Thứ Ba, 29 tháng 9, 2015

Kẻ thù của người Trung Quốc

 Trên thế giới không có nước nào có lịch sử lâu đời như Trung Quốc, không có nước nào có một nền văn hóa không đứt đoạn như Trung Quốc, mà cái văn hóa đó lại đã từng đạt đến một nền văn minh cao độ. Người Hy-Lạp thời nay với người Hy-Lạp ngày xưa chẳng liên quan gì với nhau. Người Ai-Cập cũng vậy. Nhưng người Trung Quốc hôm nay thì đúng là hậu duệ của người Trung Quốc cổ đại. Tại sao một nước khổng lồ như vậy, một dân tộc to lớn như vậy ngày nay lại ra nông nỗi xấu xa ấy? Chẳng những bị người nước ngoài ức hiếp mà còn bị ngay dân mình ức hiếp. Nào là vua bạo ngược, quan bạo nguợc, mà cả dân (quần chúng) cũng bạo ngược.  
 Thế kỷ thứ XIX, quần đảo Nam Dương - thời nay tức là Đông Nam Á, còn là thuộc địa của Anh và Hà Lan, có một chuyên viên Anh đóng ở Malaysia nói rằng: "Làm người Trung Quốc ở thế kỷ thứ XIX là một tai họa". Bởi vì ông này đã thấy cộng đồng người Hoa sống ở quần đảo Nam Dương giống một lũ lợn, vô tri vô thức, tự sinh tự diệt, tùy thời còn có thể bị sát hại hàng loạt. Thế mà tôi thấy người Hoa ở thế kỷ XX so với người Hoa ở thế kỷ XIX tai họa của họ còn lớn hơn. 
Điều làm chúng ta đau khổ nhất là bao mong đợi của người Hoa từ một trăm năm nay cơ hồ như đã bị tiêu tan toàn bộ. Cứ mỗi lần có một mong chờ trở lại, hứa hẹn nước nhà một tương lai sáng sủa hơn, thì kết quả lại càng làm cho chúng ta thất vọng và tình hình lại càng trở nên tệ hại hơn. Một mong chờ khác lại đến, để rồi lại đem về những ảo vọng, thất vọng, những tồi tệ liên miên vô tận. 
Dân tộc cố nhiên là trường tồn, sinh mệnh của cá nhân là hữu hạn. Một đời người có được bao ước vọng lớn? Có được bao lý tưởng lớn, chịu được mấy lần tan vỡ ? Con đường trước mặt sáng sủa thế nào? Hay lại đen tối? Thật khó nói cho hết!  
Bốn năm trước, lúc tôi diễn giảng tại New York, đến đoạn "chối tai", có một người đứng dậy nói: "Ông từ Đài Loan đến, ông phải nói cho chúng tôi nghe về những hy vọng, phải cổ võ nhân tâm. Sao lại đi đả kích chúng tôi?". Con người đương nhiên cần được khích lệ, vấn đề là khích lệ rồi sau đó làm gì nữa? Tôi từ nhỏ cũng từng được khích lệ rồi. Lúc 5, 6 tuổi, tôi được người lớn nói với tôi: "Tiền đồ của Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các cháu đấy!" Tôi cho rằng trách nhiệm của tôi lớn quá, chắc không thể nào đảm đương nổi. Sau đó tôi lại nói với con tôi: "Tiền đồ của Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các con đấy!" Bây giờ con tôi lại nói với cháu tôi: "Tiền đồ Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các con đấy!" 
Một đời, rồi một đời, biết bao nhiêu lần một đời ? Đến đời nào thì mới thật khá lên được ? Tại Trung Quốc đại lục rộng lớn, sau thời Phản hữu (Phong trào chống phe hữu năm 1958), tiếp theo lại là Đại Cách Mạng Văn Hóa long trời lở đất. Từ ngày loài người có lịch sử đến nay chưa bao giờ thấy được một tai họa do con người làm ra to lớn đến như vậy. Chẳng nói đến tổn thất sinh mạng, cái tổn thương lớn lao nhất là sự chà đạp nhân tính, dầy xéo lên phẩm hạnh cao quý. Con người nếu rời bỏ nhân tính và những đức hạnh cao quý thì sánh với cầm thú 
Bây giờ người ta nói nhiều về Hương Cảng [Hồng-Kông]. Bất cứ nước nào, nếu có đất đai bị nước ngoài chiếm cứ đều cảm thấy tủi nhục. Chờ cho đến lúc lấy được về chẳng khác nào lòng mẹ bị mất con. Ai cũng nhớ chuyện nước Pháp lúc phải cắt hai tỉnh Alsace và Lorraine giao cho Đức đã đau khổ như thế nào, lúc lấy lại được về đã sung sướng ra sao. 
Nhưng Hương Cảng của chúng ta chỉ cần nghe đến việc trả về tổ quốc là lập tức hồn bay phách lạc. Chuyện gì mà lạ thế? 
Còn nói về Đài Loan, hiện nay nhiều thanh niên người tỉnh này hoặc người nơi khác ở đây đều chủ trương Đài Loan độc lập. Tôi nhớ lại 30 năm trước đây, lúc Nhật Bản trả lại Đài Loan cho Trung Quốc (1945), mọi người sung sướng như si cuồng chẳng khác nào đứa con lạc mẹ lại tìm được đường về nhà. Cái gì đã xảy ra sau 30 năm đó để cho đứa con kia lại muốn bỏ nhà ra đi?  
Ở nước ngoài, có lúc tôi dừng lại trong công viên, nhìn trẻ con ngoại quốc, thấy sao chúng sung sướng thế. Trong lòng tôi lúc ấy tự nhiên cảm thấy thèm thuồng quá. Chúng không phải mang gánh nặng, con đường chúng đi bằng phẳng, rộng rãi quá, tâm lý khỏe mạnh, sung mãn, sảng khoái. Con trẻ Đài Loan chúng ta đến trường học, đeo kính cận, mặt khó đăm đăm vì phải đối phó với áp lực bài vở. Mẹ ngất ngã xuống đất, con đến đỡ mẹ dậy, mẹ kêu rống lên: "Mẹ có chết cũng chẳng sao, việc gì đến con! Con đi học bài đi! Đi học bài đi!"  
Vợ tôi lúc dạy học ở Đài Loan, thỉnh thoảng cứ đề cập đến đạo đức làm người, tức thì sinh viên nhao nhao phản đối: "Chúng tôi không cần học làm người, chỉ cần học để ứng phó với việc thi cử". Lại nhìn về trẻ con ở Trung Quốc lục địa, từ nhỏ đã phải học đánh đấu nhau, lừa dối bịp bợm nhau, lại luyện tập cách lừa bạn, phản đồng chí, lại phải học cách bốc phét, bịa đặt. Một nền giáo dục đáng sợ thay! Một thế hệ nữa những đứa trẻ này lớn lên sẽ như thế nào? Người ta thường nói: "Mình nắm tương lai mình trong tay mình". Lúc đã luống tuổi, tôi thấy câu này không ổn; sự thực, có lẽ chỉ nắm được một nửa trong tay mình, còn một nửa lại ở trong tay của kẻ khác. Kiếp người trên đời này giống như một cục sỏi trong một máy nhào xi-măng, sau khi bị nhào trộn, thân chẳng tự chủ được. Điều ấy khiến tôi cảm thấy đó không phải là một vấn đề của riêng một cá nhân nào, nhưng là một vấn đề xã hội, văn hóa. Lúc chết, Chúa Giê-Su (Jesus) bảo: "Hãy tha thứ cho họ, họ đã làm những điều mà họ không hề hiểu". Lúc trẻ, đọc câu này tôi cho rằng nó chỉ là một câu tầm thường. Lớn lên rồi lại vẫn thấy nó không có gì ghê gớm cả, nhưng đến cái tuổi này rồi tôi mới phát hiện rằng nó rất thâm thúy, thật đau lòng thay! Có khác nào người Trung Quốc sở dĩ trở thành xấu xí như ngày nay bởi chính vì họ không hề biết rằng mình xấu xí.  
Chúng ta có đủ tư cách làm chuyện đó và chúng ta có lý do tin rằng Trung Quốc có thể trở thành một nước rất tốt đẹp. Chúng ta không cần cứ phải muốn có một quốc gia hùng mạnh. Quốc gia không hùng mạnh thì có can hệ gì ? Chỉ cần sao cho nhân dân hạnh phúc rồi thì đi tìm quốc gia hùng mạnh cũng chưa muộn. 
Tôi nghĩ người Trung Quốc chúng ta có phẩm chất cao quý. Nhưng tại sao cả trăm năm rồi, cái phẩm chất ấy thủy chung vẫn không làm cho người Trung Quốc thoát khỏi khổ nạn?. Nguyên do vì sao? Tôi muốn mạo muội đề xuất một câu trả lời có tính cách tổng hợp: Đó là vì văn hóa truyền thống Trung Quốc có một loại siêu vi trùng, truyền nhiễm, làm cho con cháu chúng ta từ đời này sang đời nọ không khỏi được bệnh. Có người sẽ bảo: "Tự mình không xứng đáng, lại đi trách tổ tiên!". Xét cho kỹ câu nói này có một sơ hở lớn. Trong vở kịch nổi tiếng "Quần ma" (Những con ma) của Ibsen (íp-sen) có kể chuyện hai vợ chồng mắc bệnh giang mai sinh ra một đứa con cũng bị bệnh di truyền. Mỗi lần phát bệnh nó lại phải uống thuốc. Có lần tức quá nó kêu lên: "Con không uống thuốc này đâu! Con thà chết đi thôi! Bố mẹ đã cho con cái thân thể như thế này à!?" Trường hợp này thì nên trách đứa bé hay trách bố mẹ nó? Chúng ta không phải trách bố mẹ, cũng không phải trách tổ tiên chúng ta, nhưng nhất quyết phải trách cái thứ văn hóa họ đã truyền lại cho chúng ta. 
Một nước rộng ngần đó, một dân tộc lớn ngần đó, chiếm đến một phần tư dân số toàn cầu, lại là một vùng cát chảy của sự đói nghèo, ngu muội, đấu tố, tắm máu mà không tự thoát được. Tôi nhìn cách cư xử giữa con người với nhau ở những nước khác mà lại càng thèm. Cái văn hóa truyền thống kiểu nào để sinh ra hiện tượng này? Nó đã khiến cho người Trung Quốc chúng ta mang sẵn trong mình nhiều đặc tính rất đáng sợ! 
Một trong những đặc tính rõ nhất là dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào. Đài Loan đã từng có một dạo phải chống bẩn và chống hỗn loạn, nhưng chỉ được mấy ngày. Cái bếp của chúng ta vừa bẩn vừa lộn xộn. Nhà cửa chúng ta cũng vậy. Có nhiều nơi hễ người Trung Quốc đến ở là những người khác phải dọn đi. Tôi có một cô bạn trẻ tốt nghiệp đại học chính trị. Cô này lấy một người Pháp rồi sang Pa-ri sinh sống. Rất nhiều bạn bè đi du lịch Âu châu đều ghé nhà cô trú chân. Cô ta bảo với tôi: "Trong tòa nhà tôi ở, người Pháp đều dọn đi cả, bây giờ toàn người Á đông nhảy vào!" (Người Á đông có khi chỉ người châu Á nói chung, có khi lại chỉ người Trung Quốc). Tôi nghe nói vậy rất buồn, nhưng khi đi xem xét tận mắt mới thấy là chỗ nào cũng đầy giấy kem, vỏ hộp, giầy dép bừa bãi, trẻ con chạy lung tung, vẽ bậy lên tường, không khí trong khu bốc lên một mùi ẩm mốc. Tôi hỏi: "Các người không thể tổ chức quét dọn được hay sao?" Cô ta đáp: "Làm sao nổi!" 
Không những người nước ngoài thấy chúng ta là bẩn, loạn, mà qua những điều họ nhắc nhở chúng ta cũng tự thấy mình là bẩn, loạn. 
Còn như nói đến ồn ào, cái mồm người Trung Quốc thì to không ai bì kịp, và trong lĩnh vực này người Quảng Đông phải chiếm giải quán quân. Ở bên Mỹ có một câu chuyện tiếu lâm như sau: Có hai người Quảng Đông lặng lẽ nói chuyện với nhau, người Mỹ lại tưởng họ đánh nhau, bèn gọi điện báo cảnh sát. Khi cảnh sát tới, hỏi họ đang làm gì, họ bảo: " Chúng tôi đang thì thầm với nhau". Tại sao tiếng nói người Trung Quốc lại to? Bởi tâm không yên ổn. Cứ tưởng lên cao giọng, to tiếng là lý lẽ mình mạnh. Cho nên lúc nào cũng chỉ cốt nói to, lên giọng, mong lý lẽ đến với mình. Nếu không, tại sao họ cứ phải gân cổ lên như thế? 
Tôi nghĩ những điểm này cũng đủ để làm cho hình ảnh của người Trung Quốc bị tàn phá và làm cho nội tâm mình không yên ổn. Vì ồn ào, dơ bẩn, hỗn loạn dĩ nhiên có thể ảnh hưởng tới nội tâm, cũng như sáng sủa, sạch sẽ với lộn xộn, dơ bẩn là hai thế giới hoàn toàn khác xa nhau. 
Còn về việc xâu xé nhau thì mọi người đều cho đó là một đặc tính nổi bật của người Trung Quốc. Một người Nhật đơn độc trông chẳng khác nào một con lợn, nhưng ba người Nhật hợp lại lại thành một con rồng. Tinh thần đoàn kết của người Nhật làm cho họ trở thành vô địch. Bởi vậy trong lĩnh vực quân sự cũng như thương mại người Trung Quốc không thể nào qua mặt được người Nhật. Ngay tại Đài Loan, ba người Nhật cùng buôn bán thì lần này phiên anh, lần sau đến lượt tôi. Người Trung Quốc mà buôn bán thì tính cách xấu xa tức thì lộ ra bên ngoài theo kiểu: Nếu anh bán 50 tôi sẽ bán 40. Anh bán 30 tôi chỉ bán 20. 
