Thứ Ba, 31 tháng 12, 2013

“Nghĩa địa” khổng lồ 4.200 máy bay của Mỹ


Mỹ là một siêu cường quân sự với số lượng vũ khí, trang bị khổng lồ. Hàng năm họ thải loại rất nhiều loại vũ khí với niên hạn sử dụng vẻn vẹn 25 - 30 năm. Thậm chí, có rất nhiều nước đã mua sắm các máy bay cũ được bảo quản trong “nghĩa trang” này.

Một nghĩa địa” khổng lồ rộng 2.600 mẫu Anh (tương đương với diện tích 1.300 sân bóng đá tiêu chuẩn) gồm hơn 4.200 máy bay quân sự, thuộc hơn 70 chủng loại, trị giá khoảng 35 tỷ USD của Mỹ, được đặt ở Căn cứ Không quân Davis-Monthan, nằm ở phía tây nam sa mạc Arizona, biểu thị sức mạnh của siêu cường hàng đầu thế giới, đặc biệt là về lĩnh vực hàng không.

Một trong những lý do người ta lưu giữ những chiếc máy bay này ở đây là vì lượng mưa ít, độ ẩm thấp, đất phèn, ít xói mòn, ít xảy ra sự gỉ sét, nền đất cứng nên chúng có thể là bãi đỗ mà không cần xây dựng các thảm bê tông kiên cố.

Ở đây, hàng nghìn chiếc máy bay nghỉ hưu của Mỹ được sắp đặt khoa học ngay ngắn. Trong số đó có rất nhiều loại máy bay hiện đại, vẫn còn khá tốt như: máy bay chiến đấu F-15, F-16, máy bay ném bom chiến lược B-52H, máy bay tuần tiễu chống ngầm P-3C Orion… Những chiếc máy bay này, nếu vào tay nước khác vẫn còn sử dụng được hàng chục năm nữa.


Nghĩa địa khổng lồ hàng nghìn máy bay Mỹ
Tại đây người ta phân ra làm bốn loại máy bay: Thứ nhất, tình trạng còn tốt, sử dụng để dự bị cho lực lượng máy bay hiện đang sử dụng. Hầu hết doanh số bán máy bay cũ cho nước ngoài của quân đội Mỹ là đến từ các máy bay này. Loại thứ hai là sau một thời gian bảo dưỡng ngắn có thể tiếp tục hoạt động trở lại, (có số lượng ít hơn). Loại thứ 3 là không còn khả năng bay, sẽ tháo lấy các bộ phận linh kiện còn tốt, dùng để thay thế cho các loại máy bay cùng chủng loại. Loại thứ tư là máy bay bị tiêu hủy, vài bộ phận được thu hồi làm thép phế liệu.

Căn cứ này được xác định là một khu quân sự cấm của chính phủ Hoa Kỳ, là “nghĩa địa” vũ khí lớn nhất và nổi tiếng nhất thế giới. Đây cũng là căn cứ của đại đội sửa chữa và tái chế máy bay số 309 của không quân Mỹ, tổng cộng có 7.000 nhân viên. 

Sau đây là những hình ảnh về nghĩa địa máy bay lớn nhất thế giới này:

















Đức Hà 
Theo Defence News

Source Internet.

Kỳ thị, Kinh nghiệm của Người Việt Tỵ Nạn


LS Nguyễn Xuân Phước


Khi người Việt tỵ nạn Cộng Sản đến Mỹ năm 1975 thì xã hội Mỹ vừa mới được ổn định sau thời kỳ tranh đấu đòi dân quyền của người Mỹ gốc Phi châu, mà ta thường gọi là người da đen. Nhờ công cuộc đấu tranh dân quyền đó ở thập niên 1960s mà người Việt đến Mỹ được đối xử bình đẳng, ít ra trên pháp luật. Người Việt không phải đi toilet riêng dành cho người da màu ở nơi công cộng; đi xe bus không phải ngồi băng ghế sau để nhường ghế trước cho người da trắng; đi ăn nhà hàng không phải đi cửa dành cho người da màu; và đi học cũng được nâng đỡ với những tiêu chuẩn thấp hơn người da trắng v.v...
Thế nhưng sau khi ở Mỹ một thời gian nhiều người vẫn cảm thấy bị kỳ thị. Có người than phiền ông hàng xóm Mỹ trắng hay làm khó dễ, hay gọi cảnh sát than phiền chuyện nầy chuyện nọ gây rắc rối. Hoặc ở hãng hay bị supervisor đì, cho làm việc nặng nhọc, cho nghỉ việc cách vô lý, thiên vị người da trắng v.v...
Có một số vấn đề gây cho người Việt cảm giác bị kỳ thị. Khi người Việt mới đến sống ở nước Mỹ vẫn chưa quen tập tục mới như vẫn mặc bộ đồ ngủ (pajama) đi ngoài đường trong khu xóm, ăn to nói lớn, nhậu nhẹt tưng bừng ồn ào vào buổi tối, làm cho hàng xóm khó chịu. Tuy nhiên khi sống chung đụng lối xóm, có những người hàng xóm lúc nào cũng khó chịu với tất cả mọi người bất kể màu da, làm cho chúng ta có cảm giác bị kỳ thị. Những cảm giác bị kỳ thị vơi dần khi chúng ta làm quen được với lối sống và hòa nhập được vào chính mạch của cộng đồng Hoa Kỳ.
Cảm giác kỳ thị đó khi so sánh với cuộc chiến đấu chống kỳ thị thật sự của người Việt tỵ nạn khi mới đến Mỹ, thì chúng ta sẽ thấy một số cảm giác bị kỳ thị là do sự mâu thuẫn cá tính giữa người với người nhiều hơn là kỳ thị thật sự vì lý do màu da.
Lịch sử tỵ nạn đã  ghi nhận cuộc đấu tranh chống kỳ thị kinh hoàng nhất của người Việt đánh tôm vùng vịnh Galveston, Texas.

