Thứ Ba, 30 tháng 1, 2018

Từ đâu có chữ "ba Tàu" và "chú Chệt"?



HUYỀN CHI tác giả bí ẩn của bài thơ Thuyền Viễn Xứ được Phạm Duy phổ nhạc



 HUYỀN CHI
                     tác giả bí ẩn của bài thơ Thuyền Viễn Xứ 
                            được Phạm Duy phổ nhạc
                                     
Lúc sinh thời, Phạm Duy rất tâm đắc tác phẩm “Thuyền viễn xứ” mà ông phổ nhạc từ bài thơ của một thi sĩ ẩn danh - bút danh Huyền Chi. Huyền Chi là ai và cô đang ở đâu?
Tôi đã gặp Phạm Duy lúc ông về Việt Nam, trong ngôi nhà khá vắng người, ông nói:“Bài nào viết ra tôi đều thích cả, nhưng trong đó “Thuyền viễn xứ” là một trong những bài tôi thích nhất. Tiếc là tôi không gặp lại được tác giả bài thơ hay đó. Nó là kỷ niệm của một thời đất nước loạn ly, những kẻ xa quê lòng luôn hướng về quê cha đất tổ”.
Nói về thơ và nghệ thuật làm thơ, nhà thơ Huyền Chi cho biết: “Tôi thích tất cả các nhà thơ. Trong thơ, tôi rất trọng vần điệu. Không có bài nào của tôi không có điệu. Có người hỏi tôi thế nào là bài thơ hay?  Tôi nói rằng: ý thì nhiều mà không có vần điệu thì bài thơ vẫn phải là bài thơ hay. Trong thơ phải có nhạc. Không có vần điệu, thơ chỉ như câu văn ngắn, không phải thơ. Có vần điệu mới có nhạc, có thơ”.
 
                               Tranh  Huyền Chi của Nguyễn Văn Hổ.
 
                          Một đời ẩn dật

Có một vài bài báo viết về tác giả Huyền Chi nhưng việc gặp được bà không hề dễ dàng bởi hầu như chưa bao giờ thấy Huyền Chi xuất hiện trong một sự kiện âm nhạc hay thơ văn nào mấy chục năm qua. Một lần tình cờ, một nghệ sĩ nhiếp ảnh là con người bạn của bà Huyền Chi nói với tôi về tác giả “Thuyền viễn xứ”: “Theo mình biết, cô Huyền Chi vẫn làm thơ, nhưng cô ấy không xuất bản”.
Nhờ có sự giới thiệu, tôi đã tìm gặp được tác giả bài thơ đã trở thành lời nhạc đi vào lòng nhiều thế hệ, nhưng vừa gặp cô đã bảo: “Tôi chẳng có gì mà kể cả đâu”. Rồi câu chuyện trở nên nóng hơn xung quanh tập thơ duy nhất ấy. Cô bảo: “Từ năm 1975 tới nay tôi thất lạc tập thơ của mình và cũng chẳng hy vọng một ngày lại nhìn thấy nó. Sau khi chồng tôi mất, tôi buồn lắm, các con tôi bảo tôi nên chơi facebook. Tôi vào thế giới ảo, không lấy tên thật, nhưng có đưa tác phẩm của mình lên, ấy thế mà một số bạn đọc nhận ra tôi và họ từ Mỹ gửi tặng tôi một bản phô tô tập thơ của mình. Tôi không còn gì sung sướng hơn khi hơn 40 năm mới nhìn lại tác phẩm tâm huyết của cuộc đời mình, dù chỉ là bản phô tô từ giấy in rất xấu thời đó”.

Tác giả Huyền Chi năm nay đã 84 tuổi. Cô vẫn dạy Anh văn, một cách để rèn luyện trí nhớ, theo cách cô nói. Cô vẫn làm thơ, viết hồi ký, nhưng không phải để in mà để ghi lại những nỗi lòng mình. Cầm tập thơ của mình trên tay, cô lật giở cho tôi đến trang thơ in bài “Thuyền viễn xứ”. Giọng đọc của cô du dương, vần điệu, nhưng rất khúc chiết, mạnh mẽ:
               Lên khơi, sương khói một chiều
               Thùy - dương rũ bến tiêu - điều ven sông
               Lơ - thơ rớt nhẹ men lòng
               Mây trời pha dáng lụa hồng giăng ngang
               Có thuyền viễn xứ Đà - Giang
               Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa
                                                  (Thuyền viễn xứ)

                                   Thi sĩ Huyền Chi (12/2017). 
                                     Ảnh: Trần Nguyễn Anh.