Cho nên, có thể nói, mỗi người Trung Quốc đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên thì chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ở dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư. Người Trung Quốc ở một vị trí đơn độc như trong phòng nghiên cứu, trong trường thi - nơi không cần quan hệ với người khác - thì lại có thể phát triển tốt. Nhưng nếu ba người Trung Quốc họp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi, hoặc thậm chí không bằng cả một con giòi nữa. Bởi vì người Trung Quốc có biệt tài đấu đá lẫn nhau. Chỗ nào có người Trung Quốc là có đấu đá, người Trung Quốc vĩnh viễn không đoàn kết được, tựa hồ trên thân thể họ có những tế bào thiếu đoàn kết. Vì vậy khi người nước ngoài phê phán người Trung Quốc không biết đoàn kết thì tôi chỉ xin thưa: "Anh có biết người Trung Quốc vì sao không đoàn kết không? Vì Thượng đế muốn thế. Bởi vì nếu một tỷ người Hoa đoàn kết lại, vạn người một lòng, anh có chịu nổi không? Chính ra Thượng Đế thương các anh nên mới dạy cho người Hoa mất đoàn kết!" Tôi tuy nói thế nhưng rất đau lòng. 
Người Trung Quốc không chỉ không đoàn kết, mà mỗi người lại còn có đầy đủ lý do để có thể viết một quyển sách nói tại sao họ lại không đoàn kết. Cái điều này thấy rõ nhất tại nước Mỹ với những hình mẫu ngay trước mắt. Bất cứ một xã hội người Hoa nào ít nhất cũng phải có 365 phe phái tìm cách tiêu diệt lẫn nhau. Ở Trung Quốc có câu: "Một hòa thượng gánh nước uống, hai hòa thượng khiêng nước uống, ba hòa thượng không có nước uống". Người đông thì dùng để làm gì? Người Trung Quốc trong thâm tâm căn bản chưa biết được tầm quan trọng của sự hợp tác. Nhưng nếu anh bảo họ chưa biết, họ lại có thể viết ngay cho anh xem một quyển sách nói tại sao cần phải đoàn kết. 
Lần trước (năm 1981) tôi sang Mỹ ở tại nhà một người bạn làm giáo sư đại học - anh này nói chuyện thì đâu ra đấy; thiên văn, địa lý; nào là làm sao để cứu nước... - Ngày hôm sau tôi bảo: "Tôi phải đi đến đằng anh A một tý!". Vừa nghe đến tên anh A kia, anh bạn tôi trừng mắt giận dữ. Tôi lại bảo: "Anh đưa tôi đi một lát nhé!". Anh ta bảo: "Tôi không đưa, anh tự đi cũng được rồi!". Họ cùng dạy học tại Mỹ, lại cùng quê với nhau mà tại sao không thể cùng đội trời chung? Có thể nào nói như vậy là hợp lý được? Bởi vậy việc người Hoa cắn xé nhau là một đặc trưng nghiêm trọng. 
Những người sống tại Mỹ đều thấy rõ điều này: đối xử với người Trung Quốc tệ hại nhất không phải là người nước ngoài, mà chính lại là người Trung Quốc với nhau. Bán rẻ người Trung Quốc, hăm dọa người Trung Quốc lại cũng không phải là người Mỹ mà là người Hoa. Tại Ma-lai-xi-a có một chuyện thế này. Một ông bạn tôi làm nghề khai thác mỏ khoáng sản. Anh ta bỗng nhiên bị tố cáo một chuyện rất nghiêm trọng. Sau khi tìm hiểu mới biết rằng người tố cáo mình lại là một bạn thân của anh ta, một người cùng quê, cùng đến Ma-lai-xi-a tha phương cầu thực với nhau. Người bạn tôi chất vấn anh kia: "Tại sao anh lại đi làm cái việc đê tiện đó?". Người kia bảo: "Cùng đi xây dựng cơ đồ, bây giờ anh giàu có, tôi vẫn hai tay trắng. Tôi không tố cáo anh thì tố ai bây giờ?"
Cho nên kẻ thù của người Trung Quốc lại là người Trung Quốc.  
Không hiểu vì sao người ta lại so sánh người Trung Quốc với người Do Thái được? Tôi thường nghe nói "người Trung Quốc và người Do Thái giống nhau ở chỗ cần cù". Điều này phải chia làm hai phần: Phần thứ nhất: cái đức tính cần cù từ mấy nghìn năm nay cũng chẳng còn tồn tại nữa, nó đã bị thời kỳ "Tứ nhân bang" (bè lũ bốn tên) phá tan tại lục địa rồi. 
Phần thứ hai: chúng ta còn gì để có thể đem so sánh với người Do Thái được? Báo chí Trung Quốc thường đăng: "Quốc hội Do Thái (Knesset) tranh luận mãnh liệt, ba đại biểu là ba ý kiến trái ngược nhau", nhưng cố ý bỏ sót một sự kiện quan trọng là sau khi họ đã quyết định với nhau thì hình thành một phương hướng chung. Tuy bên trong quốc hội tranh cãi tơi bời, bên ngoài đang giao chiến, bốn phía địch bao vây, nhưng I-xra-en vẫn tổ chức bầu cử. 
Ai cũng biết cái ý nghĩa của bầu cử là vì có đảng đối lập. Không có đảng đối lập thì bầu cử chỉ là một trò hề rẻ tiền.  
Tại Trung Quốc chúng ta, hễ có ba người sẽ cũng có ba ý kiến, nhưng cái khác nhau là: sau khi đã quyết định xong, ba người đó vẫn làm theo ba phương hướng khác nhau. Giống như nói hôm nay có người đề nghị đi New York, người đề nghị đi San Francisco. Biểu quyết, quyết định đi New York, nếu ở I-xra-en cả hai người sẽ cùng đi New York, nhưng ở Trung Quốc thì một người sẽ bảo: "Anh đi New York đi, tôi có tự do của tôi, tôi đi San Francisco!"  
Người Trung Quốc không thể đoàn kết, hay cắn xé nhau, những thói xấu đó đã thâm căn cố đế. Không phải vì phẩm chất của họ không đủ tốt. Nhưng vì con siêu vi trùng trong văn hóa Trung Quốc ấy làm cho chúng ta không thể đè nén, khống chế hành vi của chúng ta được. Biết rõ rành rành là xâu xé nhau, nhưng vẫn xâu xé nhau. Nếu nồi vỡ thì chẳng ai có ăn, nhưng nếu trời sụp thì người nào cao hơn người đó phải chống đỡ. 
Cái loại triết học xâu xé nhau đó lại đẻ ra nơi chúng ta một hành vi đặc thù khác: "Chết cũng không chịu nhận lỗi". Có ai nghe thấy người Trung Quốc nhận lỗi bao giờ chưa? Giả sử anh nghe một người Trung Quốc nói: "Việc này tôi đã sai lầm rồi!" Lúc đó anh phải vì chúng tôi mà uống rượu chúc mừng. Con gái tôi hồi bé có một lần bị tôi đánh, nhưng cuối cùng hóa ra là nó bị oan. Nó khóc rất dữ, còn tâm can tôi thì đau đớn. Tôi biết rằng đứa con thơ dại và vô tội của tôi chỉ biết trông cậy vào bố mẹ, mà bố mẹ bỗng nhiên trở mặt thì nó phải sợ hãi biết nhường nào. Tôi ôm con vào lòng rồi nói với nó: "Bố xin lỗi con. Bố không đúng. Bố làm sai. Bố hứa lần sau bố không làm như vậy nữa. Con gái ngoan của bố, con tha thứ cho bố nhé!" Nó khóc mãi không thôi. Cái sự việc này qua rồi mà lòng tôi vẫn còn đau khổ. Nhưng đồng thời tôi lại cảm thấy vô cùng kiêu hãnh bởi tôi đã dám tự nhận lỗi của mình đối với nó. Người Trung Quốc không quen nhận lỗi và có thể đưa ra hàng vạn lý do để che dấu cái sai trái của mình. Có một câu tục ngữ: "Đóng cửa suy gẫm lỗi lầm" (Bế môn tư quá). Nghĩ về lỗi của ai ? Dĩ nhiên của đối phương. Lúc tôi đi dạy học, học sinh hàng tuần phải viết tuần ký để kiểm thảo hành vi trong tuần. Kết quả kiểm thảo thường là: "Hôm nay tôi bị người này người nọ lừa tôi. Cái người lừa tôi ấy đã được tôi đối xử mới tốt làm sao, cũng bởi vì tôi quá trung hậu!". Lúc đọc đến kiểm thảo của đối phương, lại cũng thấy anh học trò kia nói mình quá trung hậu. Mỗi người trong kiểm thảo của mình đều là người quá trung hậu. Thế còn ai là người không trung hậu? 
Người Trung Quốc không thể nhận lỗi, nhưng cái lỗi vẫn còn đó, đâu phải vì không nhận mà nó biến mất. Để che đậy một lỗi của mình người Trung Quốc không nề hà sức lực tạo nên càng nhiều lỗi khác hòng chứng minh rằng cái đầu tiên không phải là lỗi. Cho nên có thể nói người Trung Quốc thích nói khoác, nói suông, nói dối, nói láo, nói những lời độc địa. Họ liên miên khoa trương về dân Trung Quốc, về tộc Đại Hán, huyên thuyên về truyền thống văn hóa Trung Quốc, nào là có thể khuếch trương thế giới,v.v...Nhưng bởi vì không thể đưa ra chứng cớ thực tế nào nên tất cả chỉ toàn là những điều bốc phét. 
Tôi chẳng cần nêu ví dụ về chuyện nói khoác, láo toét làm gì. Nhưng về chuyện nói độc của người Trung Quốc thì không thể không nói được. Ngay như chuyện phòng the, người phương Tây vốn rất khác chúng ta, họ thường trìu mến gọi nhau kiểu "Em yêu, em cưng" [Bá Dương dùng chữ "đường mật" và "ta linh" để dịch chữ Honey, Darling của tiếng Anh -ND] thì người Trung Quốc gọi nhau là "kẻ đáng băm vằm làm trăm khúc" (sát thiên đao đích). 
Hễ cứ có dính đến lập trường chính trị hoặc tranh quyền đoạt lợi là những lời nói độc địa sẽ được tuôn ra vô hạn định, khiến cho ai nấy nghe thấy cũng phải tự hỏi: "Tại sao người Trung Quốc lại độc ác và hạ lưu đến thế?"
Lại nói ví dụ về chuyện tuyển cử. Nếu là người phương Tây thì tác phong như sau: "Tôi cảm thấy tôi có khả năng giữ chức vụ đó, xin mọi người hãy bầu cho tôi!". Còn người Trung Quốc sẽ xử sự như Gia Cát Lượng lúc Lưu Bị tới cầu hiền (tam cố thảo lư). Nghĩa là nếu được mời, anh ta sẽ năm lần bảy lượt từ chối, nào là "Không được đâu! Tôi làm gì có đủ tư cách!" Kỳ thực, nếu anh tưởng thật mà đi mời người khác thì anh ta sẽ hận anh suốt đời. Chẳng khác nào nếu anh mời tôi diễn giảng, tôi sẽ nói: "Không được đâu, tôi chẳng quen nói chuyện trước công chúng!" Nhưng nếu anh thật sự không mời tôi nữa, sau này nếu nhỡ lại gặp nhau ở Đài Bắc, có thể tôi sẽ phang cho anh một cục gạch vào đầu. Một dân tộc hành xử theo kiểu này không biết đến bao giờ mới có thể sửa đổi được lầm lỗi của mình; sẽ còn phải dùng mười cái lỗi khác để khỏa lấp cái lỗi đầu tiên, rồi lại dùng thêm trăm cái khác để che đậy mười cái kia thôi. 
Trung Quốc diện tích rộng thế, văn hóa lâu đời thế, đường đường là một nước lớn. Thế mà, thay vì có một tấm lòng bao la, người Trung Quốc lại có một tâm địa thật hẹp hòi. Cái tấm lòng bao la đáng lẽ chúng ta phải có ấy chỉ đọc thấy được trong sách vở, nhìn thấy được trên màn ảnh. Có ai bao giờ thấy một người Trung Quốc có lòng dạ, chí khí sánh ngang được với tầm vóc nước Trung Quốc không? Nếu chỉ cần bị ai lườm một cái là đã có thể rút dao ra rồi, thử hỏi nếu có người không đồng ý với mình thì sự thể sẽ ra sao? 
Người Tây phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Quốc đã đánh nhau rồi thì cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết.
Mọi người Trung Quốc đều sợ sệt đến độ không còn biết quyền lợi mình là gì thì làm sao còn biết đấu tranh, gìn giữ nó được? Mỗi khi gặp một chuyện gì xảy ra y nhiên lại nói: "Bỏ qua cho rồi!". Mấy chữ "bỏ qua cho rồi" này đã giết hại không biết bao nhiêu người Trung Quốc và đã biến dân tộc Trung Quốc thành một dân tộc hèn mọn. 
Giả sử tôi là một người nước ngoài hoặc một bạo chúa, đối với loại dân tộc như thế, nếu tôi không ngược đãi nó thì trời cũng không dung tôi. Cái não trạng hãi sợ này đã nuôi dưỡng bao nhiêu bạo chúa, làm tổ ấm cho bao nhiêu bạo quan. Vì vậy bạo chúa bạo quan ở Trung Quốc không bao giờ bị tiêu diệt. Trong truyền thống văn hóa Trung Quốc, các vị có thể xem ở "Tư trị thông giám" (Một pho sử của Tư Mã Quang tóm hết chuyện hơn 2.000 năm để làm gương cho người đời sau), cái việc bo bo giữ mình đã được xem là kim chỉ nam và nhấn mạnh năm lần bảy lượt. Bạo chúa, bạo quan cũng chỉ cần dân chúng cứ bo bo giữ mình là được, cho nên người Trung Quốc mới càng ngày càng khốn đốn đến như thế. 
Nơi nào người Trung Quốc đã đặt chân đến thì không thể có chỗ nào là không bẩn. Có hơn một tỷ người Trung Quốc trên thế giới này, làm sao mà không chật chội được?  Ngoài ồn, chật, bẩn, loạn, lại còn thêm cái tật "thích xem" (người khác đau khổ), hoặc "chỉ quét tuyết trước nhà mình mà không động tý gì đến sương trên mái ngói nhà người khác". 
Họ luôn mồm "nhân nghĩa" mà tâm địa ích kỷ, tham lam. Một đằng hô to khẩu hiệu: "Phải tử tế với người và súc vật!", trong khi đó ngày ngày không ngừng xâu xé lẫn nhau. 
Tóm lại, người Trung Quốc đúng là một dân tộc vĩ đại, vĩ đại đến độ làm cho người đời nay không có cách nào hiểu nổi tại sao họ có thể tồn tại được trên quả địa cầu này những 5.000 năm?

