Thứ Tư, 15 tháng 6, 2011
NGƯỜI ĐÀN BÀ TRÊN TÀU 502
Chuyến tàu di tản của dương vận hạm Thị Nại, HQ 502, một con tàu hỏng máy, đang trong thời kỳ sửa chữa, chở theo trên 5000 người, rời cầu tàu trong Hải quân công xưởng đêm 29 tháng 4 năm 1975 với bao nỗi khó khăn, hãi hùng, nguy hiểm. Hầu như trên mười năm sau đó, đã định cư ở Mỹ an toàn, nhiều đêm ngủ, thần trí tôi vẫn bị trôi theo cơn hốt hoảng kinh hoảng bởi chuyến đi này.Trong những giấc mơ kinh dị, tôi vẫn thấy rất rõ rừng người đặc nghịt trên sàn tàu. Bầu trời thì đen thẫm, ánh đèn xanh đỏ của những chiếc trực thăng vần vũ, nặng nề bay qua bay lại. Những đám cháy sáng rực bùng lên ở mấy góc trời.Kho xăng Nhà Bè trắng xóa, lấp lánh dưới ánh lửa đang cuồn cuộn bốc cao từ căn cứ Hải quân. Những tiếng nổ òa vỡ bên tai, kéo theo tiếng rít của những trái đạn rời nòng từ hai khẩu đại bác của đặc khu Rừng Sát. Con tàu ôm sát bờ lửa đạn ấy để vào nhánh sông Soài Rạp, bò ra cửa biển.
Sáng 30 tháng tư, con tàu liệt máy, buông trôi ở cửa sông. Biển ở trước mặt, sóng trắng xô xô từng đợt. Lại những đợt máy bay từ phía Saigon túa ra. Những chiếc trực thăng bay thấp, dọc theo hông tàu, thấp hơn chiều cao của đài chỉ huy chiến hạm. Cửa máy bay mở rộng. Chúng tôi thấy trong lòng máy bay chật ứ đàn bà , trẻ con. Mấy bà già hướng về chiến hạm, quỳ cúi gập người, chấp hai tay mà lễ. Trong khi đó, viên phi công rà được tần số của chiến hạm. Bằng một giọng nói đầy khấp thiết: “Anh em Hải quân ơi, cứu chúng tôi với. Chúng tôi được lệnh bay ra biển để đáp xuống tàu Mỹ. Nhưng tới điểm hẹn chỉ thấy biển mênh mông, tàu Mỹ đâu không thấy, nên phải quay về. Tàu tôi chỉ còn năm phút xăng. Xin cứu chúng tôi, gia đình tôi, mẹ tôi...” Không cầm lòng được, hạm trưởng Nguyễn Văn Tánh và “Ban tham mưu” chấp nhận những khó khăn, bất trắc, đồng ý cho trực thăng đáp xuống sân chiến hạm. Sân chiến hạm đông đặc người, lùng nhùng những chiếc mền đủ màu căng ra che sương gió qua đêm. Nắng bắt đầu oi ả. Tất cả phải giải tỏa cấp kỳ. Mọi người xuống hết sân chiến xa. Sân tàu trống vắng. Chiếc trực thăng từ từ đáp xuống. Một chiếc. Lại một chiếc nữa...
Tới gần trưa 30 tháng tư, ông Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng. Cả tàu mấy ngàn người xốn xang, cuống quýt. Có những tiếng khóc vỡ òa đâu đó. Một buổi họp khẩn cấp để đi đến quyết định: Bằng mọi giá phải thóat khỏi lãnh hải Việt Nam. Phải ra đi cho bằng được. Toán thợ máy kết hợp lạ lùng cố sửa chữa. Máy tàu nổ, một máy. Tàu ra được ngoài khơi, lết đến gần Côn Sơn, gặp được hạm đội mình ở đó. Lệnh từ sóai hạm HQ.3 chỉ thị cho HQ.16 tới kéo HQ.502 đi. Những đêm lừ đừ ở ngòai khơi, đoàn tàu vừa đi, vừa đợi nhau.Những chiếc ghe đầy ứ người sáp vào chiến hạm. Không thể làm ngơ, tàu thả thang dây, lại vớt thêm người. Đêm xuống, hải đăng Vũng Tàu lóe lên từng đợt như thách thức, như mời gọi, như vẫy tay giã từ. Bờ biển quê hương đấy mà giờ đã trở nên kinh khiếp, chia lìa, đớn đau. Ngày đêm qua làn sóng điện của đài Saigon, không còn là những giọng nói thân quen, mà là lời kêu gọi chát chúa: “... quân,S cán chính của ngụy quyền Saigon mau mau ra trình diện...”. Những ngày thiếu thốn, chật chội, chia nhau từng ngụm nước, từng nắm cơm chỗ sống, chỗ khê, chỗ thiu chua.