                    Lòng già mong con

“Những năm 1951-1952, lúc ấy cô làm thư ký tòa soạn mục thơ cho một tờ báo, cô vừa làm vừa học. Lúc đó cô có in tập thơ đầu tiên. Thình lình ông Phạm Duy vào. Ông ấy quen bà chủ nhà in, bà ấy giới thiệu. Cô mới đưa cho ông tập thơ vừa in xong. Ông Duy mới nói cô viết ký tặng cho ông ấy và sau này ông thích ông sẽ xin phép phổ nhạc. Đó cũng là lần gặp gỡ duy nhất giữa hai chúng tôi”. Tác giả “Thuyền viễn xứ”kể về những ngày tháng lúc cô mới 18 tuổi và tự bỏ tiền ra in tập thơ đầu tiên.

Một nhà thơ nữ mới 18 tuổi đã in thơ, phụ trách mục thơ của một tờ báo là chuyện khá hiếm vào những năm 1950. Thi sĩ Huyền Chi yêu thơ từ nhỏ: “7 tuổi đã biết chép thơ rồi” – cô nói. Bố cô làm giám đốc hỏa xa 3 tỉnh, ông tên Hồ Văn Ánh. Cô quê gốc Bắc Ninh, sinh năm 1934, khi ấy ông cụ do công việc duy trì đường hỏa xa, ông đi từ Bắc vào Nam. Đi tỉnh này mấy năm, qua tỉnh khác mấy năm. Sinh cô ở Sàigòn mà gia đình thì ở Phan Thiết. Ông cụ yêu thơ nên đặt tên các con là Nghiên, Thư. Đến cô con gái nhỏ này ông đặt tên là Hồ Thị Ngọc Bút. Cô bảo: “Khi làm thơ, ban đầu tôi lấy bút danh Khánh Ngọc, sau đó lấy bút danh Huyền Chi”.

Cuộc đời gia đình cô ly tán như biết bao gia đình thời kỳ chống Pháp. Cô kể: Cha cô về Bắc và chết ngoài Bắc năm 1947. Ngoài Bắc khi ấy còn bà nội ở Bắc Ninh. Bà hấp hối, kêu cả nhà về. Lúc đó anh của cô bị bệnh, má cô nói là để về sau, để chồng ra Bắc trước. Ngoài Bắc có chiến sự giữa Việt Minh và Pháp, cha không vào Nam được. Năm 1954 cha viết thư vào bảo “Mình (má cô) phải về, con thì đứa nào về được thì về”.Lúc đó mình má cô về Phù Lưu (Bắc Ninh). Sau ông cụ mất trước, bà cụ mất sau. Còn cô thì ở lại Sàigòn, cha mẹ mất mà không nhìn thấy mặt.
Về bài thơ, tác giả cho tâm sự: “Cô buồn mà viết bài đó, trước khi sông Gianh chia đôi đất nước. Cô viết khoảng năm 1951-1952.. Đà Giang là mình tưởng tượng thôi, chứ lúc viết thì không ra Bắc được. Hồi đó chính trị khó khăn nên mình không nói rõ hết mọi sự về thân phận của cô là người gốc Bắc”.
“Có người nghe bài hát của Phạm Duy phổ nhạc, hỏi rằng “cố lý” có phải một địa danh ở Bắc không, xin thưa, cố lý chỉ có nghĩa là quê xa thôi. Phù Lưu, Bắc Ninh mới là quê của tôi. Lúc nhỏ vì bố làm nghề hỏa xa nên năm nào cũng được ra Bắc nghỉ hè, về quê. Trong bài hát có hình ảnh mái đầu bạc là mô tả mẹ của cô”.
              “Sáu mùa mưa gió phũ phàng
                Bến sông quay lại hướng làng nẻo xa
                Lệ nhòa như nước sông Đà
                Mái đầu sương tuyết mẹ già mong con”.
                                               (Thuyền viễn xứ)

Cô Huyền Chi trầm ngâm: “Sau khi nhận thư của bố tôi bảo má tôi phải ra Bắc, bà đã bỏ sạp vải trong chợ Bến Thành ra với chồng, kể từ đó, tôi một thân một mình ở Sàigòn, thương cha, nhớ mẹ, một mình lủi thủi nơi đất khách quê người. Tôi lập gia đình và bỏ luôn nghiệp làm thơ vì phải bận rộn cùng chồng nuôi 7 đứa con dại”.
 
                          Tác giả bài viết và nhà thơ Huyền Chi.
 