Bá Dương

Source Internet.

Vượt biên

Một trong những sự kiện thu hút sự chú ý của thế giới nhiều nhất trong mấy tuần lễ vừa qua là làn sóng tị nạn từ Syria, Iraq và một số quốc gia khác ở Trung Đông tràn đến Châu Âu.
Thật ra, hiện tượng người Trung Đông vượt biên để tránh những hậu quả khốc liệt của các cuộc nội chiến đẫm máu trong nước họ không phải là điều gì mới mẻ. Chỉ riêng tại Syria, trong hơn bốn năm vừa qua, đã có trên bốn triệu người vượt biên để tị nạn tại các quốc gia láng giềng, như Thổ Nhĩ Kỳ (gần 2 triệu), Lebanon (trên 1 triệu), Jordan (trên 600.000), Ai Cập (hơn 130.000). Oái oăm nhất là, bị đẩy vào đường cùng, hơn 250.000 người Syria chạy cả sang Iraq, nơi cũng đang có nội chiến như nước họ. Tuy nhiên, làn sóng tị nạn ấy chỉ thực sự đánh động dư luận khi, gần đây, cả hàng triệu người tràn đến Châu Âu, đặc biệt là Áo và Đức. Người ta xem đó là cuộc khủng hoảng di dân lớn nhất thế giới kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2.
Nguyên nhân dẫn đến làn sóng tị nạn ấy tương đối dễ thấy : Một là những cuộc nội chiến tàn khốc ở quốc gia họ ; hai là, sự đe doạ của lực lượng Nhà nước Hồi giáo (IS), vốn vô cùng tàn bạo, đặc biệt với những người không phải tín đồ của Hồi giáo. Trong bài này, thay vì đi sâu vào các nguyên nhân ấy, tôi chỉ tập trung vào những phản ứng của thế giới trước làn sóng tị nạn. Trừ nước Áo và đặc biệt, nước Đức vốn rất hào hiệp khi tuyên bố có thể nhận đến 800.000 người tị nạn (trên thực tế họ đã nhận gần nửa triệu), phản ứng của hầu hết các quốc gia khác là dè dặt. Nhiều quốc gia ở Châu Âu, đặc biệt là Đông Âu, chủ trương dứt khoát : Không nhận cho người nào định cư cả. Một số quốc gia khác, kể cả Mỹ và Úc, nhận người tị nạn một cách khá miễn cưỡng, chủ yếu do sức ép của dư luận. Lý do, khá dễ hiểu : Người ta sợ Hồi giáo.
Lâu nay, dưới mắt quần chúng khắp nơi, Trung Đông đồng nghĩa với Hồi giáo ; và từ sau biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001, người ta xem Hồi giáo đồng nghĩa với khủng bố. Cho phép người Trung Đông định cư trong nước mình, do đó, đồng nghĩa với việc chấp nhận thật nhiều rủi ro. Đó là lý do tại sao chính phủ Úc, sau khi công bố quyết định nhận khoảng 12.000 người Trung Đông, nói xa nói gần : chủ yếu chỉ nhận những người theo Thiên Chúa giáo. Có lẽ nhiều quốc gia Tây phương khác cũng chủ trương tương tự tuy người ta không dám nói thẳng ra vì sợ mang tiếng là kỳ thị.
Điều đáng để ý là ngay những người Việt Nam cũng có cảm giác không thoải mái. Trên các diễn đàn mạng, quanh các cuộc trao đổi về làn sóng tị nạn người Trung Đông trong mấy tuần vừa qua, tôi thấy hầu hết đều sợ, một lúc nào đó, chính những người xin tị nạn ấy sẽ trở thành những tên khủng bố trên đất nước từng mở rộng vòng tay đón nhận họ. Người ta củng cố sự lo sợ ấy bằng cái tin nghe nói là do chính lực lượng Nhà nước Hồi giáo tung ra : có ít nhất 4000 người của họ len lỏi trong số những người tị nạn ấy.
Những sự lo sợ như thế cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Thứ nhất, cộng đồng người Trung Đông theo Hồi giáo ở Tây phương là cộng đồng ít có khả năng hội nhập vào quốc gia mới và văn hoá mới nhất. Ở đâu họ cũng có khuynh hướng hình thành những ghetto khép kín, biệt lập với ngôn ngữ riêng, tôn giáo riêng, cách sống riêng, với những bảng giá trị riêng nhiều khi trái ngược hẳn với các bảng giá trị phổ biến ở Tây phương.
Thứ hai, lâu nay, hầu hết các cuộc khủng bố ở Tây phương đều gắn liền với những người Hồi giáo gốc Trung Đông. Như ở Úc, chẳng hạn. Chưa xảy ra một cuộc khủng bố lớn nào, nhưng tất cả các nghi phạm bị bắt trong giai đoạn chuẩn bị khủng bố đều cho thấy họ đều là người gốc Trung Đông và theo Hồi giáo. Trước, họ tìm mọi cách để xin được định cư tại Úc, rồi xin vào quốc tịch Úc. Nhưng sau khi đã được ở lại và đã được vào quốc tịch, những người ấy lại tuyên truyền những luận điệu thù ghét nước Úc và chống lại nước Úc, khuyến khích những người đồng đạo nổi lên giết hại những người Úc khác. Chuyện tương tự cũng xảy ra ở nhiều nơi. Tham gia cuộc khủng bố tại Mỹ vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 có nhiều người Hồi giáo, như Muhammad Atta, Ramzi bin al-Shibh, Ziad Jarrah, Said Bahaji và Marwan al-Shehhi từng sinh sống lâu năm ở Đức. Những kinh nghiệm ấy khiến không những chính phủ mà cả người dân đều đâm lo lắng.
Tuy nhiên, nhiều người khác lại lý luận ngược lại : Đó chỉ là một thiểu số. Một thiểu số cực kỳ ít ỏi. Lại lấy Úc làm ví dụ. Trong khoảng gần 300.000 người Trung Đông hiện định cư tại Úc (phần lớn là người Lebanon, người Ai Cập và người Iraq), có bao nhiêu người thực sự dính líu đến các cuộc khủng bố ? Tối đa là vài ba trăm người. Có nên vì một thiểu số ít ỏi như vậy mà ngoảnh mặt trước những sự cùng khốn của hàng triệu người còn lại ?
Nhớ, cách đây gần 40 năm, khi làn sóng tị nạn người Việt đổ tràn ra thế giới, trong dư luận cũng có nhiều ý kiến trái ngược, nhưng cuối cùng, như chúng ta đã thấy, ở rất nhiều quốc gia, đứng đầu là Mỹ, Canada và Úc, lòng nhân đạo đã thắng. Trong suốt mấy chục năm vừa qua, cộng đồng người Việt tị nạn ở Tây phương càng ngày càng lớn mạnh và có nhiều đóng góp cho quốc gia nhận họ định cư. Nhưng những góc tối cũng không ít : Một số người sa vào con đường mua bán cần sa và ma tuý làm hại biết bao nhiêu người khác. Nhưng có thể vì cái thiểu số ít ỏi ấy mà phủ nhận những mặt tích cực của cả cộng đồng?
Cộng đồng, bất cứ là cộng đồng nào, kể các các cộng đồng tị nạn, đều bao gồm nhiều người, trong đó có người tốt và kẻ xấu. Trước hiện tượng cả triệu người bỏ hết tài sản và cả quê hương, bất chấp nguy hiểm, vượt biên ra ngoài xin tị nạn, chúng ta có nên vì bị quá ám ảnh trước nguy cơ một số phần tử xấu và quá khích nào đó mà thành ra dửng dưng ?
Tôi nhớ, khi làn sóng người Việt vượt biên tràn ra thế giới, dù nhiều người có ít nhiều lo ngại, nhưng nói chung, thế giới đã mở rộng vòng tay tiếp nhận cả triệu người tị nạn. Bản thân tôi, năm 1985, vượt biên đến Indonesia ; chỉ sáu tháng sau, được định cư tại Pháp. Quá trình làm giấy tờ định cư thật dễ dàng và chóng vánh. Không ai hỏi tôi theo đạo gì. Cũng không ai lo sợ tôi trở thành một kẻ ăn bám xã hội hoặc buôn bán những thứ quốc cấm. Không có ai cả. Tôi biết ơn những tấm lòng hào sảng của mọi người không những đối với bản thân mình mà còn đối với những người Việt Nam cùng vượt biển như mình nói chung. Bởi vậy, riêng tôi, một mặt, tôi vẫn lo lắng trước các nguy cơ khủng bố do một số người Hồi giáo cực đoan gây ra tại Úc cũng như ở tất cả các quốc gia khác ; mặt khác, tôi vẫn xúc động khi nhìn thấy hình ảnh những người tị nạn bất hạnh chết trên biển, xác trôi giạt vào bờ, và tôi nghĩ việc cứu giúp những người vượt biên từ Trung Đông là điều nhân đạo và hết sức cần thiết.