Mấy ngày sau, bờ biển Phi Luật Tân hiện ra, núi non chập chùng đen thẫm. Lễ chào và hạ quốc kỳ VNCH lần cuối được diễn ra đơn giản nhưng vô cùng nghiêm trang và rất đớn đau. Lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ bạc màu từ từ được kéo xuống cùng với hàng ngàn giọng hát, già trẻ, nam nữ cất lên, vừa hùng tráng vừa chất chứa nghẹn ngào. Những lời hát như trùm kín cả vùng trời biển nước mênh mông. Lời ca dứt. Những tiếng kêu khóc bỗng bùng vỡ. Nhìn đâu tôi cũng chỉ thấy những cặp mắt đẫm nước mắt. Trong những tiếng kêu khóc thảng thốt ấy, tôi thấy có tiếng kêu của một người đàn bà: “Ôi, con ơi, con ơi...”. Trong tập bút ký viết về cụôc di tản này, tôi đã ghi lại tiếng kêu thảng thốt, lạ lùng này. Tại sao tôi lại không ghi những tiếng kêu khóc khác tràn ứ quanh tôi trên con tàu Thị Nại HQ.502 lúc đó. Tôi không trả lời được. Vì khi viết lại giây phút xúc động lịch sử này, tay tôi như chỉ tuân theo những gì mà thần trí tôi ghi dấu mà tự động viết ra. Viết như vẽ lại rất tự nhiên, không có lựa chọn nào. Nhưng bây giờ thì tôi hiểu. Tình cờ tôi đã hiểu. Có những hình ảnh tuy mờ nhòa. Khi ẩn khi hiện, nhưng không bao giờ biến mất trong trí nhớ tôi. Tôi không bao giờ quên. Tôi nhớ lại rồi. Tôi nhớ thật rõ. Tôi hiểu tại sao tôi lại ghi lại tiếng kêu này. Xin hãy cho tôi từ từ nhớ lại.
Tôi bỏ chiếc xe hơi nhỏ ở ngoài cửa Hải quân công xuởng sát bên bệnh xá Bạch Đằng. Tôi đi đầu, hướng dẫn cả gia đình trên mười người thheo đoàn người lũ lượt chạy bộ dọc theo chiều dài Hải quân công xưởng. Vừa chạy vừa ngoáy cổ nhìn trở lại để kiểm soát đoàn “rồng rắn” của gia đình. Chỉ sợ có người bị lạc. Lạc là vô cùng khốn khổ, khó khăn. Tìm đến cầu tàu trước Bộ Tư lệnh hạm đội. Con tàu Thị Nại HQ.502 nằm đó, vị trí một. Bên ngoài còn ba con tàu khác cặp song song. Tất cả bốn con tàu xám ngắt, hướng mũi phía hạ đông. Người từ phía sau tràn tới. Như đã hẹn, tôi phải lên được ocn tàu này. Con tàu do bạn thân cùng khóa với tôi làm hạm trưởng.. Hải quân Trung tá Nguyễn Văn Tánh.Chúng tôi cũng đã hùn tiền mua thêm nhiều gạo,mì và thức ăn khô chất sẵn ở tàu này. Nước lấy tối đa. Lúc này thủy triều dâng cao, bắt đầu xuống. Người ken sát nhau như gạch trên cầu tàu nhích tới, nhích tơi. Cái thang dài độc nhất dựng dốc ngược bên hông tàu. Tôi biết khi khẩn cấp, chỉ cần thả hai mối dây là cái thang tự động tuồi xuống cầu tàu, lăn theo hai bánh xe ghi trên mặt đất, không một chút khó khăn. Tàu sẽ tách bến dễ dàng. Nhưng bây giờ rừng người đang ùn ùn tiến tới. Những quân nhân, trai tráng tìm mọi cách bám vào thành tàu mà lên. Gia đình tôi tất cả mười ba người, con số tình cờ không vui, trong đó có ông bà nhạc tôi ốm yếu, bốn đứa con nhỏ dưới mười tuổi. Chúng tôi không có cách nào khác ngoài cách leo cầu thang nhỏ, dốc ngược này để lên tàu. Tôi lên đầu tiên, bế trên tay đứa con út hai tuổi bụ sữa, nặng chĩu. Trên lưng đeo một ba lô quần áo và các thứ cần dùng. Một tay xách cái va li nhỏ đựng đầy giấy tờ. Bản thảo và hình ảnh. Rất nhiều hình ảnh. Cầu thang dốc và trơn, khiến tôi trượt chân. Cái va li trở nên nặng quá bung ra phía ngoài. Tôi buông tay nắm vội vào sợi dây cable, cái va li rơi tòm xuống nước, mất tăm. Hai tay ôm chặt thằng nhỏ trong lòng. Tôi cúi người xuống để ghì lấy mặt thang. Trong phút chông chênh đó có bàn tay ai rất mạnh giữ chặt lấy cánh tay tôi. Chỉ trong một sát na kinh khiếp đó, tôi gượng lại được và bò lên sàn tàu. Không biế cánh tay ấy của ai. Ai đã cứu bố con tôi. Đặt con xuống sàn tàu, tim tôi còn đập bập bùng hồi hộp. Tôi quay lại cùng các em tôi kéo vợ tôi, hai ông bà nhạc lên tàu. Kiểm điểm lại “quân số” gia đình. Đủ cả. Tôi quay lại cầu thang đứng chân trước chân sau thật vững trên sàn tàu. Một tay vịn vào hàng rào chắn, một tay chìa ra kéo những người đang trèo ngược thang lên. Bao nhiêu bàn tay tôi đã nắm. Có bao nhiêu bàn tay bè bạn thân quen, nắm chặt tay nhau kéo lên, buông ra với những nụ cười. Anh Trần Văn Tâm tức nhà văn Trần Quán Niệm, anh Nguyễn Hưng Quảng, anh Nguyễn Đa Phúc và bao nhiêu người nữa. Chúng tôi xúm nhau ở đó để tiếp tay, đỡ đần những người yếu đuối. Có bao nhiêu là những bàn tay già nua, hay non dại của những ai tôi chưa bao giờ gặp gỡ. Tất nhiên chúng tôi cũng đã chuyển , bế bao nhiêu con trẻ ở tuổi các con tôi. Lúc kéo người lên như thế, cũng là lúc tôi nhìn xuống khoảng trống giữa thành tàu và cầu tàu, tôi không còn thấy cái va li của tôi đâu cả. Nước đã cuốn nó đi trôi nổi ở góc kẹt nào. Khoảng trống dọc theo thân tàu chỉ độ bốn mươi phân thôi, là bề dày của trái độn cao su. Cái khe này hun hút đen thẳm dọc theo thân tàu dài hàng trăm thước. Dưới sâu là mặt nước, những làn sóng nhỏ, lấp lánh những ánh đèn trôi đi, trôi đi. Tôi bịết sức nước trông thế nhưng thật mạnh mẽ. Chân cầu tàu lù xù những vết sò hến, rác rưởi bám đầy. Nếu ban nãy tôi không có cánh tay nào bám lấy, ngã xuống đấy... Mới thoáng nghĩ thế toàn thân tôi lạnh buốt. Tôi nghĩ đến con tôi. Đứa con út của tôi.
