Thứ Năm, 30 tháng 5, 2013

Sự Đời… Bỏ cái Ta vào túi áo

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Lục Súc Tranh Công là một truyện cổ Việt Nam mang nhiều ý nghĩa đáng suy gẫm.
Có sáu con vật được chủ nuôi là trâu, chó, ngựa, dê, gà, lợn. Nếp sống đang hài hòa thì không hiểu tại sao một hôm lục súc lại có một cuộc bàn tròn “kiểm thảo” kể công, đả kích lẫn nhau.
Chủ nhà dựa cột lắng nghe.
Trâu khai hội rằng mình có ích, rằng đồng giống có những Phật ngưu mà ai có phúc được uống một chút huyết là sống lâu như ông Bành tổ, Tề Tuyên Vương cũng thương không nỡ hạ thịt. Vậy mà chủ nhân lai nỡ “đáng hậu xử bạc”. Rồi quay ra chê Chó, rằng “chưa rét đã phô rằng rét, Xo ro đuôi quít vào trôn”, Tài ăn vụng thôi thì hơn chúng. Vậy mà lại được cơm ngon, ổ ấm, chẳng bù với trâu chỉ nhai cỏ khô, nằm chuồng đất lạnh.
Chó tự vệ ta đây “Đêm năm canh, con mắt như chong, Đứa đạo tặc nép oai khủng động. Đứa gian tham thấy bóng cũng kinh” rồi than phiền chủ chỉ cho cơm thừa canh cặn
Và chõ móm chê ngựa ”Dại không ra dại Khôn chẳng ra khôn. Ngất ngơ như ốc mượn hồn, Nuôi giống ấy làm chi cho rối”.
Trạm tự ái, ngựa bèn khoe giống mình danh giá từng giúp Hán Cao Tổ lập nghiệp Đế, giúp Quan Công sáu ải thoát thân, được gần kề vương tôn công tử. Rồi tiện thể, quay sang “rũa” dê là có đầu mà chẳng có đuôi, mình nhỏ bụng lớn, sớn các như con chàng kẻ cướp, chỉ chạy nhảy chơi đùa.
Dê tự tôn là vật tế Thần phất cờ xuất trận, tế Thổ thần động thổ làm đình, tế thái miếu vào ngày mồng một và từng được ban biệt hiệu chủ bộ râu dài, rồi “tố khổ” gà là phường vô dụng, bới móc luống cải luống ngô nhà chủ, trời chưa tối, đà lo việc ngủ.
Gà biện bạch là mình đầu đội mũ quan văn, nhân, dũng tín võ văn đều đủ, coi cựa gà là biết thịnh suy. Chứ đâu như heo chỉ ăn rồi ngáy, giả ngây dại, tảng lờ việc chủ…
Nghe xong, chủ bèn vỗ về lục súc rằng: Mọi vật lớn vật nhỏ đều có tài giỏi riêng, chẳng nên ganh tị nhau. Lục súc hiểu ra, ôm nhau giảng hòa hể hả.
Coi vậy thì bà con thấy súc vật cũng có cái ta, có cái tự cao tự đại, có dèm pha ghen tị. Huống chi là con người thì chắc là cái ta cũng “nhớn” lắm bà con nhỉ. Chẳng vậy mà ông triết gia Pascal người Phú Lãng Sa đã phán “le moi est haissable”. Các tôi thật đáng ghét. Mà đáng ghét thật bà con ạ, nhất là cái tôi tiêu cực, cái tôi tự tôn, coi mình như cái rún của vũ trụ.
Cho nên có người đã khuyên là nên bóc một lớp vỏ trong cái ego của mình để lòng yêu thương lộ diện và đừng bao giờ để cái Ta quá gắn bó với quyền uy của mình vì khi chức vụ ra đi thì cái Ta cũng vỗ cánh bay theo.
Khi móng tay dài thì ta cắt móng chứ đâu lại cắt ngón tay. Cũng như khi có sự bất hòa thì cắt bỏ cái Ta chứ ai mà cắt bỏ giao hảo.
Kể cũng khó, nhưng bỏ cái ta vào túi, thì nhiều khi cũng thực hiện được đấy bà con ạ.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức.

Source Internet.

Thứ Tư, 29 tháng 5, 2013

10 ngôi làng đẹp như cổ tích

1. Làng Bibury, Anh
Ngôi làng nhỏ nhắn nằm dọc sông Coln của Cotswold được xem là ngôi làng xinh đẹp nhất Anh. Hầu hết các ngôi nhà ở đây đều được làm bằng đá tổ ong, giữ được nét cổ kính và không thay đổi kể từ thế kỷ 17.
10 ngôi làng đẹp như cổ tích, Du lịch, du lich, du lich viet nam, du lich the gioi, du lich 2012, kinh nghiem du lich, du lich chau au, du lich chau a, kham pha the gioi, dia diem du lich, 10 ngoi lang dep nhu co tich, ngoi lang co, Anh, Thuy Si
Những ngôi nhà duyên dáng cổ xưa này chính là phần nổi tiếng nhất của làng, trong đó vài ngôi nhà có niên đại thế kỷ 14. Những điểm đến nổi tiếng nhất của làng là nhà thờ Đức Bà Mary Saxon, túp lều của người chăn nuôi gia súc và một xưởng sản xuất cá hồi mở cửa hoạt động từ năm 1902.
2. Làng Wengen, Thụy Sĩ
Bạn có bao giờ tự hỏi thế giới như thế nào trước khi xe hơi được phát minh? Ngôi làng cổ xưa Wengen ở Thụy Sĩ có thể giúp bạn trả lời câu hỏi ấy bởi gần trăm năm nay những chiếc xe hơi bị cấm ra vào ngôi làng này.
10 ngôi làng đẹp như cổ tích, Du lịch, du lich, du lich viet nam, du lich the gioi, du lich 2012, kinh nghiem du lich, du lich chau au, du lich chau a, kham pha the gioi, dia diem du lich, 10 ngoi lang dep nhu co tich, ngoi lang co, Anh, Thuy Si
Hãy tưởng tượng một khung cảnh với những ngôi nhà làm bằng gỗ nguyên cây vây quanh, tuyết phủ trắng xóa các đỉnh núi thì tuyệt thế nào các bạn nhỉ? Những người dân địa phương đang cố gắng gìn giữ nét nguyên sơ vốn có của nền văn hóa Thụy Sĩ ở ngôi làng này.
3. Làng Sidi Bou Said, Tunisia
Sở hữu một vẻ đẹp khó tả của vùng vịnh Tunis xanh thăm thẳm, Sidi Bou Said như hòa mình vào nền trời xanh mây trắng khi tất cả những ngôi nhà tại đây đều phủ một màu trắng tinh khôi. 
10 ngôi làng đẹp như cổ tích, Du lịch, du lich, du lich viet nam, du lich the gioi, du lich 2012, kinh nghiem du lich, du lich chau au, du lich chau a, kham pha the gioi, dia diem du lich, 10 ngoi lang dep nhu co tich, ngoi lang co, Anh, Thuy Si
Khung cảnh tuyệt đẹp của vùng non nước nơi đây đã trở thành cảm hứng sáng tạo cho không ít nhà văn và họa sĩ nổi tiếng như thiên tài hội họa người Thụy Sĩ- Paul Klee hay nữ văn sĩ người Pháp của chủ nghĩa hiện sinh - Simone de Beauvoir. Không chỉ thế, ngôi làng còn mang dấu ấn của xứ Bohemia và có vô số quán cà phê và phòng trưng bày tranh nghệ thuật.
4. Làng Chimayo, New Mexico
Đây là một ngôi làng bí ẩn nằm ở chân núi Sangre de Cristo của dãy Rocky ở miền bắc New Mexico. Ngôi làng nổi tiếng bởi sở hữu lối kiến trúc xưa cũ từ thế kỉ 17. 
10 ngôi làng đẹp như cổ tích, Du lịch, du lich, du lich viet nam, du lich the gioi, du lich 2012, kinh nghiem du lich, du lich chau au, du lich chau a, kham pha the gioi, dia diem du lich, 10 ngoi lang dep nhu co tich, ngoi lang co, Anh, Thuy Si
Những nét văn hóa đặc trưng Tây Ban Nha vẫn hiện hữu mạnh mẽ ở cộng đồng dân cư nơi đây, những người vốn nổi tiếng là thiên tài trong việc phát triển nghề dệt, chăn nuôi gia cầm và đồng áng.
5. Làng Savoca, Italy
Nằm trên một ngọn đồi giữa Taormina và Messina ở bờ Đông của đất nước hình chiếc ủng, Savoca là một ngôi làng có tuổi đời khoảng 1.000 năm. Trong làng không có nhiều ngôi nhà mái ngói cổ xưa, dân cư thưa thớt và từng làm bối cảnh của gia đình Corleone trong phim Bố già (The Godfather). 
10 ngôi làng đẹp như cổ tích, Du lịch, du lich, du lich viet nam, du lich the gioi, du lich 2012, kinh nghiem du lich, du lich chau au, du lich chau a, kham pha the gioi, dia diem du lich, 10 ngoi lang dep nhu co tich, ngoi lang co, Anh, Thuy Si
Nếu có dịp ghé thăm Savoca, chúng mình đừng quên thưởng thức nước chanh đặc sản ngon tuyệt của người dân địa phương nơi đây.
6. Làng Shirakawa-go, Nhật
Ngôi làng xinh đẹp và giàu truyền thống văn hóa được công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 1995. Một điều dễ nhận thấy ở ngôi làng là những mái nhà nhỏ phong cách Gassho, một kiểu giống như hai bàn tay đang chắp lại cầu khấn, được người Nhật thiết kế để tuyết không đọng trên nóc mái nhà.
10 ngôi làng đẹp như cổ tích, Du lịch, du lich, du lich viet nam, du lich the gioi, du lich 2012, kinh nghiem du lich, du lich chau au, du lich chau a, kham pha the gioi, dia diem du lich, 10 ngoi lang dep nhu co tich, ngoi lang co, Anh, Thuy Si
Những mái nhà bằng rơm rạ này thường có độ dày trên 50cm, chống chọi với khí hậu khắc nghiệt. Gác mái của những ngôi nhà này cũng được sử dụng để nuôi tằm. Để vào làng, khách tham quan phải đi qua chiếc cầu treo dài hàng trăm mét. Được biết, mỗi năm ngôi làng đón trên 1,7 triệu lượt khách du lịch.
7. Làng Eze, Pháp
Pháp vốn dĩ đã xinh đẹp, nhưng ít ai biết được rằng điểm hấp dẫn nhất ở Pháp không phải là những cánh đồng hoa oải hương hay kinh đô thời trang hoa lệ mà chính là Eze - một ngôi làng cổ xưa duyên dáng trầm mặc trong thế giới hiện đại. Ngôi làng giống như sự cô đọng của văn hóa Pháp lâu đời, bởi nét quyến rũ tiềm ẩn trong vẻ đẹp của nó.
10 ngôi làng đẹp như cổ tích, Du lịch, du lich, du lich viet nam, du lich the gioi, du lich 2012, kinh nghiem du lich, du lich chau au, du lich chau a, kham pha the gioi, dia diem du lich, 10 ngoi lang dep nhu co tich, ngoi lang co, Anh, Thuy Si
Trong suốt thời Trung cổ, Eze là sự thèm muốn của biết bao đội quân xâm lược và trở thành nỗi đau buồn của nhiều thế hệ dân làng trong quá khứ. Ngày nay, cư dân làng vui sướng tận hưởng cuộc sống giàu có và phong phú của nền di sản lâu đời. Khi tới đây, chúng mình có thể tham gia vào các lễ hội đặc biệt mô phỏng giống hệt những lễ hội được tổ chức từ thời Trung cổ.
8. Làng Castle Combe, Anh
Ở phía tây nam nước Anh có một ngôi làng nhỏ từ thời Trung cổ mang tên Castle Combe thuộc hạt Wiltshire.
10 ngôi làng đẹp như cổ tích, Du lịch, du lich, du lich viet nam, du lich the gioi, du lich 2012, kinh nghiem du lich, du lich chau au, du lich chau a, kham pha the gioi, dia diem du lich, 10 ngoi lang dep nhu co tich, ngoi lang co, Anh, Thuy Si
Khi tới đây, bạn sẽ phải ngỡ ngàng như đi lạc vào thế giới cổ tích bởi những ngôi nhà cổ kính, duyên dáng xây bằng đá, lợp ngói đá vài trăm năm tuổi. Có thể nói Castle Combe mang một vẻ thanh bình, tĩnh mặc đến nao lòng.
9. Làng Cesky Krumlov, Cộng hòa Tiệp Khắc
Là một trong những ngôi làng cổ xưa nhất, nắm giữ những nét đặc trưng nhất về văn hóa và lịch sử của cộng hòa Tiệp Khắc, Cesky Krumlov nằm hiền hòa bên con sông Vltva.
10 ngôi làng đẹp như cổ tích, Du lịch, du lich, du lich viet nam, du lich the gioi, du lich 2012, kinh nghiem du lich, du lich chau au, du lich chau a, kham pha the gioi, dia diem du lich, 10 ngoi lang dep nhu co tich, ngoi lang co, Anh, Thuy Si
Ngôi làng có nét kiến trúc phong phú thuộc các trường phái Phục hưng, Baroque và Gothic. Bên cạnh những ngôi nhà có kiến trúc đẹp nổi tiếng, còn có rất nhiều quán cà phê, phòng triển lãm nghệ thuật và những quán ăn sáng nhỏ rải rác khắp nơi trong làng.
10. Làng Goreme, Thổ Nhĩ Kỳ
Nếu muốn nhìn ngắm những tu viện, nhà thờ trong hang động đẹp nhất thế giới, làng Goreme là điểm dừng chân lý tưởng. 
10 ngôi làng đẹp như cổ tích, Du lịch, du lich, du lich viet nam, du lich the gioi, du lich 2012, kinh nghiem du lich, du lich chau au, du lich chau a, kham pha the gioi, dia diem du lich, 10 ngoi lang dep nhu co tich, ngoi lang co, Anh, Thuy Si
Ngôi làng cổ xưa nhỏ bé này được gọi bằng rất nhiều tên gọi khác nhau trong lịch sử, song được biết đến nhiều nhất là làng “ống khói cổ tích” được hình thành bởi các khối đã núi lửa mềm. Cho tới ngày nay, Goreme vẫn được bao bọc bởi những tảng đá độc đáo, điều hấp dẫn không ít khách du lịch tới chiêm ngưỡng.


