Thứ Sáu, 15 tháng 1, 2016

VIỆT NGỮ THUẦN VIỆT



          Trên thế giới có đến 6.900 ngôn ngữ khác nhau bao gồm ngôn ngữ chính thức và các thổ ngữ. Trung Hoa và Ấn Độ là hai quốc gia rộng lớn và đông dân. Trung Hoa có từ 400 đến 500 thổ ngữ khác nhau. Ấn Độ có 2.000 thổ ngữ. Hiến pháp Ấn Độ phải ấn định tiếng Hindi và tiếng Anh là ngôn ngữ chánh thức được lưu dùng trong nước. Phi Luật Tân là quần đảo có trên 7.000 hòn đảo diện tích lớn nhỏ khác nhau. Họ có 13 ngôn ngữ lưu dùng trong nước. Quan trọng nhất là tiếng Tagalog. Ngoài ra còn có 171 thổ ngữ khác nhau được nói ở các địa phương rải rác khắp các quần đảo. Trường hợp Indonesia cũng có những phức tạp ngôn ngữ tương tự. Ở Indonesia có 583 ngôn ngữ và thổ ngữ. Tiếng Javanese được 85 triệu người nói.

Cùng sống chung trong một quê hương nhưng ngôn ngữ khác nhau nên sự thông hiểu và hòa hợp với nhau cũng có ít nhiều trở ngại. Trung Hoa là quốc gia có quá khứ lịch sử lâu đời. Họ có chữ viết nhưng cách đọc khác nhau vì mỗi vùng lãnh thổ có tiếng nói riêng. Cuộc cách mạng văn hóa Trung Hoa ra đời không đầy một thế kỷ sau khi Hu Shi (Hồ Thích), tốt nghiệp đại học ở Hoa Kỳ, và Chen Duxiu (Trần Độc Tú), tốt nghiệp đại học ở Nhật và Pháp về nước. Đến khi Mao Zedong (Mao Trạch Đông) thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc năm 1949, tiếng Quan Thoại (Mandarin) ở miền Bắc được xem là tiếng thống nhất của lục địa Trung Hoa.

Ở điểm này người Việt Nam khoan vội tự hào vì giữ được tiếng nói, mặc dù không có chữ viết sau trên 1.000 năm bị người Trung Hoa đô hộ, vì người Việt như những tộc trong nhóm Bách Việt (Po Yue) ở phía nam sông Yang Tze (Dương Tử) học chữ Hán nhưng phát âm theo ngôn ngữ của tộc mình. Các nhà nho Việt Nam đọc và hiểu chữ Hán nhưng không thể đàm thoại với người Hoa. Nhà cách mạng Phan Bội Châu (Sào Nam) chỉ bút đàm khi đàm đạo với Leang Ki-chao (Lương Khải Siêu) hay Sun Yat-sen (Tôn Dật Tiên). Tiếng Việt nguyên thủy bắt nguồn từ người Mường không liên hệ với ngôn ngữ Môn-Khmer. Người Mường là tác giả của trống đồng, những chuyện cổ tích Việt Nam và là những người rút vào rừng sâu để trường kỳ kháng chiến chống Bắc xâm. Những Động Khuất Liêu, Động Hoa Lư, Động Lam Sơn như nhắc nhở chúng ta về liên hệ Mường của dân tộc. Không phải không duyên cớ mà Ngô Sĩ Liên đề cao người Mường trong Đại Việt Sử Ký, một cuốn sử có giá trị được soạn thời Hậu Lê.

Sau 11 thế kỷ Bắc thuộc trong ngôn ngữ Việt có rất nhiều chữ Hán. Tiền nhân chúng ta học chữ Hán. Các kỳ thi tam trường đều được mô phỏng theo Trung Hoa. Chữ Hán được các thầy Đồ (sinh đồ: tú tài) giảng dạy ở các tư thục tại gia, được dùng trong các kỳ thi, trong các tấu, sớ của triều đình và văn thơ hành chánh trong nước.  Bên cạnh những từ ngữ nôm  có thêm từ ngữ Hán-Việt phát âm giống tiếng Guangdong (Cantonese - Canton - Kuangchou - Guangzhou, Quảng Châu, thủ phủ của tỉnh Guangdong) đại cương như:
Việt

Hán-Việt
(phần lớn là âm theo tiếng Quảng Đông)
Vua
Một
Hai
Ba
Bốn
Ngày
Thịt

Trâu
Trời
Đất
Con
Trước
Sau
Vương
Nhất
Nhị
Tam
Tứ
Nhật
Nhục
Ngưu
Thủy Ngưu
Thiên
Địa
Tử
Tiền
Hậu v.v…


Một số từ ngữ Trung Hoa liên quan đến thức ăn hay cờ bạc được Việt hóa và dùng trong đời sống hàng ngày như hoành thánh, dầu cháo quảy, bánh bao, xá xíu, bò bía, tài xỉu (đại tiểu), dì dách, xập xám v.v…

Hầu hết các từ kép, từ chánh trị, luật học, y khoa, dược học, toán học, âm nhạc, nghệ thuật, kiến trúc, tôn giáo, lịch sử, địa lý, địa chất học... đều có gốc Hán–Việt. Ông Hoàng Xuân Hãn soạn ra Danh Từ Khoa Học bằng tiếng Việt dịch từ tiếng Pháp bằng cách tìm những từ ngữ Hán-Việt tương đương. Ông là nhà Tây học nhưng biết chữ Hán. Tên khoa học của thảo mộc trên thế giới được mang tên La Tinh và Hy Lạp. Tên dược thảo ở Đông Phương đều có tên chữ Hán hay tiếng Hindi, Sanskrit.

Đạo Phật có ảnh hưởng rộng rãi ở Việt Nam. Nhưng Phật Giáo Đại Thừa ở Việt Nam do các sư tăng Trung Hoa truyền giảng. Kinh Phật được viết bằng chữ Hán. Các bài chú bằng tiếng Sanskrit được các sư tăng Trung Hoa âm trại ra. Do đó trong ngôn ngữ Việt Nam không có nhiều từ xuất phát từ tiếng Hindi. Sidharta âm thành Tất Đạt Ta; Sakya Muni (nhà hiền triết tộc Sakya) trở thành Thích Ca Mâu Ni; Nirvana: Niết Bàn; karma: nghiệp chướng; bodhi: cây Bồ Đề; Mahayana: đại thừa; Hinayana: tiểu thừa v.v…

Trong quá trình Nam tiến Tiếng Việt được phong phú hóa nhờ tiếp xúc với người Chăm thuộc văn hóa Ấn Độ và Hồi Giáo, với người Khmer chịu ảnh hưởng của Ấn Giáo rồi Phật Giáo Tiểu Thừa và nhờ sự né tránh việc dùng tên vua, chúa, hoàng hậu, các con và thành viên liên hệ đến hoàng tộc.

Những địa danh Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết đều có âm hưởng của ngôn ngữ Chăm, một ngôn ngữ có nhiều liên hệ với ngôn ngữ Ấn Độ và Sanskrit (Phạn). Quốc hiệu Champa (Chiêm Thành) có nghĩa là hoa sứ theo tiếng Ấn Độ.

Nhiều địa danh hay tên gọi ở Nam Kỳ mang âm hưởng của tiếng Khmer như Mỹ Tho (Mêsa: Bà Trắng), Sa Đéc (Phsar Deck: chợ sắt), Bạc Liêu (Po-loeuh: cây da cao lớn), Cà Mau (Tuk khmau: nước đen), thốt nốt (thnot), bình bát (mean bat), xoài (Sway), muom (muỗm - xoài muỗm) v.v…

Dưới chế độ phong kiến thảo dân không được nói đến tên vua, hoàng hậu hay các thành viên trong hoàng tộc. Thí sinh phạm trường qui tức khắc bị đánh rớt vì đó là một sự hỗn láo đối với giới cầm quyền tự xem đã nhận Thiên mạng từ Trời. Từ đó ta có nhiều từ đồng nghĩa nhưng không đồng âm. Nhân trở thành nhơn; Nghĩa: Ngãi; Đức: Đước; Phúc: Phước (chữ lót của họ Nguyễn); Đàm: Đờm; Hoa: Huê; Hồng: Hường; Nhậm: Nhiệm; Tôn: Tông v.v... Bà Hồ Thị Hoa, người huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa, là hoàng hậu dưới triều Minh Mạng. Vì bà tên Hoa nên Cầu Hoa phải đổi thành Cầu Bông; Thanh Hoa đổi thành Thanh Hóa (thêm dấu); Hoa Kiều đổi thanh Huê Kiều; Hoa lợi thành Huê lợi v.v... Vào năm 1862 Pháp chiếm ba tỉnh Nam Kỳ. Trần Tử Ca, một viên chức xã thôn ở Hóc Môn, ra hợp tác với Pháp, theo đạo Thiên Chúa và được vào ngạch đốc phủ sứ, một ngạch hành chánh cao cấp dành cho người bản xứ hợp tác với Pháp được thiết lập theo lời đề nghị của Tôn Thọ Tường. Ông được gọi là Phù Ca. Vì ông tên Ca dân chúng trong vùng Sài Gòn – Gia Định không dám gọi xoài thanh ca mà gọi ngắn gọn là xoài thanh.