Sau năm 1975, một số người tỵ nạn Việt Nam đã tìm đến vịnh Galveston để làm nghề đánh tôm. Tôm lúc bấy giờ là mặt hàng hải sản có giá trị cao. Những người đánh tôm thành công và trở nên giàu có. Nhiều người Việt, nhất là những người có nghề tôm tại Việt Nam trước đây, kéo nhau về vịnh Galveston để làm ăn khiến cho con số tàu đánh tôm gia tăng nhanh chóng. Những người da trắng làm nghề đánh tôm lâu năm cảm thấy nồi cơm của họ bị đám lưu dân lấy mất và mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh.
Vào tháng 8 năm 1979, ông Nguyễn Văn Sáu, 21 tuổi, hớt hải chạy đến bót cảnh sát ở thành phố Port Arthur thú tội: “Tôi vừa mới giết người.”  Ông Sáu nói với cảnh sát là ông vừa mới giết Billy Joe Aplin, 35 tuổi. Sáu và Billy Joe đều đánh tôm cua ở Seadrift, một thành phố nhỏ ở vịnh Galveston, Texas có dân số khoảng 1,250 người.  Cả hai có những mâu thuẫn gay gắt vì tranh giành vùng đánh tôm, cua.
Billy Joe cao 6ft1, nổi tiếng ưa đánh lộn và gây hấn với người khác, và lúc nào cũng mang súng trong xe. Từ 2 năm trước, người Việt đánh tôm cua ở đây than phiền bị Billy Joe và những người da trắng khác sách nhiễu. Họ bị đe doạ, tấn công, đánh đập, và họ bị trộm bẫy cua thường xuyên. Tàu đánh tôm của họ cũng bị phá hại. Họ biết Billy Joe là đầu sỏ. Họ thưa cảnh sát, nhưng cảnh sát không làm gì để bảo vệ họ.
Trong khi đó, những người da trắng than phiền là vùng đánh tôm cua của họ bị người Việt xâm chiếm. Và người Việt cũng đe dọa Billy Joe và vợ ông ta.
Vào ngày 3 tháng 8 năm 1979, khi Sáu sửa soạn kéo tàu mới mua ra khỏi nước thì Billy Joe xuất hiện.  Billy Joe đạp lên tay của Sáu khi Sáu đang để tay ở chỗ móc trailer. Billy Joe nói với Sáu: “Nếu đám người Việt chúng mầy không đi ra khỏi Seadrift thì tao sẽ cắt cổ mầy.” Sáu, đang ở trần, bỏ chạy và bị Billy Joe rượt theo chém hai nhát dao vào ngực. Sáu và người em là Chinh chạy vào nhà người bạn mượn khẩu súng. Sau đó Sáu và Chinh trở lại bến tàu. Billy Joe vẫn còn đó. Vừa thấy Sáu, Billy Joe nhảy bổ đến tấn công và vật Sáu ngã xuống đất. Sáu rút súng trong quần lảy cò. Một viên đạn bắn trúng vào ngực Billy Joe, Billy Joe chới với kêu lên “No, man”, rồi rơi xuống nước, và một viên khác bắn trúng vào người khi Billy Joe ở dưới nước. Billy Joe chết liền tại chỗ.
Sau khi Billy Joe bị giết, mâu thuẫn giữa người Việt và người da trắng gia tăng. Trong khoảng thời gian ngắn sau đó, 4 tàu đánh tôm của người Việt bị đốt cháy. Một căn nhà của người Việt bị đánh bom.
Daniel Aplin, em trai của Billy Joe, tuyên bố “Seadrift đang biến thành nồi thuốc súng.”
Thành phố Seadrift phải ban hành lệnh giới nghiêm từ 9:00 giờ tối. Vì cảnh sát không giải quyết những khiếu nại của người Việt nên người Việt cho rằng khi mâu thuẫn với người da trắng bộc phát, người Việt sẽ bị tàn sát. Hàng trăm người Việt sinh sống tại Seadrift bỏ chạy qua Houston hay Louisiana. Thiếu nhân viên làm việc, hãng đóng cua hộp ở Seadrift phải đóng cửa.  

Tuần sau đó, 3 người Mỹ trắng bị bắt ở một motel thuộc thành phố Seadrift vì mang thuốc nổ dùng để đánh bom nhà người Việt. Người mật báo cho cảnh sát để bắt khủng bố là B.T. Aplin, em của Billy Joe. Sự thể em trai Billy Joe làm việc với cảnh sát để bảo vệ người Việt làm cho tình hình lắng dịu và người Việt dần dần trở lại Seadrift.
Tuy nhiên người Việt vẫn tiếp tục bị kỳ thị. Các bến tàu ở Seadrift không cho người Việt đậu bến. Các nhà buôn sỉ không mua tôm của người Việt. Những nhà buôn sỉ mà mua tôm của người Việt bị những người da trắng khác tẩy chay.
Chính quyền liên bang và giáo hội Công Giáo phải nhảy vào can thiệp.
Trước đấy, tại Louisiana người Việt đánh tôm cũng bị kỳ thị. Nhờ công đức của Tổng giám mục Philip Harman, hàng ngàn người Việt được yên ổn làm ăn. Đức Tổng giám mục phạt vạ tuyệt thông một người đầu sỏ kỳ thị tại Louisiana không cho người Việt đậu bến. Tinh thần trợ giúp của Đức Tổng giám mục Harman làm cho người da trắng phải chấp nhận người Việt. Và hoà bình đã vãn hồi để người Việt được định cư và làm ăn.
Khi đại diện bộ tư pháp Hoa Kỳ đến Seadrift thì biết là mâu thuẫn giữa người Việt và người da trắng là do thiếu người phiên dịch để tạo sự hiểu biết nhau. Giáo hội Công Giáo liền cung cấp một người thông dịch viên. Tòa giám mục sau đó cử một linh mục và một phụ tá đến Seadrift để hòa giải giữa người Việt và người da trắng. Tình hình tưởng như đã lắng dịu.  Nhưng không...
Ngày 2 tháng 11 năm 1979, Nguyễn Văn Sáu được toà án tha bổng về tội giết người vì toà cho rằng hành vi giết người của ông là sự tự vệ chính đáng. Nguyễn Văn Chinh, em ông Sáu, cũng được tha bổng về tội tòng phạm. Cả hai sau đó rời khỏi Seadrift.
Sáu và Chinh đã ra đi. Nhưng kết thúc phiên toà xử Nguyễn Văn Sáu gây nên làn sóng bất mãn nơi người da trắng. Cuối tháng 11 năm 1979, tổ chức kỳ thị nổi tiếng của Mỹ là KKK nhảy vào vòng chiến và bắt đầu một cuộc chiến kỳ thị chủng tộc đầu tiên giữa người Việt tỵ nạn và tổ chức KKK.(còn tiếp)



Đối Phó với KKK
1.

KKK là viết tắt chữ Ku Klux Klan, là một tổ chức kỳ thị chủng tộc cực hữu bí mật của người Mỹ gốc da trắng được thành lập trong thời Chiến Tranh Nam Bắc (1860-1865). Theo giải thích của tự điển mạng, chữ Ku Klux trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là vòng tròn, và chữ Klan có nghĩa là bộ tộc, ý nghĩa thông thường KKK có nghĩa là một tổ chức huynh đệ của người da trắng.

KKK chủ trương chủng tộc da trắng ưu việt và coi người da màu là thấp hèn. Khi Tổng Thống Lincoln tuyên bố giải phóng nô lệ sau cuộc chiến Nam Bắc, những người chủ trương nô lệ miền Nam Hoa Kỳ đã thành lập tổ chức KKK để bảo vệ dòng máu ưu việt của người da trắng. KKK chủ trương dùng bạo lực để hạn chế sự tiến thân của người da màu trong xã hội. Họ cho rằng Hoa Kỳ là một đất nước được Chúa Trời ban cho người da trắng và họ có nhiệm vụ bảo vệ đất nước nầy trước những làn sóng di cư của người Châu Phi và Châu Á.

Trong thời kỳ đấu tranh dân quyền của mục sư Martin Luther King ở thập niên 1960s, KKK đã tổ chức những lễ đốt thánh giá như là một dấu hiệu của sự tuyên chiến, và đánh bom vào nhà của các lãnh tụ dân quyền da đen. Một số lãnh tụ da đen, kể cả MS King, đã bị ám sát trong thời kỳ nầy. Hầu như những vụ ám sát nầy đều có bàn tay của KKK đứng đàng sau.

Từ năm 1871, KKK đã được chính quyền liên bang liệt danh sách các tổ chức khủng bố. Tuy nhiên họ vẫn tồn tại tại các tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ.  Sự phát triển của KKK cũng rất thăng trầm. Đầu Thế kỷ thứ 20 KKK có khoảng 6 triệu hội viên. Nhưng đến ngày hôm nay con số hội viên xuống còn khoảng 6000 trên toàn nưóc Mỹ.

Cách tổ chức của KKK là một hội kín như Thiên Địa Hội trong tiểu thuyết Kim Dung.  Người đứng đầu là một Hội Chủ (Grand Dragon - Đại Long) và họ có những thuộc hạ tay chân đặc trách từng vùng, từng miền tương tự như những hương chủ hay đàn chủ của Thiên Địa Hội.

2.