                              Một đời ẩn dật

Năm 1954 thi sĩ lập gia đình khi mới đôi mươi. Chồng nhà giáo, đông con, phải giúp chồng làm kinh tế. Cô mở hiệu sách bán và dạy Anh văn.
Trong cuộc đời ta, ai cũng muốn trở thành người nổi tiếng và nổi tiếng đôi khi cũng có nhiều cái lợi. Huyền Chi không nghĩ như vậy. Cô bảo: “Tôi rất sợ hư danh, tôi không muốn nổi tiếng. Sau khi Phạm Duy phổ nhạc, bài hát rất nổi tiếng, những bản in của bài hát được bán khắp nơi, ai cũng hỏi Huyền Chi là ai vậy? tôi không bao giờ xuất hiện và tôi cũng không nhận một đồng tác quyền nào từ bài hát này trước 1975, mặc dù tôi biết rằng số tiền nhuận bút khi ấy rất lớn. Phạm Duy không tìm được tôi, nên trên nhiều bản in của bài hát ấy có ghi dòng chữ Phạm Duy nhắn gửi: Huyền Chi cô ở đâu?”.

Tôi nói với cô Huyền Chi rằng khi Phạm Duy còn sống, trong vài lần trò chuyện cùng tôi, ông cũng nói rằng bài “Thuyền viễn xứ” là một trong những bài hát mà ông viết ra rất nhanh, cảm xúc và rất yêu thích. Tiếc rằng không gặp lại được tác giả bài thơ.
Cô Huyền Chi tủm tỉm cười, gật đầu bảo: “Tôi biết nhạc sĩ Phạm Duy đi Mỹ rồi trở về định cư ở Việt Nam. Thông qua một người bạn, ông ấy viết thư cho tôi, bày tỏ ý định muốn gặp lại tôi. Nhận được thư, đọc xong, tôi xé quẳng vào thùng rác. Tôi không muốn gặp ông ấy, hay đúng hơn là tôi không muốn trở thành một người nổi tiếng làm gì”.

Cuộc đời của thi sĩ Huyền Chi thật không dễ dàng. Sau khi lấy chồng, cô phải làm đủ thứ việc để nuôi con và không làm thơ nữa. Sau năm 1975, cô được ông anh cho một ít ruộng để làm, mưu sinh, bởi khi ấy không ai cho dạy thêm, dạy kèm. Cô bảo: “Vì chúng tôi có ruộng nên không vào diện được cấp gạo. Tiếng có ruộng mà có ai biết cấy trồng gì đâu, trong nhà có lúc không còn gì ăn. May rồi cuộc sống cũng dần thay đổi, tôi lại được đi dạy Anh văn ở các trung tâm, từ đó cuộc sống dần qua lúc cùng cực”.

Tuổi 84, cô Huyền Chi vẫn đọc, vẫn viết, như thỏa mãn niềm đam mê đã bị bỏ lỡ một thời. Cô bảo: “Tôi viết thơ và đăng trên facebook của mình, nhờ thế mà tôi tìm được đứa cháu bên Pháp hơn 40 năm không gặp. Nó về Việt Nam nhiều lần tìm tôi, đăng báo tìm tôi mà không gặp nhau. Nhờ mò mẫm trên mạng mà nó tìm ra tôi, cũng nhờ tôi đăng lại bài “Thuyền viễn xứ” trên facebook, nhiều người vào bình luận mà nó tìm được tôi”.
Người cháu ấy là con anh trai của cô Huyền Chi. Người anh trai đã mất từ lâu, đứa cháu chỉ biết thông tin về cô của mình chính là tác giả bài thơ “Thuyền viễn xứ”, cứ thế mà nó mò mẫm tìm cô. Lúc tôi tới gặp cô, người cháu cũng đang ở Việt Nam. Cô Huyền Chi vui vẻ bảo: “Cháu tôi đã có cả quốc tịch Pháp và Việt Nam, nó rất hay về Việt Nam thăm, ở cùng tôi. Tôi rất vui vì nhờ bài thơ Thuyền viễn xứ mà cô cháu tôi đã tìm được nhau sau gần nửa thế kỷ thất lạc”.
 
12/2017
              Không làm thơ tình

Tập thơ của tác giả Huyền Chi có tên “Cởi mở” do Nxb Xây Dựng, Huế in. Tập gồm 24 bài thơ, do tác giả tự xuất bản, tự biên tập và tự mang đi bán. “Lúc đó thơ người ta nói về tình thôi. Lúc ấy cô viết tập thơ này không có bài nào là thơ tình, một phần vì chưa yêu, một phần vì muốn làm những vấn đề thời sự” - nhà thơ tiết lộ.
Cô ở trong một nhóm thơ văn nhạc gồm những người trẻ, cô làm phó hội thơ, mọi người gửi thơ tới, cô sửa để đăng. Sau khi lấy chồng vẫn viết thơ và truyện ngắn một thời gian nữa, rồi lo việc gia đình nên bỏ hẳn sáng tác.
Hơn 40 năm mới nhìn thấy lại tập thơ của mình, nhà thơ Huyền Chi bùi ngùi:“Thời đó chỉ dám in 500 cuốn, không dám in nhiều. Cô làm cô tự in tự bán. Lúc đầu bán chậm, sau lần lần người ta biết họ mua, họ tìm cô xin chữ ký, cô sợ mình thành người nổi tiếng nên lánh đi, không gặp độc giả nữa”.