Võ Trường Toản, một người Minh Hương, được xem là một đại phu tử ở Nam Kỳ vào thế kỷ XVIII. Người Minh Hương góp phần đắc lực vào việc khai phá châu thổ sông Đồng Nai và sông Cửu Long. Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định đều là môn sinh của đại phu tử Võ Trường Toản. Cả ba vị nầy đều là những người lập nhiều công to khi phục vụ chúa Nguyễn Ánh trong thời kỳ nội chiến giữa dòng Nguyễn Phúc và nhà Tây Sơn. Dưới triều vua Minh Mạng, Phan Thanh Giản, một người Minh Hương khác, đậu tiến sĩ. Ông là người Nam Kỳ đầu tiên đậu tiến sĩ dưới triều Nguyễn. Những nhà nho gốc Minh Hương vừa kể khác với các nhà nho Việt Nam vì họ biết chữ Hán và phát âm theo người Việt lẫn người Hoa.

Chữ quốc ngữ La Tinh hóa hiện hành là công trình nghiên cứu của giáo sĩ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ XVII để cho việc truyền đạo Thiên Chúa được dễ dàng. Vào thời nầy chúa Trịnh ở Đàng Ngoài cấm đạo Thiên Chúa. Người theo đạo bị khắc trên trán dòng chữ học theo Hòa Lan đạo vì chúa cho rằng đạo Thiên Chúa là đạo của người Hòa Lan. Thực tế người Hòa Lan theo đạo Tin Lành. Họ nặng về việc kinh thương hơn truyền đạo như người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Pháp. Vì chúa Trịnh cấm truyền giảng đạo Thiên Chúa nên chữ quốc ngữ chưa phổ biến mạnh trong cộng đồng giáo dân Thiên Chúa ở Đàng Ngoài. Ở Nam Kỳ giáo sĩ Pigneau de Behaine (Bá Đa Lộc) giảng đạo Thiên Chúa ở vùng Hòn Đất, Hà Tiên vào thế kỷ XVIII. Chữ quốc ngữ được phổ biến cho giáo dân vùng Vịnh Xiêm La (Vịnh Thái Lan bây giờ). Giáo sĩ Pigneau de Behaine tìm cách vận động với triều đình Pháp thời vua Louis XVI giúp đỡ cho Nguyễn Ánh đánh nhà Tây Sơn. Nếu Nguyễn Ánh thành công, Pháp có ảnh hưởng tôn giáo lẫn kinh tế-chánh trị quan trọng ở Việt Nam.

Năm 1862 rồi 1867 Pháp chiếm Nam Kỳ làm thuộc địa để làm bàn đạp chiếm Bắc và Trung Kỳ. Chữ quốc ngữ được giảng dạy cùng Pháp ngữ trong các trường học do Pháp thành lập ở Nam Kỳ. Các giáo dân là những người Việt Nam đầu tiên biết chữ quốc ngữ và Pháp ngữ. Pétrus Trương Vĩnh Ký, Paulus Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký là nhũng người có công trong việc viết sách bằng chữ quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam. Tờ Gia Định Báo, tờ báo đầu tiên của người Việt Nam do Pétrus Trương Vĩnh Ký thành lập năm 1865 được viết bằng quốc ngữ pha lẫn với Pháp ngữ. Gia Định Báo không phải là tờ báo hiểu theo nghĩa bây giờ. Nó được xem như một công báo (Journal Officiel) để loan tin tức và hoạt động của chánh quyền thuộc địa. Lê Phát Đạt, ông ngoại của Nam Phương hoàng hậu, là tín đồ Thiên Chúa giáo Nam Kỳ biết viết quốc ngữ và tiếng Pháp. Ông tốt nghiệp Trường Thông Ngôn (Ecole des interprètes). Trương Vĩnh Ký là một thành viên trong ban giảng huấn của trường. Nhờ giỏi tiếng Pháp, chữ quốc ngữ và giàu có,Lê Phát Đạt được danh hiệu HỌC SĨ và được ban hàm HUYỆN (Huyện honoraire) nên ông được gọi là Huyện Sĩ.

Nam Kỳ là đất thuộc địa do Pháp trực trị. Trung và Bắc Kỳ là đất bảo hộ. Vua Việt Nam trên danh nghĩa vẫn còn ảnh hưởng ở Trung, Bắc Kỳ. Hán học bị bãi bỏ ở Bắc Kỳ năm 1915 và ở Trung Kỳ năm 1918. Pháp ngữ và quốc ngữ La Tinh hóa bắt rễ trên hai vùng đất bảo hộ trước khi các kỳ thi tam trường bị bãi bỏ. Tú Xương (Trần Tế Xương) cảm thấy mình chẳng những bất toại trong các kỳ thi tam trường mà còn lỗi thời khi than:
Cái học ngày nay đã hỏng rồi
Mười người theo học chín người thôi.
Người Pháp du nhập vào Việt Nam từ tôn giáo, âm nhạc, nghệ thuật, thể thao, kiến trúc, học thuật, khoa học kỹ thuật, kể cả kỹ thuật đóng giày, nghề hớt tóc, đến các loại rau cải thức ăn mang từ Châu Âu đến. Kinh Thánh được dịch ra Việt Ngữ. Chữ Catholicisme dịch thành đạo Gia Tô. Các địa danh ở Trung Đông như Do Thái, Syria, Ai Cập, Mesopotamia (Lưỡng Hà Châu) được phiên âm kể cả tên Đức Chúa Jesus (Giê-Su); giống như chánh quyền miền Bắc trong thời kỳ đất nước qua phần phiên âm danh nhân hay địa danh trên thế giới như Washington thành Oa-Sinh-Tông, Lenin thành Lê-Nin, Stalingrad thành Xi-ta-lin-gờ-rad, Paris thành Pa-ri, Genève thành Giơ-neo-vơ, Trotsky thành Tơ-ros-ky v.v…

Khi tiếp xúc với người Pháp, tiếng Việt bắt đầu có những từ tiếng Pháp được Việt hóa và lưu dùng như: Ô-tô (automobile), cùi-dìa (cuillère), cái tách (tasse), xe hủ lô (rouleau), xe bù-ệt (brouette), rượu vang (vin), bia (bière), cải xà lách (salade), phô-mai (fromage), bơ (beurre), tốp (stop), ô-liu (olive), cà-tô-mát (tomate), cải xà lách son (cresson), cà phê (café), cao su (caoutchouc), thịt cốc-lết (cotelette), cây láp (arbre), cây dên (bielle), cái mỏ-lét (molette), bù-lon (boulon), dây lập lồng (fil a plomb), cái tông-dơ (tondeuse), phim (film), săm (chambre), cái phanh (frein), phú-lít (police), sen đầm (gendarme), lính săn đá (soldat), ông ách (adjudant), ông cai (caporal), bà đầm (dame), bánh mì ba-ghết (baguette), ba-dơ (base), sút (soude), xà bông (savon), ô-mơ-lét (omelette), hột gà ốp-la (oeufs sur plat), ba gai (bagarre), làm reo (grève), làm cỏ-vê (corvée), đậu que (haricot vert), con vẹt (vert – con két màu xanh lá cây), trái bom (bombe), trái ‘bom’ (pomme), ống bơm (pompe), trái sơ-ri (cerise), ách (ace) trong bài ‘cắt-tê’ (cartes), cơ (coeur), rô (carreau), bích (pique), ra-gu (ragôut), bíp-tết (beefsteak – tiếng Anh được người Pháp dùng), tốp (stop –tiếng Anh được người Pháp dùng bên cạnh chữ arrêt) v.v…

Có hiện hữu, có thấy vật mới đặt tên. Dân ta ăn cơm nên chỉ biết lúa gạo. Khi tiếp xúc với người Pháp mới biết lúa mì, bột mì. Và bánh làm từ bột mì được gọi là bánh mì. Sự hiểu biết về địa lý hay chủng tộc học hầu như vắng bóng nên khi gặp người Phi Châu trong hàng ngũ quân đội Pháp thì gọi họ là Tây Đen vì họ to lớn như Tây nhưng da màu đen. Uống rượu có màu đỏ hồng hay trắng-xanh nhạt được người Pháp gọi là VIN nên gọi là rượu vang. Khi uống thấy có vị chát lại gọi là rượu chát. Tìm hiểu biết rượu ấy làm từ nho nên gọi là rượu nho. Chữ mô-tô chưa xuất hiện khi người Việt Nam thấy chiếc Motobécane đầu tiên ở Việt Nam. Nghe tiếng nổ người ta gọi đó là xe ‘bình bịch’. Phi cơ được gọi đơn giản là máy bay vì nó bay trên trời như chim. Chiếc tàu chạy trên mặt nước gọi là tàu thủy, đối ngược với tàu hỏa tức chiếc xe lửa vì nó chạy bằng than cháy đỏ và phun khói đen nghịt một góc trời. Âm nhạc mà người Pháp du nhập vào nước ta khác hẳn với âm nhạc sẵn có trong nước. Nhạc cụ, trống kèn, chập chỏa khác với đàn gáo, đàn bầu, đàn kìm, đàn tranh, ống tiêu, trống cơm... nên có một thời âm nhạc mới nầy được gọi là ‘âm nhạc cải cách’, ’tân nhạc’. Nhạc cụ bắt đầu có tên Việt Nam hay tên Việt hóa như đàn băng-giô (banjo), măng-đô-lin (mandoline), đàn vi-ô-lông (violon) rồi vĩ cầm, đàn ghi-ta (guitare), Tây Ban Cầm (guitare espagnole), Hạ Uy Cầm (guitare hawaiienne), kèn hạt-mô-ni-ca (harmonica – khẩu cầm), đàn ac-cot-đê-ông (accordeon), pi-a-no (piano – dương cầm), v.v…

