phải bận bịu với bài vở, Liễu thưa đến dần, và mấy năm nay thì vắng hẳn. Trong những lúc buôn bán đầu tắt mặt tối, đôi khi dì Tư bỗng ước ao cô con gái đến thăm mình, thì hạnh phúc biết bao. Sự hiện diện của Liễu hôm nay làm dì Tư cực kỳ vui sướng. Dì mừng rơn hỏi Lan:
- Hai cháu đây, có phải là bạn cùng lớp với Bần không?
Đang ngồi trên ghế, Liễu vụt biến sắc, đoạn không nói một lời, bỏ chạy biến đi. Hai cô bạn không hiểu biến cố gì cũng ráng đuổi theo mà không bắt kịp. Dì Tư vì mừng con, cảm động sanh ra lỡ lời, gọi cái tên cấm kỵ khiến con giận bỏ đi. Dì bức rức không an, nhưng bận bịu khách hàng, nên chỉ biết nhìn theo buồn rười rượi.
Liễu về nhà đóng kín cửa khóc rấm rức. Em xấu hổ vô hạn nên muốn trốn tránh mọi người. Sự kiện bị bạn bè khám phá cái tên Bần cục mịch, hèn hạ, xấu xí, đối với Liễu là một điều nhục nhã ghê gớm không thể gột rửa được. Rồi đây, chúng bạn sẽ sầm sì cho cả trường biết cái tên kỳ cục đó. Bọn con trai trồng cây si thường ca tụng em mảnh mai, tha thướt như Liễu, bây giờ, sẽ bĩu môi chê em cục mịch, đen đúa như bần. Càng nghĩ, Liễu càng phiền mẹ, giận cha. Ông già đâu phải là hạng vô học mà sao lại có ý nghĩ quái gở gọi tên con là Bần. Buổi chiều, nghe bước chân mẹ về, Liễu te lên giường, trùm mền kín mít. Dì Tư rón rén ngồi kế bên con, vỗ mông con nhè nhẹ:
- Má lỡ có một chút xíu hà! Thôi đừng giận má nghe!
- Má làm nhục con! Má hổng thương con! Liễu vùng vằng
- Thương!… thương nhiều mà!…
- Con nghỉ học! Con hổng đi đâu hết! Con hổng gặp ai nữa hết!
- Đừng nói bậy con! Ba muốn con học thành tài mà!
- Cũng ông già nữa! Con ghét ổng! Ổng hết chuyện rồi nên mới đặt cái tên kỳ cục đó cho con!

Dì Tư im lặng bỏ ra sau bếp. Liễu hiểu rõ tính mẹ. Em có thể hành hạ mẹ thế nào cũng được, nhưng nếu động đến cha một tí thì mẹ phiền lòng ngay. Trong thâm tâm của mẹ, chồng bà là tốt nhất, là thần tượng tôn quí mà không ai có thể chỉ trích được.
Liễu được mẹ nuông chiều tối đa, nên gặp việc trái ý, phản ứng có phần quá trớn. Dù sao, Liễu cũng ngoan ngoãn nên khi vô tình làm mẹ phiền giận, em cảm thấy hối hận vô cùng. Liễu dự định xin lỗi mẹ, nhưng sợ mẹ thấy dễ dãi rồi cứ gọi cái tên Bần hoài, nên giữ nguyên bộ mặt phụng phịu chờ mẹ làm lành trước.

Do đó, nếu dì Tư buồn hiu yên lặng thì Liễu cứ chầm dầm hờn dỗi, chiến tranh lạnh cứ tiếp tục cho đến buổi ăn chiều, rồi đến giờ ngủ nghỉ mà cũng không thay đổi. Thật ra, tuy mặt mày Liễu phụng phịu mà hờn giận đã tan dần, giờ thì Liễu chỉ mong được mẹ vỗ về mà thôi. Vì vậy, Liễu đâm ra để ý đến mẹ từng li từng tí, việc mà lúc bình thường em không bao giờ nghĩ đến. Mẹ làm công việc không hở tay. Vừa về là mẹ lăn xả ra rửa mớ nồi niêu, chén bát… gánh về, đoạn gấp rút dọn dẹp nhà cửa, giặt giũ…, rồi lăn xăn soạn buổi cơm chiều tươm tất, luôn luôn thay đổi món cho con ngon miệng. Cơm xong, mẹ liền nai lưng ra lo lắng cho gánh bún cá ngày mai. Công việc không đơn giản như Liễu tưởng. Ngoài việc đương đầu với mớ cá và cái nồi nước lèo to tướng, mẹ còn loay quay với bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh khác liên quan đến gia vị, rau cải, nước chấm…, thành thử, gần đến 12 giờ đêm mẹ mới đi ngủ. Do buổi cơm chiều hờn giận ăn uống qua loa, cơn đói cồn cào thức tỉnh Liễu lúc bốn giờ rưỡi sáng. Mẹ đã thức tự bao giờ. Bà lặng lẽ đun nóng lại nồi nước lèo, thu dọn sắp xếp mọi thứ, rồi bương bả quảy gánh ra đi cho kịp những thực khách mở hàng lúc 5 giờ sáng. Ôi! 16 năm trời ròng rã, mẹ đã âm thầm lầm lũi nhọc nhằn mà Liễu có biết gì đâu? Liễu sống bên mẹ như một thượng khách, để được cung phụng, để đòi quà, để vòi vĩnh mà thôi. Thương mẹ quá, Liễu phóng xuống giường, mở cửa nhìn theo, nhưng sương mù buổi sáng đã che khuất bóng bà rồi.

Đang suy tư vớ vẩn về tình mẹ thì Thanh, bí danh Thanh xí xọn, đến dộng cửa kéo Liễu đi chùa Phổ Minh. Hai em rủ nhau đi nghe thuyết pháp hàng tuần, rồi quyết định xin dự lễ quy y được tổ chức vào lúc 2 giờ trưa, cho chừng 30 Phật tử. Trước khi chánh thức hành lễ, thầy giảng dạy về tam quy và ngũ giới. Sau đó, thầy ban cho mỗi người một pháp danh và nhắc nhở mọi người thành tâm khi phát nguyện. Pháp danh của Liễu là Diệu Hương, và của Thanh là Diệu Thiệt. Thanh có máu văn nghệ, làm năm ba bài thơ con cóc, là đã có năm ba bút hiệu rồi. Đến chùa quy y, Thanh cũng mơ tưởng một pháp danh có vẻ văn nghệ một chút, không ngờ lại lãnh cái tên tầm thường, nên bất mãn ra mặt.