Ngày 2 tháng 11 năm 1979, Nguyễn Văn Sáu và Nguyễn Văn Chính được toà tha bổng vì lý do giết người để tự vệ chính đáng. Sau đó cả Sáu và Chính đều dọn ra khỏi Seadrift.

Cuối tháng 11 năm 1979, tổ chức KKK nạp đơn với thành phố xin phép cho 600 người biểu tình chống người Việt tỵ nạn tại thành phố nhỏ bé nầy. Con số 600 hội viên KKK dự định tham gia biểu tình bằng 1/2 dân số của thành phố Seadrift. Hội đồng thành phố họp và ý kiến phản đối KKK được thành phố hoan nghinh. Kết quả là thành phố đã bác đơn xin biểu tình của KKK.

Sau đó, cha của Billy Joe Aplin, người bị Nguyễn Văn Chính bắn chết, tuyên bố là ông ta không mời KKK đến Seadrift. Tuy nhiên ông nói... "Tôi sẽ rất hãnh diện nếu họ vì chúng tôi mà đến để chận đứng làn sóng người Á Châu đến thành phố nầy."

Những người da màu tại Seadrift, gồm người Việt và người Mễ, nghe sự xuất hiện của KKK  bắt đầu cảm thấy tình hình sẽ trở nên nghiêm trọng hơn và bắt đầu di cư ra khỏi Seadrift.

Sau khi bị từ chối cuộc biểu tình tại Seadrift, KKK bắt đầu kế hoạch xâm nhập vùng biển Galveston. Sau 18 tháng KKK đã thiết lập được đường dây hoạt động tại đây.  Tháng 2 năm 1981, nhân ngày lễ Valentine, KKK đã tổ chức buổi meeting tại thành phố Santa Fe, là một thành phố toàn người da trắng ở vùng Galveston với hơn 150 hội viên gồm đàn ông, đàn bà và trẻ em mặc đồng phục KKK với áo choàng trắng đội mũ vải có chóp. Thủ lĩnh KKK tại Texas, ông Louis Beam tuyên bố: "Thời điểm đã đến để chúng ta giành lại đất nước nầy cho người da trắng".  Ông nói tiếp: "Nếu chúng ta muốn, chúng ta sẽ giành lại đất nước nầy bằng phương cách các tổ phụ chúng ta đã làm: đó là máu máu và máu".

Beam tuyên bố là sẽ cho chính phủ Hoa Kỳ 90 ngày để cưỡng chế người Việt không được đánh tôm ở vùng Vịnh Galveston. Nếu không KKK và những người đánh tôm da trắng sẽ tự thi hành việc cưỡng chế nầy.  Beam nói tiếp là sẽ cho thành lập lực lượng dân quân được huấn luyện chiến đấu tại trại huấn luyện dân quân của KKK. Sau đó, Beam tự tay đốt một tàu đánh cá điển hình mà ông đặt tên là "USS Vietcong" và nói "đây là cách đốt tàu đánh cá đúng nhất".  

Những tuần lễ tiếp theo KKK bắt đầu rải truyền đơn kêu gọi chống người Việt đánh tôm ở vùng vịnh Galveston và bắt đầu giai đoạn khủng bố. Hiện tượng đốt thánh giá như là dấu hiệu khai chiến của KKK tại nhà người Việt trong khu vực xuất hiện khắp nơi. Hai tàu đánh cá của người Việt bị đốt tại thành phố Seabrook. Ngày 15 tháng 3 lực lượng dân quân KKK diễn hành trên tàu đánh cá với hình nộm người Việt bị treo cổ để cho mọi người được thấy. 

"They Cannot Mess With Vietnamese..."

Khẩu hiệu của tiểu bang Texas là "Don't Mess with Texas" như một lời khuyến cáo khách du lịch đừng lộn xộn với tiểu bang Texas vì hậu quả không lường được. Qua kinh nghiệm của người Việt đấu tranh chống KKK tại vùng Vịnh Galveston thì người Mỹ cũng có câu nói tương tự để nhắn với tổ chức KKK... Đừng lộn xộn với người Việt Nam.

Trong thời gian KKK bắt đầu gây sự và gây chiến thì cộng đồng người Việt cũng không ngồi yên. Khi một người đàn bà làm việc cho nhà hàng Mỹ nghe hội viên KKK bàn kế hoạch đánh bom tàu đánh cá của người Việt thì bà đã báo cho chồng, và chồng báo cho cộng đồng người Việt. Họ bắt đầu tổ chức vũ trang chống lại sự uy hiếp của KKK và cộng đồng đánh tôm người da trắng. Khi KKK bao vây một trailer park của người Việt thì người Việt đã chống trả quyết liệt. 
 
alt
 
Amy Madigan, Ho Nguyen, Ed Harris trong Alamo Bay 1985 - nguồn cineplex-com
 

Một thành viên của KKK từng tham chiến ở Việt Nam nói với lãnh đạo KKK rằng "Đừng lộn xộn với người Việt vì họ sẽ bắn và giết quý vị". Và do đó, KKK bắt đầu rút lui.

Theo một giáo sư tại Texas nghiên cứu tình hình lúc bấy giờ, một người đánh tôm da trắng tham gia vụ đốt tàu của người Việt đã bị người Việt đó đến nhà đòi quyết tử với ông ta. Người đánh tôm da trắng đó cuối cùng phải dọn đi nơi khác vì sợ hãi.

Ông Khang Bùi, một cư dân tại vùng vịnh Galveston, nói với phóng viên báo chí rằng KKK đã không hiểu được người Việt là những người đã sống trong chiến tranh, họ biết dùng súng đạn để đối phó và bắn trả lại KKK. Ông ta nói tiếp... sau khi KKK nhận thức được việc dùng bạo lực để khủng bố tinh thần người Việt là vô ích, họ đã âm thầm ra đi và không còn người da trắng nào lộn xộn với người Việt. 

Cuộc Chiến Pháp Lý

Tháng 4 năm 1981 Hội Ngư Phủ Người Việt cùng với Southern Poverty Law Center tại Montgomery Alabama nạp đơn kiện KKK vì cạnh tranh thương mãi không công bằng. Tháng 5 năm 1981 bà Gabrielle Kirk McDonald, vị quan tòa liên bang đầu tiên của người da đen quyết định thuận lợi cho người Việt Nam và ra lệnh cấm chỉ hoạt động của KKK tại vùng vịnh; và đóng cửa trung tâm huấn luyện dân quân và các tổ chức võ trang của họ.

Được đánh tôm với sự bảo vệ của chính quyền liên bang, người Việt dần dần ổn định và thành công. Từ những căn nhà trong khu trailer chật hẹp tối tăm, ngày nay người Việt dọn vào những biệt thự nguy nga đồ sộ. Người Việt làm chủ hầu hết các bến tàu tại Galveston; và tại Port Arthur, Texas ngày nay 95% ngư dân đánh tôm là người Việt.

Kinh nghiệm cuộc chiến chống kỳ thị tại vùng vịnh Galveston, Texas đã được làm thành phim Alamo Bay.
 
 
alt
 
Cảnh trong phim Alamo Bay 

Source http://baotreonline.com/Luat-phap/Luat-phap-doi-thuong/ky-thi-kinh-nghiem-cua-nguoi-viet-ty-nan-i.html

Thứ Hai, 30 tháng 12, 2013

ĐÔNG VÀ TÂY CÓ NÊN GẶP NHAU?