Tập “Cởi mở” được viết trong thời điểm mà cô gọi là “thời kỳ máu lửa”: Người Việt Nam ta bắt đầu đứng lên công khai mà chống Pháp, cô ủng hộ phong trào dân ta nổi lên chống Pháp, lúc đó phong trào đang máu lửa. Người Bắc vào Nam nhiều, nên người ta rất thích thơ của cô. Thời chiến tranh mình không thể nói thẳng ra, phải mượn hình ảnh để nói, chẳng hạn trong bài“Thuyền viễn xứ” có câu: Ngàn câu hát buổi quân hành/ Dặm trường vó ngựa đăng - trình nẻo xưa”.

Trần Nguyễn Anh
***

Thuyền viễn xứ

Ra khơi sương khói một chiều 
Thuỳ dương rũ bến tiêu điều ven sông 
Lơ thơ rớt nhẹ men lòng 
Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang 
Có thuyền viễn xứ Đà Giang 
Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa 
Hò ơi! Câu hát ngàn xưa 
Ngân lên trong một chiều mưa xứ người 
Đường về cố lý xa xôi 
Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang 
Sau mùa mưa gió phũ phàng 
Bến sông quay lại, hướng làng nẻo xa 
Lệ nhoà như nước sông Đà 
Mái đầu sương tuyết lòng già mong con 
Chiều nay trời nhẹ xuống hồn 
Bao nhiêu sương khói chập chờn lên khơi 
Hai bờ sông cách biệt rồi 
Tần Yên đã nổi bốn trời đao binh 
Ngàn câu hát buổi quân hành 
Dặm trường vó ngựa đăng trình nẻo xưa 
Biết bao thương nhớ cho vừa 
Gửi về phương ấy mịt mờ quê hương 
Chiều nay trên bến muôn phương 
Có thuyền viễn xứ lên đường… lại đi…

Huyền Chi






Source: Internet.

Tình Mù Việt Mỹ



blank
Phương Lan, áo đỏ, tóc ngắn, làm cho Thư Viện sách nói.

Có lần khi trở về từ Việt Nam sau một chuyến đi từ thiện, tôi bỗng có một ý nghĩ điên khùng là muốn thử trải nghiệm cảm nghĩ của những con người bạc phước mà tôi đã gặp gở trong chuyến đi.

Thế là một buổi sáng nọ, tôi lấy cái khăn choàng cột lên mắt, cẩn thận lần từng bước ra vườn để tưới cây. Tôi mò mẫm vặn nước lên, cầm cái vòi nước quơ qua quơ lại. Sau ba phút, tôi nghe một tiếng bộp và kế đó là tiếng bể loảng xoảng. Tôi hoảng hồn giựt tay lên và sau một phút lại nghe tiếng bà hàng xóm Mỹ la lên: Oh My God! Of My God!... Please help me…

Tôi vội vàng lột khăn ra khỏi mắt, leo lên cái thang nhỏ ngó qua nhà kế bên. Bà hàng xóm, Elizabeth, đang nằm ngoài vườn phơi nắng và vòi nước của tôi hăng hái rót ngay lên bụng bà khiến bà tưởng sunami tấn công đất liền nên bật dậy chấp tay cầu nguyện thượng đế. Nhưng khi bà nhìn lên thì hiểu ra rằng tai họa không đến từ thiên nhiên mà đến từ bà hàng xóm Á đông.

Bà la lên: Le, Le, what are you doing ? Tôi bẽn lẽn kể cho bà nghe ý nghĩ của tôi và may mắn thay bà là một người đạo Chúa thuần thành, lòng đầy yêu thương, bác ái nên thông cảm với cái human experience, bà nói, của tôi.

Vậy thì bạn sẽ có cảm nghĩ gì khi ánh sáng, màu sắc và hình ảnh vĩnh viễn rời xa bạn?

...

blank
Vợ chồng George-Phương Lan trước bàn thờ tổ tiên ngày cưới tại VN.

1. Việt Nam: Chiêu Nguyễn Phương Lan

Em sanh năm 1974 tại Cam Ranh dưới cái tên trữ tình và có một chút hơi hám cung đình là Chiêu Nguyễn Phương Lan. Nhưng cái tên đẹp đẽ kia không cải tạo được số mạng nghiệt ngã của em. Hai tháng sau mẹ em cảm thấy có gì là lạ nơi mắt em. Bà đem em đi khám bác sĩ và kết quả đã làm cho tim bà tan nát. Mắt em bị một chứng bịnh lạ lùng và đang từ từ mất đi hoàn toàn thị giác. Đau khổ hơn nữa là đám virus ác nghiệt sẽ từ tròng mắt tấn công lên não bộ và để bảo tồn mạng sống cho em, bác sĩ phải mổ lấy ra một con mắt và hai năm sau con mắt thứ hai. Hai lỗ mắt trống hoắc và mí mắt sụp xuống che lại bầu trời có thiên địa huy hoàng, có bông hoa rực rỡ, có sông dài xanh ngát, có núi xám trời cao. Tất cả chỉ còn là bóng tối…

Một người mù hỏi thánh Anthony:

“Có thể còn có điều nào khổ hơn là bị mù không?”

Thánh Anthony trả lời:

“ Có! lúc người bị mất định hướng !”.

May mắn thay, em không mất định hướng. Trẻ em nhảy giây, em nhảy giây dù vấp té không biết bao lần. Tụi nhỏ hát, em hát. Tụi nhỏ vỗ tay cười giỡn, em vỗ tay cười giởn. Tụi nhỏ học đờn tranh, em học đờn tranh. Và vì không bận nhìn ngang ngó dọc, em tập trung tất cả thời gian vào thực hành nên em đờn hay hơn tất cả bạn bè, em học giỏi hơn tất cả bạn bè.

Năm em lên 7 tuổi, mẹ dẫn em xin vào học trường Nguyễn Đình Chiểu ở đường Nguyễn Chí Thanh nhưng bị từ chối vì em là… con của ngụy! (Ba em là cựu chiến sĩ VNCH và trong chiến đấu đã bị mất nguyên một bàn chân). Mẹ em đã lạy lục đầu trên xóm dưới, năn nỉ cùng trời cuối đất và sau cùng em được nhận vào học ăn ở nội trú một tuần năm ngày, tự giặt quần áo, tự tắm rửa v.v. và khi lớn lên một chút thì em học thêm nghề bó chổi, đan chiếu.

Ba năm cuối của trung học em được nhận vào trường phổ thông cơ sở quận Bình Thạnh.

Khi chấm dứt trung học, em thi vào trường Văn Hóa Nghệ Thuật chuyên ngành âm nhạc. Ba năm sau em thi vào trường Cao Đẳng Sư Phạm và năm 1998 em ra trường với danh dự thủ khoa ban Anh Văn, môn phụ Nhật Văn chỉ với một cái máy thu băng cũ kỷ để thâu lời giảng dạy và một cái máy đọc chữ Braill để làm bài tập.

Khi ra trường, em tuy hiểu Anh văn nhưng không nói được. Để tập nói, hai mẹ con dẫn nhau ra hồ Con Rùa hoặc bến Bạch Đằng, mẹ em đưa tay ra khều những người ngoại quốc. Có người xoay lại và vội vàng xua tay đuổi bà mẹ đi vì tưởng là bà xin tiền. Sau cùng bà phải nắm tay em để sát cạnh bà, khi người ngoại quốc xoay lại, em vội vàng trình bày ngọng nghịu là “tôi là người khiếm thị, tôi học Anh văn nhưng không nói được, tôi muốn nói chuyện với ông, bà để thực tập. Tôi không phải là người ăn xin”.

Bạn có đồng ý với tôi là chúng ta nên cúi đầu khâm phục trước lòng nhẫn nại và ý chí học hỏi của người thiếu nữ khiếm thị nầy không ?

Em lần lượt dạy nhạc ở câu lạc bộ lao động quận 1, nhân viên của thư viện sách nói quận 3, và cuối cùng dạy cấp 1 cho hội Người Khiếm Thị thành phố.

Năm 1999 một phái đoàn Nhật tới Việt Nam tìm kiếm những người có khả năng nói được tiếng Nhật để đưa qua Nhật học ngành châm cứu và massage. Sau khi thành công sẽ để họ trở về VN dạy lại các người khiếm thị khác để những người tật nguyền nầy có được một nghề tự nuôi thân.

Em là người được chọn và sau một khóa học ba tháng tiếng Nhựt, em thi đậu và được theo học trường Đông Du tại thành phố để hoàn chỉnh khả năng Nhật-Anh, Anh-Nhật.

Tháng 10 năm 2000 em xuất ngoại du học tại Okinawa và một số tỉnh thành khác. Sau bốn năm tận tụy học hỏi môn châm cứu và massage trị bệnh của người Nhật, một lần nữa em ra trường với danh dự thủ khoa!

Trở về VN, từ năm 2004 tới 2009, em dạy cho các thanh thiếu niên khiếm thị tại Saigon một nghề mưu sinh. Phước đức vô lượng!

Trong thời gian du học, người Nhật nhân đạo đã bỏ tiền ra cho em đi bác sĩ lấp vào hai mắt nhân tạo để em nhìn bình thường và duyên dáng hơn.

blank
Phương Lan ngày ra trường sư phạm. Phương Lan (áo xanh, ngồi giữa) trình diễn đàn tranh.