Trong tiếng Việt đã có tiếng Anh ngay dưới thời Pháp thuộc, nghĩa là trước khi tiếp xúc với người Hoa Kỳ. Từ ngữ tiếng Anh Việt hóa phần lớn là những từ ngữ liên quan đến các bộ̣ môn thể thao như banh (ball), cọt-ne (corner), bê-nanh-ty (penalty), giữ gôn (goal keeper), tơ-nít (tennis), đánh bốc (boxing – quyền Anh), nốc ao(knoct out), nóc đao (knock down), banh bong (pingpong - bóng bàn), bóng rổ (basket ball), vô-lây (voley ball – bóng chuyền) v.v... Trẻ em chơi đánh, tù, tì (one, two, three). Trong thức ăn có bánh xăng-quít (sandwich), bíp-tết (beefsteak), rượu quít-ky (whisky), v.v…

Tiếng Việt văn vẻ và đầy chữ Hán, Nga ngữ và các ngoại ngữ khác từ khi Lin, tức Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh sau nầy thụ huấn ở Liên Sô về Hồng Kông lập ra Đảng Cộng S̉ản Việt Nam (1930). Những từ bình dân, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, cộng sản, bôn-sê-vít (Bolsheviks), men-sê-vít (mensheviks), lô-gic (logique), phạm trù (norme), abc (anti-bolchéviste), tư sản, trí thức tiểu tư sản (Petit bourgeois intellectuel), trí, phú, địa, hào, dân chủ, bình đẳng, bình quyền, vô sản, tư hữu, nhân sinh quan, thế giới quan, khách quan lịch sử, chủ quan lịch sử, duy vật biện chứng, giai cấp đấu tranh, giải phóng, mặt trận, liên đoàn, liên minh, đồng minh, thực dân, phong kiến, phát xít... được lập đi lập lại gần như hàng ngày sau cách mạng tháng 08 ở nông thôn. Từ ‘thanh niên’ thay thế cho trai tráng, ‘phụ nữ’, ‘lão ông’, ‘lão bà’ thay vì đàn bà, đàn ông, bà già; ‘nhi đồng’ thay vì trẻ em, con nít. Khi hỏi tuổi người ta nói: “Anh được bao nhiêu niên kỷ?”. Trong vùng Việt Minh kiểm soát trong chiến tranh Việt-Pháp có nhiều thay đổi đột ngột trong chánh tả Việt ngữ.Trong tiếng Việt không có chữ F, J, W, Z. Bây giờ chữ F được dùng để thay thế chữ PH. PHÁP được viết thành FÁP. Súng SKZ thoạt mới nghe tưởng là phát minh vũ khí của Liên Sô, Đức Quốc hay Tiệp Khắc, nào ngờ đó là chữ tắt của Súng Không Zật (Giật) do Phạm Quang Chánh tức Trần Đại Nghĩa làm ra bằng sắt thép đường rầy xe lửa. Chữ Y hầu như bị thủ tiêu. Mỹ viết thành Mĩ chẳng hạn. Gạch nối bị bãi bỏ trong chánh tả miền Bắc sau năm 1954 ngoại trừ bí danh Trường-Chinh, tổng bí thư đảng Lao Động Việt Nam.

Trong thời kỳ đất nước qua phân miền Bắc và miền Nam có hai chế độ chánh trị khác nhau. Miền Bắc chịu ảnh hưởng chánh trị của Liên Sô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, hai nước cộng sản đàn anh tranh giành ảnh hưởng và quyền lãnh đạo trong khối Cộng Sản. Ở miền Nam ảnh hưởng chánh trị của Pháp giảm sút trước ảnh hưởng chánh trị Hoa Kỳ. Tiếng Pháp vẫn còn dạy ở bậc trung học, nhưng đến thập niên 1960 tiếng Anh nắm ưu thế hết miền Nam.

Tùy theo chế độ Cộng Sản, Liên Sô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc có những mâu thuẫn sâu sắc về mọi vấn đề xuất hiện. Liên Sô đại diện chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa của các quốc gia kỹ nghệ theo chủ nghĩa Marx-Lenin. Mao Zedong sửa đổi chủ nghĩa Marx-Lenin thành chủ nghĩa Mao (Maoism), tức chủ nghĩa Cộng Sản nông nghiệp kết hợp với chủ nghĩa bành trướng dân tộc Hán (Pan-Hanism) (xin lỗi chữ nầy do tôi đặt ra). Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa có ảnh hưởng to lớn ở miền Bắc sau năm 1954 vì nước nầy viện trợ cho Việt Nam võ khí, thuốc men, lương thực, cố vấn chánh trị và quân sự trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.Tên Hồ Chí Minh là người do Liên Sô đào luyện. Ông lo ngại Trường-Chinh dựa vào thế lực của Beijing (Bắc Kinh) lấn át quyền hành của ông. Miền Bắc tìm cách nôm na hóa Việt ngữ và thay đổi Âm Lịch (1967) khác với Âm Lịch Trung Hoa như một hành động độc lập với Trung Hoa Cộng Sản để lấy lòng Liên Sô và tránh tiếng lệ thuộc Bắc quốc đối với dân chúng miền Bắc. Từ đó ta có hố xí thay cho cầu tiêu, xưởng đẻ thay cho nhà bảo sanh, máy bay thay cho phi cơ, máy bay lên thẳng thay cho trực thăng, lính thủy đánh bộ thay cho thủy quân lục chiến (marine), giặc lái chỉ phi công của phe địch (Mỹ và VNCH) v.v…Nhưng họ lại mâu thuẫn và mị dân với những từ hộ khẩu, xe cải tiến (xe bù-ệt – brouette), tổng tẩy quan (người quét dọn), văn công, bần cố nông, công nghiệp, nghệ nhân, vô sản chuyên chính, tập thể hóa nông nghiệp... và muôn ngàn từ ngữ chát chúa khó hiểu khác còn mang ấn dấu Hán- Việt!
Nếu ở miền Bắc người ta ‘nôm na hóa’ Việt ngữ thì ở miền Nam từ Hán-Việt được dùng tối đa. Trường Đại Học Sư Phạm ở miền Nam có ban Việt-Hán. Tổng thống Ngô Đình Diệm chịu ảnh hưởng Thiên Chúa Giáo, Khổng Giáo và văn hóa Tây Phương. Ông là người ngoan đạo từng sống ở Hoa Kỳ nên các bài diễn văn của ông thường kết thúc bằng câu ‘Xin Ơn Trên Phù Hộ Cho Chúng Ta’ giống như câu May God Bless Us của người Hoa Kỳ. Từ ngữ tiếng Anh của người Hoa Kỳ Việt hóa hầu như vắng bóng ngoại trừ những từ ngữ thể thao tiếng Anh Việt hóa đã có từ thời Pháp thuộc. Nhưng từ khi tiếp xúc với người Hoa Kỳ từ năm 1954 đến 1975 những từ sau đây thường được dùng đến như mục tiêu phải đạt và bổn phận phải làm: cộng đồng, phát triển cộng đồng, khuếch trương kinh tế, tự do, dân chủ, cộng hòa (dân quốc), tổng thống chế, chữ nghĩa nhân vị (Personalism), Cần Lao, Liên Đới, đả thực (thực dân), bài phong (phong kiến), diệt Cộng (Cộng Sản) v.v…Cải tiến dân sinh, Đồng tiến xã hội là những khẩu hiệu được tổng thống Ngô Đình Diệm thường nhắc đến.

*

Về Việt ngữ: Việt tự tức chữ quốc ngữ hiện hành và ngoại ngữ có ba dư luận gần như đối kháng như sau:

1. Có một dư luận về chữ quốc ngữ như sau: chữ quốc ngữ là sản phẩm của giáo sĩ người Pháp. Người Pháp xâm chiếm nước ta và quảng bá nó. Khuynh hướng nầy xem chữ quốc ngữ là sản phẩm của Pháp. Có người cực đoan hơn muốn bỏ chữ quốc ngữ và phục hồi chữ Nôm vì cho đó là một sản phẩm thuần túy Việt Nam.

2. Một số người chủ trương bỏ chữ Hán trong tiếng Việt vì dùng chữ Hán chứng tỏ ta lệ thuộc Tàu. Dùng càng nhiều chữ Hán càng làm cho người nghe càng khó hiểu.

3. Việt ngữ dồi dào phong phú nên không cần học ngoại ngữ.
*

Trước khi người Pháp đô hộ Việt Nam, nước ta không có chữ viết. Trong Lục Bộ không có bộ Giáo Dục. Năm 1932 vua Bảo Đại du học ở Pháp về mới có Bộ Học. Trước kia Bộ Lễ trông coi về tôn giáo, nghi lễ, ngoại giao lẫn giáo dục. Thực tế trong nước không có trường công lập. Quốc Tử Giám được mở ở kinh đô chỉ để giáo dục con quan mà thôi. Trường học đều là tư thục do các ông đồ hay quan lại hưu trí đặc trách việc giảng dạy. Thầy dạy chữ Hán thường là những người có tú tài Hán học nên không được triều đình bổ nhiệm ra làm quan hay những quan lại hưu trí hay rũ áo từ quan.