Rời cầu thang trở lại với gia đình, tôi vừa quay gót , có tiếng người đàn bà thảng thốt kêu lên: “Con tôi, con tôi rơi... rồi, ôi con ơi là con ơi...”. Tôi quay phắt lại, người ta đen đặc, đang kéo người đàn bà vào sàn tàu. Ở phia cầu thang người vẫn cứ ùn tấn lên không dứt. Người đàn bà khốn khổ, mất con như mê đi, đang được mọi người xúm lại chữa chạy, dựt tóc, bôi dầu. Hình như không ai quan tâm đến số phận đứa nhỏ vừa rời tay mẹ rơi xuống cầu tàu, mật tăm. Vô phương cứu tìm. Mà ai còn thì giờ đâu để ngó xuống cái khe thẳm đó. Người càng lúc càng lên thêm, đứng đen đặc cả sàn tàu. Không ai biết, chẳng ai quan tâm đến cảnh huống bi thảm vừa xảy ra. Đêm mỗi lúc mỗi sâu. Nỗi khốn khỗcủa người mẹ mất con như bay theo, mất hút giữa đêm đen mỗi lúcmỗi thêm kinh sợ.
Lên được trên tàu, tìm gặp bạn tôi, HQ Trung tá Nguyễn Văn Tánh, hạm trưởng, anh nhường phòng của anh cho gia đình tôi. Tôi ngần ngại, nhưng anh bảo: “Tôi còn cái phòng nhỏ trên trung tâm hành quân”. Tạm yên tâm, tôi sát cánh cùng anh, tập họp tất cả quân nhân có mặt, tìm mọi cách đem tàu ra khơi. Người thì chật cứng ở sân boong chính, ở hầm chiến xa, và la liệt cả ở hành lang, mọi chỗ. Nhưng như anh Tánh sau này cho biết thì: “Nhân viên cơ hữu trên 100 nay thì chỉ còn có 9 người...”. Tình trạng chiến hạm còn đang sửa chữa: “Hai máy chánh ráp xong nhưng chưa thử tại chỗ. Hai máy điện chưa được ráp song song. Bơm nước ngọt và bơm cứu hỏa chưa ráp. Bình cứu hỏa CO2 còn nằm trên hải quân công xưởng. Hai máy neo trước và sau bất khiển dụng. Sàn tàu cắt mở lối đem máy chánh lên chưa hàn lại”. Biết bao nhiêu trở ngại, khó khăn, nguy hiểm. Khi khởi động được máy thì tay lái bất khiển dụng. Dây cable lái bị cắt đứt. Nói ra không hết nguy khốn của cuộc đi này. Bao nhiều điều, bao nhiêu hình ảnh vẫn đầy ắp trong trí não tôi. Lúc mờ lúc tỏ, tiếng kêu đó không bao giờ mất được trong tiềm thức của tôi. Khi có những sự tương quan, hình ảnh ấy sẽ tự động hiện ra mà lý trí tôi không thể can dự vào. Và sự việc đã xảy ra rất tình cờ mới đây, gần 30 năm xa cách.
Trong một buổi gặp gỡ thu hẹp của mấy bà bạn cựu nữ sinh Trưng Vương của bà xã tôi tại San Jose, chuyện trò đang nổ như cái chợ, bỗng khựng lại khi tình cờ chị D.N. nói: “Thế ra gia đình tao cùng di tản trên con tàu HQ 502 với tụi mày à. A sao cả tuần lễ trên tàu mà mình không gặp được nhau. Ừ, người đông như kiến. Trên 5000 người. Khiếp thật!”. Anh Ng., chồng chị N. nói: “Khi ở trên tàu, tôi xung phong trong toán nhà bếp, nóng như cái hầm. Lúc có điện, lúc không. Cơm nấu suốt ngày mà không đủ. Lúc sống, lúc khê. Khi ra đi, đại gia đình chúng tôi có 20 người. Nếu kể cả thằng cháu P. bị rơi ở cầu tàu là 21. Bây giờ tổng số đã là 40”. Lòng tôi như có điện giựt.Cả một khung trời kinh khiếp đêm 29 rạng 30 tháng tư năm cũ hiện ra rõ ràng. Cái khe sâu dọc theo cầu tàu đen thẵm, lấp lánh những lượng sóng trôi đi, trôi đi. Tiếng kêu thảng thôt của người đàn bà: “Con tôi, con tôi rơi rồi... Ôi, con ơi là con ơi...”. Lạ nhỉ. Quả đất tròn thật. Tôi phải tìm gặp cho được người đàn bà ấy.