2. Mỹ: George Kasperitis:

Anh sanh năm 1964 tại Pennsylvania, Mỹ. Là một thanh niên có dòng máu Đông Âu, anh cao lớn, khỏe mạnh, đẹp trai, chơi đàn piano, guitar, trống và là một ước mơ của các nữ sinh trung học.

Ra trường Pennsbury High School năm 1983, không theo lên cấp bậc đại học mà anh lại chọn Natural Medicin, chuyên ngành massage và phòng bệnh thiên nhiên. Tuy được cấp bằng tốt nghiệp, anh lại không theo nghề mà trở về trang trại của ông nội để giúp ông trồng trọt và chăn nuôi vì ông nội đã già và cần thân nhân. Ai nói người Mỹ không có tình cảm gia đình và không biết hiếu thảo?


Sau khi ông nội mất năm 1988, anh ra đời, mở một cơ sở chuyên trị cho các lực sĩ thể thao với hot rock và đặc biệt là hot bamboo. Anh giải thích là độ nửa tiếng trước khi khách hẹn đến, anh bỏ vào một nồi lớn 4 ống tre dài khoảng 2 feet, đường kính khoảng 3 inches, mỗi ống có độ 3 đến 4 mắt tre. Anh thêm vào lá basil, dill, mint, cinnamon v..v.. và dầu almond. Anh đã chà xát cho các mắt tre mất sự bén nhọn nhưng các phần lồi lõm vẫn giữ nguyên. Anh lăn ống tre nóng tẩm các khoáng chất tiết ra từ lá và dầu lên lưng, cổ, khuỷu tay chân của khách hàng. Chúng sẽ kích thích các huyệt đạo nở lớn ra làm huyết mạch lưu thông thuận lợi, do đó cơ thể sẽ tiếp nhận nhiều linh khí trong trời đất hơn, con người sẽ khỏe mạnh hơn, sự thành tựu về thể xác sẽ tăng tiến hơn.

Chắc là lăn ống tre nhiều quá mỏi tay nên sau vài năm anh bỏ nghề và mở tiệm ăn. Dẹp tiệm ăn anh đi làm cho công ty JC Penny rồi nổi lên máu giang hồ anh gia nhập vào Peace Corp, trước hết phục vụ tại Paris, Pháp và sau đó là Ghana, Africa.

Nơi đây các thiện nguyện viên xây cất bồn nước, lắp đặt các hệ thống lọc để dân địa phương có nước sạch mà dùng. Mỗi tuần hai lần cả phái đoàn đi hiến máu. Máu được bỏ vào ống nghiệm, xoay tròn cho chất plasma trong máu phân chia và lắng riêng ra. Sau đó máu lại được chích trả lại cho người hiến máu, còn chất plasma thì được để dành trị bệnh cho người dân địa phương.

Trong những tối giữa núi rừng hiu quạnh, anh lên mạng và tìm kiếm người nói chuyện trên mục Pen Pal. Nơi đó anh đọc hàng chữ: “thiếu nữ Việt Nam, 30 tuổi, độc thân, thích âm nhạc, hiện đang học ngành massage và bấm huyệt trị bệnh tại Nhật….”.

Ôi em ơi, hợp quá, anh cũng thích âm nhạc, anh cũng thích nghề massage trị liệu. À mà em chơi nhạc cụ gì? Anh thì đàn piano, guitar và đánh trống. Em đàn tranh anh à. Đàn tranh là cái gì vậy em? Là một loại đàn đặc biệt cho âm nhạc Việt Nam. Nó không cao sang, rầm rộ, cao vút như dương cầm mà nó thắm thiết, đậm đà, từng âm thanh sẽ đi vào tim người, từng nốt nhạc sẽ làm người ngẩn ngơ thương tiếc... Wow, ước gì anh có thể nghe em đàn… Que sera, sera… Sẽ có một ngày nếu chúng mình gặp nhau.

Và những dòng tâm sự đổi trao, những xẻ chia, những cởi mở cho tới một ngày anh đọc những dòng chữ: “Em là một cô gái khiếm thị, em rất buồn là sẽ không bao giờ “thấy” anh dù cho chúng ta có khi nào gặp nhau”…

Em ơi không phải em đang nói giỡn đó chớ? Khiếm thị? khiếm thị từ lúc nào? Từ lúc mới sanh ra? Ông trời ơi, em chưa bao giờ biết được màu sắc của hoa hồng à? chưa bao giờ thấy được ánh mặt trời chói chang trên đỉnh núi à? Chưa bao giờ thấy được hoàng hôn mênh mông trên biển cả à? Ác nghiệt, định mệnh ác nghiệt ! Em hỏi anh có thay đổi cảm nghĩ của anh về em không khi anh biết em, người con gái mà anh nâng niu tâm sự bấy lâu nay, lại là một kẻ mù lòa ?