Người Pháp xâm lăng và bắt dân ta học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp thì có khác gì người Trung Hoa đô hộ nước ta và dạy chữ Hán cho dân tộc ta? Chữ Hán là chữ viết người xâm lăng từ phương Bắc nhưng chữ quốc ngữ không phải là chữ viết của người Pháp mà là chữ viết La Tinh hóa dựa vào cách phát âm của người Việt Nam. Đó là một phát minh của giáo sĩ và nhà ngôn ngữ học Alexandre de Rhodes. Về phương diện chánh trị và lịch sử, nước Pháp có đụng chạm với nước ta nhưng chữ quốc ngữ thì vô tội, lại mang nhiều tiện lợi cho nước ta vì trên thế giới ngày nay phần lớn các nước đều dùng mẫu tự La Tinh. Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia là những quốc gia Hồi Giáo đã mạnh dạn cải cách chữ viết của họ theo mẫu tự La Tinh, sao ta lại nghĩ đến việc dùng chữ Nôm? Trong thực tế chữ Nôm không có vai trò lớn nào trong lịch sử giáo dục và thi cử ở Việt Nam ngoại trừ thời gian ngắn ngủi thời Tây Sơn khi Nguyễn Huệ lên ngôi năm 1789. Vua Quang Trung mất năm 1792. Nhà Tây Sơn hoàn toàn sụp đổ năm 1801. Thời gian ngắn ngủi nầy là thời nội chiến giữa dòng Nguyễn Phúc và nhà Tây Sơn sắp đến hồi kết cuộc. Vì vậy chữ Nôm không có cơ hội thuận lợi để phát triển dù chỉ trên lãnh thổ cai trị của nhà Tây Sơn. Với chữ quốc ngữ hiện hành việc quảng bá giáo dục quần chúng dễ dàng hơn với chữ Nôm. Một người không biết chữ chỉ cần học 6 tháng là biết đọc chữ quốc ngữ. Phải mất bao lâu mới đọc được chữ Nôm? Ai dạy? Nói nôm na thì dễ. Nhưng học chữ Nôm không dễ vì phải có căn bản chữ Hán mới học được chữ Nôm. Chữ quốc ngữ theo mẫu tự La Tinh giúp cho Việt tự tách rời khỏi văn hóa Trung Hoa ít ra về hình thức. Vào thế kỷ XIX khi Pháp chiếm Nam Kỳ, nhiều nhà giàu có không cho con đi học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp. Họ phải mướn người đi học để khỏi bị chánh quyền thuộc địa nghi ngờ có phản ứng chống Pháp.

Việc không dùng chữ Hán trong tiếng Việt sẽ làm cho tiếng Việt cằn cỗi hơn là phong phú. Có nhiều lãnh vực độc lập với chánh trị và tinh thần quốc gia. Ngôn ngữ, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật... là những lãnh vực độc lập đó. Trong những trang vừa qua tôi trình bày rất nhiều từ ngữ mà tiếng Việt vay mượn từ các nước khác. Tiếng Anh của người Hoa Kỳ phong phú hơn tiếng Anh của người Anh vì có sự vay mượn của nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và vì khoa học kỹ thuật Hoa Kỳ phát triển nhanh chóng. Hằng năm có hàng ngàn sản phẩm mới ra đời và có tên gọi mới. Tự điển của Hoa Kỳ có thêm từ 3.000 đến 5.000 từ ngữ mới mỗi năm. Sự vay mượn chỉ làm giàu cho ngôn ngữ chớ có hại gì đâu. Vay mượn từ ngữ không phải trả vốn hay tiền lời chi cả. Tiếng Anh, Pháp và các ngôn ngữ Âu Châu đều phảng phất âm hưởng của La Tinh và Hy Lạp. Người Hoa Kỳ không có mặc cảm gì khi dùng tiếng nói của người Anh từng cai trị mình. Người Pháp hay Âu Châu không mặc cảm gì khi dùng từ ngữ gốc La Tinh vì xưa kia họ từng bị đặt dưới sự thống trị của đế quốc La Mã. Người Ấn Độ thấy thoải mái khi nói tiếng Anh, quốc gia từng đô hộ họ. Trong chừng mực nào đó tiếng Anh còn dễ dàng hơn các thổ ngữ trong nước. Ấn Độ há không có văn minh lâu đời? Người Canada không mặc cảm gì khi nói tiếng Anh và tiếng Pháp cũng như người Thụy Sĩ nói tiếng Đức, Pháp và Ý.

Trở về việc dùng chữ Hán trong tiếng Việt, ta thấy với chữ Hán trong Việt ngữ Việt Nam vẫn chưa có một quyển tự điển Việt ngữ hoàn chỉnh vì nước ta chưa có Hàn Lâm Viện. Bỏ chữ Hán, cuốn tự điển không hoàn chỉnh ấy mất đi 45% chiều dày của nó.

Người mù chữ ở Việt Nam vào giữa thế kỷ XX nói mã tà, phú-lít (police) thì họ biết nhưng nói cảnh sát thì họ không biết vì họ biết tên gọi mã tà hay phú-lít trước khi chữ cảnh sát ra đời. Một người không có trình độ văn hóa cao ở Hoa Kỳ biết money order chứ không biết chữ dịch ngân lịnh của nó. Ông ta biết food stamps chớ không biết tem phiếu lương thực. Đó là thói quen ban đầu đã dùng như vậy. Nếu không gọi voter là cử tri mà gọi là người đi bỏ phiếu hay người đi bầu thì electoral college (cử tri đoàn) phải gọi là đoàn người đi bỏ phiếu? Quốc gia độc lập sẽ nói thành nước nhà đứng một mình? Giữa những chữ ‘quốc gia độc lập’ và ‘nước nhà đứng một mình’ cái nào nghe êm tai, sát nghĩa, dễ hiểu và dễ nhớ hơn? Những từ kép như chánh trị, tự do, dân chủ, cộng hòa, quốc hội, hiến pháp, ngân hàng, thị trường, kinh tế, thương mại... sẽ nói như thế nào cho người ta hiểu dễ dàng nếu bỏ Hán-Việt trong tiếng Việt? Đại nhân trở thành người lớn? Tiểu nhân là người nhỏ? Phản ứng của người nghe sẽ hiểu người lớn là người trên tuổi 18 tuổi (adult) hay cao lớn gần 2m. Hiểu như vậy có đúng nghĩa của chữ đại nhân không? Còn người nhỏ là người cao không quá 1.50 m? Nghĩa thật sự của chữ tiểu nhân có phải như vậy không?

Ngôn ngữ trong sáng hay không là do người truyền đạt nắm vững vấn đề mà mình muốn truyền đạt hay không và người nghe có đủ trình độ để nghe và hiểu vấn đề hay không. Mỗi ngành nghề, mỗi bộ môn có từ ngữ riêng của nó. Không thể dùng từ nôm na mà chuyện phức tạp trở nên giản dị, chuyện khó hiểu trở nên dễ hiểu. Khẩu hiệu Mười Sáu Chữ Vàng (16) và Bốn Tốt (4) không có chữ Hán, dễ hiểu nhưng hàm chứa vô số âm mưu thâm hiểm và tàn độc khó hiểu. Ngôn ngữ có qui luật, vẻ đẹp và giá trị riêng của nó. Nó được xem là tiêu chuẩn để đánh giá người nói lẫn người nghe. Quá khó khăn phức tạp như La Tinh hay Sanskrit (tiếng Phạn) thì dễ bị đào thải để trở thành tử ngữ (langues mortes). Giản dị hay phức tạp tùy vào định chế chánh trị, tình trạng kinh tế - xã hội, sự phát triển văn hóa, giáo dục và khả năng lý luận của dân chúng trong nước.

Khi Hoa Kỳ vừa lập quốc họ tìm cách giản dị hóa cách nói tiếng Anh. Tiếng Anh của người Anh phức tạp vì Anh là một nước quân chủ. Ngôn từ có giai cấp tính của nó. Ở Việt Nam dưới chế độ quân chủ cũng không ngoại lệ. Một số từ ngữ chỉ dành cho vua chúa và hoàng tộc như: lăng (mồ mả vua), long nhan (mặt vua), long thể (thân thể vua), long bào (áo của vua), ngọc tỷ (ấn của vua), thánh ý (ý của vua), núi ngự (núi nơi vua ngự),chuối ngự (chuối của vua ăn), ngự trù (đầu bếp của vua), ngự y (thầy thuốc của vua), vua se mình (vua bệnh), vua băng (vua chết), hoàng hậu lâm bồn (hoàng hậu hạ sinh con), hoàng hậu (vợ của vua), hoàng tử (con vua), công chúa (con gái vua) v.v… Tiếng Anh của người Hoa Kỳ giản dị vì đó là nước Cộng Hòa, dân chủ. Nhưng khi Hoa Kỳ trở thành một quốc gia có nền kinh tế phồn thịnh, đời sống dân chúng cao, giáo dục mở mang. Trình độ học vấn của dân chúng lên cao. Sự giản dị trong ngôn ngữ giảm đi nhưng không có nghĩa là thiếu sự sáng sủa đến nỗi không ai hiểu gì cả. Những người trưởng giả giàu có bắt đầu muốn có cuộc sống vương giả và dùng từ ngữ cầu kỳ như giới quý tộc Châu Âu xưa kia nhưng chưa đến nỗi gọi cái ghế là vật bằng gỗ để ngồi. Sự cầu kỳ và phức tạp đôi khi xuất phát từ ý muốn của loài người để có sự phân biệt và ngăn cách giữa người và người. Nếu con đường nào cũng ngay và thẳng thì phong cảnh trở nên đơn điệu. Lắm lúc người ta phải làm cho nó cong quẹo, uốn khúc, thậm chí ngoằn ngoèo nguy hiểm để chấm dứt vẻ đơn điệu buồn tẻ và làm cho người lái xe phải chú ý và cẩn thận hơn. Sự phức tạp và khó hiểu của ngôn từ đôi khi cũng tương tự như thế.

Tô một bức tường 50m2 chỉ trả có 2 ngày công thợ. Nhưng chạm trổ một cây cột 0,5 m2 lại phải trả 20 ngày tiền công thợ vì vẻ đẹp nghệ thuật của cái nhà nằm trên cây cột chạm 0,5 m2 chớ không phải trên bức tường tô 50m2.