Bà Đ.T.L. qua điện thoại kể lể: “Một tay tôi cầm cái túi. Một tay tôi dắt thằng cháu P. bước lên cầu thang dốc ngược của con tàu. Người từ phía dưới cứ nống lên. Mà là người nhà mình cả chứ đâu. Gót giày tôi như kẹt vào khe cầu thang, chân tôi bỗng nghiêng đi lao chao muốn ngã. Thế là tôi buông tay thằng nhỏ ra. Nó rơi ngay xuống khe tàu, mất tiêu. Tai tôi như chỉ còn nghe tiếng cháu kêu: “Mẹ L. ơi...”. Tôi kêu lên nhưng có ai giúp được gì đâu. Mà có ai thấy gì đâu mà giúp. Tay tôi bỗng trống không. Tôi được người ta kéo lên sàn tàu. Tôi mê đi chẳng biết gì nữa. Bên tai tôi cứ loáng thoáng tiếng kêu của nó. Từ đó nói ông bỏ qua đi cho, tôi cứ ngớ ngẩn chẳng còn biết gì nữa cả. Tôi nằm như chết ở sàn tàu, chả thiết ăn uống gì. Khi đoàn tàu sữa soạn vào cảng ở Phi Luật Tân, mọi người lên sân chính chào quốc kỳ lần cuối cùng, trong tai tôi vẫn vang vang lời kêu của cháu: ”Mẹ L. ơi!”. Vì thế trong giờ phút ấy, tôi bỗng òa khóc và kêu lên...”.
Vẫn theo lời kể của bà L.: “Lúc ấy, cháu T.T.P được sáu tuổi rưởi. Cháu nhờ trời cũng chịu ăn, chịu chơi nên có da có thịt, chắc nịch. Mỗi khi trái nắng, trở trời, cháu cứ hay kêu: “Mẹ L. ơi, cứu P.”. Tôi không quên được tiếng kêu ấy của cháu ông ạ. Tiếng kêu ấy cứ vang vang trrong đầu tôi, hình như không lúc nào dứt. Lúc thức, lúc ngủ, lúc tụng kinh, không lúc nào tôi không nghe thấy tiếng kêu ấy của con tôi, nên tôi nghĩ con tôi còn sống. Vì thế suốt mấy chục năm, ngày nào tôi cũng thắp hương cầu Phật bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn phù hộ độ trì cho cháu. Sau này, chúng tôi trở lại đạo, hàng ngày lại cầu xin Đức Mẹ Maria che chở cho cháu. Tôi tin tưởng hoàn toàn vào đấng thiêng liêng và tôi tin rằng cháu vẫn còn sống, ông ạ”.
Vẫn lời kể của bà L.: “Rồi cách đây ít năm, người Việt Nam từ hải ngoại về nước mỗi lúc một đông. Tôi cũng về thăm lại làng xóm, thăm thân nhân. Trong câu chuyện qua lại giữa bà con, có ngời nhắc rằng: “Nếu chị tin là cháu còn sống, thì phải có người vớt được cháu. Chị thử đăng báo tìm xem thế nào. Không thiếu những trường hợp thất lạc con cái rồi người ta cũng tìm lại được đấy”. Thế là tôi nhờ đăng tin tìm cháu ở báo Tuổi Trẻ và có 6 người cùng tuổi với cháu liên lạc với tôi. Người thì ở ngay Saigon, người thì ở quê. Cũng là người tử tế cả. Có anh nói: “Thôi, con không qua Mỹ đâu. Đã có vợ con và sống ở đây quen rồi, mẹ có thương con thì cho con ít cây (vàng) con mua mấy mẫu ruộng”. Nghe thế biết thế, tôi cũng chưa có gì đích xác để quyết định cả. Trong 6 người nhận là con tôi, có một anh cao, giống thằng con tôi hiện ở Mỹ. Anh này hiện học nghề Đông y, chưa vợ con gì cả. Với tôi, anh ấy đối xử lịch sự, bình thường, không vồn vã mà chẳng đề nghị xin xỏ gì. Vì theo bà mẹ nuôi của anh kể lại thì: “Câu chuyện khá dài, nhiều uẩn khúc lắm”.