- Thưa thầy! Thanh xí xọn đột ngột cắt ngang lời thầy, pháp danh Diệu Thiệt xấu quá hà! Thầy đổi pháp danh cho con thành Diệu Mộng Điệp hoặc Diệu Mộng Tuyền nghen thầy!
Thầy mỉm cười dễ dãi:
- Diệu Thiệt có thể hiểu vắn tắt là chân thật nhiệm mầu, ý nghĩa thâm sâu không đến nổi xấu xí đâu con. Thật ra, danh xưng chỉ là phương tiện giả tạm để gọi nhau, tự nó không chuyên chở giá trị tốt xấu, dở hay chi cả. Một kẻ lưu manh giả dạng tu sĩ có thể tự tô điểm mình bằng danh xưng hoà thượng, thượng toạ… kèm với pháp hiệu cao siêu như đắc pháp, ngộ đạo…, thì một vị chân chánh Bồ tát lại cũng có thể đội lốt thằng tư, con tám vô danh tiểu tốt nào đó. Pháp danh cũng là hình tướng, mà phàm hình tướng đều là hư vọng. Tu hành nếu chấp chặt vào hình tướng thì lầm lạc tà đạo. Ngược lại, nếu biết xử dụng hình tướng làm phương tiện nhắc nhở tu dưỡng tâm thì Phật tự tâm dễ hiển lộ. Pháp danh, do đó, chỉ là phương tiện nhắc nhở Phật tử rằng mình đã quy y để không xao lãng việc tu tâm. Hiểu được điều đó, thì pháp danh tự nó đã đẹp. Nếu không, pháp danh chỉ là một chiêu bài quảng cáo vô dụng.
Liễu chợt hiểu giá trị con người thể hiện qua tâm tư hành động, chớ không tuỳ thuộc vào mớ âm thanh vô nghĩa. Bần không có gì là xấu, Liễu không có gì là đẹp. Thế mà tại sao mình lại khư khư bám víu vào cái giả tạm hời hợt để mè nheo làm khổ mẹ?

Lễ quy y vừa chấm dứt, Liễu đã vội vã phóng chạy về nhà. Mẹ đã về. Cửa chỉ khép hờ. Liễu rón rén nhìn qua khe cửa thấy mẹ đang lui cui trước bàn thờ ba với một mâm cơm thịnh soạn. "Giỗ ba mà mình quên", Liễu thầm nhủ. Mẹ đang thắp nhang bàn thờ rồi lầm bầm khấn vái. Mẹ gầy gò. Mẹ ốm yếu quá. Mẹ đã gánh chịu bao nổi cực nhọc, đắng cay mà có bao giờ mẹ hở môi đâu? Bỗng Liễu khám phá mẹ khóc: mẹ cố gắng đè nén tiếng nức nở, nhưng đôi bờ vai mẹ rung động. Ôi! Mười sáu năm qua mẹ luôn luôn tươi cười che giấu thương đau, để rồi, biết bao lần mẹ đã âm thầm khóc như ngày hôm nay. Không cầm lòng được nữa, Liễu phóng nhanh đến bên mẹ, chui tọt vào lòng khóc nức nở:
- Má ơi! Con thương má lắm má biết không? Má đừng buồn, đừng giận con nghen má! Má gọi con là Bần đi! Con là Bần! Bần của má đây nè!

oOo

Liễu đỗ tú tài phần nhất hạng ưu và tin tưởng sẽ gặt hái được kết quả tương tợ trong kỳ thi toàn phần sắp tới. Ngày xưa ba thường ao ứơc có một đứa con y sĩ phục vụ cho đồng bào nghèo nông thôn. Hiểu lòng mẹ, nên Liễu tự nguyện phải thực hiện ước mơ của cha, và do đó, em lại càng cố gắng học hành. Những sự suy thoái đột ngột về quân sự tại miền Trung đe doạ nặng nề an nguy đất nước. Liễu không mấy quan tâm về tình hình chính trị, nên chỉ biết lo âu về một sự đình hoãn thi cử, uổng công lao một năm học miệt mài. Vào tháng 4 năm 1975, tình hình quân sự tại Kiên Giang tuy không có gì nghiêm trọng, nhưng những tin đồn về viễn ảnh mất nước, cộng với sự chuẩn bị ra đi của những nhà tai mắt, đã tạo nên tâm lý hỗn loạn chưa từng thấy tại tỉnh lỵ . Trường Trung học đóng cửa, ngày thi đình hoãn, nên dì Tư quyết định đưa con ra Hòn Tre tạm trú với cậu Út. Theo dì Tư, cậu Út Trung úy Hải Quân chỉ huy trưởng căn cứ hải thuyền xung phong tại Hòn Tre (2), sẽ bảo đảm cho Liễu một nơi ăn ở an tòan để Liễu vững tâm học bài, chuẩn bị sẵn sàng cho kỳ thi Tú tài trước sau cũng tổ chức lại. Liễu phản đối quyết liệt vì muốn kề cận bên mẹ, nhưng dì Tư nhất định không đổi ý.

Đời sống trên đảo rất trầm lặng và dường như biệt lập không hay biết gì đến không khí tang thương hãi hùng tại đất liền. Liễu tạm yên tâm học bài vì không phải xao xuyến bỡi những tin đồi, lời bàn bạc âu lo. Tuy nhiên, Liễu lại nơm nớp nghĩ đến an nguy của mẹ. Em thường leo lên tảng đá cao ở cổ Rùa nhìn về Rạch Giá mà nhớ mẹ khôn nguôi.

Sống ở Hòn Tre mới 4 ngày, trong khi Liễu vẫn cặm cụi học hành như thường lệ, thình lình căn cứ náo động hẳn lên. Cậu Út hấp tấp tìm Liễu, hổn hển nói: "Mất nước rồi! Con theo cậu mau". Liễu soạn đồ đạc, rồi chạy bám theo cậu như một cái bóng leo lên chiếc hải thuyền đã đầy người. Cậu Út ra lệnh cho chiếc thuyền nổ máy ra đi. Thấy thuyền đâm ra hướng biển khơi, chớ không quay về đất liền, Liễu hiểu ý cậu, em khóc ồ lên:
- Cậu ơi! Còn má con thì sao? Cậu cho con về với má con! Con phải về Rạch Giá! Con không bỏ má con được đâu!
Cậu út ôm Liễu và cũng khóc theo.
Cậu cũng khổ vô cùng. Cậu đâu muốn xa đất nước nhưng má con nhắc nhở cái chết của ba con để khuyên cậu đưa con đi. Bà nói "Xa con mà biết con học thành tài, tuy nhớ mà vui vẻ tự hào, chớ gần nhau để thấy con thất học hoặc bị đoạ đầy, thì bà sẽ khổ biết chừng nào".
Ngừng một lúc lâu, cậu ngầm ngùi kể lể tiếp:
- Tội nghiệp má con! Bao nhiêu vàng bạc dành dụm, bà đều giao hết cho cậu để cậu lo lắng cho con. Cậu năn nỉ bả giữ chút đỉnh phòng thân, bả nằng nằng không chịu!
Liễu khóc mùi mẩn và linh cảm rằng ở phương trời kia, mẹ cũng đang rưng rức khóc như mình.

Hai cậu cháu đến đảo Guam, sang Mỹ, rồi được bảo trợ đến San Francisco. Thời gian đầu định cư tuy gian khổ nhưng cả hai cũng vượt qua không mấy khó khăn. Cậu khởi đầu với nghề rửa chén nhà hàng, rồi lần hồi, nhờ kinh nghiệm sửa máy tàu, cũng tìm được nghề chuyên viên cơ khí. Liễu mất một thời gian chuẩn bị, rồi cũng được nhận vào đại học U.C. Berkeley. Liễu dự trù sau 4 năm cử nhân sinh vật học, sẽ thi tuyển vào ngành y khoa. Với khả năng và quyết tâm của mình, Liễu tin tưởng em sẽ hoàn thành ước mơ của cha mẹ không gì trở ngại.