Ts Nguyễn Hưng Quốc 
Source VOA

Mẹ ơi, Xin Đừng Uống Dược Thảo Nữa



Mẹ ơi, Xin Đừng Uống Dược Thảo Nữa
Mom. No more herbs please!!!
Viết ngày 19-9-2015 bởi Minh Hạnh, Một câu chuyện có thật. 

Dưới đây là câu chuyện vừa mới xảy ra với tôi. Do vậy với dụng ý giúp đở thông tin cho những ai đang dùng y học song song với dược thảo để tự chữa bịnh cho mình nên đọc qua.

Là một con người cũng như các chúng sanh khác Đức Phật dạy điều rất căn bản là ai sinh ra cũng phải chịu cảnh sanh, già, bịnh và kết thúc bằng cái chết.

Tự bản thân tôi cũng học được điều đó. Nhưng, trong tôi vẫn muốn mình được trẻ mãi không già, không bịnh và không chết. 

Sống trên đất Mỹ một thời gian khá dài là một xứ sở được bảo đảm về y tế rất hoàn hảo. Chúng tôi có đóng bảo hiểm sức khỏe hàng tháng nên mỗi khi bịnh đi bác sĩ và mua thuốc đều được hãng bảo hiểm trả hết những chi phi đó gần như là 95%. Chúng tôi hơi bịnh là đi bác sĩ, rồi toa thuốc bác sĩ viết cho đều đem ra tiệm mua không chừa cái nào. Nhưng mà rồi vì muốn mình được trẻ mãi, không già, không bịnh và không chết. Chẳng hạn, tôi bị các bịnh như cao máu, máu mỡ, máu đường v.v....  Tôi đã tìm đọc trên mạng những dược thảo và mua về tự mình nấu uống song song với thuốc tây. 

Chẵng những vậy, tôi giống như một người đi tìm thuốc trường sanh bất tử về cho mình. Sau khi đọc trên mạng biết được cây nha đam (aloe vera) uống sẽ hết bịnh tiểu đường, tôi đi tìm cây giống đem về trồng và gây giống được trên 20 cây. Rồi đọc trên mạng thấy nói uống lá cây Giảo Cổ Lam (jiaogulan) là một loại dược thảo uống sẽ được sức khỏe tốt như là một loại dược thảo qúi mà có bộ lạc bên Trung Hoa người ta uống thay trà mỗi ngày  được sống rất thọ. Thế là tôi tìm giống và mua về trồng rồi cũng cấy ra thành nhiều cây bây giờ trong vườn nhà tôi rất nhiều loại cây này bò lan trên nhiều khoảnh đất và tôi cũng lấy lá nấu để uống mỗi ngày thay trà. Rồi cũng trên mạng nói lá dứa nấu nước uống thay trà mỗi ngày sẽ hạ áp huyết máu, tôi cũng mua cây và đem về trồng bây giờ cũng lên đến gần 20 chậu lá dứa. Sau cùng, cũng trên mạng tôi đọc bài nói về uống năm loại rau quả gồm: táo xanh, dưa chuộc, ổ qua, ớt xanh, và cần bỏ vào máy ép trái cây lấy nước uống sẽ hạ tiểu đường.

Mỗi thứ dược thảo kể trên đã được tôi nấu và uống thử một thứ khoảng 2 năm. Thấy thứ nào cũng tốt và ngon miệng và có ảnh hưởng giảm tiểu đường. Cuối cùng tôi chọn cách 5 loại rau quả và tôi uống được thứ dược thảo này được gần một năm thì thấy da dẻ hồng hào và thân thể khỏe mạnh. Rồi bỗng nhiên một hôm tôi thèm một ly trà Giảo Cổ Lam nấu với lá dứa, thế là tôi nấu một nồi nhỏ cho hai vọ chồng uống thêm. 

Đó là, một ngày Chủ Nhật  cuối tuần đẹp vào trung tuần  tháng 9. Trời Baton Rouge bắt đầu bước sang thu khí hậu mát lạnh không còn cái nóng thiêu gay gắt của những tháng hè. Chúng tôi có cái hẹn đi thăm người  con trai và 3 đứa cháu nội, vừa để thăm cháu và con và cũng là để khám bịnh chích ngừa căn bịnh cúm (Flu) luôn.

Tôi thức dạy lúc 6:30 sáng, vừa bước xuống đất thì một cái gì đó từ trong lồng ngực bộc  lên miệng, giống như  trong lồng ngực có đờm và nó làm tôi ho, tôi chạy vội vào phòng tắm nhổ xuống bồn cầu thì thấy đó là máu, rất nhiều máu làm đỏ ối cả  bồn cầu. Tôi hoảng sợ, gọi lớn ông xã chạy vào, khi nhìn thấy ông cũng hoảng hốt vì không biết chuyện gì đã và đang xảy ra cho tôi. Ông xã vội gọi người con trai và nói về tình trạng của tôi thì người con nói hãy đến ngay phòng mạch của con.

Khi tôi đến phòng mạch của con sau hơn một tiếng lái xe, trên đường đi tôi không bị ho ra máu. Nhưng đúng lúc khám bệnh thì lại ho và máu lại trào ra rất nhiều. Tôi quá sợ hãi, con tôi nói:

- "Không sao đâu mẹ, con nghĩ là một mạch máu nào đó trong mũi bị bể, nó giống như là mẹ bị chảy máu cam thôi".

Và con tôi bắt đầu hỏi bệnh của tôi

- "Mẹ có uống thuốc cao máu thường xuyên không?"

Tôi đáp: "có, mỗi ngày mẹ đều uống thuốc cao máu rất đúng giờ".

Con tôi hỏi tiếp: "Tối qua mẹ có ăn thì mặn không?"

Tôi đáp: "Buổi tối thường mẹ không ăn cơm với thức ăn bình thường, mẹ chỉ ăn một chén nhỏ Oatmeal".

- "Mẹ có uống loại herbs nào không?"

Tôi đáp: "Có"

- "Vậy tên loại herb là gì?"

Tôi đáp: "Thường ngày mẹ uống nước ép của 5 loại rau quả, hôm qua vì thèm một ly nước Giảo Cổ Lam nấu với lá dứa nên mẹ nấu thêm một nồi nhỏ và đã uống 2 ly, buổi sáng một ly và buổi tối trước khi đi ngủ một ly". 

Con tôi nói: "Y tá đã đo áp xuất của mẹ thì thấy là 185 như vậy quá cao, và mẹ không có dấu hiệu bị sốt. Như vậy là mẹ bị bể mạch máu ở đâu đó trong mũi hoặc trong phổi". 

Và con tôi nói tiếp: 

- "Mẹ hãy dừng ngay các loại dược thảo vì mẹ đã có chữa các căn bịnh của mẹ bằng Tây y rồi, nếu mẹ uống thêm các dược thảo nó có những phản ứng mà mình không ngờ được. Các bác sĩ người ta cũng nghiên cứu thuốc chữa bệnh từ các loại dược thảo và bào chế thành các loại thuốc chữa bệnh với cân lượng rõ ràng. Mẹ uống dược thảo thêm tức là mẹ tăng thêm liều độ với lại mẹ đâu biết phản ứng của nó sanh ra bệnh gì nữa. Mẹ phải ngừng ngay không uống dược thảo nha mẹ.".

Sau đó con tôi đưa giấy giới thiệu đến bác sĩ về phổi và bác sĩ tai mũi họng và dặn:

- "Vì hôm nay là Chủ Nhật nên các bác sĩ về phổi và về tai mũi họng không làm việc, sáng sớm ngày mai bố kiếm bác sĩ về phổi và tai mũi họng và đưa mẹ đi. Nhưng khi về nhà nếu thấy máu vẫn còn tiếp tục chảy nhiều thì bố phải đưa mẹ đi bệnh viện vào phòng cấp cứu ngay nha".

Sau đó chúng tôi đi về nhà và tôi liên tục ho ra máu nhiều lần nữa. Đến 9:30 tối lại ho ra máu rất nhiều nên chồng tôi quyết định chở tôi đến phòng cấp cứu của bịnh viện trong thành phố. 

Tại phòng cấp cứu của bịnh viện sau 3 tiếng chờ đợi, người y tá đưa tôi đến phòng chụp hình quan tuyến để làm Cat Scan. Sau đó tôi được đưa vào phòng khám để gặp bác sĩ. Tại đây chúng tôi gặp một chuyện hiểu lầm tai hại. Các bác sĩ và y tá tại phòng cấp cứu chứng kiến cảnh tôi ho ra máu thì họ nghĩ là tôi bị Ebola hoặc một bịnh có vi khuẩn lạ tai hại nào đó.

Vị bác sĩ trực hỏi tôi:

 - "Bà có đi du lịch nơi nào ngoài nước Mỹ gần đây không?"

Tôi trả lời: "Dạ không, gần 5 năm rồi tôi không đi đâu ra ngoài nước Mỹ"

Ông bác sĩ hỏi tiếp:

- "Thế bà có tiếp xúc với người nào bị bịnh không?"

Tôi ngơ ngẩn một chút rồi trả lời:

- "Tôi chỉ luẩn quẩn trong nhà và chồng tôi là người duy nhất tôi tiếp xúc. Ah! mà có lúc tôi ra làm vườn thì bị muỗi chích, tôi chắc có lẽ bịnh từ con muỗi chăng?"

Ông bác sĩ phì cười: "Con muỗi truyền bịnh cho bà sao!!!

Rồi ông ta đi ra, một lúc thì người y tá vào lấy máu từ trong người nói đem đi thí nghiệm. Một lúc thì tôi thấy họ đóng cửa phòng tôi lại. 

Sau đó, ông bác sĩ trực kéo thêm vị bác sĩ trưởng của ca cấp cứu vào  tuyên bố là tôi bị bịnh xưng phổi và sẽ chích cho tôi thuốc trụ sinh xong thì cho tôi về nhà đợi sáng hôm sau đi đến phòng mạch của bác sĩ phổi.

Tôi ngạc nhiên và hơi lo ngại là máu vẫn đang tiếp tục chảy vậy sao về nhà được, tôi hỏi ông ta:

- "Tôi về nhà thì máu có ngừng chảy không?"

Ông ta đáp: "dĩ nhiên là sẽ ngừng chảy, nhưng phải từ từ vì thuốc trụ sinh nó ngấm từ từ diệt những con vi khuẩn hết thì máu ngừng chảy"

Ông xã tôi nói: "Bác sĩ hãy để vợ tôi ở lại bịnh viện, rồi đến sáng tôi sẽ kiếm bác sĩ phổi khám cho vợ tôi. Chứ bây giờ máu vẫn tiếp tục ho ra thì về nhà chúng tôi cũng không biết làm gì, chẳng thà ở lại bịnh viện chờ sáng là hơn."