Người lính già Oregon


 
 
      1. Trong bài thơ “The Ballad of East and West”, vào khoảng năm 1892, văn hào Anh Rudyard Kipling (1865-1936) có viết: “Ôi, Đông là Đông, và Tây là Tây, và không bao giờ cả hai gặp nhau” (Oh, East is East, and West is West, and never the twain shall meet). Hơn một thế kỷ trôi qua, câu thơ mang niềm thất vọng cay đắng ấy của một người đã yêu Đông Phương như quê hương mình nay trở thành lời tiên tri. Và hơn bao giờ hết, nó chứa đựng một chân lý gần như tuyệt đối tại Mỹ quốc này, nơi có hàng trăm chủng tộc khác nhau đổ về từ bốn hướng địa cầu để tạo thành một  melting pot  ngoạn mục, đầy màu sắc và đủ mùi vị.  Nhưng trên thực tế không bao giờ hòa tan, tự nó,  per se, làm sao được? Trong số đó, dĩ nhiên, có hơn một triệu dân Việt chúng ta.
 
      Ở một nghĩa nào, Đông và Tây khác biệt cũng là điều hay. Không ai đòi hỏi chúng ta quên cội nguồn, quẳng đi mọi tập tục, bởi văn hóa là kho tàng để lại của cha ông đã chắt chiu gầy dựng từ hàng thế kỷ, và là niềm hãnh diện chung của dân tộc. Một số thiếu niên Việt Nam lớn lên hoặc sinh ra tại Mỹ, tiếc thay, đã quên hay không biết điều này, vì thế trở thành “không giống ai”, Mỹ không ra Mỹ, Việt không ra Việt, bị Đông lẫn Tây chối bỏ. Chẳng hạn, coi thường bố mẹ, ông bà. Thấy khách vào nhà, không chào hỏi, cứ trơ mắt ếch ra ngó. Bị bố mẹ nhắc, các em chỉ “hi” một phát, rồi biến, không thêm lời nào. Không hiểu lễ phép, gọi dạ bảo vâng là gì. Cha mẹ la mắng hoặc tát tai một cái là gọi cảnh sát hay 911, hay mách cô giáo, có đứa, tử tế hơn, hỏi vặn, bằng tiếng Mỹ, dĩ nhiên: “Mẹ đánh con như vậy có legal không?”. Mong sớm được mười tám tuổi để thoát ly gia đình. Chưa kể việc xăm mình, con trai xỏ lỗ tai, lỗ mũi, tóc chỉa, nhuộm đủ màu, con gái mặc quần jeans rách lỗ chỗ, hở rốn, hở đùi, nhún nha nhún nhẩy. Vân vân... Ai than phiền thì cha mẹ thở dài, chặc lưỡi: “Ôi thôi, chúng nó sanh tại Mỹ mà!” Dĩ nhiên, không phải em nào sanh tại Mỹ cũng như vậy. Xã hội và môi trường chỉ có tác dụng nhỏ. Khác nhau là ở sự giáo dục trong gia đình từ tấm bé.

 
      Các em nói tiếng Anh như gió, sinh hoạt và suy nghĩ y hệt Mỹ con, học giỏi hơn người, và trên giấy tờ là công dân Mỹ thật đấy, nhưng vẫn không được dân Mỹ gọi là Mỹ, có chăng chỉ là Vietnamese-Americans, nghĩa là không được chấp nhận vào trong xã hội “chính thống”, đóng kín của họ. Bị nhận, bị gọi hoặc hoan hỉ tự nhận, tự gọi mình là Vietnamese-Americans không khác chi bị, hoặc tự, hạ giá trị mình, ở mức độ nào.
 
      Vì sao? Vì, theo thiển ý, yếu tố chính, nếu không nói duy nhất, của kỳ thị, ít ra tại Mỹ, là màu da, chứ không phải tiếng nói, tập quán, hay chủng tộc. Dân da trắng, mắt xanh, tóc vàng đến từ bên kia Đại tây dương, kể cả Đông Âu và Kosovo, nói tiếng Anh đầy accent, có mấy ai bị kỳ thị? Lấy ví dụ Henry Kissinger mà tiện nhân xem như một tên đồng minh phản phúc của Miến Nam Việt Nam: gốc Do Thái, sinh tại Đức, nói tiếng Anh nặng trịch, khó nghe, vậy mà vẫn được phong chức Bộ trưởng ngoại giao! Người da đen con cháu nô lệ từ thời lập quốc, và người Tàu ở các chinatowns, San Francisco hoặc Seattle, mà tổ tiên là phu đường rầy xe lửa xuyên bang cách đây gần hai thế kỷ, biết rõ điều này, hơn ai hết, và chắc chắn đồng ý với tiện nhân. Chưa nghe ai gọi người Nga hay người Pháp nhập tịch là Russian-Americans hay French-Americans, mà là Caucasians  – tên dùng để gọi (một cách sai lạc) tất cả người da trắng đến từ Âu Châu. Trái lại, dân da đen và da vàng bị ưu ái đặt tên là African-Americans hay Asian-Americans. Sau vụ khủng bố 11/9, những ông Á rập, đến từ Trung Đông, râu ria xồm xoàm, da nâu sậm hay tai tái, trở thành mục tiêu nghi ngờ, dù họ nói bất kỳ thứ tiếng gì.
  
 

      Người Mỹ tôn trọng truyền thống, văn hóa của di dân, vì luật định và do tình cảm, tính hiếu kỳ, hoặc nhu cầu nghề nghiệp, làm ăn, sợ vi phạm luật chống kỳ thị. Quả vậy, chưa hề có bài báo Mỹ nào dám công khai chỉ trích, khinh chê tập tục của chúng ta, ngoại trừ việc ăn thịt chó (California có đạo luật bỏ tù kẻ vi phạm). Tuy nhiên, bảo tồn truyền thống, văn hóa không có nghĩa là chúng ta ôm khư khư cái dở, cái cổ hủ, thách đố tiến trình đào thải của văn minh thế giới. Câu ca dao “Ta về ta tắm ao ta / Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn” chỉ có giá trị tương đối, và trên bình diện khách quan, có thể hiểu như một tâm trạng thất bại, chịu đựng, hoặc cố chấp. Tắm ao trong thì quá tốt, nhưng tắm ao đục thì quả là mất vệ sinh, có khi bị bệnh ghẻ như chơi!

 
      2. Những ví dụ về “ao đục” khá nhiều. Chẳng hạn thói chửi mắng, đánh đập con cái, quan niệm chồng chúa vợ tôi, trọng nam khinh nữ, mặc dù giảm đi nhiều tại hải ngoại, nhưng vẫn còn. Hoặc bệnh đố kỵ, chia rẽ, cá nhân chủ nghĩa, nói xấu đồng hương -được xem như bất trị nơi có đông dân mình và được xác nhận bởi người ngoại quốc. Hoặc tật nói chuyện oang oang (bằng tiếng Việt) trong sở Mỹ, trường học, trên xe buýt, gọi nhau ơi ới, chửi con, cũng bằng tiếng Việt, tại các siêu thị, hàng quán. Hoặc thiếu kiên nhẫn, không chịu xếp hàng chờ đến lượt mình. Hoặc xả rác, khạc nhổ, hỉ mũi bừa bãi nơi công cộng -–những điều ta đã quá quen mắt nơi quê nhà. Sang đây, sống nhờ ở xứ người, chúng ta cần uyển chuyển thích nghi với tập tục, nếu không nói phép xã giao thường thức, và văn hóa của dân bản xứ mới hy vọng thành công, được kính trọng, và sự cảm thông giữa những dân tộc mới có cơ may trở thành tốt đẹp. 