Source Internet.


Thứ Hai, 27 tháng 5, 2013

Nói Lái Trong Ngôn Ngữ Và Văn Học Việt Nam


Nguyễn Văn Hiệp


Theo định nghĩa chung chung của một số nhà Ngôn ngữ học thì Nói lái là nói bằng cách giao hoán âm đầu vần và thanh điệu hoặc trật tự của hai âm tiết để tạo thành nghĩa khác hẳn và cho rằng đây là một trong những đặc trưng của tiếng Việt, nhằm mục đích đố chữ, bông đùa, chơi chữ hay châm biếm. Thí dụ như “lộng kiếng” nói lái thành “liệng cống” hay “đầu tiên” thành “tiền đâu”, “đơn giản” thành “đang giỡn”…

Có người còn cho rằng Nói lái là một đặc điểm độc đáo của tiếng Việt mà các ngôn ngữ khác không có, khi nói lái người ta phải chọn một nhóm hai hoặc ba tiếng rồi hoán vị các phụ âm hoặc các thanh của những tiếng đó cho nhau. Chẳng hạn như “Vũ như Cẩn” thành “vẫn như cũ” hay “Nguyễn y Vân” thành “vẫn y nguyên” hoặc “bảng đỏ sao vàng” thành “bỏ Đảng sang giàu”…

Lại có người giải thích: Nói lái là cách đánh tráo vần, thanh điệu… giữa hai hoặc ba tiếng với nhau, nó không rườm rà không phức tạp mà rất đơn giản dễ vận dụng để tạo thêm nghĩa mới phù hợp với mục đích giao tiếp và cho rằng nếu không có những cách nói lái này, quá trình giao tiếp sẽ kém sinh động hơn, đơn điệu hơn nhưng tựu chung, khi nói lái, người ta tránh không nói thẳng chữ muốn nói; mà người nghe vì không tinh ý, nhất thời không nhận ra nên xảy ra nhiều giai thoại vô cùng lý thú.

Như chúng ta đã biết, một chữ gồm hai phần: phụ âm và âm. Chẳng hạn như chữ thung gồm phụ âm th và âm ung. Chúng ta lại có thêm sáu thanh: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng và không dấu tạo tiếng Việt thành giàu âm sắc, chỉ cần khác dấu, chữ được phát âm khác nhau: thung (thung dung), thúng (cái thúng), thùng (cái thùng), thụng (áo thụng), thủng (lỗ thủng) và tất nhiên có nghĩa khác nhau, và đây cũng là nét độc đáo của ngôn ngữ Việt, nên người nước ngoài bảo người Việt nói chuyện nghe giống như hát vậy. Thêm vào đó, tiếng Việt vốn đơn âm nên có thể Nói lái dễ dàng mà vẫn có nghiã: Cái biệt thự nầy bự thiệt! Bí mật coi chừng bị bật mí hoặc kháng chiến lâu ngày sẽ khiến chán hay muốn đầu tư nhưng không biết từ đâu, và đã tháo giầy nhưng chưa thấy giàu ! Theo con Hương vì thương con heo cô ấy…

Đặc biệt, đối với những người lớn tuổi hay trưởng thành ở Việt Nam chẳng có ai là không biết cách nói lái, tùy theo gốc gác hoặc sinh hoạt ở Bắc, Trung hay Nam mà cách nói lái có khác nhau đôi chút.

- Nói Lái theo cách ngoài Bắc: người miền Bắc đổi chỗ cho hai chữ, đồng thời đổi luôn hai dấu (nghĩa là đổi âm sắc).

Thí dụ như chữ tượng lo nói lái thành lọ tương (lo đổi chỗ cho tượng, lấy dấu nặng thành lọ, tượng đổi chỗ cho lo, mất dấu nặng thành tương).

Chữ đấu tranh nói lái lại là tránh đâu (tranh đổi chỗ cho đấu, lấy dấu sắc của đấu thành tránh, đấu đổi chỗ cho tranh, mang dấu của tranh vì không dấu nên thành đâu).
- Nói lái theo kiểu trong Nam: theo cách nói lái trong Nam, âm trong hai chữ đổi chỗ cho nhau, phụ âm giữ nguyên vị trí.

Thí dụ như chữ cá đối nói lái thành cối đá (phụ âm ghép với âm ối của đối thành cối, và phụ âm đ ghép với âm á của cá thành đá). Và cứ như vậy mà cờ Tây thành Cầy tơ, Thầy tu thành thù Tây, hiện đại thành hại điện, Thứ Lễ thành Thế Lữ, trò chơi thành trời cho…

Trong vài trường hợp người ta nói lái cho cả ba chữ, thì chỉ hoán đổi hai chữ đầu và cuối nhưng giữ nguyên chữ giữa. Chẳng hạn như : “Trần bá Cương” thành “Trương bá Cần”, “Chín bến đò” thành “chó bến Đình”, “Âu cái Đằng” thành “ăn cái đầu”, “Hương bên đèo” thành “Heo bên đường”…

Đôi khi người ta lại đổi chỗ hai phụ âm cho nhau để sau khi nói lái có nghĩa và dễ nghe hơn. Thí dụ chữ chiến binh thay vì nói lái thành chinh biến cũng có thể nói thành chính biên. Do đó với hai chữ tranh đấu có người đã đùa mà nói rằng: tranh đấu thì tránh đâu khỏi bị trâu đánh thì thế nào cũng phải đấu tranh.

Cũng như trong trường hợp trên, những chữ trùng âm như nhân dân, lù đù, lật đật… không nói lái được.

Tuy nhiên, Nói lái là lối nói mà chỉ cảm nhận được chớ không công thức hóa được. Nếu nói lái mà đơn giản như đang giỡn (có thêm chữ g và dấu hỏi thành dấu ngã) thì không thể áp dụng công thức nào vào đây cả.

Đặc biệt là người miền Nam thường phát âm phụ âm cuối không chính xác như c # t, n # ng, y # i, dấu hỏi đọc như dấu ngã. Chẳng hạn như chữ Cắt và Cắc, Đan và Đang, Thai và Thay, suy nghĩ và nghỉ ngợi… họ đều phát âm giống nhau, khó mà phân biệt. Vì vậy khi người miền Nam nói lái thì rất dễ dàng, nhanh chóng do biến đổi bằng nhiều cách khác nhau nhưng khi viết ra thành chữ thì nhiều khi không đúng vào đâu cả (tức là sai Chánh tả). Thí dụ như sao vàng nói lái thành sang giàu nhưng viết đúng theo âm luật là sang vào thì không phải là ý của người muốn nói; bởi vậy, người ta nói nói lái chớ không ai nói viết lái. Tuy nhiên, có nhiều câu thơ, bài thơ không những nói lái mà còn viết lái rất tài tình, chúng tôi sẽ giới thiệu phần sau.

Sau đây, chúng tôi xin mời quý vị bước vào thế giới của ngôn ngữ Nói Lái qua các câu đố, câu hò, câu đối, giai thoại trong dân gian và cả những bài thơ mang tính cách Văn học Nghệ thuật hoặc đã có từ lâu trong nền Văn học Việt Nam. Dĩ nhiên, theo như ý kiến của Hoàng Lão Tà trong bài “Ăn tục nói phét” thì “môn nói lái rất thần sầu quỷ khiếp đa dạng, đa năng mà ngay trong thi ca kim cổ đều sử dụng. Lúc nào nói lái được là chớp ngay cơ hội. Và nói lái phải tục mới vui, mới cười được, chứ nói lái thông thường thì chả có gì hấp dẫn”.
1/- Nói Lái trong Câu đố :
Cũng như Ca dao, Tục ngữ, Thành ngữ… Câu đố cũng là một hình thái của Văn học dân gian Việt Nam. Người ta sử dụng Câu đố trong các buổi họp mặt vui chơi hoặc trong lúc lao động chân tay để quên đi mệt nhọc hay thử tài trí giữa hai bên nam nữ. Những câu đố Nói lái thường rất dễ đáp nhưng vì bất ngờ hay bị tròng tréo chữ nghiã mà đôi khi không đáp được.
- Lăng quằng lịt quịt … lăng quằng trứng, là cái gì? (Đáp là cái Lưng quần trắng)
- Lăng quằng lịt quịt … lăng quằng rừng, là cái gì? (là cái Lưng quần rằn)
- Trong nhà chạy ra hỏi cái gì bán, là cái gì ? (là cái giàn bí)
- Vừa đi vừa lủi, vừa mổ, là cái gì ? (là cái lỗ mũi)
- Mẹ thương con, con gầy, là cái gì ? (là cây gòn)
- Trên trời rơi xuống cái mau co, là cái gì ? (là cái mo cau)
- Cầm đục cất đục là cái gì ? (là Cục đất)
- Ghe chài chìm giữa biển đông,

Ván phên trôi hết cái cong nó còn’’ là cái gì? (là con còng)
- Khoan mũi, khoan lái, khoan lai,

Bò la, bò liệt đố ai biết gì? (là củ khoai lang).