Ông bác sĩ nói chờ ông ra hỏi bác sĩ của bịnh viện xem có cho tôi ở lại không.

Sau một lúc họp khẩn với các bác sĩ của bịnh viện thì họ đồng ý cho tôi ở lại. Nhưng, họ cách ly tôi trong phòng cách ly đặc biệt của bịnh viện, các bác sĩ và y tá khi vào phòng tôi họ đều mang khẩu trang và vào rất là vội để đi ra ngay giống như họ sợ bị lây bịnh từ tôi. Tuyệt nhiên không ai nói cho tôi biết là họ nghỉ tôi bị bịnh gì mà chỉ nói là tôi bị pneumonia là viêm phổi. Bệnh viêm phổi là bệnh thường gây ra bởi hiện tượng nhiễm trùng do virus hoặc vi khuẩn.

Họ tiếp tục lấy máu từ trong người tôi đem đi thí nghiệm, thậm chí họ kêu tôi khạc máu vào một hộp nhỏ để đem đi thí nghiệm. Và một chuyện rất là buồn cười và tủi thân, đó là y tá không dám đến gần tôi, họ thấy trên giường bệnh tôi ngồi có túi để tôi ói vào khi đó đã đầy rồi họ kêu chồng tôi vứt vào thùng rác, và trên tay tôi còn đeo số hiệu của phòng cấp cứu thay vì y tá lấy ra và thay cái khác vào thì bà ta sai tôi tự lấy ra, nói xong bà chạy ra khỏi phòng liền. Tôi và chồng tôi ngơ ngác không hiểu chuyện gì đang xảy ra trong người tôi mà chỉ biết là mình đang bị cách ly trong bệnh viện.

Trong lòng lo lắng quá là lo lắng. Tôi ngồi nhắm mắt và định tâm, cố gắng kềm cơn ho không cho phát ra, bởi vì nếu ho là máu lại ộc ra. Lúc đó tôi nhớ lời giảng của Thầy tôi: Một phương cách thực hành trong lúc khó khăn để tự mình tìm sự bình tỉnh an ổn tinh thần, đó là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí, niệm giới, niệm Chư Thiên. Tôi bắt đầu niệm thầm:

"Buddham saranam gacchami, Dhammam saranam gacchami, Sangham saranam gacchami. Con nương tựa với Phật, Con nương tựa với Pháp,Con nương tựa với Tăng". 

Và tôi cầu nguyện Chư Thiên: "Với tất cả phước báu con đã làm như làm phước, cúng dường, bố thí, trai tăng trong suốt thời gian qua con xin hồi hướng đến tất cả Chư Thiên ở trên trời, Chư Thiên chung quanh nhà con, Chư Thiên ở chung quanh bệnh viện này, và Chư Thiên ở ngay trong bệnh viện này. Cầu xin qúi Ngài tùy hỉ với tất cả phước báu đó. Nguyện xin Chư Thiên phù hộ cho con tai qua nạn khỏi và bệnh tật được tiêu trừ"

Đến 10 giờ y tá mang thức ăn sáng cho tôi. Suốt ngày qua cho đến lúc này tôi đã ho ra máu liên tiếp, mất máu rất nhiều, rồi phần đói nên tôi đã ăn thức ăn bịnh viện rất ngon, sau khi ăn xong tôi lại ngồi nhắm mắt và cầu nguyện tiếp. Khoảng 11 giờ bác sĩ về phổi đến phòng tôi cùng với một bà y tá, đều mang khẩu trang với vẻ mặt rất khẩn trương như có cái gì đó đang xảy ra. Sau câu chào hỏi thì ông cho biết là đã coi hồ sơ bịnh lý của tôi và biết là tôi đã ho ra máu. Thì ngay lúc đó tự nhiên bụng tôi đau quặn rất là đau, giống như tôi phải đi ngay vào phòng vệ sinh chứ không sẽ không kịp, cho nên tôi ra dấu cho bà y tá giúp đẩy bình IV đang tiếp nước biển vào người tôi theo tôi. Vừa vào tới phòng vệ sinh  chưa kịp đóng cửa phòng thì từ trong người tôi xổ ra rất nhiều máu đen từ đường đại tiện trong khi đó máu trong miệng cũng ọc ra từng ọc, rất là dễ sợ. Bà y tá cuống quýt giúp tôi lau máu từ miệng và đỡ tôi ra khỏi phòng vệ sinh. Vị bác sĩ nhìn tôi trong trạng thái máu vẫn ào ạt chảy ra từ miệng, ngay lúc đó ông dơ tay lên gỡ cái khẩu trang ra khỏi miệng ông và nói một cách rất quả quyết:

- "Tôi khẳng định rằng bà không mắc bịnh TB (TB là tên viết tắc của căn bệnh Tuberculosis tức là lao phổi), mà là bà bị bể một đường máu nào đó trong phổi hoặc cuống phổi. Tôi sẽ báo cho nhà thương biết là họ không cần cách ly bà nữa". 

Ngay lúc đó bà y tá cũng gỡ cái khẩu trang của bà ra.

Lúc đó tôi mới biết là các bác sĩ của bệnh viện đã định bịnh của tôi là lao phổi. Vậy mà họ không cho tôi biết.

Ông bác sĩ nói tiếp: "Tình trạng của bà đang rất là nguy hiểm, bà đã mất rất nhiều máu trong gần 30 tiếng đồng hồ. Tôi đi báo cho các bác sĩ của bệnh viện. Chúng tôi phải làm việc ngay chứ không thể kéo dài nữa".

Ông đi rất nhanh ra khỏi phòng, khoảng 30 phút sau ông trở lại và nói:

- "Tôi đã nói với các bác sĩ nhà thương là bà cần làm gấp cuộc phẩu thuật tên là Bronchoscopy. Nhưng bà phải nhịn đói 8 tiếng không được ăn gì. Tôi được cho biết là bà đã ăn sáng rồi, như vậy cuộc phẩu thuật sẽ trở nên khó khăn vì khi gây tê mê bà sẽ bị ói hết thức ăn từ trong bao tử ra. Nhưng vì tình trạng khẩn cấp nguy hại tới tính mạng cho nên chúng tôi chấp nhận việc bà sẽ bị ói vì nó chỉ làm dơ cái máy móc của nhà thương thôi mà cứu được tánh mạng của bà nên nhà thương đã chấp nhận tiến hành cuộc phẩu thuật này".


Và ông giải thích Bronchoscopy là gì, như sau: "Bronchoscopy là một dụng cụ y học tạm gọi là dụng cụ soi phế quản đi vào lồng phổi của bệnh nhân qua đường khí quản. Nó là một ống nhỏ hơn 1/2 inch và dài khoảng 2 feet. Được đưa vào qua miệng hoặc mũi của bệnh nhân và luồng xuống phổi. Qua đó chúng tôi có thể nhìn thấy vết đứt của đường máu ở nơi nào và từ đó chúng tôi sẽ chận lại không cho máu chảy ra tiếp".

Và ông nói tiếp:

- Bây giờ bà nằm nghỉ chờ tôi đi chuẩn bị máy, cuộc phẩu thuật sẽ bắt đầu lúc 2 giờ.

Lúc bấy giờ là 12:00 trưa

Tôi có phần yên tâm và bớt đi sự lo lắng. Tuy nhiên, tôi vẫn nhắm mắt định tâm và tiếp tục cầu nguyện: 

-" Buddham saranam gacchami, Dhammam saranam gacchami, Sangham saranam gacchami - Con nương tựa với Phật, Con nương tựa với Pháp, Con nương tựa với Tăng. 

Và  cầu nguyện Chư Thiên: "Với tất cả phước báu con đã làm như làm phước, cúng dường, bố thí, trai tăng trong suốt thời gian qua con xin hồi hướng đến tất cả Chư Thiên ở trên trời, Chư Thiên chung quanh nhà con, Chư Thiên ở chung quanh bệnh viện này, và Chư Thiên ở ngay trong bệnh viện này. Cầu xin qúi Ngài tùy hỉ với tất cả phước báu đó. Nguyện xin Chư Thiên phù hộ cho con tai qua nạn khỏi và bệnh tật được tiêu trừ"

Đến 1:45 thì y tá đẩy tôi xuống phòng phẩu thuật để chuẩn bị cho việc phẩu thuật. Họ để tôi nằm trên bàn phẩu thuật. Bên tay phải của tôi là một màn hình lớn, nó giống như một cái màn ảnh của computer, phía đầu tôi là cái cần có gắn bộ phận của máy Bronchoscopy. Đầu tiên họ bơm vào 2 bên mũi và cổ họng tôi mỗi nơi 3 mũi thuốc tê, là loại thuốc nước làm tê cứng hai bên mũi và cổ họng tôi, tôi bắt đầu cảm thấy như muốn ngủ và sau đó thì tôi không còn biết gì nữa.

Tôi tỉnh giậy khi nghe tiếng gọi của vị bác sĩ:

- Mrs Nguyễn

Vị bác sĩ thấy tôi mở mắt nên nói tiếp: 

- Chúng tôi dùng máy bronchoscopy đưa vào lồng ngực của bà và đã thấy nơi máu phun ra nhưng vì máu phun ra nhiều quá và nó lại nằm sâu bên trong lồng phổi nên không thể hàn vết nứt được. Do vậy, tôi đã tạm thời chặn nơi đó lại. Bây giờ chúng tôi sẽ dùng thêm một phương pháp phẩu thuật khác để tìm vết nứt và hàn nó lại, phương pháp này gọi là Embolization hay còn gọi là Pulmonary angiography. 

Pulmonary angiography là một dụng cụ y học khác dùng để tìm kiếm các động mạnh trong phổi khi có dấu hiệu ra máu trong phổi. Dụng cụ này với x-rays và một loại thuốc nhuộm màu đặc biệt để có thể nhìn thấy bên trong động mạnh. 

Trên cơ thể của bệnh nhân, thường xuyên nhất là cánh tay hoặc ở háng. Trường hợp của tôi, bác sĩ dùng ống thông từ nơi háng cắt nhỏ trong một tĩnh mạch và chèn ống thông vào đó rồi đi xuyên qua các tĩnh mạch  và cẩn thận di chuyển lên và thông qua các buồng tim bên phải và vào động mạch phổi, dẫn đến phổi. Bác sĩ  nhìn thấy hình ảnh qua quang tuyến x-ray trực tiếp của buồng phổi trên một màn hình computer , và sử dụng chúng như một bản hướng dẫn.

Một khi ống thông đi qua, thuốc nhuộm được tiêm vào ống thông. Hình ảnh X-ray được thực hiện rõ ràng thuốc nhuộm di chuyển qua các động mạch của phổi. Các thuốc nhuộm giúp phát hiện nơi có dòng  máu bị đứt và ở đó bác sĩ sẽ hàn vết nứt đó lại, máu sẽ được ngăn lại không cho chảy ra nữa.
Cuộc phẩu thuật kéo dài 45 phút. Tôi được làm cho ngủ trong suốt thời gian phẩu thuật cho đến khi bác sĩ gọi tôi và cho tôi biết cuộc phẩu thuật xong với kết quả khả quan, tôi sẽ không còn bị ho ra máu nữa.

Vị bác sĩ Pulmonary angiography cho tôi biết vết mạch máu bị đứt nằm phía phổi bên trái của tôi, ngay dưới vú bên trái nằm ngay nơi cách nay 10 năm tôi bị breast cancer và là nơi tôi đã phải chịu hơn 30 lần radiation để diệt các mầm mống cancer nếu còn sót lại. Do vậy các mạch máu nơi đó bị yếu hơn các nơi khác trong thân thể của tôi. Và do tôi bị cao áp huyết mặc dù tôi uống thuốc tây về áp huyết  thường xuyên nhưng vì tôi dùng các loại herbs mà tôi không biết rõ phản ứng phụ của nó ra sao cho nên đã làm tăng áp huyết, một khi áp huyết bị tăng thì máu phải kiếm đường bung ra thì dĩ nhiên nơi nào mạch máu yếu nhất thì nơi đó bị bung ra. Đó là lý do bác sĩ cho tôi biết tôi bị đứt mạch máu ở phổi 

Tôi thật là xúc động và chân thành cảm ơn vị bác sĩ phổi bronchoscopy và bác sĩ phẩu thuật Pulmonary angiography cùng với các y tá trong hai ca phẩu thuật đã tận tình giúp và cứu mạng tôi thoát khỏi cơn nguy hiểm này.