Sự phức tạp văn phạm của ngôn ngữ Âu Châu lại giúp cho ngôn ngữ của họ rõ ràng, sáng sủa. Nó xuất phát từ óc phân tích, tổng hợp và lý luận khoa học. Chỉ cần nghe cách chia động từ người ta biết trình độ người nói, chuyện xảy ra lúc nào (quá khứ, hiện tại, tương lai, tương lai giả định v.v...). Chỉ cần thấy không có S là thì biết không nhiều, thấy HE, SHE, IT, ELLE, IL thì biết đàn ông, đàn bà giống đực, giống cái, người hay vật. Sự sáng sủa đó xuất phát từ tinh thần trọng quy tắc, luật lệ và khoa học của người tò mò muốn có sự giải đáp của 5WH + H: What (cái gì ?), Who (ai?), Where (ở đâu), When (lúc nào?), Why (tại sao?) + How (cách nào/ như thế nào?). Trả lời được 5 WH + H thì khám phá ra nhiều điều mới lạ trong đời sống và trong vũ trụ. Muốn như vậy phải có dân chủ. Có tự do mới có sáng kiến và phát minh vì người ta dám hỏi và giải đáp những câu hỏi gai góc.

*

Dưới thời Pháp thuộc những người giỏi tiếng Pháp như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Diệp Văn Cương, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Ðình Khả, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh… đều có danh tiếng và địa vị trong xã hội thuộc địa. Sau cách mạng tháng 8 nhiều người khốn đốn thậm chí có thể vong mạng vì nói tiếng Pháp. Sự khinh miệt trí thức trở nên thịnh hành trong xã hội Việt Nam từ năm 1930 và nở rộ không riêng dưới chế độ Cộng Sản ở miền Bắc mà cả dưới chế độ quân đội ở miền Nam. Nào là trí thức ‘bơ sữa’. Nào là trí thức trùm chăn. Nào là trí thức không bằng cục phân. Nào là trí thức sa-lông, xôi thịt. Nào là trí thức trói gà không chặt. Hai chữ ‘khoa bảng’ được dùng với nghĩa xấu hơn là tốt. Bùi Quang Chiêu bị tàn sát cả nhà. Hồ Văn Ngà chết mất xác. Nguyễn Văn Sâm bị ám sát giữa thị thành. Trần Đức Thảo điên loạn. Nguyễn Mạnh Tường suýt chết đói. Phan Khôi chìm trong quên lãng. Phạm Ngọc Thạch chết trong rừng sâu. Trần Anh, Lê Minh Trí, Trần Văn Văn, Nguyễn Văn Bông bị ám sát chết. Trong tuồng hát lẫn ngoài đời người ta đề cao sự NGHÈO, DỐT nhưng không che dấu được sự khinh khi nghề dạy học nghèo nàn với những câu trở thành khẩu hiệu hay ca dao như: Nghèo mà thanh bạch, Học trò đi mò cá sặt, Thầy giáo ở nhà... Dưa leo chấm với cá kèo, Học trò nghèo đi học nọt-man (normale: sư phạm) v.v...

Trí thức bị nghèo đói, bị tù đày hay bị ám sát, thủ tiêu. Người thì mượn cửa Thiền để xa lánh thế gian. Người thì phải rời khỏi quê hương để được hưởng chút không khí tự do. Những hình ảnh trên làm cho người bàng quan thấy sự dốt nát là áo giáp của sự An Toàn và Hạnh Phúc. Nếu dựa vào thành kiến gắn liền trí thức, khoa bảng với ngoại bang để bài xích việc học ngoại ngữ thì đó là một thiệt thòi vô cùng to tát cho đất nước và dân tộc. Đó là một sự qui nạp hàm hồ, tai họa và vô tội vạ. Sự tự cô lập không giúp ích gì cho sự tiến bộ của đất nước và dân tộc. Chánh sách bế quan tỏa cảng vào thế kỷ XIX của triều đình Huế phỏng theo chánh sách bế quan tỏa cảng và bài Bạch Quỉ của Trung Hoa không giúp cho Việt Nam bảo vệ độc lập trước sự xâm lăng của Pháp. Nước Trung Hoa to lớn cũng không tránh được sự xâu xé của liệt cường Tây Phương. Bế quan tỏa cảng và tự cô lập không giúp cho vua quan ta thấy được con đường dẫn đất nước và dân tộc đến phồn vinh, tự do và hạnh phúc. Các nước Âu Châu rất quan tâm đến việc giảng dạy ngoại ngữ. Nhật và Nam Hàn (Đại Hàn) chủ trương mời thầy giáo người Anh hay Hoa Kỳ dạy tiếng Anh cho học sinh ngay từ bậc tiểu học để việc nói và nghe tiếng Anh được rốt ráo hoàn chỉnh hơn. Các quốc gia chú trọng đến ngoại ngữ ý thức rằng ngoại ngữ giúp họ cập nhật những tiến bộ của nhân loại trên mọi lãnh vực.

Nếu học ngoại ngữ nên học ngoại ngữ nào? Vì sao?

Trên thế giới có các ngôn ngữ quan trọng sau đây:

1. Tiếng Quan Thoại: 935 triệu người nói tức 14,1% dân số địa cầu. Các nước nói Quan Thoại gồm có: Trung Hoa lục địa, Đài Loan (Taiwan), Singapore, Mã Lai (nơi có 30% cư dân gốc Trung Hoa).

2. Tiếng Tây Ban Nha: 387 triệu người nói (5,85% dân số địa cầu). Các nước Trung Mỹ (ngoại trừ Brazil), hải đảo Caribbean, Tây Ban Nha.

3. Tiếng Anh: 365 triệu người nói (5,52% nhân loại). Các nước nói tiếng Anh là Hoa Kỳ, Anh, Ái Nhĩ Lan (Ái Nhĩ Lan có ngôn ngữ của họ nhưng tỷ lệ người Ái Nhĩ Lan nói tiếng Anh rất cao), Nam Phi, Úc Đai Lợi, Tân Tây Lan.

4. Tiếng Hindi: 295 triệu người Ấn Độ nói (4,46% nhân loại). Dân số Ấn Độ hiện nay là 1,1 tỷ người.

5. Tiếng Ả Rập: 280 triệu người nói (4,23 % nhân loại) gồm các quốc gia Trung Đông, ngoại trừ Do Thái, Bắc Phi.

6. Tiếng Bồ Đào Nha: 204 triệu người nói (3,06% nhân loại) gồm các quốc gia Brazil, Bồ Đào Nha, Angola, Mozambique.

7. Tiếng Bengali: 202 triệu người nói (3,05 %) gồm Bangladesh và cư dân phi Hồi Giáo quanh vùng.

8. Tiếng Nga: 160 triệu người nói (2,42 % nhân loại) gồm các quốc gia Nga, Trung Á, Mông Cổ và người Do Thái hồi hương.

9. Tiếng Nhật: 127 triệu người nói (1,92 % nhân loại).

Số người nói tiếng Anh đứng hàng thứ ba sau số người nói tiếng Quan Thoại và tiếng Tây Ban Nha nhưng tiếng Anh là ngôn ngữ phổ biến khắp thế giới từ thế kỷ XIX đến nay. Số người Ấn Độ nói tiếng Anh đông hơn cả người Anh chính gốc! Ở những vùng xa xôi như các cựu Cộng Hòa Sô Viết ở Trung Á, Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ... cũng có người biết nói tiếng Anh.

Nhằm mục đích đào tạo mầm non để phát triển quốc gia, việc học tiếng Anh là điều cần thiết. Vì Hoa Kỳ, Anh là những nước có nền khoa học kỹ thuật tân tiến, kinh tế phồn thịnh với truyền thống kỹ nghệ và thương mại lâu đời. Hoa Kỳ và Anh là hai quốc gia được nhiều giải thưởng Nobel về khoa học, kinh tế và các lãnh vực khác căn cứ vào các số thống kê sau đây:
Quốc gia
Số giải thưởng Nobel
Hoa Kỳ
Anh
Đức
Pháp
Thụy Điển
Nga
Thụy Sĩ
Canada
Nhật
Ý
Hòa Lan
Áo
338
118
102
 65
 30
 27
 26
 21
 20
 20
 19
 19

Số giải thưởng Nobel mà Nga được nhỏ hơn Thụy Điển (27-30). Nước Nga rộng lớn và đông dân so với Thụy Sĩ và Hòa Lan. Số giả̉i thưởng Nobel của Nga chỉ hơn Thụy Sĩ 1 giải (27-26) và hơn Hòa Lan 8 giải (27-19).

Nếu so với tiếng Quan Thoại, Tây Ban Nha, Nga, Pháp, Đức, Ý, Nhật thì tiếng Anh tương đối dễ học hơn các ngôn ngữ kia. Đó là tất cả những lý do tại sao phải chú trọng đến tiếng Anh.

Tôi không phải là nhà ngôn ngữ học. Bài viết này chỉ là một bài góp ý hơn là bài khảo cứu ngôn ngữ. Tôi thiết tha mời bạn đọc cùng góp ý, sửa sai và bổ túc. Đó là cách thực tập tinh thần hợp tác và xây dựng lẫn nhau. Sức mạnh của một dân tộc không nằm trong khả năng xuất chúng của từng cá nhân nào mà nằm trong sự hợp tác của tập thể dân tộc. Chúng ta không thể kể tên một người Nhật xuất chúng nào ăn nói hùng hồn cả. Nhưng chúng ta có thể kể hàng loạt thành quả rực rỡ mà toàn dân và toàn nước Nhật tạo ra. Phải mạnh dạn ghi nhận rằng quê hương gốc chúng ta yếu vì không có sức mạnh tập thể mặc dù có rất nhiều cá nhân có điểm cao ở các học đường hay đậu cấp bằng cao ở các đại học trên thế giới. 
Phạm Đình Lân, F.A.B.I.