- Hít vào, hít ra, hít một là cái gì? (là hột mít)
- Cà vô, cà ra, cà nhột, là cái gì? (là cột nhà)
- Cúng trên núi, cúng mê, cúng mải là cái gì? (là cái mủng)
- Cú trong nhà cú ra, cú hãi là cái gì? (là cái hũ)
- May không chút nữa thì lầm,
- Cau dày không bẻ bẻ nhầm cau ranh, là cái gì? (là canh rau)…
- “Sáng nay đi hỏi chị Năm,
- Có đi ra chợ chuộc dùm đôi bông” là cái gì ? ( là trái chùm ruột)

- Cái gì ở cạnh bờ sông,
Cái mui thì nát cái cong thì còn? (là con còng)

- Cái gì bằng ngón chưn cái mà chai cứng, là gì ? (là ngón chưn cái)
- Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn, là gì ? (là con ngựa)
- Miệng bà Ký lớn, bà Ký banh

Tay ông Cai dài, ông Cai khoanh. Là cái gì ? ( là canh bí và canh khoai)
Ngoài ra, còn có câu đố về các con vật, câu đố đặt ra là từ hai con vật nầy khi Nói lái sẽ thành hai con vật khác, đã được giải đáp như sau :
- Con Cua con Rồng lái là Con Công con Rùa
Con Cáo con Sóc lái là con Cóc con Sáo.
Con Trai con Rắn lái là con Trăn con Rái.(cá)
Con Cò con Báo lái là con Cáo con Bò
Con Sáo con Bò lái là con Sò con Báo
Con Sếu con Ngao lái là con Sáo con Nghêu …
con Sâu con Dế –> con dê con sấu
con Ngao con Sán –> con ngan con sáo
con Ong con Kiến –> con yến con công
con Ốc con Kiến –> con yến con cóc
con Trai con Rắn –> con trăn con rái
con Ốc con Nhện –> con ếch con nhộng

- Con SÁO nói với con BÒ,
Có con SÒ BÁO: bên kia Hội chùa.
Con CÔNG nghe rũ con RÙA,
Con CUA thấy vậy, mới khua con RỒNG.
Cả bọn kết lại thật đông,
Con CÒ, con SÓC cũng mong theo cùng.
CÓC, SÒ xúm lại đi chung…

- Cô Công nói với Cậu Rùa,
Rồng ở dưới đất, còn Cua trên trời.
Ốc gào Nhện hỡi, nhện ơi:
Ếch bơi phố núi, Nhộng chơi ao làng.
Gió chiều nhẹ thổi mênh mang,
Tao nhân mặc khách lang thang bên đường…

2/- Nói Lái trong Câu Hò đối đáp:
Hò đối đáp vốn là một loại hình thức dân ca phổ biến khắp ba miền đất nước. Nó thường xảy ra trên cánh đồng hay dòng sông, nam và nữ thường hò đối đáp với nhau để xua đi nỗi mệt nhọc trong công việc. Điều đáng ngạc nhiên là họ có thể dễ dàng sáng tạo và hò đối đáp ngay tại chỗ. Những người này rất nhanh nhẹn và thông minh đến mức ngay cả những người có học đôi khi cũng phải khâm phục họ và đôi khi phải bỏ cuộc. Có nhiều cặp trai gái trở thành chồng vợ sau những cuộc hò nầy.

Những câu hò đối đáp thông thường thì rất nhiều nhưng dùng cách nói lái để hò đối đáp thì rất hiếm quý.
# Thông thường thì bên con gái cất cao câu hò đối trước:
“Hò hơ… Con cá đối nằm trên cối đá,
Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo.
Anh mà đối đặng… ơ.. ờ
Hò hơ… Anh mà đối đặng, dẫu nghèo em cũng ưng”.

# Sau khi phân tách và tìm câu trả lời, bên con trai hò đáp:
“Hò hơ… Chim mỏ kiến(g) đậu trên miếng cỏ,
Chim vàng lông đáp dựa vồng lang.
Anh đà đối đặng ơ… ờ
Hò hơ… Anh đà đối đặng, hỏi nàng có ưng chưa?”

Và như thế, bên nầy đối, bên kia đáp cứ kéo dài không dứt cuộc tranh tài đầy lý thú của hai bên nam nữ để lại dân gian những câu hò Nói lái độc đáo đầy sáng tạo:
- Con sáo sậu chê cô xấu xạo,
Con chó què chân bị cái quần che.

- Con bé mập ú nhờ bà mụ ấp,
Thằng bé ốm tong vác cái ống tôm.

- Chiều chiều cụ Mão lên rừng cạo mũ,
Sáng sớm bà Hạc đi bán bạc hà.

- Cô nàng dâu Hứa đi mua dưa hấu,
Thằng rể bảnh trai ngồi cạnh bãi tranh.

- Người mặc áo xanh chính là anh xáo, (anh Sáu)
Miếng thịt băm nát trong bụng bác Năm.

- Chàng trai sứt môi ngồi ăn xôi mứt,
Cô gái mồm to lặn lội mò tôm.

- Con cóc cái ngồi trên cái cốc,
Con cầy tơ đứng dưới cờ Tây.

Bên cạnh đó còn có những câu Nói lái mà đôi trai gái khéo léo gởi gắm tình cảm cho nhau mà người ngoài vì vô tình không hiểu được. Trước hết, người con gái thố lộ:
- “Cam sành nhỏ lá thanh ương,
Ngọt mật thanh đường nhắm lớ, bớ anh !”

Cảm thương vì “thương anh” mà “nhớ lắm” của nàng nên chàng hứa hẹn:
- “Thanh ương là tuổi mong chờ
Một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà”.
(Có nghiã: Qua muốn “nhắn lại” với bậu là nếu “thương anh” mà bậu “chờ qua” thì “qua chờ” bậu).

3/- Nói Lái trong câu đối :
Câu đối là cách chơi chữ và là một trong những thú tiêu khiển của người xưa. Người ta thường viết câu đối trong dịp Tết hay trong các lễ mừng thượng thọ, thăng quan tiến chức, đỗ đạt hay tân hôn, sinh nhật…. Người viết câu đối phải là người văn hay, chữ tốt và nhất là ý nghiã của câu đối phải phù hợp với trọng tâm của buỗi lễ. Cho nên, viết câu đối rất khó mà nói lái trong câu đố thì lại càng khó hơn nữa. Vậy mà trong dân gian Việt Nam vẫn có nhiều câu đối nói lái.

Thảm thương cho cuộc sống thiếu thốn, đói nghèo của nghề giáo dưới chế độ Xã hội Chủ nghiã, người ta than thở qua bài “Buồn đời giáo-chức”:

Thảm kịch của thầy giáo, phải tháo giầy,
Tháo luôn cả ủng, thủng luôn cả áo.
Làm giáo chức, nên phải giứt cháo,
Thảo chương rồi, để được thưởng chao,
Lấy giáo án đem dán áo.

Cùng với một câu đối bất hủ như sau :
- Chiều ba mươi, thầy giáo tháo giày ra chợ bán
Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo đón xuân sang.

Tuy vậy, vẫn còn một câu đối khác nghe chỉnh hơn :
- Thầy giáo… tháo giầy, tháo cả ủng, thủng cả áo, đem giáo án ra… dán áo.

Mèo con… còn meo, còn léo nhéo, kéo lòn nhòn, ngậm xương cá về... ca xướng.

Còn đây là câu đối Tết dành tặng cho những tên keo kiệt, coi trọng đồng tiền hơn bất cứ mọi thứ trên đời (xin nói lái từng cặp chữ thì sẽ thấy):
- Thiên tường, tác biệt,
Hiền tạ, thu sương.

Ngoài ra, còn có những câu đối không dùng trong mục đích nào cả mà chỉ để thỏa mãn tánh trào phúng và tài Nói lái của mình :
- Kia mấy cây mía trên xe chú,
Có vài cái vò dưới nhà cô.
- Thầy giáo tháo giầy, vấy đất vất đấỵ
Thầy tu thù Tây, cầu đạo cạo đầu.
- Trai Thủ Đức năm canh thức đủ,
Gái Đồng Tranh sáu khắc đành trông.
- “Trai Thủ Đức năm canh thức đủ,
Gái Gò Công sáu khắc gồng co”.
- Gái Hóc Môn vừa hôn vừa móc,
Trai Gò Công vừa gồng vừa co.
- Thầy giáo Bản Giốc, vừa bốc vừa giảng,
Tử tù Cổng Trời, bị cởi bị trồng.
- Con trai Bắc Ninh, vừa binh vừa nắc,
Con gái Hà Đông, hồng diện đa dâm.
- Đại học Suối Máu, sáu tháng muối cơm,
Giáo khu Thừa Thiên, cửa thiền thưa thớt.
- Dân nhậu Chu Lai, uống chai uống lu,
Người dân Đập Đá, bị đá bị đập.
- Rượu thuốc Bạch Hổ, uống bổ như hạch,
Con gái Đà Nẵng, tứ đẳng nõn nà.

- Nhà văn Nhật Tiến bảo học tiếng Nhật là tiện nhất.

Luật sư Ðức Tiến không biết tiếng Ðức nên tức điếng.
- Con cá rô cố ra khỏi rá cô !
Chú chó mực chực mó vào chõ mứt.
-“Vợ nuôi chó, chồng chén cầy; tứ đốm tam khoanh, cây còn hóa ra là nhà Tuất.
“Ngưòi bảo heo, kẻ kêu lợn; ba bầy bảy mối, lớn lại thành đích thị họ Trư.”

Còn về câu đối “Gái Củ Chi, chỉ cu, hỏi củ chi?” thì có các câu :
- Trai Giồng dứa, trồng dừa giống, trên giồng dứa.
- Trai Láng Hạ, lạ háng người Láng Hạ.
- Trai Thành Đông, đồng thanh hét thành đồng.

Sau hết, có một người thích nói lái, tức cảnh sinh tình đưa ra câu đối sau đây, xin mời chư quý vị tìm cho câu đáp :
- “Xuân Cali lạnh lẽo, nghe gọi heo, gọi lợn, gọi chó, gọi cờ tây, chạnh thèm bát giả cầy…”

4/- Nói lái trong các giai thoại :
Giai thoại được hiểu là câu chuyện thú vị làm cho người nghe phải hào hứng, vui thích. Từ xưa, có rất nhiều giai thoại, đặc biệt là giai thoại trong văn chương thì không những được người đời truyền tụng qua những cuộc trao đổi trong giới Văn gia, trí thức mà còn được ghi vào sách vở. Tuy nhiên, có những giai thoại Nói lái thì ít người quan tâm, thỉnh thoảng họ cũng có nghe qua nhưng rồi bỏ, xem đó như là những câu chuyện dân gian. Vì vậy, những giai thoại nầy trở thành loại văn chương truyền khẩu, mặc ai muốn kể sao thì kể, muốn thêm thắt thế nào cũng được miễn đáp ứng được sự cảm nhận của người nghe là được.