Vẫn theo lời kể của bà L.: “Bà này giàu có lắm. Trước 75 bà là dược sĩ, có tiệm thuốc tây rất lớn. À đã có 10 người con do bà đẻ ra. Nhưng trong hoàn cảnh tang thương của thời loạn lạc, có mấy người không nuôi được con đem cho bà, bà đều nhận hết. Bà săn sóc trên 10 đứa con, con đẻ cũng như con nuôi như nhau. Đứa nào học được bà cho đi học. Nhiều đứa thành tài là kỹ sư, bác sĩ. Có đứa lớn lên xin về nhà bố mẹ đẻ, bà cũng vui lòng, còn cấp vốn liếng cho để làm ăn. Có đứa làm ăn thất bại bò lên xin ở lại với bà, bà lại nhận nuôi nấng cả gia đình vợ con nó như xưa. Bây giờ trong thời đổi mới, bà đang kinh doanh về ngành du lịch. Bà mua cả một khu rừng, xây khách sạn, đắp núi non vườn cảnh. Trong đó có những nhánh sông bà cho xây cây cầu qua lại thật là đẹp. Nói ra có lẽ khó ai tin được. Thật cái nhà của tôi bên Mỹ không bằng cái nhà xe của bà ấy. Bà ấy nói với tôi rằng thằng Mỹ do một bà bán chè ở bến sông Saigon cho bà ấy. Thằng nhỏ này trôi trên sông Saigon, có một người lái đò vớt được, đưa lên bờ. Thằng bé bơ vơ khóc quá xá nên cho đứng tạm cạnh bà bán xôi chè, đợi bố mẹ nó tìm đến. Nhưng chả thấy bố mẹ nó đâu, bà hàng xôi tìm đến bà dược sĩ bảo rằng: bà làm phước nuôi dùm thêm đứa nhỏ này. Hỏi bố mẹ con đâu, nó nói trong nước mắt: Đi Mỹ rồi. Do đó bà dược sĩ mới đặt tên nó là Mỹ.”.
Vẫn lời của bà L.: “Cái anh tên Mỹ này lớn lên trong gia đình bà dược sĩ. Dù không ai nhắc nhở nhưng anh ta vẫn tin sẽ có lúc anh ta phải qua Mỹ đoàn tụ với cha mẹ ruột. Thời gian vùn vụt trôi, gần ba mươi năm cơ hội chưa đến. Trong khi chờ đợi, anh ta quyết không lập gia đình, sợ lôi thôi khi đi đoàn tụ. Và để có được một nghề qua Mỹ không cần học lại, anh ta học nghề đông-y-sỹ. Bà dược sĩ nói với tôi rằng tuy là con nuôi, nhưng tôi thương thằng Mỹ như con ruột. Nó muốn gì, tôi không tiếc. Đấy cái cửa hiệu đông y đấy, rất khang trang, đủ mọi thứ thuốc, từ sâm nhung hảo hạng đến các thứ quế đắt tiền, thứ gì tôi cũng đặt mua đầy đủ. Nó vừa sửa soạn là thầy lang vừa làm người bào chế, rất mát tay, tuy chưa ra trường nhưng cũng đông khách lắm. Sang Mỹ chưa chắc gì có được một cơ sở vững vàng như thế. Nhưng nó tin là nó không ở đây lâu đâu. Thế nào nó cũng qua Mỹ đoàn tụ với bố mẹ ruột của nó. Nó muốn thế, tôi cũng sẵn sàng giúp nó được toại ý khi cơ hội đến. Nếu nó thật sự là con bà, bà chứng minh được nó là con bà, tôi sẽ cố gắng tìm mọi cách để nó về với bà.”