Câu trả lời là có, có rất nhiều. Làm sao anh không thay đổi tình cảm trước một sự thật phũ phàng như vậy! Trước hết là anh giận ông trời tàn nhẫn đã buộc cái chứng bịnh độc ác kia vào đôi mắt em. Anh sẽ không ngần ngại đối diện với ngài để hỏi cho ra lý do ngài chọn em làm nạn nhân, anh sẽ không sợ sệt mà sẽ cương quyết chất vấn ngài tới cùng. Nhưng trời ở đâu không thấy vậy thì anh chỉ có thể quay về thế gian nầy để đối mặt với em.

Phương Lan, sau nữa là anh sẽ không quay lưng lại với em. Anh sẽ cùng em tiến bước dù cho bây giờ ngoài cái bổn phận làm chồng (trong tương lai) anh lại có thêm một bổn phận nữa là làm đôi mắt của em. Anh sẽ làm cho em cảm nhận được màu vàng óng ánh của cành mai trong dịp tết, sẽ thấy vô vàn hoa dại trên cánh đồng cỏ xanh tươi, sẽ vẽ ra được những chiếc lá thu vàng úa hắt hiu, sẽ nắm bắt được những tảng băng tuyết chói lọi dưới ánh mặt trời.

Ở mấy ngàn dặm xa xôi kia, người bạn vừa đọc email cho Phương Lan vừa khóc. Phương Lan vừa nghe email vừa khóc. Cám ơn anh, George. Cám ơn tình yêu của anh dành cho em. Nhưng em không tin rằng trên đời lại có người đàn ông nào có thể yêu thương một cô gái mù lòa thắm thiết như vậy.

Kiếp sau anh nhé. Ở một kiếp mà em có thể thấy nắng vàng tỏa sáng trên tóc anh, biển xanh gợn sóng trong mắt anh, nụ cười rạng rỡ trên môi anh. Ở một kiếp mà chúng ta có thể tay cầm tay, mắt nhìn mắt, đối diện nhau nói lời thề nguyện thủy chung. Còn kiếp nầy, em xin lỗi…thật là xin lỗi.

Ra trường, Phương Lan trở về Việt Nam, ký giao ước làm việc từ 2004 tới 2009, trở thành giảng viên massage cho các em khiếm thị.

George ngẩn ngơ vì mất liên lạc nhưng anh không bỏ cuộc. Anh lần mò lên facebook, internet v.v.. bất cứ cái gì có thể để tìm kiếm Phương Lan. Sau sáu tháng dài tìm tòi anh kiếm ra người con gái khiếm thị đó. Phương Lan đã bỏ địa chỉ email bên Nhật và đổi lại địa chỉ Việt Nam. Tình mù Việt Mỹ lại tiếp tục.

Năm 2005, lần đầu tiên anh về Việt Nam để mặt đối mặt với người yêu. George không phải là một văn sĩ. Anh không biết diễn tả như thế nào cảm nghĩ của anh khi anh bước chân ra khỏi phi trường và nhìn thấy Phương Lan. Em đứng đó tay cầm chùm bong bóng, khắc khoải nhìn về phía trước nhưng không biết lúc nào thì người đó sẽ tới, sẽ cầm tay mình, sẽ kêu lên hai tiếng Phương Lan. Trái tim em run rẩy, chân tay em run rẩy và ngay cả linh hồn em cũng run rẩy. Mẹ em đứng cạnh bên. Mẹ ơi, mẹ sẽ thành thật cho con biết là anh ấy …như thế nào nghe mẹ.

Phương Lan ơi, anh đến với em đây. Em đứng đó bồn chồn, lo sợ. Sự sợ hãi tỏa ra chung quanh em làm tim anh tê tái. Em không tin rằng anh sẽ đến phải không? Em nghĩ rằng anh sẽ chạy theo những cô gái quần là áo lụa, những cô gái mắt nâu tóc vàng… chớ làm sao anh lại lặn lội mười ngàn dặm xa xôi để đến gặp một cô gái Việt Nam giản dị, bình thường lại mất đi ánh sáng… Nếu anh đã từng giận hờn ông trời cay nghiệt đã sắp đặt cho cuộc đời em gặp quá nhiều cảnh trái ngang thì ngày hôm nay, nhìn em đứng bơ vơ cách biệt giữa dòng đời rộn rả, anh lại cám ơn ngài đã sắp đặt cho cuộc đời hai đứa mình trộn lẫn vào nhau, để anh có thể đem đến cho em tình yêu, tin cậy và nương tựa.

blank
Phương Lan với bằng cấp ra trường tại Nhật.