Điều lo lắng lớn lao nhất của Liễu là bà mẹ thương yêu còn kẹt lại ở quê nhà. Những tin tức kinh khủng về chế độ xã hội chủ nghĩa, về biện pháp kiềm kẹp dã man, về nền kinh tế què quặt, nạn đói, nạn lạm phát phi mã… khiến Liễu mất ăn mất ngủ. Liễu đề nghị bảo lãnh mẹ theo chương trình ra đi trật tự (ODP), nhưng mẹ không đồng ý. Mẹ nhấn mạnh rằng mẹ chỉ muốn con chuyên tâm vào việc học mà thôi, gác lại mọi chuyện khác cho đến ngày ra trường sẽ tính. Thương mẹ, Liễu chỉ biết cố gắng học và thỉnh thoảng gởi tiền, gởi quà về. Tuy nhiên, tên người gởi phải là Cậu út, nếu không mẹ nghi Liễu ham làm việc lơ là chuyện học hành, thì bả rầy lắm.

Trong khi chờ đợi, Liễu vẫn âm thầm chuẩn bị hồ sơ bảo lãnh, và do đó, đã đệ đơn xin nhập quốc tịch Hoa Kỳ. Elizabeth Trần, tức Thanh xí xọn, làm việc tại Hội Thiện Nguyện IRS lập hồ sơ cho Liễu, khuyên Liễu nên theo thời thế đổi tên mới tiện cho việc hành nghề y sĩ, vả lại "tên mình đẹp hay ho mà người Mỹ gọi thì cũng thành xấu xí ngờ nghệch hết, vậy thì giữ cái tên Việt để làm gì". Liễu không thích so đo lợi hại chi cả. Em thương mẹ, em thương cái tên mẹ đặt cho em. Tên Việt nam, dầu có bị gọi ngọng nghiệu, Liễu vẫn cảm thấy gần gũi với mình hơn cái tên Hoa Kỳ lạ hoắc. Liễu còn năn nỉ bạn bè gọi mình là Bần nữa kia, nhưng đâu có ai gọi tên em thắm thiết, trìu mến như mẹ ngày xưa.

Sau 8 năm đằng đẳng đợi chờ, ngày Liễu tốt nghiệp tiến sĩ y khoa cũng từ từ đến. Liễu mừng rỡ viết thơ khẩn cấp báo tin cho mẹ, đồng thời, nhắc nhở bà gấp rút gởi khai sanh, hôn thú và các chứng từ khác bổ túc hồ sơ bảo lãnh. Nôn nóng trông ngóng hơn hai tháng trời, Liễu mới nhận được thơ mẹ. Bà viết: "Con đã ban cho má niềm vui nhất đời. Bây giờ thì má yên tâm rồi, má đã bán nhà chuẩn bị về Thủy Liễu tạm trú tại miếng đất hương hỏa với cậu Hai, để săn sóc mồ mả cha con cho đến lúc lìa đời".

Đau khổ trước quyết định của mẹ, Liễu chỉ biết van nài cậu Út yểm trợ mình, bằng cách viết thơ về Việt nam năn nỉ mẹ thay đổi ý.

Nghĩ đến nếp sống thiếu thốn, cơ cực tại thôn quê, Liễu bứt rứt không an nên khi thấy quảng cáo tổ chức lãnh quay video tape cho thân nhân tại Việt nam, Liễu vội vàng liên lạc thuê họ. Em muốn hiểu rõ hoàn cảnh sống tại quê nhà và nhất là tha thiết mong thấy được chân dung người mẹ mến yêu, sau 8 năm xa cách.

Ba tháng sau, Liễu nhận được gói hàng video tape mong đợi. Liễu mừng húm mở máy ra xem.
Cuộn tape bắt đầu với hình ảnh chợ Rạch Giá buồn thảm. Cảnh buôn bán tấp nập tràn lan ra vỉa hè, xâm lăng đến những con đường quanh chợ không còn nữa. Nhà lồng thưa thớt. Khu phố lở lói, cửa đóng im lìm. Dãy hàng ba đường Bạch Đằng bao nhiêu hàng gánh, nay chỉ còn 1 em bé gầy còm bên rổ khoai xơ xác. Sinh hoạt thoi thóp. Phố xá quạnh hiu. Thỉnh thoảng mới có vài người đi bộ hoặc đi xe đạp qua lại, gương mặt gày gò ốm đói, dáng dấp thẩn thờ. Hình ảnh được tiếp nối với con đường loang lổ ổ gà, bùn sình lầy lội đưa về quận, rồi đến dòng sông Thủy Liễu đen ngòm, buồn thảm.

Vừa thấy miếng vườn của Ông Ngoại hiện ra, Liễu ngồi bật dậy chăm chú nhìn. Hình ảnh căn nhà 3 gian cũ kỹ hiện rõ dần. Cậu và mợ Hai ngượng ngập với bầy con cháu vây quanh. Bỗng Liễu cảm thấy có điều bất ổn. Em tự hỏi: "Uả! Má đâu hổng thấy cà!". Hình ảnh nối tiếp với cảnh cậu Hai ngồi trên ghế rọi lớn ra.

Cậu Hai lên tiếng: "Bần à!", rồi đột nhiên nước mắt cậu ràn rụa. Cậu nghẹn ngào kể lể:
- Sau bao năm nhọc nhằn sinh kế, lại khóc chồng, nhớ con, cô Tư đã bị lao phổi trầm trọng, mà điều kiện thuốc thang gần như không có. Cô Tư gấu diếm vì sợ con phân tâm chểnh mảng học hành. Về Thủy Liễu, cô Tư đã yếu lắm rồi, nhưng cô vui vẻ cho biết "Con tui thành tài rồi! Tui sẽ theo chồng tui chớ không sống nữa đâu!". Cậu rầy cô Tư không cho nói gỡ. Hàng ngày cô Tư quanh quẩn bên mả chồng. Cậu nghĩ tánh cô ấy thương chồng chí thiết, chồng chết bao năm rồi mà mối tình vẫn nồng nàn nóng hổi như xưa, nên cũng không quan tâm lắm. Mãi đến khi xấp nhỏ (3) nghe cô Tư thì thầm bên mộ: “Anh Quân ơi ! con Bần thành tài rồi. Sao anh còn chưa dẫn em theo! Đừng để em sống một mình, em khổ lắm anh ơi!", cậu hoảng hồn đòi đưa cô đi bác sĩ tâm trí nhưng cô phản đối kịch liệt. Rồi cô Tư chẳng màng ăn uống, sức khỏe kiệt quệ lần, hơn mười ngày sau thì lìa đời…

Liễu gục đầu khóc nức nở. Qua làn nước mắt nhoè nhạt, Liễu còn thấy người ta quay tới quay lui, đủ gốc cạnh hình ảnh phóng đại của hai ngôi mộ lè tè, quạnh hiu dưới cội bần cằn cỗi. Liễu đã yêu cầu họ thu thật rõ chân dung của mẹ cơ mà. Thì ra, chân dung của mẹ chỉ là một nắm mộ đất thê lương nằm bẹp dí ở một mảnh quê hương điêu tàn, rách nát, nơi mà dốt nát, độc tài đang đồng loã nhau hoành hành thống trị.

Tháng 6.1989


GHI CHÚ: Những câu hò tự sáng táng dầu điêu luyện cũng không được tán thưởng bằng những câu gợi hứng từ ca dao, tục ngữ, vè, thơ thông dụng (như thơ Lục Vân Tiên…), mà đương sự chỉ cần thêm bớt đôi chút cũng đủ giải bày tình ý. Các câu hò nầy cũng phát xuất từ những câu ca dao mỉa mai các loại ông chồng miền Nam: Có chồng say trong chay ngoài bội Ngó vô nhà, như hội tầm xuân…

Hay là: Có chồng ghiền như ông tiên nho nhỏ Ngó vô nhà đèn đỏ, đèn xanh… Hoặc: Có chồng ghen như cục ghèn đeo mắt chó, Bè bạn đến nhà, tó hó tăng hăng…

Hòn Tre: Hòn đảo nhỏ cách tị xã Rạch Giá khoảng 20 cây số: từ thị xã nhìn ra biển thấy dáng hòn đảo giống như con rùa, nên còn được gọi là Hòn Rùa. Sấp nhỏ: đám con cháu nhỏ tuổi.