Cũng như sự  lo lắng, chăm sóc tôi trong cơn hoạn nạn với đầy sự thương yêu của ông xã và 4 người con trai của tôi đã không ngại mệt nhọc mà ở cạnh tôi suốt thời gian tôi ở bệnh viện  quên ăn quên ngủ chỉ một lòng lo lắng cho tôi. Tôi vô cùng cảm kích họ. 

Cũng như sự hổ trợ của các vị Chư Thiên chung quanh tôi, chung quanh nhà tôi, ở trên trời, dưới đất, chung quanh bệnh viện và trong bệnh viện đã hổ trợ tôi thoát khỏi cơn nguy hiểm này. Tôi vô cùng nhớ ơn họ. Nguyện xin hồi hướng tất cả các phước báu mà tôi đã thực hành từ bấy lâu nay để các vị Chư Thiên tùy hỉ thọ dụng.

Câu niệm Phật luôn luôn trong đầu tôi mãi mãi và mãi mãi: 

- Buddham saranam gacchami, Dhammam saranam gacchami, Sangham saranam gacchami - Con nương tựa với Phật, Con nương tựa với Pháp, Con nương tựa với Tăng.

Cuối cùng tôi luôn nhớ lời các con tôi nói khi đón tôi về nhà:

Mom, no more herbs please!!!

Source Internet.

Thứ Hai, 28 tháng 9, 2015

Thế Giới Hồi Giáo Xưa và Nay



SỰ BÀNH TRƯỚNG ĐẠO HỒI

Trong lịch sử thế giới, chưa từng có một tôn giáo nào bành trướng một cách mạnh mẽ và nhanh chóng cho bằng đạo Hồi. Từ một nhóm người du mục sống trong một ốc đảo heo hút giữa sa mạc Syro-Arabia đã mau chóng biến thành những con người đầy quyền lực tung hoành từ Cận Đông đến Âu Châu và từ Bắc Phi đến tận các nước Châu Á:
- Chỉ trong vòng 10 năm kể từ ngày giáo chủ Muhammad qua đời (632-642) quân Hồi Giáo Ả Rập đã chiếm trọn bán đảo Arabia (rộng gấp 8 lần Việt Nam), chiếm Iraq, Syria, Palestine, Ai Cập và phía Tây nước Iran.
- Trong 2 năm (648-649), quân Hồi chiếm Carthage, Tunisia.
Một điều làm cho cả thế giới kinh ngạc là lần đầu tiên người Ả Rập chiếm một nước Âu Châu, đó là Hy Lạp.
- Thừa thắng xông lên, người Hồi Giáo Ả Rập mở cuộc chiến tranh đánh Tây Ban Nha. Sau 5 năm, người Hồi chiến thắng đã chiếm trọn nước Âu Châu rộng lớn và nổi tiếng sùng đạo Công Giáo nhất thời bấy giờ.
- Năm 712, quân Hồi Giáo chiếm trọn Iran (Ba Tư) và dùng nước này làm bàn đạp tiến quân đánh chiếm các nước Trung Á ở phía nam nước Nga, chiếm vùng Bắc Ấn rộng lớn (nay là Pakistan và Afganistan) và xâm nhập phía Tây Trung Quốc - Quân Hồi bị quân nhà Đường chận lại tại sông Talas nên phải rút về Trung Á.
Sự xuất hiện và bành trướng của đạo Hồi trong thế kỷ 7 hung bạo dữ dội như cơn gió xoáy (tornado) khiến cho cả thế giới phải kinh hoàng.
Chúng ta thử tìm hiểu những nguyên nhân nào đã khiến cho đạo Hồi có thể bành trướng với tốc độ vũ bão như vậy. Các sử gia đã phân tích 3 nguyên nhân sau đây:
Nguyên nhân 1: Qua nhiều ngàn năm sống trên các cánh đồng cỏ ở sa mạc Syro-Arabia, kiếp sống lang thang của những người Ả Rập càng ngày càng trở nên khó khăn vì đất đai ngày càng trở nên khô cằn. Từ thế kỷ 6, bộ lạc Quraysh (tổ tiên của Muhammad) có sáng kiến bỏ nghề du mục để chuyển hẳn sang nghề thương mại. Họ tổ chức các cuộc đi buôn đường xa với những đoàn lữ hành (caravans) gồm hàng trăm người và rất nhiều ngựa, lạc đà để chở hàng hóa lương thực, lều vải, vũ khí... Dần dần, thị trường ngày càng được mở rộng, nhu cầu thương mại gia tăng, những đoàn lữ hành có thể gia tăng lên tới nhiều ngàn người.
Do nhu cầu tự vệ, mọi người trong đoàn lữ hành đều phải học cưỡi ngựa, cưỡi lạc đà, luyện tập sử dụng các thứ vũ khí như gươm giáo cung tên, kể cả võ thuật và chiến thuật quân sự. Ngoài ra, họ học nói nhiều ngoại ngữ, học cả địa lý và phong tục tập quán của các nước lân cận để gia tăng khả năng giao dịch thương mại. Trải qua nhiều thập niên, những thương gia (traders) Ả Rập trở thành những người đa tài, đa năng và đa hiệu. Họ chẳng những là những thương gia rành nghề mà còn là những quân nhân thiện chiến, kỹ luật và còn là những người lãnh đạo quần chúng.
Vào đầu thế kỷ 7, Mecca là thủ phủ của những người Quraysh đã trở nên một trung tâm thương mại lớn nhất tại Trung Đông. Những người Quraysh không còn có dáng dấp quê mùa nghèo khổ của thế kỷ trước nữa trái lại họ đã trở thành những người văn minh giàu có. Điều đó làm cho nhiều bộ lạc Ả Rập khác phải thèm muốn và cố gắng noi theo. Một trong những bộ lạc nổi tiếng hung dữ là bộ lạc Bedouins bắt chước bộ lạc Quraysh đã bỏ nghề du mục và tham gia vào các đoàn caravans của Mecca.
Vào giữa thế kỷ 7, gặp cơ hội đạo Hồi phát triển, các bộ lạc Ả Rập, nhất là Quraysh và Bedouin, đã nô nức nhập cuộc dùng tôn giáo làm phương tiện bành trướng lãnh thổ để thay đổi môi trường sống tại bán đảo Ả Rập quá cằn cỗi.
Nguyên nhân 2: Từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 7, toàn vùng Trung Đông và Bắc Phi bị hai đế quốc Byzantine và Sassanian thay phiên nhau thống trị. Đế quốc Byzantine là hậu thân của đế quốc La Mã, được Đại Đế Constantine thành lập năm 330, đặt thủ phủ tại hải cảng Byzantine của Hy Lạp. Từ đời Constantine (thế kỷ 4) đến đời hoàng đế cuối cùng của đế quốc Byzantine vào giữa thế kỷ 15, tất cả đều là những hoàng đế theo Ki Tô Giáo Đông Phương (Eastern Christian Church) sau này trở thành Chính Thống Giáo. Đế Quốc Sassanian là đế quốc Ba Tư, tồn tại 427 năm (từ năm 224 đến 651). Các hoàng đế của đế quốc Sassanian đều theo đạo Hỏa Giáo (Zoroastrianism). Cả hai đế quốc nói trên đánh nhau liên miên suốt 4 thế kỷ, đến đầu thế kỷ 7 thì cả hai đế quốc này đều bị kiệt quệ tạo nên một khoảng trống quyền lực (a power vacuum) tại Trung Đông và Bắc Phi. Do đó, những đoàn kỵ binh của Hồi Giáo Ả Rập đã tiến vào lãnh thổ của cả hai đế quốc này như tiến vào chỗ không người.
Nguyên nhân 3: Giáo lý đạo Hồi là sản phẩm của người Ả Rập nên được người Ả Rập đón nhận một cách dễ dàng và tự nhiên. Từ thời xa xưa, người Ả Rập đã chấp nhận niềm tin của Abraham, nghĩa là tin có Thiên Chúa (tiếng Ả Rập gọi là Allah) tin có Thiên đàng, Hỏa ngục, tin có các thiên thần v.v... Cho nên người Ả Rập không coi Hồi Giáo như một đạo ngoại lai mà là đạo cổ truyền của dân tộc. Văn thơ trong kinh Koran đối với người Ả Rập là những áng thơ văn tuyệt tác. Mỗi khi họ đọc kinh Koran là một dịp họ ngâm thơ, họ cảm thấy những vần thơ đó rất hấp dẫn vì rất hợp với khiếu thẩm mỹ văn chương của họ. Ý niệm thánh chiến (Jihad) và ý niệm tử đạo (martyrdom) hoàn toàn phù hợp với tâm lý vốn hung bạo của người Ả Rập vì họ rất quen thuộc với cuộc sống đầy bất trắc tại sa mạc. Kinh Koran mô tả thiên đàng rất hấp dẫn đối với các chiến binh trẻ tuổi: Sau khi chết trận, được coi như tử đạo, sẽ được Chúa cho lên thiên đàng để hưởng đủ lạc thú cho đến muôn đời. Lạc thú độc đáo nhất mà chỉ đạo Hồi mới có, đó là những người chết trận hoặc tử đạo đều được những cô gái trinh tuyệt đẹp đón tiếp và phục vụ lạc thú tình dục cho đến muôn đời vì mọi người ở thiên đàng đều trẻ mãi không già! Niềm tin đặc biệt này đã là một yếu tố tâm lý quan trọng khiến cho những người lính Hồi Giáo trở thành những chiến sĩ rất dũng cảm trong các cuộc thánh chiến. Chỉ vì cuồng tín, những đoàn quân Hồi Giáo đã lập nên những chiến công oanh liệt như những kỳ tích vượt xa sự dự tưởng của mọi người.
Những cuộc chiến tranh mở rộng nước Chúa của Hồi Giáo (Kingdom of Allah) từ ngày lập đạo tới nay có thể được chia ra làm hai thời kỳ:
Thời kỳ I - từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13: Đạo Hồi bành trướng và phát triển tạo thành một số quốc gia theo đạo Hồi, đứng đầu cộng đồng Hồi Giáo là một vị vua được gọi là Caliph, có nghĩa là "người kế vị giáo chủ Muhammad về phương diện thế quyền ". Xin ghi thêm ở đây là đạo Hồi tin giáo chủ Muhammad là thiên sứ cuối cùng của Allah cho nên không một ai có quyền tự xưng là kẻ thừa kế của Ngài về phương diện thần quyền.
Thời kỳ II - từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20: Do những biến cố đặc biệt của thế giới đã đưa đến sự hình thành ba đế quốc Hồi Giáo. Trước hết là sự xâm lăng của quân Mông Cổ chiếm các nước Trung Đông và sau đó chiếm các nước Bắc Ấn và nhiều nước Á Châu khác tạo thành một đế quốc Mông Cổ rộng lớn. Từ cuối thế kỷ 13, nhiều hoàng đế Mông Cổ theo đạo Hồi đã tạo nên đế quốc Hồi Giáo Mughul (do chữ Mongol mà ra). Trong thế kỷ 15, tại Âu Châu, người Thổ Nhĩ Kỳ Hồi Giáo chế ra thuốc súng và lập ra binh chủng pháo binh đầu tiên trên thế giới. Dựa vào sức mạnh quân sự, người Thổ Hồi Giáo xua quân đánh chiếm nhiều nước trên cả 3 lục địa Âu, Á, Phi và lập nên đế quốc Ottoman. Cuối cùng, dân tộc Azerbaizan ở tây nam biển Caspian bỗng nhiên trở nên hùng mạnh vào đầu thế kỷ 16, cất quân đánh chiếm nhiều nước Âu Châu và Trung Đông tạo thành đế quốc Safavids theo giáo phái Shiite.