      Ấy là chưa nói đến rắc rối với pháp luật. Đánh con (và đánh vợ, đánh chồng) có thể vào tù như chơi, kể cả đối với người da trắng. Vụ một người mẹ Mỹ quận Washington (Oregon) cách đây khá lâu, bị đưa ra tòa chỉ vì đánh vào mông con mấy cái bằng dây nịt là một bằng chứng –-một tội khá lạ lùng đối với người Việt dù đã Mỹ hóa cách mấy. Nhớ năm nào, lưỡng viện Anh biểu quyết đạo luật cho phép cha mẹ đét vào mông con cái để dạy dỗ, nhưng còn thòng một điều kiện là phải nhẹ nhàng thôi. Nựng con nít bằng cách sờ vào chỗ kín, như thói quen ở Việt Nam, sẽ bị kết tội xâm phạm tiết hạnh (sexual abuse), và một di dân Việt tại Portland lúc mới sang đã bị thưa vì hành động này và được tha sau khi Tòa nghe các giới chức người Việt giải thích về tập tục. Nhìn chăm chăm một em bé, hay bắt chuyện với em tại một siêu thị, chẳng hạn, hãy coi chừng, có thể bị người mẹ Mỹ nghi là “mẹ mìn”, nhất là nếu mình là da đen, da đỏ, da vàng, da nâu, da tái. Được bảo vệ kỹ như vậy, thảo nào trẻ con Mỹ vô tình biến thành mục tiêu đáng sợ, cần phải kính nhi viễn chi, và hậu quả là chúng cảm thấy cô đơn, thiếu tình thân mật của người lớn –điều mà một số nhà tâm lý Mỹ bắt đầu than phiền. Còn nữa, đã xảy ra lâu rồi chuyện một học sinh Việt đến trường Mỹ với lưng bầm dấu cạo gió. Đại diện cộng đồng Việt Nam phải sùi bọt mép giải thích, nhà trường mới chịu thông cảm, không mời cha mẹ ra hầu tòa. Điều mỉa mai thú vị là bây giờ phương pháp cạo gió được nằm vào mục trị liệu Đông y dưới danh từ chưa có trong tự điển, coining (lấy từ chữ coin là đồng xu, coining là thuật cạo gió bằng đồng xu).  

 
 
      Phụ nữ, ưu tiên số hai trong đẳng cấp xã hội Mỹ, sau con nít, cũng gây phiền lụy không kém cho giới mày râu. Ông chủ ngay tình khen một cô nhân viên trẻ đẹp rằng cô có sóng mắt khuynh thành khuynh quốc, hay trông hiền như ma sơ, chẳng hạn, hoặc trong thang máy lỡ giẫm lên chân một bà sồn sồn, đến tuổi hồi xuân, có thể bị thưa về tội “tống tình”, “xách nhiễu tình dục” (sexual harassment / harcèlement sexuel). Tuần báo Pháp Paris Match mấy năm trước có đăng một bài phóng sự về các vụ kiện thưa thuộc loại ruồi bu lẩm cẩm, lãng nhách này, chỉ thấy tại Mỹ –nước mà ai cũng có thể kiện ai, chỉ để vỗ béo các luật sư đông hơn kiến cỏ: nuôi gà để cho nó gáy lúc 4 giờ sáng cũng bị hàng xóm kiện, thành phố cho thắp đèn đường gây trở ngại việc ngắm ánh trăng rằm từ cửa sổ phòng ngủ cũng bị chủ nhà kiện, quái đản thật! Ông tổng thống Clinton suýt bay chức vì cái tội thích được thổi (har)monica. Còn nhớ năm 1987, chuẩn ứng cử viên tổng thống đảng Dân Chủ đẹp trai có nhiều triển vọng Gary Hart, chỉ mới ôm sơ sơ và cho người đẹp Donna Rice Hughes ngồi trên đùi một chút xíu thôi mà cũng bị lôi ra tố khổ, phải bỏ cuộc đua.
 
      Trái lại, ở Pháp, xứ tự do luyến ái thả giàn: Tổng thống Mitterrand lén nuôi đứa con rơi mấy năm liền tại điện Élysée, bị phát giác, mà dân Pháp chẳng ai buồn thắc mắc; Chirac lúc còn là thị trưởng Paris, nghe đồn, có một call girl là một ca sĩ, mà có “chết thằng tây” nào; đời tư của Sarkozy không thơm tho hơn, cũng vợ nọ vợ kia, mà có sao đâu; đương kim tổng thống François Hollande ngang nhiên chung sống liên tiếp với hai bà vợ không bao giờ cưới, mà chẳng ông Tây bà Đầm nào đặt vấn đề. So what? Et alors?. Các cô đầm, ít ra là những người tiện nhân quen biết, nói rằng các cô lấy làm thích thú hoặc hãnh diện được xách nhiễu theo kiểu đó vì cho rằng mình phải đẹp người ta mới chú ý, để xách nhiễu, xấu thì ma nào nó thèm quấy rầy.
 
      Mười mấy năm trước, tại Oregon, theo tờ The Oregonian, có hai chị em nhà Mỹ kia trên 60 cái xuân xanh, một hôm buồn tình, lợi dụng cao trào tố các linh mục “loạng quạng”, vác đơn kiện Tòa Tổng giám mục Portland đòi bồi thường hàng triệu đô la, với lý do bị ông linh mục chánh xứ Mỹ cưỡng bức lúc còn vị thành niên, tức là gần 50 năm, mặc dù không có bằng cớ và ông này đã về chầu Chúa từ lâu rồi. Âu đó cũng là một đặc điểm của Mỹ quốc, nơi phong trào phụ nữ đòi quyền bình đẳng dâng cao, dữ dằn như sóng thần. Dù đã hội nhập đầy đủ, dù văn minh, chữ nghĩa đầy mình, đàn ông An Nam, vì thế, khi khen ngợi hay ôm hôn (hug) một phụ nữ Mỹ, cũng nên thận trọng về miệng lưỡi cũng như bàn tay năm ngón. Tốt hơn, không khen, không ôm. Cẩn tắc lúc nào chả vô áy náy, cổ nhân đã dạy như vậy ắt chẳng sai.


      Giai tầng thứ ba trong xã hội Mỹ là ... súc vật, trên cả đàn ông. Có hàng chục luật lệ cho việc nuôi chó, mèo. Ngược đãi hoặc hành hạ chúng là vào tù. Chó cắn chết người phải có án tòa mới được đem đi bắn bỏ, nghĩa là không được tự tiện “xử lý” (danh từ VC) tại chỗ. Đi xa bỏ mèo đói ở nhà, chủ nhân bị còng tay  –những điều mà dân ta khi còn ở Việt Nam và dân Á Châu không tưởng tượng nổi. Ăn thịt chó thì Mỹ và Âu Tây cho là mọi rợ, vì theo họ chó là giống vật trung thành, nhưng họ giết ngựa ăn thịt thì “no problem”, dù ngựa cũng trung thành không kém chó. Mỗi năm, tại Portland, các đoàn viên phong trào bảo vệ súc vật biểu tình phản đối trước các tiệm bán áo choàng lông thú và McDonald’s vì bán hamburger kẹp thịt bò. Cô đào “chuổng cời” Brigitte Bardot, nay về già (lúc còn trẻ có hàng tá nhân tình) làm lãnh tụ phong trào này tại Pháp, tuyên bố thích súc vật hơn người (đàn ông, dĩ nhiên).
 
      3. Đông và Tây không gặp nhau trong nhiều chuyện dài khác nữa. Tỷ như việc hai người cùng phái đi ngoài đường. Tại quê ta, sẽ không sao cả nếu hai anh đực rựa, mặc dù không phải gay, nắm tay nhau đi dung dăng dung dẻ dạo phố, hoặc hai cô nàng chỉ là bạn thân, vai kề vai thủ thỉ bên nhau trước công chúng. Ở Mỹ, người ta kỵ, sợ bị nghi là gay hay lesbian. Điều lạ là dù đồng tính luyến ái được pháp luật cho phép và bảo vệ, và mới đây được phép cưới nhau tại vài nơi, và hôn nhân đồng tính được Obama công khai ủng hộ, ai cũng ngại bị liệt vào thành phần đó.
 