Source http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n4nmnnn3n31n343tq83a3q3m3237nvn&AspxAutoDetectCookieSupport=1

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

Cách chia hai đồng bạc...


Chú bé Lula, sinh ra vào tháng 10 năm 1945, tại  1 gia đình nông dân ở Ba-Tây (Brazil).

 Vì nhà nghèo, nên từ lúc mới 4 tuổi, thằng nhỏ đã phải đi bán đâu phụng ngoài đường, nhưng vẫn quần áo tả tơi, và  thiếu ăn . Sau khi được lên tiểu học, lúc đó đã dọn lên thủ đô Rio de Janeiro, sau buổi học chú bé thường hay cùng với 2 người bạn cùng lứa đi đánh giầy ở đâu đường, hôm nào không có khách, thì coi như là nhịn đói.

Năm 12 tuổi, vào 1 buổi xế chiều, có 1 người khách, là chủ 1 tiệm giặt ủi và nhuộm áo quần  đến chiếu cố, 3 đứa trẻ chạy lại chào hàng. Ông chủ tiệm nhin vào  3 cặp mắt van xin khẩn khoản đó, không biết quyết định chọn đứa nào. Cuối cùng ông ta nói : Đứa nào cần tiền nhất, thì tôi cho nó đánh giầy, và sẽ trả công 2 đồng.

Công đánh 1 đôi giầy chỉ có 20 xu, 2 đồng đúng là 1 món tiền rất lớn. 3 cặp mắt đều sáng lên.   Một đứa nhỏ nói : từ sáng đến giờ cháu chưa được ăn gì cả, nếu không kiếm được tiền hôm nay, cháu sẽ chết đói ! Đứa khác nói :  "Nhà cháu đã hết thức ăn từ 3 ngày nay, mẹ cháu lại đang bệnh, cháu phải mua thức ăn cho cả nhà tối nay, nếu không thì lại bị ăn đòn…“ .

Cậu Lula nhìn vào 2 đồng bạc trong tay ông chủ tiệm, nghĩ ngợi 1 lúc, rồi nói : “Nếu cháu được  ông cho kiếm 2 đồng này, thì cháu sẽ chia cho 2 đưá đó mỗi đứa 1 đồng !!”Câu nói của Lula làm Ông chủ Tiệm và 2 đứa nhỏ kia rất là ngạc nhiên. Cậu giải thích thêm: “Tụi nó là bạn thân nhất của cháu, đã nhịn đói hết 1 ngày rồi, còn cháu thì hồi trưa còn ăn được ít đậu phụng, nên có sức đánh giầy hơn chúng nó, Ông cứ để cháu đánh đi, chắc chắn Ông sẽ  hài lòng” Cảm động trước câu nói của thằng nhỏ, Ông chủ tiệm đã trả cho hắn 2 đồng bạc, sau khi được hắn đánh bóng đôi giầy. Và thằng nhỏ Lula giữ đúng lời, đã đưa ngay cho 2 đứa bạn mỗi đứa 1 đồng.

Vài ngày sau, Ông chủ Tiệm đã tìm đến thằng nhỏ Lula, nhận chú bé cứ sau buổi tan học là đến học nghề ở tiệm giặt nhuộm của ông ta, và bao cả bữa cơm tối. Tiền lương lúc học nghề tuy là rất thấp, nhưng so với đánh giầy thì khá hơn rất nhiều.  Thằng bé hiểu rằng : Chính vì mình đã đưa tay giúp đỡ những người khốn đốn, nên mới đem đến cho mình cơ hội làm thay đổi cuộc đời.

Từ đó, miễn là có khả năng, chú bé Lula không ngần ngại giúp đỡ những người sống khốn khổ hơn mình. Sau, Lula nghỉ học đi làm thợ trong 1 nhà máy, để bênh vực cho quyền lợi của những  người thợ, cậu ta tham gia vào công-đoàn, năm 45 tuổi, Lula lập ra đảng Lao-Công.
Năm 2002, trong cuộc ứng cử tổng-thống, khẩu hiệu của Lula là : Ba bữa cơm no cho tất cả những người trong quốc gia này.  Và đắc cử làm Tổng Thống  xứ Brazil.  Năm 2006 đắc cử nhiệm kỳ 2, cho 4 năm tới.

Trong 8 năm tại chức, Ông ta đã thực hiện đúng lời mình đã hứa :  -93% trẻ em và 83% người lớn ở nước này được no ấm.  Thực hành đúng tâm niệm : giúp đời !!  Và nước Ba-tây dưới sự lãnh đạo của Ông đã không còn là "con khủng long nhai cỏ" mà đã trở nên "Con mãnh sư Mỹ Châu".  Và xây nên  nền kinh tế đứng thứ 10 trên thế giới.  Luiz Inácio Lula da Silva : đó là tên của vị tổng thống Brazil ( 2002 - 2010 )

Source Internet.

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

A Friend ... Một người bạn là người...

Biết định nghĩa sao cho một tình bạn
Phải chăng khi hoạn nạn chẳng rời ta
Chấp nhận ta khi ta vẫn cứ là
Luôn tin tưởng dẫu ta không giải thích
Điện thoại hỏi han chẳng cần mục đích
Có cái nhìn rất chân thật về ta
Ta lỗi lầm nhưng bạn vẫn thứ tha
Chỉ cho ta mà không cần đòi lại
Giúp đỡ ta chẳng bao giờ ngần ngại
Hễ được là mời ta đến chơi ngay
Gần gũi nhau chẳng biết đã bao ngày
Trân trọng quý mến ta con người thật
Đời thay đổi từ khi ta có bạn
Chẳng bao giờ bạn xét lỗi lầm ta
Hỗ trợ ta lúc thất thế cơ sa
Vực ta dậy khi ta đang gục ngã
Lau mắt ta khi dòng châu lã chã
Ta đang buồn có bạn phấn chấn hơn
Chỉ nói lời tốt đẹp chẳng oán hờn
Và nói thật khi ta cần sự thật
Hiểu được ta bạn là người thứ nhất
Đánh giá cao khi ta vẫn tầm thường
Đi với ta suốt cả một con đường
Sẵn sàng giải thích khi ta bế tắt
Đánh động khi ta bịt tai nhắm mắt
Thức tỉnh khi ta lạc bước lầm đường...


***

Cảm tác từ những lời & hình ảnh dưới đây ...