A)- Chuyện Đại phong :
Chuyện thế này: hai anh hề trên sân khấu tuồng ngoài Bắc, trong lúc diễu giúp vui, anh A đố anh B: Đại phong là gì?
- “Thì đại là lớn, còn phong là gió, đại phong là gió lớn”, anh B giải thích.

Anh A bảo :“ Đại phong có nghiã là lọ tương đấy. Nầy nhé, Đại phong là gió lớn, mà gió lớn thì chùa đổ, chùa đổ thi tượng (Phật) lo, tượng lo là lọ tương.

Có người còn cho rằng chuyện Đại phong xuất xứ từ Trạng Quỳnh. Trạng Quỳnh tên thật là Nguyễn Quỳnh, sinh quán Nghệ An dưới thời Lê Trung Hưng (1530-1540), là người hay chữ, thông minh xuất chúng, với bản tính nói ngông hay châm chọc vua chúa quan quyền thời bấy giờ. Một hôm Quỳnh dâng lên chúa Trịnh một lọ thức ăn khoác lác là một món ăn tuyệt hảo, ngoài có đề hai chữ Đại Phong. Sau khi ăn thử, chúa Trịnh vì bị Trạng lừa bỏ đói, ăn rất ngon miệng nên cật vấn về món ăn lạ, thì Trạng giải thích rằng Đại Phong là gió to, gió to thì tượng lo, tượng lo nói lái là lọ tương.

Ngoài ra, Trạng Quỳnh còn có một câu nói lái khác mà người ta cho rằng để chọc bà Đoàn thị Điểm (?)
- Nắng cực lúa mất mùa, đứng đầu làng xin xỏ,
Nở lòng nào chị chẳng cho.

B)- Chuyện Trạng Quỳnh – “đá bèo” và “ngọa sơn” :
Một bà Chúa có nhan sắc mà tính kiêu ngạo, đi ra chơi phố phường thấy ai trái ý là sai lính bắt đánh liền. Quỳnh lững thững đi chơi, gặp kiệu Chúa, thấy gần đấy có cái ao bèo, vội vàng chạy xuống cầu ao nhằm đám bèo mà đá tứ tung. Chúa biết Quỳnh, thấy chơi lẩn thẩn như thế mới hỏi:
- Ông làm gì đó?

Quỳnh ngẩng lên thưa:
- Tôi ở nhà buồn quá, ra ao đá bèo chơi ạ !

Chúa đỏ mặt tía tai, đánh kiệu bỏ đi.

Một buổi trưa nọ, Quỳnh định vào nội phủ thăm Chúa nhưng biết là Chúa đang ngon giấc ở dinh bà Chính cung, Quỳnh cụt hứng lui gót. Trên đường về, Quỳnh đề lên vách phủ hai chữ “Ngọa Sơn”. Khi Chúa gọi vào hỏi, Quỳnh trả lời :
- Khải Chúa, “Ngọa Sơn” nghĩa là nằm ở trên núi, có thế thôi ạ! Tiện tay, thần viết chơi, chẳng có gì để Chúa bận tâm cả.

Sau đó, Chúa thấy hai chữ “Ngọa Sơn” xuất hiện la liệt trên các vách tường, cửa nhà ngoài phố…Chúa truyền gọi một người đến hỏi duyên cớ. Người kia run lẩy bẩy, thưa:
- Chúng con là kẻ hèn mọn dốt nát, đâu dám sính chữ. Việc này chẳng qua chỉ tại Trạng Quỳnh đấy ạ ! Trạng Quỳnh có lần vào nội phủ, về mách với chúng con là Chúa đang bận “Ngọa Sơn”, rồi giải thích rằng: Ngọa là nằm, nằm lâu thì phải ngủ, ngủ thì phải ngáy. Sơn là núi, mà núi thì phải có đèo. “Ngáy Đèo” nói lái lại là… , con không dám nói ra đâu. Không ngờ bọn trẻ con nghe lỏm được lời Trạng, buồn tay viết bậy bạ lung tung. Xin Chúa tha cho con!

Hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện này là do Quỳnh, có làm lớn chuyện ra chỉ tổ thêm xấu hổ nên bỏ qua.

C)- Chuyện Đại điểm Quần thần :
Một giai thoại về Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm được lưu truyền ở miền Nam như sau : hồi Thủ Tướng Tâm còn là Quận Trưởng Cai Lậy (có biệt danh là Hùm Xám Cai Lậy) lúc ăn mừng tân gia, có người dâng lên quan bốn chữ đại tự Đại Điểm Quần Thần rất đẹp và giải thích Quần thần là người bề tôi, Đại điểm là điểm lớn, ý nói quan lớn là người bề tôi có vị trí to lớn trong quan trường. Quan lấy làm thích thú đem treo bức liễn trong phòng khách. Ít lâu sau có người đến ngắm bức liễn, rồi xin quan lớn dẹp đi. Quan ngạc nhiên hỏi, người ấy giải thích: người viết liễn đã cố ý châm biếm quan lớn, mà quan không biết. Bốn chữ trên dịch từng chữ: Đại điểm là chấm to; Quần thần là bầy tôi. Đại Điểm Quần Thần là Chấm To Bầy Tôi nói lái lại là Chó Tâm Bồi Tây. Chẳng biết quan có tìm tác giả bốn chữ nói trên để trị tội hay chăng, nhưng có lẽ vì không muốn làm lớn chuyện mà thêm xấu hổ, nên ỉm luôn.
D)- Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nói lái :
Trước khi chết, Trạng Trình (1491-1585, thời Lê Mạc) có làm một tấm bia căn dặn con cháu khi nào chết nên đem tấm bia nầy chôn trước mộ, tấm bia được khắc chữ bên trong nhưng sơn bít bên ngoài. Sau đó chừng 100 năm, cha con ông Khả đem bò tới đó cho ăn mà lại cột nhằm mộ bia của Trạng. Hôm đó nhằm lúc trưa nắng, vì quá khát nước nên bầy bò đụng với nhau, chạy tán loạn làm gẫy tấm bia, sập xuống. Làng xã hay tin biết cha con ông Khả làm hư mồ mả của Trạng nên bắt về trị tội. Cha con ông Khả năn nỉ quá, xin cho đi vay bạc hỏi tiền làm lại tấm bia khác thường cho Trạng. Làng xã thấy tội nghiệp nên ưng thuận. Sau khi vay mượn và bán hết đồ đạc trong nhà thì chỉ được có một quan tám, nhưng được bao nhiêu cũng phải tiến hành sửa chữa. Đến chừng đập bia ra vừa tróc lớp ô dước bên ngoài thì thấy có hàng chữ như thế nầy:”Cha con thằng Khả làm ngã bia ta, Làng xã bắt đền tam quán”. Thì ra tam quán nói lái thành quan tám, đúng như lời tiên tri của ông Trạng.

Đ)- Chuyện về ông Thủ Thiệm : (theo “Thủ Thiệm Đất Quảng” của Hoàng Quốc)
Thủ Thiệm người xứ Bình Định, xã An Hoà thuộc phủ Hà Đông sau đổi thành Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam. Ông sinh năm 1854 mất vào năm1920 tại quê nhà. Lúc nhỏ, Thủ Thiệm có tên là Nhơn, khi lớn lên đi học và đi thi, ông lấy tên chính thức là Thiệm. Theo phong tục xưa, Thủ sắc là người giữ các sắc phong của Vua ban cho làng, chức này thường được Hội đồng kỳ mục tín nhiệm giao cho các nhà Nho, hoặc ít ra cũng là người có chữ nghĩa thánh hiền ở trong làng đảm nhận. Có lẽ nhờ thông Hán học mà Thiệm được giao làm Thủ sắc của làng. Từ đó, người làng gọi ông là Thủ Thiệm, tức đem ghép chức Thủ sắc vào tên ông. Ông là người hoạt bát, nhanh nhẹn, thông minh, ứng đối tài tình nên có nhiều giai thoại để đời :
- Một đám cưới nọ tổ chức rất linh đình, hơn nữa số lễ vật của khách đến chúc mừng cũng để bù đắp vào các khoản chi phí, đó là chưa nói đến trường hợp gia chủ được lãi, nếu có chủ tâm tính toán trước. Thủ Thiệm ghét cay ghét đắng cái thói này. Tương truyền có một chuyện như vầy: Khi đi dự đám cưới, Thủ Thiệm mua một tấm lụa, viết lên đó ba chữ Hán thật to:”Miêu Bất Tọa” làm quà tặng đám cưới. Trong tiệc rượu, nhiều người nhờ Thủ Thiệm giải thích mấy chữ đó. Thủ Thiệm chép miệng: – Chà có rứa mà mấy ông cũng hỏi! “Miêu” là mèo, “Bất” là không, “Tọa” là ngồi. “Miêu Bất Tọa” là mèo không ngồi, mà mèo không ngồi tức là mèo đứng. Các ông các bà mừng “Bách niên giai lão”, “Bách niên hạnh phúc”, còn tui thì “Mèo Đứng” cũng vậy mà thôi chứ có khác gì đâu. Nhìn thấy tấm lụa có chữ “Miêu Bất Tọa” treo trang trọng giữa phòng chính, ai cũng bấm bụng cười thầm.

- Có cậu con trai học dốt, thi trượt nhưng người cha đã bỏ tiền mua chức cửu phẩm văn giai, mở tiệc đãi cả làng mừng con trai đỗ đạt. Mừng cháu có thành tích, Thủ Thiệm cho câu đối Nôm:

“Cha ở nhà đại du
Con đi thi đậu tru”

Câu đối Nôm dán trên cột nhà khiến chủ nhà bật ra tiếng chửi đổng, còn khách khứa tủm tỉm cười thầm.
- Trong ngày đám tang vợ, Ông đề trên lá phướn vợ chữ khuynh địa có nghĩa là méo đất, và khóc vợ, rồi kể lể thờ dài: “Lúc thiếu “cái nớ” thì làm răng mà các dì giúp tui được, phải không các dì?” khiến bà con chòm xóm “lỡ khóc, lỡ cười” với ông chủ nhà trong lúc tang ma bối rối.

E)- “Méo trời và Méo đất”:
Có một ông thợ hớt tóc góa vợ nên đã quan hệ “già nhân nghĩa, non vợ chồng” với một bà góa chồng. Có hai câu thơ ông tự “vịnh” về mối quan hệ của chính mình thực đáng ghi nhớ :
Yêu em từ độ méo trời,
Khi nào méo đất mới rời em ra (!)

Yêu từ thuở “méo trời” đã hay, nhưng công khai thừa nhận sẽ hết yêu khi “méo đất” dẫu có hơi ác nhưng cách dùng từ thì quả thực tinh quái và thông minh hết chỗ chê.

G)- Bài thơ Tác hợp : (theo “Quảng Nam Nói Lái” của Huỳnh ngọc Chiến)
Ở xứ Quảng Nam có ông Dương Quốc Thạnh, biệt hiệu Sơn Hồ, chuyên làm thơ nói lái theo thể Đường luật, đối nhau chan chát trong từng câu từng chữ. Có một cậu công nhân gốc Hội An làm việc ở Phú Ninh quan hệ với một cô thợ may ở địa phương mang bầu. Cậu về thú thực với gia đình và xin cưới gấp nhưng ba mẹ không chịu. Ông lại là người quen biết cả hai bên nên nhà gái nhờ ông thuyết phục bên nhà trai. Cuối cùng đám cưới vẫn được diễn ra với cô dâu mang bụng bầu 6 tháng (!). Không khí nặng nề giữa hai họ được giải tỏa hoàn toàn khi ông, với tư cách chủ hôn, đọc bài thơ này và nhà trai thực sự vui vẻ khi tuyên bố nhận con dâu.