Anh đưa thẳng cánh tay mặt ra phía trước cho Phương Lan vịn vào và cứ như vậy họ ra xe, về nhà, dạo phố, du lịch và có thể là đi trọn đường đời. Giờ đây nghĩ lại, anh cười hắc hắc thú nhận cùng tôi: “Lúc đó cháu không dám nắm tay Lan để cùng đi vì cháu biết phong tục Việt Nam rất bảo thủ. Cháu thấy trong các phim ảnh, người dẫn đường cho người khiếm thị luôn luôn đưa thẳng cánh tay ra phía trước nên cháu cũng làm y như vậy, đi đến đâu ai thấy cũng cười, vậy mà cháu hãnh diện quá vì đã là cây gậy và đôi mắt cho Lan!”

Giọng hát đâu đó vẳng tới “Ôi tình yêu! Tình yêu là gì mà suốt đời ai đã một lần qua!”

Anh trở lại VN lần thứ hai năm 2006 để làm đám cưới.

Gần như tất cả khu phố nơi gia đình Phương Lan ở đều tham dự đám cưới, hoặc là khách mời, hoặc là nhập vào đám đông tò mò coi ông Mỹ cưới bà mù!.

Phương Lan mời tất cả các bạn khiếm thị. Họ sờ mặt chú rể và hít hà khen đẹp trai quá? (chắc là rờ thấy cái mũi cao), nhưng khi sờ tới cánh tay có lông hơi nhiều và hơi dài (hơn người VN) thì cả đám liền hét lên trời ơi giống con khỉ quá!. Cả bọn phá ra cười, chú rể cũng hiểu sơ sơ danh từ con khỉ nên cũng chỉ biết đau khổ mà cười.

Ai nói cưới hỏi phải môn đăng hộ đối? Ai nói chọn vợ lựa chồng phải thấy mặt nhau? Ngày hôm nay hai đứa chúng con quì trước bàn thờ tổ tiên, tuy không nhìn thấy nhau, nhưng nguyện cùng nhìn về một hướng. Chúng con không có tiền tài để cho nhau, nhưng nguyện cho nhau cả cuộc đời dù ấm no dù đói lạnh. Chúng con không có nhà cao cửa rộng để cho nhau, nhưng chúng con nguyện cho nhau hai tấm chân tình mênh mang như biển rộng trời cao.

Lạy thứ nhứt chúng con cám ơn nước Mỹ và nước Việt Nam đã cho chúng con một nơi gọi là tổ quốc. Lạy thứ hai chúng con cám ơn dòng họ hai bên đã nuôi dưỡng chúng con thành người. Lạy thứ ba chúng ta cùng cám ơn nhau nhé và cùng hứa hẹn:

Nhĩ ngã tương ước định bách niên.
Thùy nhược cửu thập thất tuế tử.
Nại hà kiều thượng đẳng tam niên
(Chúng ta ước hẹn sống trăm năm.
Nếu lỡ ai chết năm chín bảy
Cầu nại hà chờ đợi thêm ba năm)

Sau ngày cưới, George trở về Mỹ lo giấy tờ bảo lãnh nhưng Phương Lan không chịu đi sớm vì em nghĩ là nước Nhật đã tốn tiền để đào tạo em với mục đích là em sẽ truyền dạy lại cho những người khiếm thị bạc phước khác một nghề nghiệp để nuôi thân. Nếu em bỏ đi thì phụ công ơn nước Nhât và bạc nghĩa với những người đồng cảnh ngộ. Giọt nước dòng sông. Nhận ơn nghĩa bằng một giọt nước, nguyện trả lại bằng một dòng sông. Chúng mình xa nhau ba năm nhưng lại có hàng trăm người có nghề nghiệp nuôi thân suốt cả đời, rất đáng phải không anh? Vì thế em cương quyết ở lại VN tới năm 2009 khi khế ước dạy học mãn hạn em mới đi đoàn tụ cùng George.

Hiện giờ hai vợ chồng sống tại California, tình yêu vẫn đậm đà nhưng số phận nghiệt ngã vẫn một lòng theo đuổi. Tôi sẽ trở lại khi có dịp.

Những bài học về tình yêu, về tình người, về tiền tài, về số phận, về bản ngã, về cách đối xử v.v.. của George và Phương Lan làm tôi chới với nhìn lại bản thân tôi, nhìn sâu vào trái tim tôi, quay lại từng đoạn đời tôi đã đi qua, từng tao ngộ tôi đã gặp phải, từng đối xử tôi đã chọn lựa. Đồng ý. Phản đối. Cảm động. Giận dữ. Biết ơn. Oán trách. Tôi chưa hoàn toàn thẩm thấu được tất cả.

Bạn thì sao ?

Lệ Hoa Wilson

https://vvnm.vietbao.com/p246292a246454/tinh-mu-viet-my-