Source Internet.

Người thắp lửa


 
Nguyễn Bích Lan - Người thắp lửa

TP - Gần đây, khi đến thăm bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, tôi thấy một nhóm người nước ngoài đang trầm trồ trước khu trưng bày vinh danh tám người phụ nữ Việt Nam hiện đại. Họ dừng lại rất lâu trước những bức ảnh của một cô gái gầy gò - người trẻ nhất trong số tám nhân vật được tôn vinh.
Rồi họ  lặng đi trước câu chuyện về tài năng và tấm gương nghị lực của cô gái ấy. Đứng cạnh họ, lòng tôi trào dâng niềm tự hào. Niềm tự hào ấy khởi nguồn từ bốn năm về trước, vào ngày 23/1/2011, khi tôi quan sát chính cô gái gầy gò ấy lên sân khấu nhận giải thưởng dịch thuật từ Hội Nhà văn Việt Nam: Giải thưởng Văn học năm 2010 cho bản dịch tiểu thuyết Triệu phú khu ổ chuột. Dù được em trai dìu đi, từng bước chân của cô gái - dịch giả, nhà văn Nguyễn Bích Lan - khó nhọc và chậm rãi. Cô nở nụ cười trấn an những người đang lo lắng. Hình dáng nhỏ bé của cô dường như lọt thỏm giữa sân khấu lớn, nhưng ánh mắt của cô bừng lên ánh sáng ấm áp của niềm tin và nghị lực.
Nguyễn Bích Lan - Người thắp lửa   - ảnh 1
Tranh: Nguyễn Xuân Hoàng.
Khi đôi chân không thuộc về mình
Những ai biết Bích Lan nhiều năm về trước chắc hẳn khó tưởng tượng rằng một ngày cô gái có bề ngoài dễ vỡ ấy có thể chinh phục được số phận, vượt qua bệnh tật và sự rình rập của cái chết để đứng trong hàng ngũ những nhà văn, dịch giả có đóng góp đáng trân trọng cho sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại.
Sinh năm 1976 tại một làng quê nhỏ ở Thái Bình, Bích Lan chưa kịp đi qua tuổi học trò ngây thơ thì thế giới đổ sụp xuống cô. Một ngày mùa đông, ở tuổi mười ba đầy trong trẻo, Bích Lan đang hăm hở đạp xe lướt đi trên con đường nhỏ xuyên qua những cánh đồng lúa xanh rì rào để đến trường thì đôi chân của cô bất ngờ mất khả năng cử động. Sự hoảng sợ thít chặt lấy cô, và cô ngã nhào từ xe xuống chiếc mương lõng bõng bùn nước. Càng vùng vẫy, Bích Lan càng tuyệt vọng. Đôi chân dường như không thuộc về cô nữa. Cô không thể nào đứng dậy được. Cô chỉ có thể thoát ra khỏi cái mương sâu hoắm ấy, khỏi sự giá lạnh và sợ hãi khi một người bạn cùng lớp ào xuống, kéo cô lên. Nhưng cũng từ đó, sự đau đớn dai dẳng đeo bám cô và triền miên hành hạ cô. Từ nhiều tháng trước đó, Bích Lan đã bị sụt cân, và giờ đây cô phải nằm bẹp trên giường, bất lực nhìn cuộc sống chầm chậm trôi qua. Cô ngơ ngác không hiểu điều gì đang xảy ra với mình.
Gia đình cô đã đưa cô đi chạy chữa khắp nơi. Rồi khi thầy thuốc tìm ra căn bệnh của cô, mọi hy vọng trong cô dường như bị dập tắt: bệnh của cô là một loại bệnh hiếm gặp và hiện chưa có thuốc chữa - bệnh loạn dưỡng cơ. Các bác sĩ cảnh báo căn bệnh này sẽ khiến cho cơ thể của cô ngày càng suy yếu, khiến cô dần mất khả năng di chuyển. Thậm chí nhiều bác sĩ tin rằng Bích Lan sẽ chỉ sống được một thời gian ngắn, vì căn bệnh sẽ khiến cô suy nhược trầm trọng.
Nguyễn Bích Lan - Người thắp lửa   - ảnh 2
Nguyễn Bích Lan.
Học để được sống
Những ngày ấy, sự đớn đau thể xác, bóng tối dày đặc của tương lai, và sự kiệt quệ về tài chính rất dễ khiến một người bình thường buông xuôi tất cả. Và sẽ thật dễ dàng khi Bích Lan để sự chán nản và tự ti chiếm lĩnh lấy cô. Nhưng thật kỳ diệu, chính trong những giây phút tăm tối nhất, Bích Lan khao khát được sống. Không chỉ sống, mà sống có ý nghĩa. Như cô đã viết trong truyện ngắn Những ngọn lửa: “Tôi cảm thấy từ một góc bí mật nào đó rất sâu trong con người mình, một ngọn lửa bắt đầu được nhóm lên. Mãi về sau tôi mới biết gọi tên ngọn lửa đó là ước mơ”.
“Tôi cảm thấy từ một góc bí mật nào đó rất sâu trong con người mình, một ngọn lửa bắt đầu được nhóm lên. Mãi về sau tôi mới biết gọi tên ngọn lửa đó là ước mơ”.
Nguyễn Bích Lan
Bích Lan ước mơ chinh phục số phận của mình. Và trong căn phòng nhỏ bé nơi cô đã phải giam mình trong thời gian dài, cô gái bé nhỏ 14 tuổi ấy bắt đầu hành trình tiếp thu tri thức của thế giới. Vượt qua tất cả mọi đau đớn thể xác, cô lao vào đọc sách. Cô đọc và đọc tất cả những quyển sách mà cô mượn được, về tất cả các lĩnh vực. Không có được diễm phúc đến trường, cô tự học một cách mê say. Học để quên đi đau đớn. Học để được sống. Học để một ngày có cơ hội báo hiếu với mẹ.
Một hôm, nhìn em trai học tiếng Anh, Bích Lan quyết định tiếp cận với môn ngoại ngữ ấy- môn học còn rất xa lạ với rất nhiều học sinh thời đó - bằng những quyển sách mà cô mượn được, bằng băng cassette và bằng trí thông minh và tinh thần kiên định. Rồi cô chập chững bước những bước đầu tiên vào biển tri thức vốn đã tồn tại hàng nghìn năm nay ở thứ ngôn ngữ thông dụng nhất thế giới - tiếng Anh. Càng đọc, càng học, cô càng đứng vững trên đôi chân của trí tuệ. Rồi cô bước đi, cô chạy, cô tung tăng vùng vẫy trong biển tri thức. Ở đó, Bích Lan tìm thấy chiếc chìa khoá để tự cứu mình và sống có ý nghĩa: cô bắt đầu dịch các tác phẩm văn học mà cô yêu thích.
Những ngón tay nhỏ bé và gầy guộc của Bích Lan, yếu đến nỗi không thể cầm vững chiếc bút, nay được tiếp thêm sức mạnh khi chúng giúp cô chuyển tải vẻ đẹp của văn học thế giới sang ngôn ngữ Việt. Thật kỳ diệu khi trong vòng 13 năm qua, giữa những cơn đau thể xác vẫn dai dẳng khôn nguôi, Bích Lan miệt mài làm việc, cho ra đời 30 quyển sách dịch, tất cả đều là những tác phẩm văn học kinh điển hoặc những quyển sách đầy ắp tính nhân văn. Hàng triệu người Việt đã được truyền thêm nghị lực sống từ “người không tay không chân” Nick Vujicic, qua bốn quyển sách của anh mà cô là dịch giả. Cũng qua Bích Lan, bạn đọc Việt Nam được đắm mình trong vẻ đẹp huyền ảo và trí tuệ sâu sắc trong các tác phẩm của những nhà văn lừng danh thế giới như William Faulkner, Rabindranath Tagore, JP. Donleavy, Vikas Swarup, Julia Otsuka...
Nguyễn Bích Lan - Người thắp lửa   - ảnh 3
Những ngọn lửa
Nhưng dịch thuật chưa đủ, Bích Lan gửi trọn tâm huyết và khát khao sống mãnh liệt của mình qua từng trang viết. Cô sáng tạo miệt mài, cẩn trọng, đầy trách nhiệm và say mê như thể mỗi phút giây của cuộc đời này là giây phút cuối. Cô đều đặn có những tác phẩm thơ, văn xuôi, và báo chí nóng hổi tính thời đại in đều đặn trên các tờ báo uy tín. Đến giờ, Nguyễn Bích Lan đã là tác giả của những quyển sách nhưKhông gục ngã (Tự truyện, Nhà xuất bản Trẻ, 2010), Sống trong chờ đợi (Thơ và truyện ngắn, NXB Trẻ, 2012).
Là người dõi theo các sáng tác của Bích Lan, tôi hồi hộp mở tập truyện ngắn mới nhất của cô - Những ngọn lửa (NXB Phụ nữ, 2015). Và như tôi đã mong đợi, Bích Lan không làm tôi thất vọng. Mỗi câu chuyện trong quyển sách này kéo tuột tôi vào từng ngóc ngách sâu thẳm của một xã hội Việt Nam thời hiện đại. Ở nơi ấy, áp lực kinh tế đang khiến con người sống vô cảm, tàn nhẫn với nhau. Con vô cảm với mẹ ruột, mẹ ruột vô cảm với con, thầy vô cảm với trò… Bằng giọng văn sắc sảo, lúc thì đầy ắp chất thơ, lúc thì dịu dàng, nóng bỏng, lúc thì chua chát, ngoa ngoắt, Bích Lan phác thảo rõ nét những sắc thái của cuộc sống thời hiện đại, để những câu chuyện của cô cứa vào chúng ta sắc lẹm như những lưỡi dao. Bóng tối của lòng tham, của sự ích kỷ đang phủ trùm lên chúng ta. Cô thắp lên những ngọn lửa - những ngọn lửa của hy vọng, của lòng nhân ái, vị tha, của tình yêu giữa con người với con người vẫn tồn tại đâu đó trên cõi đời này.
Đọc quyển sách, ta không khỏi khát khao thay đổi bản thân mình, nhắc nhở mình phải sống tốt hơn, nhân ái hơn với những người xung quanh.
Vài năm trước, khi đại diện của quỹ văn học Akademie Solitude (Đức) nhờ tôi giới thiệu một nhà văn Việt Nam để họ trao học bổng sáng tác, tôi không ngần ngại đề cử Nguyễn Bích Lan. Tôi rất vui khi quỹ Akademie Solitude trao học bổng cho Bích Lan năm ấy sau khi đánh giá tầm ảnh hưởng của những tác phẩm văn học của cô.
Hiện nay, Bích Lan vẫn chỉ nặng 28kg. Cô miệt mài làm việc 9 tiếng một ngày, tuân thủ những nguyên tắc khắt khe nhất của một người sống bằng nghề viết. Từ thứ Hai đến thứ Sáu, cô dịch sách. Vào thứ Bảy và Chủ nhật, cô viết hoặc dịch bài cho báo. Xen kẽ vào những công việc ấy, cô viết truyện ngắn hoặc thơ.
Độc giả Diệu Trâm từ Hội An, sau khi đọc các tác phẩm của Bích Lan, chia sẻ: Đôi khi gục lên ngã xuống nhiều lần để rồi nhận ra chuyến hành trình của mình không là gì cả so với những gì tôi biết được biết về chị Bích Lan, về những gì mà chị đã từng đối mặt và vẫn đang vượt qua... Tôi muốn gửi đến chị lời cảm ơn vì đã nhóm lên ngọn lửa niềm tin và hi vọng trong cuộc sống vốn dĩ rất ngắn ngủi này.
Không phàn nàn về số phận
Bích Lan cho biết, cô không có gì phải phàn nàn về hoàn cảnh của mình hiện tại. Cô cảm thấy ổn cho dù vẫn đau yếu bởi cô đã tìm ra cách sống chung với bệnh tật để ngày nào của mình cũng là một ngày hữu ích. Trong năm nay, ngoài tập thơ Ru và tập truyện ngắn Những ngọn lửa, Bích Lan sẽ hoàn thành bản dịch truyện cổ Andersen, và cuốn Màu của nước - tiểu thuyết nổi tiếng về phân biệt chủng tộc của nhà văn Mỹ James McBride.
Xin khép lại bài viết này với lời chia sẻ của bà Tống Thị Ninh, mẹ của Bích Lan: Bích Lan tuy không được trời cho một sức khỏe tốt, nhưng lại có được tinh thần mạnh mẽ. Những cuốn sách mà Lan đã dịch và viết mang đến cho bản thân cháu và gia đình rất nhiều người bạn đáng quý ở trong và ngoài nước. Tôi thật vui vì cháu dám sống một cuộc đời hữu ích. 