Vẫn lời của bà L.: “ Tôi trở lại Hoa Kỳ, tôi cứ nhớ cái thằng Mỹ này quá. Chắc chắn nó là con tôi. Nhưng bảo rằng chứng minh cụ thể thì tôi chưa có cách. Tôi có đem chuyện này hỏi ông bác sĩ gia đình. Ông bác sĩ nói rắng: “Dễ lắm. Nếu nó là con bà, chỉ đem đi thử máu, thử DNA là ra ngay”. Cái vụ thử nghiệm này là chắc rồi. Nhưng tôi lại không muốn làm thế. Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng, nhờ tôi thành tâm lễ bái, khẩn cầu, nên đấng thiêng liêng đã đưa đẩy cho tôi tìm thấy cháu. Bây giờ lại đem thử nghiệm thì có khác gì không tin vào đấng thiêng liêng nữa, nên tôi không làm. Nghe thế, ông bác sĩ ngồi thừ ra hồi lâu rồi hỏi tôi. Nếu nó là con bà, thì nó không giống ông bà cái tai, cũng phải giống cái tóc chứ. Bà nhìn nó bà có thấy nó giống ai trong nhà không?, chắc là phải giống ông nó nhà tôi. Khốn nỗi, ông nhà tôi sang Mỹ được ít năm thì mất. Ông mất cũng tại tôi một phần. Ông cứ cằn nhằn tôi bao nhiêu năm: “Sao đang nắm tay nó bà lại buông tay ra. Làm gì thì cũng phải có ý có tứ chứ. Nắm thật chặt tay thì nó đâu có rơi được”. Đành rằng thế nhưng tôi có muốn buông tay ra đâu. Trời xui đất khiến nó hóa như thế, chớ có người mẹ nào nỡ buông con ra cho nó rơi xuống sông, hở ông. Thế là bao nhiêu năm đằng đẵng xót xa, rồi ông ấy mất. Lúc mất hình như ông ấy còn gọi tên nó trong lúc lâm chung. Thế là bao nỗi cay đắng đổ cả lên đầu tôi. Thôi thì trăm sự tôi trông vào đấng linh thiêng, Đức Quan thế âm khi trước và bây giờ là Đức Mẹ Maria. Đêm nào tôi cũng thắp hương cầu khẩn.
Vẫn lời bà L.: “Tôi thẩn thờ đau khổ, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến nó. Còn thằng em nó hầu như tôi quên bẳng, để mặc cho ông nhà tôi trông nom. Nhà tôi mất đi, trên bàn thờ bây giờ có hình ông ấy nữa. Hàng ngày khi đọc kinh, nhìn hình ông nhà tôi trên bàn thờ, tôi bảo: “Ông có khôn thiêng thì mách bảo cho tôi tìm tìm ra thằng P.”. Một hôm, em thằng P. đi đánh banh về, từ trong nhà tắm đi ra, nó ngồi trước mặt tôi, lấy khăn lông lau đôi bàn chân. Nó lau kỹ lắm, khiến tôi chú ý. Sao mà hai ngón chân cái của nó xòe ra như người Giao Chỉ ngày xưa. Tôi hỏi nó sao thế, nó bảo: Thì ngón chân con nó thế. Đi giày thì hai ngón chân cái nó ép lại. Để chân không nó lại xòe ra. Tôi trở lại Việt Nam, trở lại nhà bà dược sĩ. Bà vẫn ân cần, niềm nỡ đón tôi và vẫn một mực nói: “Tôi sẽ trả con cho bà với điều kiện bà phải chứng minh được nó đích thực là con bà”. Thì cũng là tình cờ thôi, hôm ấy, thầy lang Mỹ lội xuống khúc sông trước nhà, bơi, tắm.