Ai bàn chi chuyện đã an bài,
Trai khiển đồng tình gái triển khai.
Cứ sợ cho nên thành cớ sự,
Mai than mốt thở lỡ mang thai.
Tính từ ngày tháng vương tình tứ,
Khai ổ bây giờ báo khổ ai.
Cưỡng chúng ông bà nghe cũng chướng,
Thôi đành để chúng được thành đôi !

Bài thơ quả thật vô cùng sâu sắc và lý thú. Chuyện đã rồi thì thôi đừng bàn ra tán vô làm chi. Do chàng trai điều khiển nên cô gái mới phải chìu theo nhưng lỗi là do cô đồng tình nên cũng không thể trách ai. Vì quan hệ lén lút nên mới xảy ra “cớ sự”. Bây giờ đã sắp đến ngày sinh nở rồi, sắp đến lúc “khai ổ” rồi mà đám cưới không thành thì sẽ làm khổ cho cả hai bên nhà trai nhà gái lẫn hai người trong cuộc.

Thêm một chuyện khác là ở Quận Đại Lộc cũng thuộc Quảng Nam có anh Trần Hàn xấu trai, mặt thì rỗ, lại thêm chột hết một mắt, nhưng anh ta hát hay nổi tiếng. Nhưng “Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị”, vì khi anh xuống làng La Qua, quận Điện Bàn, gặp một cô gái hát chỉ hai câu mà không tài nào đối được, đành bỏ nghề hát, tuyệt tích giang hồ. Câu hát rằng:

Trần ai gặp lúc cơ hàn
Rổ đan mặt mốt, xuống ngàn đổi khoai.

Cái chữ khó của câu hát là chữ “Rổ” .Đan mặt mốt, nghĩa trắng là nghèo quá phải đan rổ tre long mốt để đựng khoai, nghĩa đen lại là mặt rỗ hoa mè lại đui một mắt (mặt mốt nói lái là một mắt).

H)- Tranh đấu bị trâu đánh :
Ở một cơ quan nọ (dĩ nhiên là cơ quan của Việt cộng) có hội nghị họp chống tham nhũng cửa quyền. Gần kết thúc cuộc họp có một chị công nhân cũ của nhà máy đòi đứng lên phát biểu. Chị vừa nói vừa khóc: “Chúng tôi cũng muốn đấu tranh đòi quyền lợi lắm, nhưng như tôi đây, đấu tranh thì không biết tránh đâu, chưa kịp tránh đâu thì đã bị trâu đánh. Vì vậy bây giờ tôi đang thất nghiệp !

I)- Một mẩu đối thoại :
A: Bên đó thế nào ?
B: Ồ, có đại phong.
A: Làm gì thì làm, nhớ thủ tục đầu tiên đấy nhé !
B: Vâng, biết rồi, khổ lắm nói mãi. À, anh thấy cô ấy thế nào ?
A: Người đẹp có đôi chân thảo bình nên hình chụp tôi lộng kiếng rồi !
B: Anh thì lúc nào cũng tếu, cũng vũ như cẩn vậy.
A: Thôi chào, chúc anh mạnh sự lòi.!!!

(Chú thích : – Thảo bình, theo nghiã Hán Việt, thảo là cỏ, bình là bằng. Thảo bình là cỏ bằng. Cỏ bằng nói lái là cẳng bò. – Mạnh sự lòi nói lái là Mọi sự lành).

K)- Bài thơ chú Phỉnh :
Tạp chí Xưa Nay số 298 (12/2007), nhân kỷ niệm 15 năm ngày mất của Quách Tấn (một nhà thơ sở trường Thơ Đường luật có tên trong “Thi nhân Việt Nam”) có bài viết về tác giả bài thơ nói lái Chú Phỉnh nổi tiếng. Bài thơ nói lái như thế này:
Chú phỉnh tôi rồi Chính phủ ơi,
Chú khiêng đi mất chiến khu rồi !
Thi đua sao cứ thua đi mãi,
Kháng chiến như vầy khiến chán thôi !.

Theo ô.Quách Tạo, tác giả bài thơ nói lái này là Hồ Đệ, người đã gây dựng vào năm 1954 ở Quảng Nam tổ chức Hậu Quốc Dân Đảng phối hợp với nhóm các chức sắc Cao Đài do Cao Hữu Chí đứng đầu để chống Việt Minh và đã bị Tòa án Liên khu V xử.
Không hiểu sao về sau người ta lại cứ nghĩ tác giả bài thơ nói lái này là nhà thơ Quách Tấn, có thể vì theo lý luận của hỏi-cung-viên Cao Kế: “Bài thơ Đường này anh không làm thì ai vô đây mà làm?”.
Về chuyện này, năm 1991, Quách Tấn, khi đó đã mù, nói với Quách Tạo: “Việc đời cũng lạ. Văn của mình thì họ chê nhưng lại đem chép hàng vài chục trang sách của mình rồi ký tên, xuất bản làm tác giả. Còn văn bá láp và phản động thì họ lại quả quyết đó là của mình để tìm cách buộc tội”.

Cùng với tư tưởng “phản động” nầy, trong bài “Nói lái” của Đỗ Thông Minh cũng có ghi bài thơ “chú Phỉnh” tuy có khác đi đôi chút :
Kháng chiến thôi rồi khiến chán ôi,
Chiến khu để lúa chú khiên rồi !
Thi đua chi nữa thua đi quách,
Anh hùng ? Chỉ tổ ung hành thôi !

Rõ ràng, chính vì bài thơ được phổ biến bằng cách truyền miệng nên tình trạng “tam sao thất bổn” là không thể tránh, mặc dù nội dung không thay đổi nhiều lắm.

L)- Câu ró và Câu rạo :
Có anh chàng nọ trước kia để râu trông rất đẹp nhưng sau đó không biết lý do gì, cạo đi hàm râu của mình làm cho cô bạn gái nhận không ra. Chàng bèn làm thơ nói lái như vầy để than thở :
Xưa kia câu ró ngó xinh,
Bây giờ câu rạo vô tình ngó lơ!

M)- Nói lái để hẹn hò :
Trai gái miền Trung hẹn hò gặp gỡ nhau, sợ có người nghe nên tìm cách nói lái vẩn vơ về ruộng đồng, rơm rạ để hiểu ngầm với nhau.
Chàng nói bâng quơ: “bị môn, bị khoai, bị nưa”. Nàng chưa có cơ hội nên khất: “cau khô, trầu héo, tái môi.” hay “nón cụ, quai thao, tốt mối, xấu cuồng” hoặc “bưởi đỏ, cam sành, tốt múi”..

Người qua đường không thể hiểu rằng bị nưa là bựa ni (tức là bữa nay), tái môi là tối mai, tốt mối xấu cuồng là tối mốt xuống cầu, tối múi là túi mốt (tức là tối mốt).

N)- Đặt tên con :
Biết Tú Đạp là dân học thức nên có người quen nhờ đặt tên cho đứa con trai vừa mới sinh. Sau mấy ngày suy nghĩ, anh đề nghị người quen nên đặt tên con là Gia Bảo vì cái tên này nói lên rằng cả gia đình rất quí cậu bé.

Sau khi làm giấy khai sinh cho cậu bé được mấy ngày, ông bố đến gặp Tú Đạp giận dữ hỏi:
- Tại sao anh biết là hồi đó chúng tôi mua phải loại bao giả, hả? Bao nội địa thì có khi bị rách, chớ làm gì có bao giả !!! (Gia Bảo nói lái là Bao giả!)

O)- Thuyền ta lái gió :
Biết nói lái, biết trò chơi chữ để thưởng thức cái của trời cho mà còn để tránh… làm phiền người nghe vì lời thật mất lòng. Nhưng cũng có trường hơp ngược lại, người nói vô tình nói lái làm khổ cả người nói lẫn người nghe.
Số là, có một ông thầy giáo khi đọc đề thi về bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, thay vì đọc câu “Thuyền ta lái gió với buồm trăng” đã vô tư đọc thành “Thuyền ta ló giái với buồm trăng”, khiến cả lớp cười rần lên làm ông thầy sượng chết người. Ôi, tiếng Việt đáng yêu mà cũng đáng sợ quá!

O)- Đít mấy lỗ :
Việt Nam thời chưa mở cửa, người dân sử dụng xe gắn máy phải mua xăng ở những cây xăng chui vì không có tiêu chuẩn để mua ở cửa hàng quốc doanh. Dấu hiệu của cây xăng chui là một cái chai đặt trên cục gạch nằm bên lề đường. Người khách dừng xe lại gần nơi đó sẽ có người đến chào hàng :
- Chành ao! Đít mấy lỗ?

Nếu là khách quen, sẽ trả lời đúng điệu :
- Chèm ao! Đít hai lỗ.

Vậy là việc mua bán diễn ra một cách êm xuôi bằng những câu nói lái chuyên nghiệp.
(Đó là: Chào anh, đổ mấy lít? Chào em, đổ hai lít!)

Nguyễn Văn Hiệp

Source Internet.

Chủ Nhật, 26 tháng 5, 2013

Một thị trấn dưới hố sâu


Cả một thị trấn tránh nóng

  dưới hố sâu "địa ngục"


Một thị trấn đặc biệt với tên gọi "cái hố của người da trắng" giúp con người tránh nóng ngay cả khi nhiệt độ ngoài trời lên tới 50 độ C.

Ý tưởng sống trong lòng đất thường mang đến cho ta những suy nghĩ về một không gian tối, ẩm thấp và chật hẹp. Nhưng Coober Pedy ở Úc là một thị trấn đặc biệt với bao điều kỳ lạ: nhiệt độ ở đây luôn duy trì ở mức 24 độ C ngay cả khi mặt đất có tỏa nhiệt tới 50 độ C vào mùa hè.

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 1
Từ một lịch sử hình thành thú vị…

Coober Pedy là một thị trấn nhỏ nằm ở miền Nam nước Úc. Cái tên Coober Pedy bắt nguồn từ ngôn ngữ của những người thổ dân địa phương có nghĩa là “cái hố của người da trắng”. 

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 2

Năm 1915, khi những người tìm vàng phát hiện ra trữ lượng lớn ngọc mắt mèo (opal) thì nơi đây bắt đầu nổi tiếng. Cư dân nhiều nơi đổ xô đến đây khai thác và tạo ra vô số những hố rỗng trong lòng đất. Bởi vậy mà Coober Pedy còn được biết đến là “thủ đô của ngọc mắt mèo trên thế giới”.

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 3
Hình ảnh của opal.

Opal là một khoáng vật quý hiếm hơn cả hồng ngọc và kim cương. Ngày xưa, chúng được dùng làm vật liệu trang trí trên các đền đài và cung điện. Ngày nay, opal được xem là một món hàng trang sức có giá trị .

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 4

Chính vì giá trị lớn của opal nên những người khai thác mỏ theo dạng thủ công nơi đây đã xây dựng những ngôi nhà trong hầm từ chính những hố rỗng ban đầu để phục vụ mục đích khai thác là chính. 