Nguyễn Phan Quế Mai.

Source: http://www.tienphong.vn/

Thứ Năm, 14 tháng 1, 2016

Bí mật để có một tuổi già khỏe mạnh



Hãy giữ bình tĩnh – Đó là bí mật để có một tuổi già khỏe mạnh
Khi chúng ta già đi, những khả năng thể chất và tinh thần sẽ giảm xuống, nhưng nó không phải theo cách đó. Nghiên cứu cho thấy cho thấy cách thức mà chúng ta sống gồm chế độ ăn, chế độ tập thể dục có thể có một tác động lớn đến việc chúng ta sẽ già đi như thế nào. Và đó không chỉ là những thứ chúng ta cần làm để có một tuổi già khỏe mạnh mà còn bao gồm cả những điều chúng ta cần tránh.
Có một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn nhằm tìm hiểu các yếu tố gây ra mức độ suy giảm chức năng khác nhau do tuổi tác. Đặc biệt, các nhà khoa học những khía cạnh này thay đổi khả năng ghi nhớ và tập trung trong cuộc sống hằng ngày như thế nào. Chúng tôi gọi những thay đổi đó là “lão hóa nhận thức“.
Nhiều khía cạnh tiêu cực trong quá trình lão hóa nhận thức xuất hiện ở những người lớn tuổi có liên quan đến số lượng căng thẳng họ đã trải qua trong cuộc sống.
Những nghiên cứu trước đó đã xem xét về chế độ ăn hay tập thể dục thể chất hay tinh thần (chơi trò sudoku, trò chơi ô chữ) ảnh hưởng đến quá trình lão hóa như thế nào. Tuy nhiên, số lượng căng thẳng chúng ta trải qua trong cuộc đời và tác động của nó lên lão hóa nhận thức vẫn là một lĩnh vực chưa được nghiên cứu, cho đến gần đây.
Một cuộc đời căng thẳng
Nghiên cứu từ phòng thí nghiệm đã phát hiện ra rằng những khía cạnh tiêu cực của quá trình lão hóa nhận thức thường thấy ở những người cao tuổi có liên quan đến mức độ căng thẳng mà họ đã trải qua trong đời. Các nhà nghiên cứu bắt đầu bằng cách đo số sự kiện căng thẳng trải qua trong cuộc sống. Họ cũng nhìn vào một số các yếu tố khác như một cơn bạo bệnh hay việc mất đi một người thân yêu, thay đổi những thói quen xã hội hay di chuyển nhà. Những người già đã trải qua rất nhiều căng thẳng, có xu hướng thực hiện các công việc liên quan đến nhận thức tệ hơn so với những người ít gặp căng thẳng.
Những người già không trải qua quá nhiều căng thẳng trong cuộc sống thực hiện các công việc liên quan đến nhận thức tốt như những người trẻ tuổi.
Điều này cho thấy rằng căng thẳng có ảnh hưởng lớn đến năng lực tinh thần và ảnh hưởng này chỉ xuất hiện vào tuổi già. Thật vậy, những người trẻ tuổi không có gì khác biệt trong thực hiện các bài test liên quan đến nhận thức bất chấp cuộc sống của họ có trải qua những căng thẳng hay không.
Không chỉ vậy, mô hình hoạt động não của những người tham gia nghiên cứu cho thấy kết quả giống nhau: người lớn tuổi (tuổi từ 60 đến 80) trải qua ít căng thẳng hơn trong cuộc đời của họ, có hoạt động não tương tự như những người trẻ tuổi. Tuy nhiên, khi nói đến hoạt động não của những người cao tuổi có cuộc sống căng thẳng, các nhà nghiên cứu tìm thấy một số thứ rất khác nhau.
Hoạt động não bộ có thể cung cấp cho chúng ta một số manh mối về cái gì hoạt động sai và nó xảy ra ở đâu trong bộ não. Ví dụ, tùy thuộc vào các bài kiểm tra, chúng ta có thể thấy rằng lượng căng thẳng trong suốt cuộc đời của một người có thể ảnh hưởng đến trí nhớ ngắn hạn của họ và cũng có thể làm giảm khả năng ngăn chặn những suy nghĩ không liên quan gây trở ngại đến quá trình ghi nhớ.
Đặc biệt, căng thẳng ảnh hưởng đến một khu vực của não bộ rất cần thiết cho sự hình thành những ký ức mới
Nhưng những ảnh hưởng lâu dài của căng thẳng không chỉ dừng lại ở trí nhớ: gần đây nó đã lần đầu tiên cho thấy rằng các quá trình não và hành vi liên quan đến việc kiểm soát tập trung và chuyển động cũng bị suy giảm. Điều này có thể liên quan đến hoạt động của não khi bạn cố gắng để chặn một chuyển động vật lý (chẳng hạn như di chuyển cánh tay) mà bạn đã thực hiện hay hoạt động liên quan đến kiểm soát sự tập trung chú ý.
Mỗi người cần phải tìm ra những cách có thể giúp ích cho họ.
Chúng ta có thể làm gì
Vậy chúng ta có thể làm gì để phòng chống nó? Hầu hết chúng ta điều biết khi nào chúng ta cảm thấy căng thẳng. Đối với những ai không biết điều này, các thiết bị thông minh có thể được sử dụng để cảnh báo cho chúng ta sự hiện diện của các mối nguy hiểm tiềm tàng. Bằng cách nhận thức sự căng thẳng và hậu quả lâu dài của nó, chúng ta có thể bắt đầu giải quyết nó và tìm cách giảm bớt hậu quả.
Những cách để tránh căng thẳng có rất nhiều. Một số người tìm đến thiền định và những suy nghĩ tích cực, đối với những người khác những kỹ thuật tương tự vậy có thể vô hiệu. Mỗi người cần tìm những gì có thể giúp ích họ. Có thể mất một ít thời gian để thử nghiệm, nhưng nó khá đáng giá. Nhưng đừng mong đợi nó giúp bất kỳ điều gì cho những nếp nhăn của bạn.
Thanh Phong
Source Internet.