      Còn về ngôn ngữ không lời (nonverbal language), tức ra dấu bằng tay, Đông và Tây hoàn toàn trái ngược. Một ví dụ: để kêu, gọi ai, người Mỹ và Pháp đưa ngón trỏ hay bàn tay lên, úp vào trong, như vẫy chó, người Việt ta đừng lấy đó làm buồn. Ngược lại, cũng trong hành động này, nếu ta úp bàn tay xuống, người Mỹ tưởng ta ra dấu “bye bye” và sẽ chào lại y hệt. Giơ ngón tay giữa (trên bàn tay năm ngón của anh nằm vùng Trịnh Công Sơn) lên đối với người Việt mình chả có nghĩa gì, nhưng đối với người Mỹ là chửi thề đấy, có thể gây đổ máu như chơi. Bàn chân đối với ta hạ cấp, dơ bẩn, nhưng đối với Mỹ, có óc thực tế hơn, đó chỉ là một bộ phận như mọi bộ phận khác trong cơ thể. Cho nên việc sinh viên đại học gác chân lên bàn để được thoải mái trong lúc thầy giảng bài là thường, không có gì vô lễ. Tiện nhân không bao giờ nói gì, mà chỉ ngó một cách chăm chú vào đôi chân ấy là tự động họ thấy nhột, bỏ xuống.

 
      Khi nói chuyện, người Mỹ nhìn thẳng vào mắt người đối diện để chứng tỏ mình ngay thẳng, chú tâm, người Việt (và Á Châu) thì nhìn nơi khác để biểu lộ kính trọng, đặc biệt đối với bậc cao niên. Người Mỹ trả lời thẳng (yes hay no, cùng lắm là I don’t think so để từ chối), người Việt vòng vo tam quốc, cả nể, sợ làm mất lòng, nhất là khi phải nói no. Người Mỹ kỵ hỏi về đời tư, hay cá nhân, còn người Việt mình, dù thân hay sơ, có thói quen hỏi, và muốn biết cho bằng được (dù các đối tượng “nạn nhân”, trong số có tiện nhân, né tránh, lảng qua chuyện khác) về (theo thứ tự) tuổi tác, tình trạng gia đình (độc thân, ly dị), bệnh tật, lương bổng, một cách tỉnh khô, có khi hỏi cả sốpounds của một bà Mỹ mập, mới giết người ta chứ! Và sau đây xin ghi lại một chuyện thật để chứng minh:
 
      “Gần nhà tôi có một tiệm bún bò Huế mới mở, ế khách. Nội tướng của tôi muốn mua  một tô đem về ăn thử. Chủ tiệm là một bà tuổi sồn sồn, đon đả mời tôi vào. Trong khi chờ nhà bếp bưng ra, bà hỏi tôi đủ chuyện làm quà, tuổi tác, vợ con, cháu nội, cháu ngoại, qua Mỹ lâu chưa, diện gì, công ăn việc làm... một cách thân tình như đã quen nhau từ tiền kiếp. Tôi chỉ trả lời ậm ừ cho qua, đợi giờ thoát hiểm. Bỗng nhiên, bà nhìn chăm chăm vào mặt tôi, rồi phán:

      - Ông chắc là Hát Ô mới qua. Cỡ như ông, bây giờ ở không, cũng nên vô mấy chợ VN xin lau dọn, lặt rau, ngày kiếm vài chục cũng đỡ cái thân già.      

      Cũng may, vừa lúc ấy hộp bún bò đem ra. Tôi vội vàng chuồn lẹ, như bị ma đuổi, sợ bà chủ tiệm túm lại, tìm giúp thêm cho việc làm. Về nhà, vào phòng tắm soi gương, và tự hỏi: "Làm thế nào để có thể thành ông Hát Ô già?", bắt chước nhà văn Pháp Montesquieu, thế kỷ XVIII, đã viết: "Comment peut-on être Persan?" (Làm thế nào để có thể thành người Ba Tư?)”
 (“Chuyện thật như đùa”, NLGO, đã phổ biến).

      Đối với dân Mỹ, đến đúng hẹn và đúng giờ rất quan trọng và được coi như thước đo mức độ xã giao, lịch sự và tự trọng, còn người mình có tật tà tà (trừ khi đến sở làm, sợ bị đuổi), coi thường cái hẹn (kể cả với bác sĩ), và thời giờ là cao su (chứ không phải vàng bạc). Đặc biệt, dự tiệc cưới. Không biết cái tệ trạng này phát sinh từ bao giờ, nhưng nay trở thành nét “văn hoá” của người Việt lưu vong, bất cứ nơi nào. Tiệc cưới ghi rõ mời 5 giờ, mà 7 giờ vẫn có nhiều kẻ đủng đa đủng đỉnh tới, nói cười tự nhiên như người... Hà Nội, và mãi đến 8 giờ, sau khi phải nghe anh chàng chuyên hành nghề MC đám cưới, -thường pha trò rất vô duyên,- thông qua một lô thủ tục giới thiệu và xin quý vị cho một tràng pháo tay thật lớn đến cô dâu chú rể, khách mới được phép húp muỗng xúp đầu tiên, đã nguội tanh. Chỉ tội nghiệp cho thực khách Mỹ, luôn luôn đúng giờ, ngồi chờ dài cả cổ! Một số người Việt cũng muốn đúng giờ lắm, nhưng nghĩ rằng ai cũng trễ, tội gì ta đến sớm, không khéo mang tiếng tham ăn tham uống.
     
      4Rồi không biết từ đâu đồng hương ta đặt ra cái tục lệ bắt khách vào nhà, dù là nhà thuê hoặc không sang trọng, sạch sẽ gì cho cam, phải cởi bỏ giày ngoài cửa –điều mà nhà văn Huy Phương cũng đã phê bình gay gắt trong một bài phiếm luận được phổ biến trên Mạng (xin xem vài đoạn ở dưới). Tiện nhân không dám có ý kiến khen hay chê, vì đây là một đề tài nhậy cảm, gần như tabou. Người ta viện dẫn ra nhiều lý do để biện minh cho tập tục này. Tiện nhân không dám viết mạnh tay như Huy Phương, bởi vì trong đám bạn Việt Nam tại Portland chỉ có một người duy nhất được minh chứng cụ thể là không theo phép tắc này và vì nghĩ mình là thiểu số nên rất sợ.

Văn hoá 'cởi giày'
“Từ ngày sang Mỹ tôi không bao giờ sắm những đôi giày có dây. Thật là phiền phức khi vào nhà người khác phải đứng lom khom, chân co chân duỗi để tháo chiếc giày ra, trước khi bước vào nhà, cho vừa lòng gia chủ. Với đôi giày không dây, chỉ cần tuột ra hay xỏ vào nhanh chóng rất tiện lợi. Có hôm chưa kịp cởi giày, đang bận bắt tay bắt chân thì bà chủ nhà đã thẳng thừng gọi ông chồng: “Anh nhắc mấy ông bạn cởi giày ra!”
 
[…] Cái gì quen làm đã thành nếp thì người ta gọi đó là văn hoá, một thứ văn hoá đặc biệt Việt Nam, mặc dầu không thấy sách vở nào ở hải ngoại của các nhà biên khảo văn hoá ghi rằng vào nhà người Việt Nam thì phải cởi giày, đi chân không.
 