LÀNG NAM 08-2013


The A - Z of Friendship
Description: http://www.petalia.org/Inspiration/orchide3.gif

A Friend ... Một người bạn là người...
Accepts you as you are - Chấp nhận con người thật của bạn.
Believes in you - Luôn tin tưởng bạn.
Calls you just to say "hi." - Gọi điện cho bạn chỉ để nói "Xin chào".
Doesn't give up on you - Không bỏ rơi bạn.
Envisions the whole of you - Hình ảnh của bạn luôn ở trong tâm trí họ.
Forgives your mistakes - Tha thứ cho bạn mọi lỗi lầm.
Gives unconditionally - Cho đi không điều kiện
Helps you - Giúp đỡ bạn
Invites you over - Mời bạn đến chơi cùng
Just likes being with you - Thích ở bên bạn
Keeps you close at heart - Trân trọng bạn
Loves you for who you are - Yêu quí bạn bởi con người thật của bạn.
Makes a difference in your life Tạo ra khác biệt trong đời bạn
Never judges you - Không bao giờ phán xét bạn
Offers support - Luôn ủng hộ, hỗ trợ bạn
Picks you up - Vực bạn dậy khi bạn suy sụp
Quiets your tears - Làm dịu đi những giọt nước mắt của bạn
Raises your spirits - Giúp bạn phấn chấn hơn
Says nice things about you - Nói những điều tốt đẹp về bạn
Tells you the truth when you need to hear it - Sẵn sàng nói sự thật khi bạn cần
Understands you - Là người hiểu bạn
Values you - Đánh giá cao bạn
Walks beside you - Sánh bước cùng bạn
X-plains things you don't understand - Sẵn sàng giải thích cho bạn điều bạn không hiểu
Yells when you won't listen - Hét to vào tai bạn mỗi khi bạn không lắng nghe
Zaps you back to reality - Và thức tỉnh bạn khi bạn lạc bước
(Author Unknown)

Description: http://www.petalia.org/Inspiration/donkeys.gif
Description: http://www.petalia.org/Inspiration/friendsare.gif
Description: http://www.petalia.org/Inspiration/smile1.jpg
Description: http://www.petalia.org/Inspiration/smile2.jpg
Description: http://www.petalia.org/Inspiration/smile3.jpg
Description: http://www.petalia.org/Inspiration/smile4.jpg
Description: http://www.petalia.org/Inspiration/smile5.jpg
Hãy cho bạn bè bạn biết bạn quan tâm tới họ như nào...
Hãy gửi trang này tới bất kỳ ai bạn coi là Bạn.
Và nếu nó trở lại với bạn, bạn sẽ biết rằng...
bạn có một vòng tròn kết nối những người bạn tuyệt vời!
Description: http://www.petalia.org/Inspiration/friendship.jpg


Source Internet.

Rượu vang Pháp.


Thập Ngv 



Rượu vang Pháp – Wikipedia




Hình thu nhỏ

Hình thu nhỏ


Hình thu nhỏ


Tập tin:French taste of wines.JPG
Rượu vang Pháp thường được dùng trong bữa ăn

Lời giới thiệu

Thức ăn của Pháp theo nguyên tác phải biết ăn món nào trước món nào sau và thức uống rượu vang cũng vậy, phải biết uống rượu loại gì tùy theo mỗi thức ăn thì mới đúng điệu và đúng khẩu vị.

Thông thường thì uống rượu trắng với các món cá và hải sản, rượu đỏ với các món thịt, fromage..., rượu hồng (rosé) thì có thể dùng luôn cho hải sản và các loại thit. Rượu trắng và rượu hồng thì lúc nào cũng uống lạnh, còn rượu đỏ thì phần lớn ko uống lạnh. Đúng là uống rượu vang cũng như dùng các thức ăn ở Pháp là 1 nghệ thuật cần phải biết.

Ở Pháp, có nhiều khóa dạy thưởng thức các loài rượu khác nhau, để được biết qua tổng quát các loại cây nho, vùng trồng nho, cách làm rượu, hương vị riêng biệt của mỗi loài rượu, cách lưu trữ rượu, cách phục vụ rượu (khui rượu, ly rượu, rót rượu...), cách thưởng thức và phân biệt các loài rượu từng vùng cùng số năm tuổi của rượu. v.v...

Các khóa học thưởng thức rượu thường được phổ biến miễn phí qua các công ty du lịch, khách sạn lớn, resort...dành cho du khách hay các công tư sở tổ chức dành cho nhân viên. Tài liệu tìm hiểu, cần đọc qua cho biết.

Nên nhớ,rượu vang uống có chừng mực rất tốt cho sức khỏe,ngược lại ,nếu uống quá độ hay uống rượu giả thì rất đáng lo ngại lắm đó.

Chúc vui.
Mến, TTSĩ

  

Ở trong một xứ sở biết “sống”, biết thưởng thức những kho tàng của những món ngon vật lạ, người ta  không thể không biết đến rượu nho, nó đem đến sự hài hòa và tăng trưởng vị ngon vào các món ăn. Những thú vui trong bàn ăn, đã mang một tầm quan trọng, đến nỗi ông Brillat - Savarin đã thốt lên: “Định mệnh của một quốc gia tùy thuộc vào cách ăn uống của quốc gia đó”.
 
Không phải sống chỉ để ăn, cho có ăn, mà người ta sống, để thưởng thức một bữa ăn ngon, dầu cho đó là một bữa ăn thanh đạm, nếu có thể, hòa hợp với tí rượu vang thích hợp. Người ta nói : rượu vang là “đồng minh” của những món ăn.

Người viết bài này, trước kia, chưa từng biết uống rượu. Kỳ lắm ! Xin  phép thuật y tâm lý sống, cái khác biệt trong cuộc sống thường nhật, có lúc tìm tòi, tìm nguyên do, sự kiện, kết quả, chứng minh, tin điều gì mình có thể kiểm sóat được. Bây giờ, thỉnh thỏang, người viết nhấm tí rượu cho thêm “mặn mà” trong bữa ăn, để tìm cảm nhận sự mầu nhiệm của ruợu vang. Một thói quen, dùng đều đặn rượu vang với liều lượng vừa phải, sẽ có những kết quả ngăn ngừa những bệnh nặng, theo sự nghiên cứu của trung tâm khảo nghiệm chống bệnh ung thư Fred Hutchinson ở vùng Settle. Đàn bà mỗi ngày dùng rượu vang tối thiểu 2 ly, sẽ tránh được bệnh ung thư buồng trứng, qua sự nghiên cứu của đại học Queensland ở vùng Brisbane, Úc châu. Và, trên trang khoa học của nhật báo Le Monde, xuất bản tại Paris ngày mồng 2/4/2005 để một tựa lớn: Rượu chát đỏ góp phần giúp ta bảo vệ hệ thần kinh, nhờ năng tính tốt của một tế bào thuốc resveratrol  hiện diện trong vỏ nho !.
 
  
 
Xuất xứ về rượu vang. Người ta tự hỏi: nho trồng tại Pháp, có phải xuất xứ từ nho hoang dã đã được thuần tính, hay là một loại nho đến từ vùng Caucase (nước Nga), điều này không có câu trả lời. Nếu những người tiền sử ép nho để uống (nước cốt nho tươi) không có điều gì chứng tỏ, loại nước này là rượu chát. Người Hy Lạp đã phổ biến những phương pháp đầu tiên về cách làm rượu nho. Sau đó là người La Mã, rồi kế đến người Pháp cổ (Gaulois). Người ta kể lại một huyền thọai: do một sự tình cờ, một con Lừa đói đi ngang qua một ruộng nho; nó ăn những chùm nho trên những cây nho thấp. Người chủ vườn nho hiếu kỳ, bèn lấy những chùm nho trên những cây mà con lừa ăn đem về làm rượu. Kết quả: rượu ngon là nhờ vào những cây nho thấp mà vô tình con lừa đã chỉ cho ông.
 
Nền văn minh của rượu chát này, không chỉ thể hiện qua những luật lệ văn hóa mà nó đòi hỏi, một sự thực tập lâu dài trên thực tế, với sự kiên nhẫn và tỉ mỉ. Những phương cách khác nhau về làm rượu chát, đã đạt được những sự tiến bộ vượt bực. Những người trồng nho đã thuộc lòng những tính chất của nho, cũng như các loại nho của họ. Họ săn sóc vườn nho với tất cả tình yêu thương trìu mến.
 