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 5
Theo thời gian, công việc tìm kiếm ngày càng trở nên quy mô hơn. Họ tiếp tục mở rộng diện tích tìm kiếm và nhiều ngôi nhà lớn được xây dựng. Dần dần, những ngôi nhà xây dựng theo dạng hầm trú ẩn tạm thời đã trở thành một khu dân cư nhộn nhịp dưới lòng đất.

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 6

Đây chính là lý do mà bất cứ du khách nào đến Coober Pedy cũng không khỏi ngạc nhiên bởi hàng trăm khối hình trụ nhô lên mặt đất. Đó là những ống thông khói và trục thông gió của căn nhà dưới lòng đất - được gọi là “dugouts”. Nơi đây cũng trở thành địa điểm lý tưởng cho ai muốn trốn cái nóng "như thiêu như đốt" ở Coober Pedy.

… đến một thị trấn có 1-0-2 trên thế giới…

Ngày nay, Coober Pedy đã phát triển thành một trong những địa điểm độc đáo nhất nước Úc. Mặc dù dân số thị trấn chỉ hơn 3.000 người, nhưng thật khó để tìm thấy bất kì người nào hay nhà ở nào trên mặt đất. Do thời tiết mùa hè ở đây quá khắc nghiệt nên người dân thích sống trong những ngôi nhà ngầm đích thực.

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 7

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 8
Những ngôi nhà tuyệt đẹp trong lòng đất này có lối đi vào nhà liền kề với phố bên ngoài. Nhiều người dân thậm chí còn thiết kế những khu vườn nhỏ trước lối vào để tăng thêm màu sắc tươi sáng cho khung cảnh nơi đây.

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 9

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 10

Vật liệu chính bên trong các ngôi nhà là đá sa thạch bởi nó dễ khai thác, có tính ổn định và đem lại sự vững chắc cho ngôi nhà. Không chỉ vậy, màu sắc tuyệt đẹp của đá sa thạch không chỉ mang lại sự sang trọng mà còn tôn thêm vẻ ấm áp, thân thiện, đối lập với cái nóng khắc nghiệt của thời tiết bên ngoài của vùng sa mạc.

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 11
Tất cả các căn phòng trong căn nhà đều được thông gió thông qua một trục thẳng đứng hẹp. Ánh sáng tự nhiên chiếu vào khu vực nhà bếp, phòng sinh hoạt qua một trục thông ánh sáng lớn hơn. Phòng ngủ thì được đẩy lui, nằm phía sau cùng của ngôi nhà để giữ được sự yên tĩnh tuyệt đối. 

Khí hậu nơi đây cũng rất tuyệt vời. Cho dù nhiệt độ trên mặt đất có đạt tới ngưỡng 50 độ C vào mùa hè hay dưới 0 độ vào mùa đông thì nhiệt độ ở những ngôi nhà trong lòng đất luôn luôn giữ một mức ổn định hoàn hảo - khoảng 24 độ C, độ ẩm 20%. 

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 12
Hình ảnh một nhà thờ dưới lòng đất.

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 13

Mặc dù sống dưới lòng đất nhưng đó không phải là lý do hạn chế trí tưởng tưởng kì diệu của người dân Coober Pedy. Họ chạm khắc vô số những hình ảnh tuyệt đẹp, kỳ lạ song vô cùng tinh tế ở khắp nơi bên trong “hang động”.

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 14
Cửa hàng sách báo

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 15
Cửa hàng trang sức

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 16
Nhà hàng
Nơi đây cũng không khác gì một thị trấn bình thường trên mặt đất: có nhà ở với tất cả cơ sở vật chất, những cửa hàng trang sức, siêu thị, phòng bi-da, quán bar, bể bơi, khách sạn, nhà thờ, nghĩa địa… 

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 17
Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 18
Đặc biệt, ở đây còn có cả một bảo tàng nghệ thuật ngầm (Old Time Mine) từng là hang đá cổ, bên trong có rất nhiều tầng opal được lưu giữ lại, phản ánh một giai đoạn lịch sử của Coober Pedy.

Cả một thị trấn tránh nóng dưới hố sâu "địa ngục" 19

Ngày nay, việc khai thác opal ở Coober Pedy hoàn toàn bị cấm. Nhưng người dân vẫn có thể cải tạo và mở rộng những căn nhà trong lòng đất. Chính những ngôi nhà kì lạ mà tuyệt đẹp dưới lòng đất này đã thu hút khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới cũng như các nhà làm phim đến với Coober Pedy.

Lính thủy,sưu tầm

Source Internet.

CÔ GIÁO TỴ NẠN JENNIFER RAMM.