[…] Không thể đem cái thói quen cởi giày ở Sài Gòn ra áp dụng cho hải ngoại. Nền nhà lót gạch bông của người Sài Gòn là cái giường ngủ, không thể đem đất cát, bụi bặm trên đường phố dơ bẩn vào nhà. Tôi đã sống ở Sài Gòn hơn 10 năm, nhà chật, căn gác nóng hầm hập thì cái nền nhà lót gạch bông vừa là bàn ăn, vừa là giường ngủ. Khách ở xa về, cũng không khách sáo, trời mát thì trải chiếu ra, nóng nực thì chùi sàn cho sạch, có khi ở trần nằm cho mát lưng. Ai mà nhẫn tâm mang giày đi dép vào cái nền nhà này? Nhưng ở Mỹ lại khác, ăn có nơi, ngủ có chỗ, không phòng riêng thì cũng nằm tạm trên cái xô-pha, còn nền nhà là chỗ đi lại, vì sao lại phải trân trọng nó như thế?
 
[…] Cũng ở hải ngoại này, khách có mời mới có cơ hội đến, khách muốn đến cũng phải xin phép trước chủ nhà, cũng không ai nhàn rỗi lê la từ nhà này sang nhà khác mà chuyện trò, đấu láo. Một gia đình trung lưu, mỗi năm may ra cũng chỉ có khoảng chục khách quen tới nhà, nên bộ salon ở phòng khách mọi nhà chỉ để cho người trong nhà chứ ít khi dùng để tiếp khách. Nếu có người hàng xóm hỏi thăm, ông giao hàng, hay người đi truyền đạo, thì cũng chỉ hé cửa thò đầu ra ngoài nói năng chốc lát, đâu có để ai giẫm lên cái thảm nhà mình. Vậy thì ai là người bước vào cửa nhà mình, nếu đó không phải là con cháu, họ hàng, bạn bè thân quý? Nếu thật sự, người ta không quí gia đình mình, chẳng ai dư thời giờ, rỗi rảnh mà bước vào ai!
 
[…] Với lại “một đời ta, ba đời nó” như ông bà ta đã nói: cái thảm, chiếc xe, ngôi nhà… đôi khi còn trơ trơ ra đó mà tên người đã nằm trên trang cáo phó rồi cũng nên.” (trích bài của Huy Phương)
 
      Tiện nhân xin nói ké theo Huy Phương. Rằng thì là đôi giày cũng được ví với Hy Vọng trên tấm bảng dựng trước cửa Địa Ngục trong tác phẩm Inferno của thi hào Ý Dante Alighieri: “Hỡi các ngươi đang bước vào, hãy bỏ hết bên ngoài mọi hy vọng”. Đa số khách vì phản xạ tự nhiên, mới tới cửa, vội vàng cởi bỏ giày như cái máy, mặc dù tiện nhân thiếu điều năn nỉ, bảo đừng. Có chủ nhà, như trong Inferno, treo bảng nhắc một cách rất ư lịch sự: “Thank you for taking off your shoes” (Cám ơn đã tháo giày) và bê liền một khi đến tận chân khách, từ một đống dép ngổn ngang tại ngưỡng cửa, một đôi vừa chân hay không, không cần biết. Có chủ nhà nhắc khách tỉnh bỏ, hoặc đứng chờ, make sure là khách đã trút bỏ… mọi hy vọng, rồi mới ưu ái mời vào. Có chủ không nhắc, nhưng cứ liếc, hoặc chòng chọc, nhìn vào đôi giày khiến khách thấy chột dạ... Trong một buổi họp mặt đám cưới cách đây khá lâu tại nhà một người bạn Nam Cali, ai nấy, có cả tiện nhân, đều diện complet tươm tất, nhưng chân lại không giày, chụp hình lưu niệm, thấy không giống con giáp nào. Vào bất cứ nhà người Mỹ hay Pháp, tiện nhân không gặp phải cảnh khổ này. Khổ, vì tiện nhân chỉ có một đôi giày coi được, nhưng nó lại có dây dài, và nhiều lỗ, thắt nút, gỡ nút là một kỳ công, và vì tiện nhân đã bị mổ xương sống một lần, khom người xuống là một cực hình.
 
      Sorry, nếu tiện nhân làm buồn lòng ai. Và nếu, sau đoạn trên, tiện nhân không được bạn bè mời đến nhà chơi nữa, thì cũng không có chi lạ, và tiện nhân chấp nhận hậu quả, vì khổ mà không dám nói lại càng khổ hơn.
 
      5. Có hai đặc điểm, không biết hay hay dở, không thấy ở người Á Châu khác, làm điên đầu người Mỹ. Đầu tiên, tiếng “dạ”, mà họ cho là “vô cùng khó hiểu”.  Yes có nghĩa  yes, mà  no cũng có nghĩa yes, như vậy đối với họ ta thiếu thành thật, hoặc không giữ lời hứa. Họ đâu biết rằng, tùy cách diễn đạt và giọng nói, tùy nét mặt và cử chỉ kèm theo, tiếng dạ của người Việt Nam hàm chứa nhiều nghĩa. Không hẳn đồng ý. Có khi không hiểu, nhưng không tiện hỏi lại. Có khi là “không”, nhưng không dám nói thẳng thừng, như trường hợp từ chối một lời mời hay một lời tỏ tình (khi tình yêu chưa chín). Có khi che giấu sự bối rối, lưỡng lự. Chính người Việt Nam với nhau còn hiểu lầm, huống hồ ngoại quốc.

 
         Rồi đến nụ cười. Cũng khó hiểu tương tự tiếng dạ ở trên. Nụ Cười Bí Hiểm, nếu dịch theo từ Enigmatic Smile trong sách vở Mỹ. Dĩ nhiên nụ cười này không dính dáng đến đôi môi hé mở bất hủ của La Joconde, hay cái cười “hì” vô cớ của dân “Annam” ta mà cụ Nguyễn Văn Vĩnh, chủ nhiệm Đông Dương Tạp Chí, đầu thế kỷ qua, đã mô tả trong bài “Gì cũng cười”. Nó được dùng để nói mọi điều không thể (hoặc không muốn) diễn đạt chính thức bằng lời: chào hỏi, xin lỗi, cám ơn, đồng ý, từ chối, mắc cỡ, v.v..., đôi khi tỏ dấu yêu thương nữa.

 
        Chúng ta cần loại bỏ các hủ tục để thích ứng với môi trường đang sống, đó là lẽ đương nhiên. Nhưng trong số tập quán tốt đẹp người mình cần bảo tồn, thiết nghĩ phải có Tiếng Dạ Khó Hiểu và Nụ Cười Bí Hiểm hiền lành, dễ thương, vô tội này. Bởi không dân tộc nào trên thế giới có tiếng dạ và nụ cười như thế đó, và như vậy người Việt mình, đặc biệt các quý nương, có sức hấp dẫn lạ thường đối với ngoại quốc, và đó mới thật là văn hóa, chứ không phải phở gà, chả giò, bún bò Huế, bún chả Hà Nội, mà ai bây giờ cũng làm được, kể cả các anh Tàu đến từ Bắc Kinh, Hồng Kông. Nói thật, nói hết, nói thẳng như Tây Phương sẽ làm mất tiêu ma lực của sự giao tiếp, cảm thông. Cũng như ma lực của tình yêu.
 
       Kipling chắc sẽ hết thở than nếu được tiếp xúc với người Việt Nam. Bởi vì nếu Đông và Tây gặp nhau, sẽ còn gì quyến rũ nữa đây, hở trời?
 
Portland, 26/12/2013
NLGO

Source Internet.

Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2013

LÀM GÌ SAU KHI VỪA THỨC DẬY


 Bạn có thể nghĩ rằng những điều này là không cần thiết, tuy nhiên các nhà khoa học thì cho rằng bạn nên biết những việc nên không nên làm ngay sau khi thức dậy để có một sức khoẻ thật tốt.
 
1/.NHỮNG VIỆC KHÔNG NÊN LÀM NGAY SAU KHI  VỪA THỨC DẬY:

- Đi tiểu.

Hầu hết chúng ta ngủ dậy đều có cảm giác muốn đi tiểu ngay do bàng quang đầy. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học và chuyên gia sức khỏe thì thói quen này lại không tốt. Sau khi ngủ dậy, nếu đi tiểu ngay sẽ làm bàng quang rơi vào trạng thái rỗng, dễ gây chóng mặt, thậm chí còn có trường hợp ngất khi đi tiểu.
 
Mặc dù việc đi tiểu sau khi ngủ dậy có thể giúp bạn cảm thấy thoải mái và thải các chất độc ra ngoài cơ thể, nhưng điều đó không có nghĩa là sau khi dậy, bạn phải đi tiểu ngay. Tốt nhất, bạn nên ngồi trấn tĩnh một chút cho mình tỉnh táo, uống một cốc nước để lấy lại tinh thần, ổn định năng lượng cho cơ thể rồi mới đi tiểu. Việc này có tác dụng rất tốt trong việc tránh tình trạng chóng mặt, choáng váng vào buổi sáng khi bạn đi tiểu ngay lúc vừa ngủ dậy.
 
- Vận động quá mạnh.


Một vài động tác khởi động nhẹ nhàng như vươn vai, vặn mình sau khi ngủ dậy có thể mang lại lợi ích sức khỏe cho bạn nhưng những động tác vận động mạnh lại có thể đem đến tác dụng ngược lại.
 
Sau khi ngủ dậy, bạn nên dành một chút thời gian để tỉnh táo, các cơ quan trong cơ thể dần dần hoạt động trơn tru trở lại, cơ thể cân bằng khí âm dương trước khi bạn một tập một vài động tác thể dục với cường độ cao như chạy bỏ, đu xà hay nâng tạ… Nếu bạn ngay lập tức thực hiện các bài tập sau khi thức dậy mà không thực hiện bất kỳ hoạt động chuẩn bị, nó sẽ dễ dàng dẫn đến nguy cơ về bệnh tim mạch và mạch máu não. 

Trước khi tập bạn cũng nên khởi động cơ thể thật kỹ, các động tác nên tập từ nhẹ nhàng đến mạnh hơn, chưa vận động mạnh ngay để tránh mắc bệnh tim mạch ngoài ý muốn.
 
- Gấp chăn gối

Bạn đừng nên nghĩ rằng gấp chăn ngay sau khi ngủ dậy mới là gọn gàng, bởi thực tế, không nên gấp chăn ngay khi ngủ dậy mới là điều bạn cần làm. Khi chúng ta ngủ suốt đêm, cơ thể bạn bài tiết ra nhiều khí độc như CO2 và một số chất thải phát sinh qua hệ hô hấp và các lỗ chân lông… Và chăn bạn đắp chính là nơi lưu lại những khí thải độc này nhiều nhất.
 
Gấp chăn gối ngay sau khi ngủ dậy là thói quen không tốt
Sau khi ngủ dậy (trời sáng), bạn nên mở cửa sổ cho thoáng phòng, mở tung chăn, gối ra để các khí thải độc này bay đi hết. Nếu gấp chăn lại ngay đồng nghĩa khí thải bị ủ kín và biến chăn trở thành nguồn ô nhiễm gây hại cho sức khỏe. Hậu quả, đến đêm sau, chúng ta sẽ cảm thấy chăn ẩm ướt khó chịu, dẫn đến khó ngủ.
 
- Kiểm tra E-mail.

Kiểm tra hộp thư ngay khi thức dậy vào buổi sáng có thể khiến bạn căng thẳng cả ngày. Thay vì bắt đầu một ngày với những lo lắng về công việc, hãy tham gia hoạt động giúp bạn tĩnh tâm như tập thể dục, nhấm nháp một tách trà, hoặc nói chuyện với một người bạn cùng phòng. Điều này thực sự sẽ giúp bạn thêm tràn đầy năng lượng và khơi nguồn sáng tạo cho một ngày làm việc hiệu quả hơn.
 
- Uống cà phê

Uống cà phê quá sớm mức năng lượng cơ thể tăng lên một cách tự nhiên ngay sau khi bạn thức dậy, vì vậy uống cà phê lúc này sẽ gây ra sự tăng năng lượng đột biến khiến bạn có cảm giác bồn chồn, khó chịu. Để phát huy được lợi ích từ cà phê, bạn nên uống 1 giờ sau khi thức dậy. Đó là khi mức năng lượng của cơ thể bắt đầu giảm mạnh.

2/. Những thói quen sau đây nên duy trì sau khi bạn thức dậy:
 

- Uống nước
Hãy uống ít nhất một cốc nước ngay sau khi bạn thức dậy

Uống một cốc nước ngay khi thức dậy là một ý tưởng tuyệt vời. Nước giúp bổ sung lượng chất lỏng bị mất vào buổi đêm và giúp bạn cảm thấy sảng khoái. Mọi chức năng hoạt động trong cơ thể con người đều cần nước. Một ly nước ấm thêm lát chanh tươi sẽ khiến một ngày của bạn tràn đầy năng lượng.
 

- Làm ấm cơ thể

Ánh sáng mặt trời vào buổi sáng sẽ giúp bạn thêm phần tỉnh táo và thoải mái. Hãy bước ra ngoài ban công hít thở không khí trong khi chờ pha một tách trà. Ánh sáng sẽ giúp đánh thức đồng hồ sinh học của cơ thể và làm tăng lượng serotonin, một chất hóa học cải thiện tâm trạng.
 
- Suy nghĩ tích cực.


Suy nghĩ tích cực là điều cần thiết ở bất kì thời điểm nào.Nhưng ngay từ khi thức dậy bạn đã có những suy nghĩ tích cực thì sẽ có tác dụng lớn với tâm trạng của bạn trong suốt ngày hôm đó. Nó còn giúp giảm căng thẳng và có thể cải thiện sức khỏe tổng thể của bạn.
 
Suy nghĩ tích cực không có nghĩa là bạn bỏ qua tất cả những điều xấu, mà là cách bạn phản ứng không lưu giữ những hình ảnh không may trong quá khứ đã qua và không bao giờ trở lại với những bực tức, chán nản.
 
Hãy giữ cho mình thái độ tích cực mỗi khi gặp khó khăn hoặc rắc rối. Nó sẽ giúp bạn tỉnh táo và sáng suốt hơn trong các quyết định. Ngược lại, nếu liên tục giữ những suy nghĩ tiêu cực với những bực tức, chán nản trong đầu thì rất có thể bạn sẽ bắt đầu căng thẳng, điều đó không tốt cho sức khỏe của bạn.
 
Theo các chuyên gia sức khỏe của Mỹ thì những lợi ích sức khỏe khi bạn có suy nghĩ tích cực bao gồm:
–Tăng tuổi thọ
– Giảm tỷ lệ suy nhược
– Giảm mức độ đau khổ
– Tăng khả năng chống cảm lạnh thông thường
– Tốt hơn cho tâm lý và thể chất
– Giảm nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch
– Có kỹ năng đối phó tốt hơn trong khó khăn và căng thẳng. 

Hầu hết những người sống với suy nghĩ tích cực suốt cả ngày sẽ làm việc hiệu quả hơn, ăn ngon miệng hơn và yêu đời hơn.

Source Internet.