Tại Pháp, có một nền văn minh lâu đời về rượu vang. Điều này tiềm tàng từ thủa nước Pháp có tên là La Gaulle (dân Pháp lúc đó gọi là người Gaulois) kéo dài cho đến ngày nay. Rượu nho Pháp rất phong phú, có quá nhiều lọai khác nhau. Do đó, những người ưa chuộng rượu nho thuộc đủ thành phần, lúc nào cũng tìm thấy niềm hạnh phúc trong những lọai rượu mà mình ưa chuộng. Nhờ có sự kiểm sóat chặt chẽ trong quá trình sản xuất, cũng như trong vấn đề để nhãn hiệu và phân cấp phẩm loại,  nên những người nào manh tâm gian dối đều bị trừng phát rất nặng. Các nhà sản xuất đều cố gắng thi đua “trình làng” những loại rượu thật ngon để dự thi hội chợ. Người nào đoạt được huy chương vàng, coi như là năm đó trúng mùa.
  
 
Vào thế kỷ VI, trước thiên Chúa giáng sinh, người ta đã biết thưởng thức rượu chát ở vùng Marseille do người Hy Lạp đem qua bán, và cũng từ Marseille người Pháp xuất cảng rượu sang xứ Anh bằng đường biển Tây Ban Nha. Lúc đó, người Pháp chưa biết làm rượu, nhưng đã biết thưởng thức và buôn bán rượu qua các xứ khác. Sau đó, Bordeaux trở nên một vùng sản xuất, cũng như mua bán rượu vang rất nổi tiếng. Vào thời đó, chỉ những người La Mã tại Pháp mới có quyền trồng nho và làm rượu nho. Dần dần, người Gaulois “Pháp cổ” cũng được quyền trồng nho và làm rượu nho trong thung lũng Rhône từ thế kỷ thứ nhất (01) sau thiên Chúa giáng sinh. Nhận thấy sự sản xuất rượu quá chậm chạp và năng xuất  ít, người La Mã và Pháp đã hợp tác với nhau để làm rượu, bằng cách: đem những kiến thức độc đáo của chiến tranh, áp dụng vào trong lãnh vực sản xuất rượu, có phẩm chất và qui mô hơn.
 
Từ thung lũng Rhône (Pháp), rượu nho lan tràn đến các vùng phía Bắc (Pháp). Sau vài thế kỷ, người ta trồng nho với thành công lớn ở vùng Champagne. Còn ở Bordeaux, người ta mang từ Tây Ban Nha về một gốc nho (cépage) chịu đựng và thích hợp với khí hậu của vùng này, lọai rượu này có tên Cabernet. Từ Rhône, rượu vang lan truyền qua Bỉ, Đức…Từ Bordeaux lan tràn qua Ai Nhĩ Lan và Anh quốc. Khắp nơi, trong Âu châu thời đó bắt đầu sản xuất rượu vang, nhưng rượu vang Gaulois (pháp) vẫn ngon hơn rượu vang các nước lân cận khác. Dân La Mã (Ý cổ) cũng khóai uống rượu vang Gaulois hơn là rượu vang La Mã. Đến thế kỷ thứ III hoàng đế La Mã Probus  cho phép dân Gaulois trồng nho làm rượu thả cửa ngay ở vùng đất do chính họ lựa chọn. Nhà thờ cũng nhảy vô, bắt đầu sản xuất và tìm cách lưu trữ rượu, mỗi nhà thờ cũng có một ruộng trồng nho, và làm rượu nho riêng. Những linh mục cũng đóng góp vào trong phần sản xuất. Rượu phát triển mạnh và được coi như một thời trang lúc đó. Các công hầu khanh tướng, ai nấy cũng có khu trồng nho và làm rượu riêng, ngay cả vua chúa cũng vậy. Nói tóm lại, những người có quyền lực thời đó mới có khu trồng nho để làm rượu mà thôi.

 

Người Hy Lạp rất hãnh diện khi biết làm rượu chát, bởi điều này làm họ khác biệt với những dân du mục (nomades), hay loại dân hoang dã khác (barbares), những lọai dân này, chỉ biết uống sữa bò, sữa dê, và cả sữa ngưa… Người Hy Lạp biết rằng khi các cây nho quá nhiều trái thì sẽ ảnh hưởng đến phẩm chất của rượu. Họ biết tầm quan trọng kích thước của cây, cũng như của trái. Thời xa xưa, người ta chở rượu bằng tàu buồm. Bạn thử nghĩ, lúc đó, trên những hành trình dài, không phải lúc nào tàu cũng cập bến an tòan, vậy mà, người ta vẫn đem rượu nho đến bán cho những dân hoang dã (Barbares). Rượu đã được chứa trong bình đất sét nung, hay trong những bao chứa bằng da dê, để khó bể khi va chạm. Những người lái buôn khôn ngoan đã cho những dân Barbares nếm rượu vang mà họ chưa bao giờ biết đến. Khi những người này bắt đầu lâng lâng, với cảm khóai lạ, lúc đó những người lái buôn mới đòi trao đổi vàng bạc, châu báu và cả nô lệ với rượu. Bạn hãy tưởng tượng, sau cuộc trao đổi này, người lái buôn lời lộc đến cỡ nào…Thời gian sau này, người ta mới chế ra các thùng làm bằng gỗ. Rượu vang thời đó tượng trưng cho sự giàu có.
                  
Để giữ truyền thống làm rượu, vô chai, đóng nút, ở nước Pháp, hãng Sabate đã chế ra một loại nút bằng bấc (liège) mới để tránh tình trạng một số nhỏ rượu hư hỏng khi để quá lâu. Lọai nút này đã được huy chương vàng trong hội chợ Vinitect 2004. Trong khi đó, một nhóm hãng mới làm rượu trong thời gian gần đây, với tính cách kỹ nghệ hóa cao độ, đã từ bỏ loại nút bấc mà thay thế vào đó lọai nút bằng kim xoắn vặn. Số chai này lên đến con số 650 triệu vào năm 2004 trên tòan thế giới. Loại đóng nút chai rượu, bằng cách xoắn vặn, giúp người tiêu dùng dễ mở, nhưng phe bảo thủ thì chỉ trích, cho rằng làm như thế sẽ mất đi sự thi vị hào hứng của thời gian khi mở nút chai bấc, từ từ một cách cổ điển, đã ăn sâu vào tiềm thức nhân loại từ ngàn xưa.
 

     
Tại Pháp, năm 2002 chỉ có 13% người mua rượu vang với chai có nút kim lọai xoắn vặn, đến năm 2004 số người này lên đến 21% vì người sản xuất đã tìm ra một loại nút dung hòa làm vừa lòng luôn cả hai phe : nút vừa bằng bấc, vừa bằng kim loại xoắn vặn (chỉ cần vặn nút kim loại nút bấc sẽ xoay theo và kéo ra dễ dàng, khỏi cần đồ mở nút bấc). Loại rượu đóng nút theo kiểu này thường tìm thấy trên thị trường Mỹ. Phải chăng người chế ra loại nút chai này, đã biết ảnh hưởng quá đặc biệt của chất bấc. Tính chất của nút bấc không như nhiều người lầm tưởng, có nghĩa là: nó giúp đỡ rượu vang có thêm những vị thơm khác nhau, trong những vị thơm này, người ta thoáng nhận có vị hương của vanillee và có những vị chát (tanins) khác nhau (vị chát này khác với vị chát của vỏ nho).
 