 
Cô Giáo Jenny đang nhận quà Giáng Sinh do đại diện trạitỵ nạn traotặng, năm 1982.
Cô Giáo Tỵ Nạn mà tôi và các bạn đề cập tới ngày hôm nay, không phải là cô giáo ở Việt Nam đi vượt biên, sống tạm thời tại các trại tỵ nạn, mà là cô giáo người Úc, từ Úc tới các trại tỵ nạn để dậy tiếng Anh cho những người dân Tỵ Nạn đang sống ở đó.
Cô giáo người Úc này tên là Jennifer Joy Ramm.
San ngày Việt Cộng cưỡng chiếm Miền Nam, dân Việt chúng ta đã ào ạt bỏ xứ ra đi tìm Tự Do, vì không thể sống dưới chế độ bạo lực, tù đầy và sự trả thù dã man của bọn Cộng Sản. Cả thế giới dang rộng vòng tay và lòng từ thiện thiết lập những trung tâm tỵ nạn tại các hòn đảo trong vùng Á Châu Thái Bình Dương để chúng ta có nơi tạm trú chờ đi định cư ở các quốc gia khác.
Trong thời gian tạm trú này, đã có rất nhiều thiện nguyện viên nam cũng như nữ, già cũng như trẻ, ở khắp mọi nơi trên thế giới tới các trại tỵ nạn để giúp đỡ chúng ta tìm thân nhân thất lạc cũng như học Anh ngữ. Một trong những người trẻ đó là cô Jennifer Joy Ramm mà các bạn hữu và các học viên thường gọi cô bằng cái tên ngắn gọn và đầy tình thân:
"Chị Jenny".
Jenny là con cả trong một gia đình gốc Anh, sinh sống ở vùng Burra Burri  thuộc Tiểu bang Queensland. Đến khi lớn lên, gia đình đã chuyển về Cooroy để cô có thể tiếp tục học bậc trung học ở Noosa.Tốt nghiệp trung học, Jenny được học bổng của chính phủ Liên Bang để tiếp tục học ở Đại Học Queensland.
Sau khi tốt nghiệp văn bằng Cử Nhân Văn Chương tại Queensland, cô đã xuống Melbourne học thêm để lấy chứng chỉ về Giáo Dục tại Đại học La Trobe.
Là thành viên của nhóm người trẻ tình nguyện hoạt động ở ngoại quốc “Australian VolunteersAbroad – AVA”, vào năm 1976, cô Jenny được cử đi dậy Anh ngữ tại một trường trung học ở Mukah, thuộc Malaysia. Với giọng nói nhẹ nhàng, vui tươi và thái độ cởi mở, Cô giáo Jenny đã thu phục được nhân tâm của các học sinh và phụ huynh của Mukah, đến nỗi có gia đình đã đặt tên con của họ là Jenny để ghi nhớ thời gian cô dậy học cho các em học sinh tại đây.
Năm 1979, cô lại được cử đến trại tỵ nạn Ban Vmai ở Thái Lan, để lập ra một chương trình giảng dậy tiếng Anh cho 60.000 người Hmong đang sống ở trại tị nạn này. Để có thể dậy tiếng Anh một cách hữu hiệu, cô đã theo cách thức của các nhà truyền giáo là học tiếng bản địa trước. Jenny đã bỏ ra bốn tháng trời để chuyên tâm học tiếng Thái Hmong cho thật trôi chẩy, rồi sau đó mới dùng chính ngôn ngữ của họ mà dậy tiếng Anh cho họ. Trong vòng hai năm trời, cô đã xây dựng lên một trung tâm giảng dậy với nhiều lớp học, thuê giáo viên địa phương và mua cả một chiếc xe chở hàng nữa.
Với những kinh nghiệm giảng dậy này, vào khoảng cuối năm 1981, cô đã được Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc mới đi dậy tiếng Anh cho các Thuyền Nhân Việt Nam tại trại Tỵ Nạn Galang, thuộc Indonesia.
Tại Galang, công vỉệc của Cô Giáo Jenny không chỉ đơn giản là dậy tiếng Anh cho người Việt Nam, cô con phải giúp đỡ họ chuẩn bị cho cuộc sống mới ở các nước Tây Phương, mà ở đó, không những họ chỉ phải đương đầu với sư khác biệt về ngôn ngữ, mà còn cả những khác biệt về  phong tục tập quán, cách thức ăn uống và những sinh hoạt hàng ngày nữa. Các học viên của cô, gồm đủ mọi trình độ, đủ mọi lứa tuổi và đủ mọi ý thích.  Từ đó, cô Jenny mới chia lớp học ra thành nhiều nhóm khác nhau: Nhóm nhỏ bạo dạn hơn, nói lung tung mà không sợ bị chê là sai, nên học nhớ chữ mau hơn và  nói đúng giọng hơn. Nhóm lớn tuổi, trí nhớ kém đi và hay bị mặc cảm nên khó nhớ mặt chữ và giọng đọc cứng hơn. Một nhóm đặc biệt mà chỉ có ở trại tỵ nạn Việt Nam, đó là nhóm trai tráng đã đi lính, bị Việt Cộng bắt đi tù "Cải Tạo" rồi trốn về hoặc được thả về. Nhóm người này đa số biết nói một chút ít tiếng Anh, một số nói rất khá.Họ rất chăm chỉ học và cố gắng nói thật nhiều để cô sửa giọng cho họ.Đối với nhóm cựu quân nhân này và những nhóm lớn tuổi, cách giảng tiếng Anh của cô là kể những câu chuyện về đời sống hàng ngày tại Úc và dậy cho họ những câu đối thoại cần thiết.
Theo kinh nghiệm dậy học cho người Hmong, ngoài giờ dậy học, Jenny thường hay tới thăm viếng những láng trại của người Việt tỵ nạn để nói chuyện với họ, tìm hiểu cách thức sinh sống của họ và nhất là . . . học tiếng Việt bằng cách . . . nói tiếng Anh với người Việt. Từ những buổi tiếp xúc này mà cô giáo Jenny quen biết rất nhiều bạn bè và biết ăn cơm, biết cầm đũa. Một cô thợ may đã đo và may tặng cho Jenny một chiếc áo dài, cô mặc thử, thấy đẹp quá, về thư viện, cô đã tìm sách đọc thêm, và sau khi biết chíêc áo này được coi là quốc phục của người Việt Nam, cô đã khuyến khích các cô gái Việt trên đảo giữ truyền thống áo dài của mình bằng cách . . . tổ chức một cuộc thi áo dài ngay trên đảo tỵ nạn.
Cô Giáo Tỵ Nạn tổ chức thi Hoa Hậu Áo Dài mừng xuân Quý Hợi 1983 tại trại tỵ nạn Galang.
Trong một buổi giảng dậy, cô giáo Jenny để ý thấy có một cậu trai luôn luôn lảng vảng phía ngoài lớp học, nhưng không bao giờ vào dự lớp học của cô.Nghĩ rằng anh này có thể . . . còn ngại ngùng gì đó, nên cô giáo đã đích thân ra mời anh vô lớp để học cho vui, nhưng anh mắc cở đỏ mặt chạy đi nơi khác.Một lúc sau, anh ta lại quay trở lại, nhưng cũng vẫn đứng ở ngoài lớp học chứ không vô trong lớp.Lâu dần, cô không thắc mắc nữa, mà chỉ giảng và đọc lớn hơn để người đứng ở ngoài có thể nghe rõ hơn mà thôi.
Đến năm 1983, cô giáo Jenny trở về lại Melbourne, tiếp tục dậy tiếng Anh tại Trung Tâm Anh Ngữ Cho Những Người Di Dân Lớn Tuổi (Adult Migrant English Service-
AMES), tại đây, Jenny cũng vẫn giúp đỡ người dân tỵ nạn Việt Nam bằng cách khuyến khích họ làm những công việc mà họ có khả năng từ hồi ở Việt Nam, và dậy họ nói Tiếng Anh về chính ngành nghề họ có thể làm, muốn làm và đang làm. Cô giáo Jenny thành công ở chỗ, cô có thể nói tiếng Việt, hiểu tiếng Việt, để nghe người Việt nói ra những điều họ muốn biết, muốn học, do đó đã giúp người Việt có hứng thú khi học tiếng Anh và vì thế mà họ học mau hơn, tiến bộ hơn. Jenny lại có sáng kiến tổ chức những buổi barbecue tại nhà của mình, mới các bạn trẻ người Úc và người tỵ nạn Việt Nam cùng tham dự, để cả hai bên hiểu rõ nhau hơn và nhất là để các bạn trẻ   người Việt có cơ hội nói chuyện, trau dồi khả năng Anh ngữ của mình. Nhiều cô giáo đã rất ngại ngùng phải dậy học cho đám trẻ thiếu niên đi tỵ nạn một mình, vì các em . . . khó dậy, không chịu tiếp xúc . . . Riêng đối với Jenny, cô không thấy có gì trở ngại cả, vì cô hiểu tâm tình của đám trẻ này, cứ để cho các em tâm sự với cô về những khó khăn của cuộc sống, cô nhờ nhân viên xã hội giải quyết những điều các em mong muốn, rồi sau đó mới dậy học cho các em nhỏ này.  Việc quan trọng nhất mà Jenny muốn hướng dẫn họ là, nên đi học trở lại để có kiến thức và có một tương lai tốt đẹp hơn.
Cũng vì tình thân với người Việt, đã có nhiều người mời Jenny dự đám cưới của họ, và cô rất vui khi được mặc áo dài để bưng mâm ngũ quả đi rước dâu.
Gia Đình hạnh phúc.
Trong một buổi barbecue mời tất cả các . . . cư dân của đảo Galang, cô giáo Jenny lại gặp lại người thanh niên thường hay lảng vảng ngoài lớp học của cô hồi còn ở trại tỵ nạn. Anh chàng cũng vẫn đứng một mình, tay cầm lon coca xoay qua xoay lại chứ không bắt chuyện với ai. Cô giáo Jenny nghĩ rằng anh này chắc . . . không biết tiếng Anh, hoặc là ít nói, nên đã tới nói chuyện với anh ta.Anh vui vẻ nói chuyện, tự giới thiệu tên là Sơn, hiện đang làm việc cho Australia Post, tại Blackburn Mail Centre. Cô Jenny rất là ngạc nhiên khi biết anh . . . biết nói tiếng Anh, và lại nói khá nữa:
“Ah! Vì anh biết nói tiếng Anh rồi, nên mới không tham dự lớp học của tôi ở trại tỵ nạn, có phải vậy không?”
Lại trái với dự đoán của Jenny khi anh con trai trả lời:
“Không phải vậy.Hồi đó, quả thực tôi dở tiếng Anh lắm.Vì tình trạng chiến tranh, tôi chỉ mới học hết lớp 11 mà thôi. Đến khi Việt Cộng chiếm miền Nam, tôi là con Lính Cộng Hòa nên đâu có được tiếp tục học nữa, tôi phải đi bán hàng với mẹ để kiếm sống cho gia đình, bao nhiêu tiếng Anh tôi học ở trường, tôi quên hết trơn, nên tôi đâu có biết học từ đâu? Thấy cô dậy học, tôi cũng muốn vô học, nhưng thấy mình lớn rồi, vô học không biết một câu tiếng Anh tiếng U nào hết . . . mắc cở với đám con nít lắm . . . nên tôi chỉ đứng ngoài nghe lén mà thôi. Hơn nữa, cô nói tiếng Anh của người Úc . . . khó nghe quá, tôi nghe như là . . . vịt nghe sấm . . . chẳng hiểu cô nói gì hết, thì làm sao mà học?”
Cô giáo Jenny lúc nào cũng có thói quen nghề nghiệp, cô khuyến khích Sơn:
-“Anh nói tiếng Anh hay lắm, lại được làm ở Australia Post thì đời sống cũng khá lắm rồi . . . nhưng nếu anh muốn, anh có thể đi học lại, vô đại học học nghành nào mà anh thích, biết đâu lại có tương lai sáng sủa hơn!”
-“Tôi cũng muốn lắm, nhưng tôi . . . mới học xong lớp 11 chứ chưa tốt nghiệp trung học, làm sao tôi có thể vô đại học được?Hơn nữa, tiếng Anh của tôi chỉ đủ để làm việc thôi, chứ chưa đủ để học đại học đâu.”
-“Anh đừng lo, tôi có thể giúp anh về phần tiếng Anh, anh sẽ dư sức học. Ở Úc có những trường cao đẳng, gọi là trường TAFE (Technical And Further Education) dành cho những người chưa học xong trung học, tôi sẽ giới thiệu anh với chú tôi, một giáo sư của trường Footscray Institute of Technology (FIT- sau này nhập chung với trường Đại học Victoria University) để chú giải thích cho anh nhiều hơn.”
Khi về nhà, anh Sơn mới kể lại câu chuyện cho người bạn cùng phòng là anh Lê Hữu Giàu nghe.Anh Giàu cũng khuyên anh Sơn nên đi học để có tương lai khá hơn.
Thế là anh Sơn đi gặp Giáo sư Douglas Ramm để vấn kế.  Ông Douglas làm đúng luật,  đã đưa đơn cho anh điền để học thử ba môn học về Civil Engineering xem kết quả ra sao cái đã. May mắn, anh đậu hết cả ba môn toán học này, ông Douglas liền hướng dẫn anh một lần nữa nộp đơn xin học khóa Bachelor of Civil Engineering.
Thực sự thì Sơn chưa muốn hoàn toàn định cư ở bên Úc, đầu óc của anh vẫn còn hướng về Việt Nam: Khi Sơn còn ở trên đảo Galang, anh đã có nghe về Phong Trào Phục Quốc của Tướng Hoàng Cơ Minh, Sơn định cư tại Úc đúng vào thời điểm Phong Trào Phản Chiến bộc phát rất lớn, Sơn nhớ lời cha dặn là ráng tìm cách gia nhập bất cứ tổ chức kháng chiến nào, để trở về Việt Nam tiêu diệt bọn Cộng Sản, khôi phục lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa thân yêu tràn đầy tự do và lòng nhân ái. Do đó, khi được chấp nhận cho học, Sơn phân vân không biết nên lựa chọn con đường nào? Anh đem việc này ra bàn với Jenny.Tiếc thay, cô giáo Jenny chỉ có thể giúp anh trau dồi Anh ngữ thôi, chứ không có khả năng giúp anh về vấn đề này, nên Sơn quyết định không nộp đơn xin học, mà chờ tin để trở về Việt Nam cùng với các bạn bè trong nhóm.
Buồn thay, tổ chức phục quốc càng ngày càng im tiếng và không có ai liên lạc với anh để nói tới ngày về cả. Sơn đành phải nộp đơn xin đi học và bảo lãnh cha mẹ qua Úc chung sống. 
Muốn tỏ tình với một cô gái đã là chuyện khó rồi, huống chi cô gái này lại còn là cô giáo dậy tiếng Anh nữa, công việc càng trở nên phức tạp và . . . khó khăn hơn.
Một lần đến nhà Jenny ăn cơm tối, Sơn đem theo cây đàn hát tặng Jenny bản nhạc “Nắng Chiều”:
“. . . Anh nhớ xót xa dưới tre là ngà
Gợn buồn nhìn em anh nói: "Mến em!"
Mây lướt thướt trôi khi nắng vương đồi
Nhớ em dịu hiền nắng chiều ngừng trôi . . .”
(Nhạc Lê Trọng Nguyễn)
Hát xong bản nhạc, Sơn đã hỏi Jenny bằng tiếng Việt:
“Jenny à . . . nếu tôi muốn nói . . . anh yêu em . . . bằng tiếng Anh, thì . . . làm cách nào để nói?”
Jenny thích bản nhạc Nắng Chiêu quá, đang lo hát theo, nên không biết mánh của Sơn, cô ngây thơ trả lời:
“Thì nói . . . I love you . . . dễ mà.”
Thế là Sơn vừa khẩy đàn vừa nhìn Jenny mà hát câu hát để đời:
“I love you . . . I love you . . . and I love you . . .”
Sơn hát đến lần thứ ba thì Jenny mới hiểu, cô đỏ mặt hỏi lại Sơn bằng . . . tiếng Anh:
“Are you serious?”
Sơn lại trả lời bằng . . . tiếng Việt:
“Anh nói thiệt mà!”.
Sơn tốt nghiệp thủ khoa khóa Civil Engineer của FIT vào năm 1990.Một tháng sau khi cha mẹ Sơn qua định cư ở bên Úc, Jenny và Sơn làm đám cưới. Jenny rành đủ sáu câu về đám cưới Việt Nam, nên cô đòi đủ thứ . . . nào là áo cưới cô dâu, vương miện, bông tai, dây chuyền vàng, ngũ quả, heo sữa và pháo nổ . . . thậm chí cả phong bao lì xì cho đám con nít giữ cửa ở nhà gái khi rước dâu cũng phải có đầy đủ.
Ba Mẹ của chàng rể Sơn mới từ Việt Nam qua, nghe đằng nhà gái nói tiếng Anh líu lo cứ như là chim hót, chẳng biết người ta nói cái gì, nhưng cũng biết đó là những lời chúc tụng cho cô dâu chú rể.Khi mẹ chồng được mời ra đeo dây chuyền cho cô dâu, thiếu điều bà phải bắc ghế đứng lên mới quàng dây chuyền qua cổ cô dâu Tây được. Đằng nhà gái lần đầu tiên nhìn thấy cô dâu và đám phù dâu mặc áo dài thật là đẹp, thấy người nhà bưng các khay đựng đủ thứ bánh trái, rồi lại được nghe pháo nổ đì đùng khói bay khét lẹt . . . thật là vui . . . vui quá xá là vui.
 Vì tốt nghiệp ưu hạng, Sơn được học bổng của chính phủ để học Master, nhưng việc đầu tiên của người chồng và người con là phải lo làm ăn kiếm tiền lo cho gia đình và phụng dưỡng cha mẹ, nên Sơn đã từ chối học bổng để đi làm với công ty xây cất John Holland, và được cử đi làm việc ở Kuching, Mã Lai.
Đứa con gái đầu lòng tên Lanna của hai vợ chồng ra đời vào tháng 4 năm 1993, chỉ một tháng sau là Jenny đã được hưởng Mother day lần đầu tiên trong đời.
Cô gọi điện thoại về Úc chúc mừng mẹ:
“Chúc mẹ một ngày “Mother day” vui vẻ . . . và cũng một ngày “Mother Day” vui vẻ cho chính con nữa . . . vì con cũng đã là mẹ của bé Lana rồi.”
Đến năm 1995, em trai của Lana cũng đã chào đời, được ba mẹ đặt tên là Liam (Từ khi Jenny mới bắt đầu mang bầu, hai vợ chồng đã bàn tính suốt chín tháng trời để tìm cách đặt tên cho con, những cái tên nào vừa có sắc thái của Vương Quốc Anh, lại vừa vẫn có vẻ là một cái tên Việt Nam. Lana cũng có nghĩa là Lan và Liam cũng có thể đọc là Liêm.Ông Bà Nội cũng đọc tên các cháu được, mà Ông Bà Ngoại cũng cảm thấy happy khi gọi tên hai đứa cháu của mình.)
Khi các con đã  lớn, và cha mẹ đã có phần già yếu, Sơn và Jenny quyết định xin trở về Úc làm việc. Lana thi đậu vào trườngMac Roberson và tốt nghiệp VCA với số điểm ưu hạng 99.30 nhưng cháu lại không muốn học Y, Nha, Luật . . . mà chỉ muốn theo gót của mẹ, học Art ở Melbourne University, thời giờ rảnh thì cháu . . . đi làm việc thiện nguyện. Còn Liam thì học IT ở RMIT University với ước mơ trở thành . . . tài tử đóng phim, trong khi Jenny thì đi dậy trở lại ở VUT – Victoria University of Technology.
Lana và Liam được mẹ cho biết gốc gác của mình là . . . dân tỵ nạn Việt Nam, vượt biên tới đảo và được định cư ở Úc, nên lâu lâu, hai chị em đùa dỡn với nhau, Liam đóng vai Việt Nam, nói với chị:
"Tôi là . . . Vietnamese Boat people . . . tôi không biết nói tiếng Anh . . ."
Lana đóng vai cô giáo, nghiêm trang trả lời:
"If you be good . . . I will teach you how to speak English . . ."
Jenny và Sơn nhìn nhau cười.
Vào khoảng tháng Ba Năm 2011,trận bão Yasi đã tàn phá hầu hết những trang trại trồng chuối ở Queensland, giá bán chuối ở các siêu thị vọt lên tới con số kỷ lục là $14.00 một Ký, có nơi còn không có chuối để mà bán.
Sáng sớm ngày Mother' Day năm 2011, ba cha con mặc quần áo đẹp đẽ, trịnh trọng lái xe đi chợ, khệ nệ đem một gói quà thật lớn đưa tặng cho mẹ. Hai chị em cùng la lớn:
"Happy Mother' Day my dear Mummy".
Jenny mở gói quà ra: Một nải chuối với năm trái chín vàng óng ánh.
Jenny sung sướng cười thật tươi, nhưng vẫn cự nự chồng:
"Chuối mắc lắm, anh mua làm chi cho tốn tiền."
Lana và Liam lại đồng thanh nói:
"Chúng con có tiền . . . chúng con mua tặng mẹ."
Phần của Sơn là một bó hoa đỏ thắm đưa tặng vợ.
Jenny bị cancer ruột từ năm 2006, coi như đã lành bệnh sau nhiều ca mổ, nhưng đến cuối năm 2011 thì bệnh của cô lại tái phát, qua những vết sẹo còn lại của những ca mổ trước đây. Sơn nghỉ làm suốt ngày luẩn quẩn tại bệnh viện St. Vincent lo chăm sóc cho Jenny. Nhà thương thấy vậy, cho Sơn mướn luôn một phòng để ăn ngủ tại chỗ cùng với vợ.
Những ngày cuối của cuộc đời, hai đứa con cũng nghỉ học để ở bên cạnh mẹ.
Lana và Liam nắm tay mẹ mà nói:
"Mẹ sẽ khỏe lại mà . . . Mother's Day năm tới chúng con sẽ lại mua chuối cho mẹ ăn nữa nha."
Sơn so lại phím đàn, hát cho Jenny nghe bản nhạc "Bên Kia Sông":
". . . Này người yêu, người yêu anh ơi!
Bên kia sông là ánh mặt trời
Này người yêu, người yêu anh hỡi!
Bên kia đồi, cỏ hoa đan lối
Bên kia núi, núi cao chập chùng
Bên kia suối, suối reo lạnh lùng
Là bài thơ, toàn chữ hư vô . . ."
(Nhạc của Nguyễn Đức Quang.)
Cô Giáo Tỵ Nạn Jenny Ramm ra đi vào ngày 10 01 2012 với tuổi đời 58 còn rất trẻ trung, để lại chồng và hai đứa con.
Từ bốn phương trời, những người dân Việt tỵ nạn ở đảo Galang trước đây đã được cô giáo Jenny dậy học tiếng Anh đã gởi thơ chia buồn đến cho gia đình:
"Jenny . . . chúc chị ra đi bình yên . . . Tên của chị, hình bóng của chị, tiếng Anh của chị dậy . . . sẽ không bao giờ phai nhòa trong trí óc chúng tôi . . .
Cô Giáo Tỵ Nạn Jennifer Joy Ramm, đã đem tất cả lòng nhiệt thành và tuổi trẻ của mình ra để phục vụ người tỵ nạn khắp bốn phương trời, nhất là người tỵ nạn Việt Nam (Hình chụp tại trại tỵ nạn Galang, Nam Dương.)
CÔ DÂU CỦA NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN . . . LÀ NHƯ THẾ ĐẤY.
NGUYỄN KHẮP NƠI.
(Viết theo lời kể của anh Nguyễn Sơn và các con.)