I. THỜI KỲ CAI TRỊ CỦA CÁC CALIPHS
(The Caliphate Rulers)
*Bốn người kế vị đầu tiên của Muhammad (632-661):
Danh từ Hồi Giáo Ả Rập gọi chung cả bốn vị thừa kế đầu tiên của giáo chủ Muhammad là RASHIDUN - Họ được coi là 4 trụ cột của Hồi Giáo trong thời kỳ sơ khai. Họ đã lần lượt thay thế nhau trong 29 năm kể từ khi Muhammad qua đời, nhưng những việc làm của họ đã có những ảnh hưởng hết sức lớn lao cho sự tồn vong của đạo Hồi. Bốn vị đó là : Abu Bakr, Umar Khattab, Uthman Affan và Ali Talib.
1. Abu Bakr (632-634). Sau khi Muhammad qua đời, cộng đồng Hồi Giáo non trẻ lâm vào tình trạng hỗn loạn vì không có lãnh đạo. Không một ai được đa số tín đồ Hồi Giáo tín nhiệm bầu lên làm nguời kế vị Muhammad. Trước tình thế bế tắc đó, Abu Bakr tự động đứng lên dành quyền lãnh đạo. Ông là một thương gia giàu có và có uy tín bậc nhất ở Mecca. Ông đã nghiêm khắc ra 2 lệnh cấm khẩn cấp để bảo vệ đạo Hồi và cộng đồng Hồi Giáo:
- Tuyệt đối cấm không một tín đồ nào được rời bỏ cộng đồng Hồi Giáo (Islamic confederacy)
- Không một ai được tự xưng là tiên tri vì Muhammad là vị tiên tri cuối cùng của Thiên Chúa trên thế gian này.
Abu Bakr đã mau chóng phá tan các âm mưu chia rẽ cộng đồng Hồi Giáo và chỉ sau 2 năm, toàn bán đảo Ả Rập đã theo đạo Hồi. Bán đảo Ả Rập rất rộng lớn, (gấp 8 lần diện tích Việt Nam) hiện được chia thành nhiều quốc gia độc lập: Saudi Arabia, Yemen, Quatar, Omar và Emerite.
2. Umar Khattab (634-644). Sau khi Abu Bakr qua đời, Umar được bầu làm người kế vị (Caliph) cai quản cả một cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn trên toàn bán đảo Ả Rập.
Umar là một thiên tài quân sự kiệt xuất trong lịch sử Hồi Giáo. Ông đã ban hành trên toàn lãnh thổ Ả Rập những biện pháp sau đây:
- Để bảo toàn lực lượng Hồi Giáo, các bộ lạc trong Cộng đồng đạo Hồi tuyệt đối không được đánh nhau.
- Mọi người nam giới trong các bộ lạc trên lãnh thổ bán đảo Ả Rập đều là các binh sĩ, tất cả đều được huấn luyện quân sự và được sắp xếp thành các đơn vị quân đội. Umar tự xưng là "Tư lệnh của các tín đồ" (The commander of the faithful). Sau hai năm huấn luyện các binh sĩ và trang bị vũ khí đầy đủ, Umar bắt đầu mở mang nước Chúa bằng sức mạnh quân sự:
* Năm 636, Umar đích thân chỉ huy quân Hồi Giáo chiếm Iraq và Syria.
* Năm 637, Umar chiếm toàn lãnh thổ của đế quốc Sassanian (Ba Tư) và chiếm thành phố lớn nhất của đế quốc Byzantine là Anatolia.
* Năm 638, Umar xua quân chiếm Palestine và thánh địa Jerusalem.
* Năm 641, Umar chiếm toàn bộ các nước Bắc Phi gồm Ai Cập, Algeria, Tunisa và Maroc.
Một điều đáng chú ý là những đoàn quân Hồi Giáo đã tiến chiếm những vùng đất xa xôi thuộc nhiều hướng khác nhau nhưng vị chỉ huy tối cao là Umar vẫn đặt bản doanh ở Medina, một ốc đảo trong sa mạc Syro - Arabia. Ông chỉ huy các đoàn quân Hồi Giáo trên những sa bàn và những bản đồ tại văn phòng của ông. Dưới sự lãnh đạo kiệt xuất của Umar trong 10 năm, Hồi Giáo từ một giáo phái nhỏ ở sa mạc đã biến thành một đế quốc rộng lớn. Các tín đồ Hồi Giáo cho đó là một phép lạ của Allah, trong khi Âu Châu bắt đầu cảm thấy e ngại trước sự lớn mạnh của một tôn giáo mới.
Họ gọi đạo Hồi là "đức tin của bạo lực" (A violent faith) hoặc là một "tôn giáo quân phiệt" (a militaristic religion). Vào một ngày định mệnh trong tháng 11 năm 644, trong khi Umar đang cầu nguyện trong đền thờ tại Medina thì bị một tù binh người Ba Tư đâm chết.
3. Uthman (644-656). Uthman là cánh tay mặt và phục vụ dưới trướng của Umar 10 năm. Uthman đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm về tài thao lược quân sự của người tiền nhiệm. Vào lúc nầy, Hồi Giáo là một quyền lực quân sự lớn ở trong vùng vì họ đã tịch thu được rất nhiều chiến lợi phẩm quân sự và tích lũy được rất nhiều tài nguyên kinh tế dự trữ tại các vùng chiếm đóng. Dưới sự lãnh đạo tài ba của Uthman trong 12 năm, quân Hồi đã lập nên nhiều kỳ tích chưa từng thấy:
- Trước hết, quân Hồi chiếm Hy Lạp và nhiều nước phía đông Địa Trung Hải.
- Mấy năm sau, một cánh quân tiến về phía Tây chiếm Libya.
- Một cánh quân khác tiến về phía đông chiếm nước Âu Châu Armenia, tiến vào miền Caucase của Nga. Trong khi đó một cánh quân khác tràn xuống phía nam đánh chiếm Bắc Ấn Độ (tức Afganistan và Pakistan ngày nay).
Tới lúc này, Hồi Giáo đã thành một đế quốc mênh mông kéo dài từ Âu sang Á tới Bắc Phi. Những quân lính Ả Rập Hồi Giáo hầu hết đều đã xa nhà trên 10 năm, phần đông đều cảm thấy chán nản. Nhiều tướng lãnh Hồi Giáo xa chủ tướng đã quá lâu nên cũng mất đi tình thân ban đầu.
Năm 656, một nhóm tướng và binh sĩ bất mãn đã bất thần trở về Medina vây bắt và giết chết Uthman tại chỗ. Nhóm này đưa Ali Talib lên làm vị Caliph thứ tư của Hồi Giáo.
4. Ali Talib (656-662). Vụ sát hại Uthman để đưa Ali lên thay là một biến cố vô cùng tai hại cho Hồi Giáo trong suốt nhiều thế kỷ qua và có thể còn kéo dài mãi mãi về sau. Ali là em họ và đồng thời là con rễ của Muhammad. Khi vừa được bầu lên làm Caliph, Ali đã gặp phải sự chống đối của Muawiyah là người nhà của Uthman. Muawiyah lúc đó là quan toàn quyền Hồi Giáo cai trị Syria lên tiếng chỉ trích Ali đã không trừng phạt kẻ sát hại Uthman. Ali mang quân đến đánh Muawiyah nhưng hai bên đánh nhau khá lâu không phân thắng bại nên phải ngưng chiến. Năm 662, Ali bị ám sát chết. Muawiyah tự cho mình là người đang nắm quyền lực quân sự mạnh nhất nên tự xưng là Caliph lãnh đạo cộng đồng Hồi Giáo. Y tự ý dời thủ đô Hồi Giáo từ Medina về Damacus lúc đó là thủ đô của Syria. Muawiyah mở đầu cho một triều đại Hồi Giáo kéo dài tới 6 thế kỷ. Đó là triều đại Umayyad (Umayyad Dynasty) gồm những vị vua cai trị các nước Hồi Giáo, tất cả đều tự xưng là Caliph (661-1250). Do đó, tất cả các vua Hồi Giáo thuộc triều đại Umayyad đều được gọi chung là "Caliphate Rulers", có nghĩa là các nhà lãnh đạo cộng đồng với tư cách là người kế vị Muhammad.
Riêng cá nhân Muawiyah cai trị toàn bộ cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn trong 19 năm. Ông biến những người theo ông thành một giai cấp quí tộc mới, nói đúng hơn là một giai cấp thống trị (a ruling class). Chủ thuyết của Muawiyah là cai trị dân bằng sức mạnh quân sự (military aristocracy). Muawiyah chết vì bệnh năm 680.
Trong thời gian đó, những người Hồi Giáo thân Ali đã lập ra một giáo phái mới là giáo phái Shiite. Số tín đồ Hồi Giáo còn lại được gọi chung là Sunni, có nghĩa là Đa số. Năm 680, vua Yazid (con của Muawiyah) đến Medina chặn bắt con trai của Ali là Husayn và giết nhiều người thuộc giáo phái Shiite. Năm sau (681), Yazid mang quân trở lại Medina (nơi ở cuối cùng của Muhammad) tàn phá và dìm thành phố thánh địa này trong biển máu. Để trả thù, giáo phái Shiite mang quân chiếm thánh địa Mecca và tàn phá nặng nề thành phố này. Từ đó đến nay, trải qua trên 13 thế kỷ, hai giáo phái Sunni và Shiite thường xuyên xung đột nhau nhiều trận đẫm máu. Số người tử trận cả hai bên có thể lên tới nhiều chục triệu người. Đây là một thảm họa lớn nhất trong lịch sử thế giới Hồi Giáo.
II. THỜI KỲ CỦA NHỮNG ĐẾ QUỐC HỒI GIÁO - TỪ THẾ KỶ 13 ĐẾN THẾ KỶ 20.
1. Đế Quốc Mughul - Mughul là tiếng phiên âm Ả Rập để gọi người Mông Cổ (Mongol). Người sáng lập đế quốc Mông Cổ là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan 1162-1227). Thoạt đầu ông thống nhất các bộ lạc du mục Mông Cổ vốn có tài cưỡi ngựa và bắn cung. Sau đó ông huấn luyện và tổ chức họ thành quân ngũ và biến họ thành những đoàn kỵ binh bách chiến bách thắng. Với đoàn quân hùng mạnh này, Thành Cát Tư Hãn đã lần lượt đánh chiếm nhiều nước từ Á sang Âu tới tận Trung Đông và Phi Châu. Luật tác chiến rất nổi tiếng của Thành Cát Tư Hãn là : Hễ tới nơi nào ngoan ngoãn đầu hàng thì tha, bất cứ một thành phố hay làng mạc nào chống cự đều bị phá bình địa và tất cả mọi người dân không kể già trẻ lớn bé đều phải chết!
- Năm 1219, quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn đánh chiếm Thổ Nhĩ Kỳ. Vua Thổ cùng đoàn tùy tùng bỏ chạy bị quân Mông Cổ truy kích qua Iran tới tận Azerbaizan thì bị bắt. Quân Mông Cổ tới đâu đều để lại phía sau sự đổ nát hoang tàn.
- Năm 1231, hàng loạt các thành phố nổi tiếng của Hồi Giáo như Baghdad, Bukhara, Damacus... đều bị đốt phá bình địa với những xác chết la liệt trên đường phố. Dân chúng sợ hãi lũ lượt kéo nhau chạy qua các nước lân cận.
- Năm 1255, Mông Cổ hoàn thành một đế quốc rộng lớn bao la bao gồm Trung Quốc, Cao Ly, Ngoại Mông, hàng chục nước Trung Á và Bắc Ấn Độ, Syria, Palestine, Thổ Nhĩ Kỳ.
Nhưng một biến cố quan trọng đã xảy ra cho cả Hồi Giáo lẫn Mông Cổ, đó là vào năm 1295, hoàng đế Mông Cổ Ghazan Khan theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni. Từ đó về sau, các hoàng đế Mông Cổ đều theo đạo Hồi. Càng về sau, các quan và cả triều đình Mông Cổ trong đế quốc đều thành những tín đồ Hồi Giáo thành tín. Các học sĩ Hồi Giáo Ả Rập (Ulama) được trọng dụng, nhất là trong việc soạn thảo các bộ luật hình sự và dân sự phỏng theo luật Hồi Giáo Sharia.