Mặc dầu với số lượng nhỏ của vị thơm, nhưng đã gây ảnh hưởng đến vị thơm tổng hợp của rượu. Nút bấc chứa 85% không khí, mặc dầu không thấm nước, nhưng nút bấc vẫn để cho rượu thở với một lượng không khí li ti (micro-quantités), nếu không khí vào nhiều quá, rượu sẽ trở thành dấm. Rượu vang cần thở để “sống” cho nên nó có tuổi già qua thời gian. (khi rượu vang còn trẻ, nồng độ rượu còn quá mạnh, hương thơm tổng hợp chưa phát triển tòan diện. Khi rượu có tuổi già, nồng độ rượu giảm đi, nhưng hương thơm tổng hợp phát triển toàn diện).

Bạn đừng quên rằng rượu thở qua nút chai. Sau khi mở nút chai, rượu cũng cần dưỡng khí để thở, lúc đó hương thơm trong chai mới bung tỏa ra. Rượu cũ, mở nút chai để tối thiểu một tiếng trước khi uống, rượu cũ hơn thì để lâu hơn. Rượu vang mới thì mở nút vài phút thôi, hay có thể dùng ngay cũng được. Đặc biệt rượu quá già (rượu để lâu năm, mở ra nên dùng ngay, vì dưỡng khí có ảnh hưởng ngược đến vị thơm).

Người ta cũng đã biết từ thế kỷ 18, rượu vang làm xoa dịu sự đau đớn của người nhiễm bệnh viêm cổ họng. Lần đầu tiên, vào năm 1974, sau một cuộc nghiên cứu khoa học có tầm quan trọng rộng lớn. Kết quả của sự nghiên cứu này, khi vừa được công bố, làm cho mọi người sửng sốt, ngỡ ngàng. Họ theo dõi 100 ngàn người uống rượu vang đều đặn từ 1 đến 3 ly mỗi ngày, họ nhận thấy số người tử vong vì bệnh đứng tim giảm rất nhiều so với những người không bao giờ dùng đến rượu vang. Người Pháp và Ý uống rượu vang nhiều nên ít chết vì bệnh đứng tim, từ 3 đến 5 lần so với những người Ai Nhĩ Lan, Anh và người Bắc Mỹ chuyên dùng nhiều whisky.
  
 
Nghiên cứu mới nhất của đại học Davis tại California đã khám phá rượu vang có một khả năng bảo vệ cơ thể để chống bệnh ung thư. Rượu vang chứa rất nhiều chất thuốc, chống lại bệnh tim, bệnh ung thư phổi và ung thư nhiếp hộ tuyến hạch (prostate). Người ta tự đặt câu hỏi, tại sao những người dân ở vùng Tây Nam nước Pháp, họ uống rượu vang với món cassoulet và món gan ngỗng, số tử vong rất ít về các bệnh tim mạch, hơn những nơi khác không dùng rượu chát.
                          
Rượu vang, chứa đựng những chất polyphénols với những tính chất chống lão hóa (đặc biệt là chất catéchine). Một bài báo khác, tờ New York Times đã nhấn mạnh trên đề tài này rằng sự hiện diện của chất resveratrol trong vỏ nho ngăn chặn tác dụng của những mầm có khuynh hướng tạo ra bệnh ung thư. Một khám phá khác: Làm rượu trong những thùng bằng cây sồi cho ta chất acutissimi A. Đây là một polyphénol có tính cách mạnh chống lại những thớ thịt bị viêm.
  
  
Nghệ thuật của người nếm rượu nhà nghề là “nhận dạng” rượu chát qua mùi của “bó hương”, thoang   thỏang vị trái cây của nó. Người nếm rượu, có “bộ nhớ” về các vị hương của rượu, họ có thể đoán tuổi rượu, cũng như loại rượu một cách chính xác. Một người Mỹ từng nếm rượu, đã nổi tiếng khắp thế giới tên Parker. Parker đã cho ấn bản hàng năm sách hướng dẫn, cũng như xếp hạng các loại rượu vang rất chính xác, đã được các nhà sản xuất rượu nổi tiếng của Pháp công nhận và nể phục.

Để kết luận bài này, chúng ta hãy (phải) nghe “toa thuốc” của giáo sư  Jean Taric, nhà giải phẩu chuyên nghiệp về hệ thống tiêu hóa của trung tâm y viện Bordeaux. Ông đã tuyên bố gần đây: “Bạn hãy uống rượu chát đỏ, lọai tốt, cùng các bạn hữu trong những liều lượng đúng mức (mỗi ngày MỘT ly) như thế bạn sẽ sống được trăm tuổi…”.Giáo sư Taric còn là chủ nhân của một lâu đài về rượu Turon-Lacroix.


***

Source Internet.

Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013

Phòng ngừa những bất lợi từ uống trà


Tuy có nhiều lợi ích cho sức khỏe, nhưng nếu không hiểu rõ về trà, người dùng nó có thể gặp nhiều bất lợi, nhất là người bệnh đang dùng thuốc. Đối với bệnh nhân nằm viện, bạn đừng ngạc nhiên khi thấy bác sĩ khuyên họ tránh uống trà khi phải trải qua phẫu thuật hoặc dùng thuốc. 
Lợi ích của trà

Trà là loại thức uống lành mạnh cho sức khỏe và quen thuộc với mọi người. Uống trà hàng ngày sẽ mang lại nhiều lợi ích về thể chất và tinh thần.

Trà làm cho cơ thể phấn chấn, tinh thần thoải mái và sáng suốt. Nó còn giúp giảm nguy cơ nhiều loại bệnh tật như ung thư, đột quỵ, bệnh tim, nha chu, loãng xương… Đối với bệnh đái tháo đường, các kết quả nghiên cứu trước đây về tác động của trà xanh trên sự kiểm soát đường huyết và độ nhạy cảm insulin ở người là không nhất quán. Theo kết quả nghiên cứu gần đây đăng trên PubMed, người ta phân tích gộp từ 17 nghiên cứu dựa trên 1133 đối tượng. Kết quả cho thấy, uống trà xanh làm giảm đáng kể lượng đường huyết lúc đói, giảm HbA1c và tăng khả năng nhạy cảm với insulin. Do vậy, trà xanh có tác dụng điều hòa lượng đường huyết, có ích cho người đái tháo đường và tiền đái tháo đường.


Thành phần của trà

Trà có tên khoa học là Camellia sinensis, cùng một giống trà nhưng trồng ở những vùng địa lý khác nhau sẽ cho ra các loại lá trà có chất lượng khác biệt. Tùy vào quá trình xử lý và chế biến, người ta phân biệt thành ba loại chính: trà xanh, trà ô long và trà đen. Trong đó, trà xanh là ít bị xử lý nhất.

Trà xanh chứa nhiều hợp chất có hoạt tính sinh học và khả năng chống oxy hóa cao. Nhờ ít bị xử lý trong quá trình chế biến nên trà xanh có chất chống oxy hóa nhiều nhất, như polyphenol, đặc biệt là catechin được xem là tác nhân chính chịu trách nhiệm cho hầu hết các lợi ích về sức khỏe, giúp sửa chữa tổn thương tế bào và bảo vệ cơ thể chống lại nhiều bệnh. Các hợp chất sinh học khác cũng được tìm thấy trong trà xanh bao gồm flavonoid, tinh dầu dễ bay hơi, alkaloid, polysaccharides, caffein, vitamin và khoáng chất. Trong đó cần lưu ý đến caffein vì tác dụng bất lợi của nó nếu dùng quá liều.