SỰ ĐỘC ĐÁO CỦA PHỞ VIỆT

     
                      (qua bài viết trên tạp chí kinh doanh số 1 của Hoa Kỳ Wall Street)

Mới đây, tờ tạp chí kinh doanh nổi tiếng của Mỹ - Wall Street Journal đã cho đăng tải một bài viết khen ngợi món phở Việt Nam. Bài viết có những nhận định, so sánh sâu sắc về món ăn nổi tiếng của người Việt.
 
Bằng giọng văn hài hước, dí dỏm và chân thành, phóng viên của tờ Wall Street Journal đã có một bài viết thú vị về phở Việt

 
Tạp chí kinh doanh số 1 của Mỹ viết về sự độc đáo của Phở Việt
Đáp máy bay đến Hà Nội trong một buổi sớm se lạnh, khi cảm giác lâng lâng, say say của máy bay vẫn còn khiến đầu óc “nửa mê nửa tỉnh”, tôi bước vào một quán ăn nhỏ ven đường, tỏa ra mùi hương ngào ngạt, quyến rũ. Tôi đã ở đây rồi, nơi tân cổ giao duyên, nơi Đông Tây gặp gỡ - Hà Nội, thủ đô ngàn năm văn hiến của Việt Nam.
“Ông ăn ngay đi nhé!”,
 cô phục vụ lấy tay ra hiệu chỉ vào bát phở vừa mới đặt xuống trước mặt tôi. Trông cô nghiêm nghị như một vị tướng chỉ huy cấp dưới, nhưng đó chỉ là sự so sánh hài hước của tôi thôi. Thực ra, cô đang thể hiện sự quan tâm, có lẽ trông tôi không khỏe và cô đang lo lắng cho người khách phương xa. 
Bát phở đặt trước mặt tôi - món ăn thương hiệu của ẩm thực Việt Nam đây rồi, trông thật giản dị: những sợi phở trắng bơi trong bát nước dùng, rải đều trên mặt là những lát thịt bò thái mỏng. Đi kèm bên cạnh là một đĩa bày rất khéo những thức rau sống, giá đỗ, miếng chanh cắt nhỏ, lát ớt chỉ thiên… 
Phở, tôi đã ăn nhiều lần. Đó luôn là món ăn đặc biệt đối với tôi. Kể từ lần đầu tiên được nếm thử hương vị phở ở đất nước quê nhà cách Việt Nam nửa vòng trái đất - nước Mỹ, tôi đã biết mình sẽ không bao giờ có thể quên món ăn này.
 
Tạp chí kinh doanh số 1 của Mỹ viết về sự độc đáo của Phở  Việt
Tôi cũng không bao giờ có thể miêu tả hương vị phở, nó quá sâu sắc và phức tạp, chẳng dễ nói bằng lời được. Bởi lẽ, để có tô phở đặt trước mặt tôi đây, người chủ quán đã phải chuẩn bị cầu kỳ từ trước đó nhiều tiếng đồng hồ.
Nguồn gốc của phở thật bí ẩn. Người thì bảo phở là món lai Pháp, người lại bảo nó xuất xứ từ Trung Hoa, có người lại quyết bảo vệ: phở là của Nam Định. Bất kể phở xuất 
xứ từ đâu, người Việt Nam các bạn vẫn luôn bảo rằng phở là linh hồn ẩm thực của Hà Nội. 
Ở thành phố miền Bắc đông đúc này, mặt trời lên là đường phố bắt đầu hối hả, mặt trời lặn là ai về nhà nấy, đến đêm thì không gian được trả lại sự tĩnh lặng. Tôi thường thấy những người bán hàng rong đạp xe xung quanh thành phố với những thúng mủng đựng chanh, ớt, tỏi… Và tôi cũng thường thấy các quán phở có khách từ sáng đến đêm, đó là món ăn mà có lẽ người ta có thể ăn từ ngày này sang ngày khác, từ bữa này sang bữa khác không chán, tôi nghĩ vậy.
Phở là món quà đặc sản của Hà Nội, một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam- Thạch Lam từng viết như vậy hồi thập niên 1940. Điều này vẫn không thay đổi cho tới tận hôm nay. Phở là đặc sản Hà Nội không phải bởi chỉ người Hà Nội mới biết nấu phở mà bởi ở Hà Nội, hương vị phở thơm ngon đặc biệt, một thứ vị riêng có.

 
Tạp chí kinh doanh số 1 của Mỹ viết về sự độc đáo của Phở Việt
Hai thúng hai đầu và một dải quang gánh ở giữa nối liền, ai đó đã miêu tả hình ảnh đất nước Việt Nam như vậy. Miền Bắc với Hà Nội ở một đầu quang và miền Nam với thành phố Saigon ở đầu còn lại. Đến với thành phố Saigon , tôi cũng dùng phở và nhận thấy hương vị hai nơi thật khác nhau, phong cách nấu ở hai thành phố này có những khác biệt thú vị.
Tôi muốn kể cho các bạn nghe về trải nghiệm đầu tiên của tôi với phở. Nó bắt đầu từ một nhà hàng ở tận thành phố Cambridge, tiểu bang Massachusetts, Mỹ. Ở những năm
 1990, khi đó, phở vẫn còn chưa được nhiều người Mỹ biết tới. Một đầu bếp Mỹ có tên Didi Emmons đã mở quán phở đầu tiên trong tiểu bang. Có lần ghé qua ăn thử và quá ấn tượng với món này, cậu sinh viên trẻ là tôi khi đó đã ngay lập tức xin được làm thêm tại cửa hàng.
Tôi đã từng làm việc ở nhiều cửa hàng ăn suốt thời đi học nhưng chưa có món nào gây ấn tượng với tôi như phở. Tôi khâm phục cách người ta sáng tạo ra nước dùng của phở, cách người ta thái và chẻ những cọng hành, cách đập gừng làm sao để miếng gừng vừa đủ độ dập và tiết ra hương thơm không quá nhạt cũng không quá nồng. 

Rồi hằng hà sa số những thứ thảo mộc tinh tế mà người ta dùng để chế vào nồi nước phở. Có những đêm tôi được người chủ quán ở Cambridge giao trông nồi nước dùng, tôi đã say sưa ngắm những bong bóng phập phồng trong nồi nước. Hít hửi hương thơm tỏa ra, tôi tin rằng đây là thứ nước dùng tinh tế nhất trong thế giới của các loại nước dùng.

 
Tạp chí kinh doanh số 1 của Mỹ viết về sự độc đáo của Phở Việt
Hương vị phở ở Hà Nội giản dị và cổ điển, nước dùng thanh và trung thành với những gì truyền thống - những lát thịt bò thái mỏng, những cọng hành tươi thái nhỏ và một vài chiếc lá rau thơm… 
Những quán phở ngon nổi tiếng ở Hà Nội lại tập trung ở những con phố hẹp và đông đúc nằm trong khu phố cổ. Hàng quán ở đây san sát nhau, người dân “luồn lách” trong dòng xe đông đúc một cách rất “cơ động”bằng những chiếc xe máy nhỏ gọn.
Đường phố thì thế nhưng người dân ở đây vẫn giữ được sự thư thái, thoải mái mỗi khi ngồi xuống ăn quà. Nhiều khách du lịch khi sang Việt Nam không dám ngồi xuống những hàng quán vỉa hè và họ đã tự tước đi quyền thưởng thức sự tinh túy của ẩm thực Hà Nội. Sự tinh tế đó lại nằm ở chính những hàng quán ven đường này. 

Phở ở thành phố Saigon có hương vị nồng đượm. Ở đây nước dùng đậm đà, hơi đục chứ không trong và thanh như nước dùng ngoài Hà Nội. Ở đây, phở có nhiều sáng tạo, cải biên thú vị với những nạm, tái, gầu, bò viên… thơm nức, mềm mại. Người yêu phở ở thành phố Saigon vì thế có nhiều lựa chọn “phi truyền thống” hơn.

 
Tạp chí kinh doanh số 1 của Mỹ viết về sự độc đáo của Phở Việt
Theo tôi, phở có thể được coi là một thức ăn nhanh của người Việt. Các nguyên liệu thường được chủ quán bày sẵn ra các khay và chế biến rất nhanh, chỉ vài phút sau khi gọi món, bát phở nóng sốt, thơm lừng đã được đặt ngay trước mặt thực khách. 

Ở Việt Nam có những quán phở mở từ tờ mờ sáng, thậm chí có cả quán mở xuyên đêm. Những nồi nước dùng ở đây to khổng lồ tới mức tôi tưởng tượng mình… có thể bơi trong đó. Chưa tới 2 đô la, du khách đến Việt Nam đã có thể thưởng thức món ẩm thực tinh tế đỉnh cao của Việt Nam - một ưu đãi quá lớn.
Sau khi đã thưởng thức phở ở cả miền Bắc và miền Nam, tôi nhận ra rằng phở ở Hà Nội thanh và truyền thống còn phở ở thành phố Sài Gòn đậm và “tân thời”. Đối với cá nhân tôi, tôi thích phở của thành phố Sài Gòn hơn bởi tôi yêu vị ngọt đậm trong tô phở Sài Gòn.

Trước khi bước ra khỏi quán, cô phục vụ thân thiện hỏi tôi: “Ông đã no bụng chưa?”. Tôi chỉ cười. Làm sao có thể no được khi phở Việt Nam ngon đến vậy? Dù đã ăn hết cả tô nhưng tôi vẫn luôn thấy thòm thèm, đúng như người Việt vẫn nói: No bụng đói con mắt. Chắc chắn tôi sẽ còn nhiều lần ăn phở, ngay cả sau khi đã trở về Mỹ. Người Mỹ giờ đây cũng đã có nhiều người nghiện phở như tôi. 
 
Theo Wall Street Journal

Source Internet.