JENNIFER JOY RAMM
TEACHER
1-4-1953 — 10-1-2012

JENNY Ramm, whose calm, welcoming Australian voice was the first of any Westerner to be heard by thousands of traumatised refugees fleeing Vietnam after the war, has died of multiple organ failure following bowel surgery in December last year. She was 58.
In the early 1980s, Ramm was teaching English at a UN refugee camp on Galang Island, Indonesia, helping prepare refugees for life in Western countries. It was a job to which she dedicated her working life - in Thailand, Malaysia and Melbourne.
Ramm at the 60,000-strong Lao-Hmong refugee camp of Ban Vinai. Ramm at the 60,000-strong Lao-Hmong refugee camp of Ban Vinai.
It was at Galang that her husband-to-be, Son Nguyen, first saw her. They never spoke in the nine months he spent in the camp, but nine years later they married in Melbourne. ''I had not finished high school because of the war and could only speak two words in English - thank you,'' Nguyen said. ''I felt I was nobody and in the camp I was too proud to ask for help.''
He started working as a labourer, yet within six years, had graduated, equal top of the class, with a degree in civil engineering, before winning a postgraduate research award. Son attributes his achievement - and those of hundreds of other refugees - to his wife's influence. ''Jenny made me who I am; the confidence she gave me changed my life, and helped me make something of my life.''
Ramm, the oldest of five children, was born in the Chinchilla District Hospital in Queensland. The family lived in Burra Burri for 10 years, before moving to Cooroy for her to attend high school in Noosa.
Ramm won a federal government scholarship to Queensland University, and graduated with an arts degree before gaining a diploma of education at La Trobe University in Melbourne. She loved music, craft work and batik painting, and had a spinning wheel; she would card, spin and dye wool to knit jumpers.
In 1976, as a member of Australian Volunteers Abroad (AVA), Ramm was posted to Malaysia to teach English at a high school in Mukah, where she developed long-lasting bonds with locals; one family even named their baby girl after her - ''Miss''. After she returned to Melbourne, Ramm joined the Australian Migrant Education Service, teaching English to Vietnamese, Hungarian and Russian refugees. She regularly hosted parties so her refugee students could cook Vietnamese food; they quickly tired of the Western food at the hostel.
Ramm's hospitality and kindness was not confined to migrants. Sue Gregson recalls that when she was heavily pregnant and needed a place to stay, Ramm obliged, even though their only connection was through a mutual friend. ''Jenny was there at the birth, and took the first precious photos. And when my baby didn't stop crying for the first few months, Jenny always claimed not to hear it. After work she would chop the firewood to keep the house in Brunswick warm - and dry the nappies,'' Gregson said.
Ramm, Gregson added, always looked for common ground with people, regardless of language barriers and cultural differences. ''Her humanity touched many people and made such a difference for a lot of refugees as they started to settle in Australia.'' But it wasn't long before Ramm was again drawn to Asia. In 1979, she travelled to Thailand with the Overseas Service Bureau, an arm of AVA, to establish an English language teaching program in the 60,000-strong Lao-Hmong refugee camp of Ban Vinai (pictured left). She spent four months in an intensive language program learning to speak Thai fluently.
By the time Barbara Wake, now a retired university lecturer, arrived in 1980, Ramm had the classrooms built, bought a van, hired teachers and had settled into life in the camp. ''Because Jenny spoke such good Thai and related so well to the refugees - being open, friendly and non-judgmental - life was so much easier for all of us,'' Wake said.
Ramm possessed astounding adaptability - she could handle any situation, and got things done without theatrics - and while she was easy-going, she was not naive; she knew which problems to tackle and which ones to leave alone.
Wake recalled that the English language program Ramm started for the Hmong women was dear to her heart. ''Theirs was a very patriarchal society, and Jenny was determined the women would receive some education.''
Ramm and Wake lived by the Mekong River in a teak house on stilts, with water jars to catch rainwater. Across the river was Laos, which was at war with Thailand. At night they'd hear gunshots, and occasionally shrapnel would land on the tin roof. They got used to it.
Ramm left Ban Vinai at the end of 1980 when she was offered the job in Galang. Typical of her, she was surprised anyone would recognise her abilities. She returned to Melbourne and AMES in the mid-1980s to teach English to refugee youth who had limited schooling and usually no family support. The holistic program extended to helping the students solve personal problems, getting them jobs, and often socialising with them. The program won recognition and developed into a TAFE course.
Through a chance reunion in Melbourne between former staff and refugees of the camp at Galang, Ramm renewed her acquaintance with Nguyen.
Following their marriage in 1991, she stepped back from her heavy involvement with refugees and devoted herself to family life. Yet they managed two stints living in Kuching, Malaysia, where they raised their daughter, Lana, who was born in 1993, and their son, Liam, who was born in 1995. They returned to Australia at the end of 2006 for their children's high school.
Ramm was successfully treated for cancer, but it took some years before her life returned to normal. She again took up her great love of music, ranging from jazz piano to the Melbourne Bach Choir. She volunteered at the National Gallery of Victoria, and at Melbourne High School, where Liam is studying year 12. She also resumed her career part-time at Victoria University, teaching English to new arrivals.
Ramm loved every moment of her life and had an incredibly positive outlook. ''Mum's passion for life, her patience and her willingness to help anyone she could has always and will continue to inspire me,'' her daughter, Lana, says.
''When Jenny was sick,'' says Nguyen, ''I kept praying for a miracle, without realising that being with Jenny for nearly 30 years is the miracle. I was so fortunate to be loved by her.''
Ramm is survived by her husband, Son, children Lana and Liam, her parents Joy and Lawrie, and siblings Ken, Peter, Lynn and Sheryl.
Liz Minter is a senior Age journalist.


Read more: http://www.theage.com.au/national/obituaries/gift-of-language-draped-in-love-broke-down-barriers-20120321-1vkke.html#ixzz2UdSWJYmv