Tương tác thuốc

Tương tác thuốc mức độ nguy hiểm:

Theo MedlinePlus, tương tác thuốc mức độ nguy hiểm đã được báo cáo khi dùng kết hợp trà xanh với các chất kích thích như ma túy hoặc ephedrine. Các chất kích thích hoạt động phối hợp với caffein trong trà xanh dẫn đến tăng nhịp tim và tăng huyết áp. Người bệnh cũng nên tránh kết hợp trà xanh với phenylpropanolamin, một thành phần trong các sản phẩm giảm cân và thuốc điều trị cảm lạnh, vì sự kết hợp có thể thúc đẩy lên cơn tăng huyết áp và nguy cơ xuất huyết não. Bởi vì trà xanh gây sức ép lên gan, sẽ là nguy hiểm nếu uống trà xanh cùng với các loại thuốc có tác dụng gây tổn hại không mong muốn trên gan như acetaminophen, phenytoin, methotrexate và một số loại khác. Trà xanh có thể làm chậm quá trình đông máu, vì vậy không nên dùng kết hợp với các thuốc chống đông máu như warfarin, ibuprofen hay aspirin. Tương tự như vậy, bệnh nhân có chỉ định mổ xẻ nên ngưng uống trà trước khi trải qua phẫu thuật để phòng ngừa chảy máu.

Tương tác thuốc mức độ trung bình:


Đôi khi uống thuốc theo toa có thể làm thay đổi thời gian cần thiết để chuyển hóa chất caffein trong trà, bao gồm: thuốc tránh thai, thuốc kháng sinh và lithium. Trong trường hợp khác, trà làm thay đổi hiệu quả của thuốc theo toa, bao gồm: adenosine, clozapine và một số thuốc điều trị ung thư.

Tương tác với các loại thảo mộc và thực phẩm chức năng:

Trà xanh tương tác với hoặc ảnh hưởng đến tác dụng của một số loại thảo mộc và thực phẩm chức năng. Ví dụ, trà xanh có thể làm giảm sự hấp thu acid folic và sắt. Tránh uống trà xanh kết hợp với cà phê (vì sẽ làm tăng lượng caffein). Dùng cam với trà xanh cũng có thể làm tăng nhịp tim và huyết áp.

Phòng ngừa tác dụng bất lợi

Mỗi ly trà xanh 240ml chứa khoảng 47mg caffein, dĩ nhiên hàm lượng caffein sẽ thay đổi tùy theo nước trà được pha đậm hay nhạt. Dùng trà xanh với liều rất cao, khoảng 10 - 14g, có thể làm giảm hấp thu sắt từ thức ăn và thậm chí có thể gây tử vong (theo National Institutes of Health).

Đối với người có sức khỏe bình thường, việc uống trà là một thói quen tốt cho sức khỏe nếu dùng điều độ.

Đối với người mắc bệnh cần uống thuốc thì nên thận trọng: “Uống trà cách xa thời điểm uống thuốc khoảng 2 giờ. Nên uống trà có độ đậm nhạt vừa phải, tránh lạm dụng. Tuyệt đối không dùng nước trà để uống thuốc”.

Theo Sức khỏe & Đời sống
Source Internet.

Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013

THUẬT XEM TƯỚNG CHỮ


Theo nghiên cứu của Công ty National Pen (Mỹ), chữ viết có thể đưa ra những đầu mối về tính cách người viết dựa trên khoảng cách giữa các chữ cái, chữ ký, cách nối các chữ trong một từ.

Cũng theo National Pen, nghiên cứu này thậm chí có thể được sử dụng để xác định nguy cơ về sức khỏe bao gồm cả bệnh tâm thần phân liệt, huyết áp cao... Quá trình phân tích chữ viết được gọi là “Thuật xem tướng chữ”, được coi là giả khoa học vì đã có những tranh cãi về độ chính xác của nó khi xác định các thuộc tính tâm lý.

Theo phân tích này thì những người có chữ viết nhỏ thường có khuynh hướng nhút nhát, ham học và tỉ mỉ trong công việc, còn những người muốn được chú ý sẽ có chữ viết to hơn. Người viết các từ có khoảng cách rộng thích tự do và không thích đám đông, trong khi người viết các từ sát vào nhau không thể ở một mình.

Thuật xem tướng chữ

Nếu chữ viết nghiêng sang phải, người đó luôn sẵn sàng có những trải nghiệm mới và hứng thú gặp gỡ những người mới. Viết nghiêng sang trái là người có xu hướng giữ mọi thứ cho riêng mình, khó mở lòng. Còn những người có chữ viết không nghiêng về bên nào là rất logic và thực tế.

Đặc điểm tính cách cũng có thể xác định được bằng cách viết từng chữ cái. Theo đó, các kiểu vòng móc trong các chữ cái "l" và "e" rộng có nghĩa là người đó thoải mái, cởi mở và tự nhiên. Những người móc vòng hẹp có xu hướng hoài nghi người khác.

Chấm trên chữ "i" và gạch ngang ở chữ "t" cũng là một tiêu chí thể hiện tính cách người viết. Nếu dấu chấm của chữ "i" nằm cao hơn so với mức cơ bản thì người viết có một trí tưởng tượng tuyệt vời. Nếu dấu chấm gần mức cơ bản, người viết là người có tính tổ chức. Những người hay chần chừ có xu hướng đặt dấu chấm về phía bên trái chữ “i” và chữ “j”, trong khi những ai có tính cách trẻ con sẽ chấm lên các chữ cái này thành hình vòng tròn. Dấu gạch ngang dài trên chữ “t” gợi ý đây là một người quyết đoán và nhiệt tình nhưng cũng cứng đầu. Những người có dấu gạch ngang ngắn có khuynh hướng lười biếng.

Người viết những chữ tròn trịa có óc sáng tạo và tính nghệ thuật cao trong khi chữ viết nhọn là dấu hiệu của những người hiếu thắng, sống tích cực, thông minh và tò mò. Viết chữ "o" có móc hoặc không kín là người nói nhiều và hòa đồng, chữ “o” khép kín sẽ chỉ ra đó là người kín đáo. Tương tự như vậy, chữ "s" tròn trịa có nghĩa là người muốn làm hài lòng mọi người.

Những người thường đè bút mạnh tạo ra chữ viết đậm, dày hơn luôn thực hiện tốt cam kết nhưng không phản ứng tốt với những chỉ trích. Đó cũng là dấu hiệu của mức năng lượng cao. Trong khi đó những người viết nhẹ tay có xu hướng đồng cảm và nhạy cảm nhưng thiếu sức sống, thể hiện sự mệt mỏi.

Nếu chữ ký khó đọc, người viết thuộc dạng khó hiểu, còn người ký dễ đọc thường tự tin và tính tình thoải mái.

Phân tích cũng chỉ ra rằng sức khỏe của một người có thể được xác định từ dạng chữ viết của họ, ví dụ, những người có huyết áp cao có xu hướng chữ viết lúc thô đậm, lúc mảnh. Những người bị bệnh tâm thần phân liệt sẽ có chữ viết nghiêng trái phải liên tục. Một trong những triệu chứng của bệnh Parkinson viết chữ rất nhỏ và khó đọc được gọi là Micrographia.

Theo Thanh niên
Source Internet.