Hoàng đế Mông Cổ Timur Lenk đóng đô tại Thổ Nhĩ Kỳ xua quân đánh chiếm Iran năm 1387, chiếm hải cảng Golden Horde của Nga năm 1395, chiếm Ấn Độ năm 1398, tàn phá thủ đô New Delhi và giết hàng chục ngàn tù binh Hindu tại đây. Năm 1400,Timur chiếm hai nước Iran và Iraq. Tại đây, Timur ra lệnh tàn sát hàng triệu người thuộc giáo phái Shiite. Vì quá say máu chiến thắng, năm 1404, Timur kéo quân ngược về phía Trung Á rồi vượt biên giới tiến đánh vào phía Tây Trung Quốc. Cuộc chiến kéo dài qua năm sau, Trung Quốc phản công giết quân Mông Cổ rất nhiều và bản thân Timur cũng bị tử trận trong năm 1405.
Những hoàng đế Mông Cổ kế tiếp chú trọng việc mở rộng đế quốc ở Châu Á:
- Năm 1478, đế quốc Mughul chiếm Indonesia và biến nước này thành nước Hồi Giáo. Ngày nay, Indonesia là một nước đông dân nhất của thế giới đạo Hồi với trên 200 triệu dân.
- Từ 1520 đến 1837, đế quốc Mughul cai trị toàn Ấn Độ. (Ấn Độ mang tên Mughul Empire of India). Hoàng đế Mông Cổ đóng đô tại New Delhi. Năm 1643, hoàng đế Mông Cổ cho xây ngôi mộ của hoàng hậu ở ngoại ô New Delhi rất nổi tiếng, đó là ngôi mộ Taj Mahal..
- Năm 1747, đế quốc Mughul chiếm Afganistan và cai trị nước này 100 năm.
Năm 1831, người Anh chiếm Ấn Độ và chấm dứt đế quốc Mughul trên lục địa Châu Á.
2. Đế quốc Ottoman (1289-1924)
Danh từ Ottoman xuất phát từ tên của một bộ lạc du mục là OSMAN ở phía tây Thổ Nhĩ Kỳ. Bộ lạc này bắt đầu khởi binh từ năm 1280. Chỉ trong 9 năm, họ chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn gồm có Tây Nam Á Châu, Đông Nam Âu Châu và Đông Bắc Phi Châu. Họ gọi đế quốc của họ là OTTOMAN. Những người lãnh đạo đế quốc này đều theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni. Họ chẳng những nổi tiếng về tài năng thao lược quân sự mà còn nổi tiếng về khả năng chính trị rất khéo léo của họ. Nhờ vậy, đế quốc Ottoman đã tồn tại qua 7 thế kỷ.
- Năm 1389, quân Ottoman chiếm Albania và Kosovo, biến vùng này thành những nước theo Hồi Giáo.
- Năm 1444, quân Ottoman đánh tan Thập Tự Quân của giáo hoàng La Mã tại Bulgaria.
- Tháng 4.1453, quân Hồi Giáo Ottoman xóa sổ đế quốc Byzantine, tức đế quốc Ki Tô Giáo Đông Phương và chiếm thủ đô của đế quốc này là thành phố Constantinople. Điểm son của Ottoman là sau khi chiếm Constantinople và nhiều lãnh thổ của Byzantine, Ottoman công bố chính sách khoan dung tôn giáo đối với Do Thái Giáo và Ki Tô Giáo. Nhờ vậy, trong nhiều thế kỷ sau, Ottoman đã mở rộng thương mại với các nước Âu Châu Ki Tô Giáo và trong lãnh thổ đế quốc không có một cuộc nổi loạn nào. Tuy nhiên, đối với giáo phái Shiite, Ottoman có một chính sách quyết liệt không khoan nhượng.
- Năm 1467, Ottoman công bố thánh chiến với giáo phái Shiite, các tín đồ Shiite trong đế quốc bị lùng giết.
- Từ 1467 đến 1520, quân Ottoman tiến chiếm Syria, Ai Cập, Bắc Phi và toàn bán đảo Arabia.
- Từ 1520 đến 1534, quân Ottoman chiếm Nam Tư và một phần Âu Châu tới thủ đô Vienne của Áo.
- Năm 1606, Ottoman chiếm Romania, Hungaria, Ba Lan và Tiệp Khắc. Tới lúc này, đế quốc Ottoman trở thành siêu cường quốc tế (World Power).
Từ đầu thế kỷ 19, các cường quốc Âu Châu (Anh, Pháp, Đức) bắt đầu xâm chiếm các phần đất của Ottoman và dồn đế quốc này vào chỗ suy tàn.
3. Đế quốc Safavids của giáo phái Shiite (1501-1779)
Thoạt đầu Safavids là một nhánh của giáo phái Shiite xuất phát tại nước Azerbaizan ở tây nam biển Caspian.
Năm 1501, lãnh tụ của giáo phái Safavids là Esmail khởi binh chiếm luôn cả nước Azerbaizan. Esmail tự xưng là "Vua Hồi Giáo" (Sha/Sultan) và ra lệnh cho toàn dân phải theo đạo Hồi (giáo phái Shiite). Ít lâu sau, Esmail xua quân đánh chiếm các nước lân cận theo Chính Thống Giáo là Armenia, Georgia và vùng núi Caucase của Nga. Trong thời gian chiếm đóng, quân Hồi Safavids đã giết hại rất nhiều người Chính Thống Giáo. Riêng tại Armenia, số tín đồ Chính Thống Giáo bị giết lên tới một triệu người. Sau đó quân Safavids chuyển qua phía đông tấn công thành phố Anatolia để dằn mặt đế quốc Ottoman theo giáo phái Sunni. Trong khi đó, một nhóm khác thuộc giáo phái Shiite ở Ba Tư nỗi lên cướp chính quyền của giáo phái Sunni. Nhóm nổi loạn ra lệnh cho cả nước Ba Tư phải theo Shiite, ai bất tuân lệnh đều bị giết. Tất cả các học sĩ (Ulamas) lãnh đạo giáo phái Sunni đều bị chém đầu, không sót một ai. Kể từ đó, nước Ba Tư (Iran) trở thành một quốc gia toàn tòng theo giáo phái Shiite. Các vua Hồi Giáo Ba Tư được gọi là SHA, vừa là vua vừa là giáo chủ, phần đông đều cực đoan và hung dữ.
Phần đông các học sĩ Hồi Giáo Ba Tư đều theo môn phái triết học thần bí (mystical philosophy) tóm tắt như sau: "Chính trị và tôn giáo là một, không thể tách rời. Mọi cải cách xã hội không thể vượt quá tư tưởng tôn giáo".
Với bản chất cuồng tín cực đoan cố hữu của giáo phái Shiite, nay lại có thêm chủ thuyết thần bí của các Mullahs (học sĩ) giáo phái Shiite càng ngày càng trở nên cực đoan nguy hiểm. Họ luôn luôn có thái độ bất khoan dung với các tôn giáo khác, nhất là đối với giáo phái Hồi Giáo Sunni, chiếm 80% dân số đạo Hồi.
*
* *
Như đã trình bày trên đây, từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20, trong thế giới Hồi Giáo đã xuất hiện ba đế quốc riêng biệt và luôn tranh chấp với nhau. Cả ba đế quốc Hồi Giáo đã được thành lập và suy tàn vào những thời điểm khác nhau:
- Đế quốc Mughul thành lập đầu thế kỷ 13, suy tàn cuối thế kỷ 19.
- Đế quốc Ottoman thành lập cuối thế kỷ 13, suy tàn đầu thế kỷ 20.
- Đế quốc Safavids thành lập đầu thế kỷ 16, suy tàn trong thế kỷ 18.
Như vậy, hai đế quốc Hồi Giáo lớn mạnh nhất là Ottoman và Mughul đã cùng tồn tại song hành và chia nhau thống trị thế giới Hồi Giáo bao la trong 7 thế kỷ. Ít nhất là trong 200 năm, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, cả ba đế quốc Mughul, Ottoman và Safavids cùng tồn tại trong thế giới đạo Hồi (The Islamic World).
Từ thế kỷ 18 trở đi, các nước Âu Châu trở nên hùng cường mọi mặt đã đẩy lùi các đế quốc Hồi Giáo đến chỗ suy tàn. Khởi đầu là nước Nga đánh tan quân Ottoman ở vùng Biển Đen năm 1774, chiếm lại Armenia và vùng núi Caucase. Năm 1792, Nga chiếm Georgia và Romania từ tay Ottoman.
Đầu thế kỷ 19, Nga chiếm toàn bộ miền Trung Á gồm nhiều nước theo đạo Hồi thuộc đế quốc Mughul.
(Sau Cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga năm 1917, các nước Hồi Giáo Trung Á đều biến thành các tiểu bang thuộc Liên Bang Xô Viết).
- Cũng trong đầu thế kỷ 19, Hòa Lan chiếm Indonesia và Mã Lai. Anh chiếm Ấn Độ bao gồm cả một tiểu lục địa (sau 1947, Ấn Độ bị chia thành nhiều nước: Pakistan, Bangladesh, Tích Lan và Ấn Độ).
- Cuối thế kỷ 19, Anh chiếm Ai Cập và Sudan. Pháp chiếm Algeria, Tunisia và Maroc.
- Đầu thế kỷ 20, Ý chiếm Lybia. Anh và Pháp chiếm Palestine, Jordan, Iraq, Syria và Liban.
Tóm lại, từ đầu thế kỷ 20, chỉ ngoại trừ một nước duy nhất là Thổ Nhĩ Kỳ, còn lại toàn bộ thế giới Hồi Giáo đều trở thành những thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Âu Châu.
Lịch sử bành trướng và phát triển của đạo Hồi luôn luôn gắn liền với chiến tranh và bạo lực. Vì thế đạo Hồi nổi tiếng là "tôn giáo của lưỡi gươm" (Religion of Sword) hoặc "tôn giáo quân phiệt" (Militaristic Religion). Kinh Thánh Koran của Hồi Giáo được gọi là "Cuốn sách của tử thần" (The Book of Death) và đức tin Hồi Giáo là: "đức tin hung bạo" (a violent faith). Trong hơn một thế kỷ qua, thế giới Hồi Giáo đã bị Tây Phuơng dồn vào thế suy kiệt mọi mặt. Họ không còn con đường nào khác hơn là thực hiện chủ nghĩa khủng bố. Về hình thức thì ngày nay chiến tranh có khác với ngày xưa, nhưng về thực chất thì chủ nghĩa khủng bố cũng là một hình thái của chiến tranh và bạo lực. Chỉ khác một điều: chủ nghĩa khủng bố là hình thái chiến tranh của những kẻ đã bị dồn vào thế yếu nhưng buộc phải chiến đấu với kẻ thù lớn mạnh hơn mình để tồn tại.
Nhìn về tương lai, chúng ta khó đoán được cuộc chiến tranh khủng bố sẽ đưa nhân loại đi về đâu, nhưng nhìn về quá khứ chúng ta phải công nhận sức mạnh của Hồi Giáo đã tạo nên nhiều thành tích quan trọng:
- Trong thế kỷ 7, Hồi Giáo Ả Rập tiêu diệt đế quốc Sassanian đã từng làm mưa làm gió ở Trung Đông trong 10 thế kỷ trước đó.
- Trong thế kỷ 15, Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt đế quốc Ki Tô Giáo Byzantine (hậu thân của đế quốc La Mã) chặn đứng sự bành trướng của Ki Tô Giáo xuống bán đảo Ả Rập và Trung Đông.
- Nói chung, sự xuất hiện và phát triển lớn mạnh của đạo Hồi đã tạo nên một đối trọng ngang ngửa với Ki Tô Giáo và tựu trung Hồi Giáo đã phá tan tham vọng bá chủ toàn cầu của đế quốc Vatican.
Charlie Nguyễn

Source Internet.