Tắm xong, lúc ngồi ở nhà ngang, anh ta ngồi lau chân, trời ơi, hai ngón chân cái của thằng Mỹ cũng xòe ra như thằng con tôi, em nó ở bên Mỹ. Không sai được nữa rồi. Tôi bỗng bật khóc và kêu lên P. ơi, con ơi. Thầy lang trố mắt nhìn tôi. Bà dược sĩ cũng thảng thốt đứng lên. Ba chúng tôi ôm choàng lấy nhau, nước mắt chan hòa. Thằng P. ôm tôi và nói: “Con là P. của mẹ đây, mẹ L. ạ” Bà dược sĩ thì bảo: “Sao trước đây bà không cho tôi biết tên nó trước đây là P.”.
Vẫn lời bà P.: “Bà dược sĩ nói rằng hàng ngày chúng tôi kêu nó là Mỹ. Nhưng những khi đau ốm mê sảng, nó kêu lên: “Mẹ L. ơi, cứu P.”. Nhưng quả đúng 100% nó là con bà, bà dược sĩ lại hỏi tôi, vừa cười vừa nói: “Trong người nó có vết tích gì đặc biệt không?”, tôi đáp ngay: “Mông đít nó có một vết chàm”. Thế là hai chúng tôi lại ôm lấy nhau một lần nữa. Và lần này thì bà dược sĩ dành dọt nói: “Đúng thằng Mỹ đây khi bé nó tên là P., nó đích thực là con bà”. Tôi ràn rụa nước mắt xà lại ôm lấy P.. Hai mẹ con chúng tôi ôm nhau thật chặt. Tôi bấu vào vai nó. Tôi nắm chặt cánh tay nó. Không rời ra được nữa đâu. Và trong lúc xúc động này, tôi lại hốt hoảng kêu lên: “Ôi con ơi, con ơi…”. Tôi buông P. ra, buông con tôi ra, rồi chắp tay đọc thầm một đọan kinh Tạ ơn Chúa, tạ ơn Trời Phật. Nước mắt tôi tuông như mưa. Tôi quỳ xuống. Tôi vái tứ phương. Tôi gọi tên nhà tôi: “Ông ơi, tôi tìm thấy con rồi…”. Hai mẹ tôi quay lại, thấy bà dược sĩ đứng nhìn chúng tôi, mếu máo với hai hàng lệ chảy. Chúng tôi, mẹ con tôi tiến tới, choàng tay ôm chặt bà vào lòng. Tôi nói: “Bà ơi! Bà là ân nhân của chúng tôi, bà mới thật là mẹ nó. Trời, Phật đã dẫn dắt nó là con bà”. Con tôi cũng nói: “Con xin đa tạ mẹ”. Thật chưa bao giờ tôi vui sướng như thế, mà cũng khóc nhiều như thế.Và cũng chưa bao giờ tôi tin tưởng mạnh mẽ như thế vào sự huyền diệu của các đấng thiêng liêng.”.
Cho đến khi chúng tôi viết những dòng này thì bà L. đã hoàn tất mọi thủ tục đưa người con trai tên P. sang Mỹ đoàn tụ với gia đình. Khi mọi việc đã xong, tên tuổi những người liên hệ sẽ được in đầy đủ trong bài viết.
Một kết cục đau lòng
Bài viết này đã đã được đón nhận khá sâu rộng tại hải ngoại lẫn trong nước. Một tờ báo lớn hiện nay ở Saigon liên lạc với tôi qua email, xin phép in lại và đặc biệt muốn tôi cung cấp tên tuổi, địa chỉ của những người liên hệ đến câu chuyện để họ trực tiếp tìm hiểu, phỏng vấn như một vấn đề tượng trưng cho niềm vui trong-ngoài, giữa kẻ ở, người đi. Tôi đã từ chối vì nhiều lý do. Nhưng lý do gần nhất là ngay lúc ấy tôi linh cảm thấy trong câu chuyện này có nhiều uẩn khúc. Tôi trực tiếp liên lạc với người bạn của bà xã tôi, người đã trực tiếp cung cấp cho tôi những tin tức về câu chuyện. Bà ấy bảo: “Hãy từ từ ông ơi…”.
Do đó tôi lắng lòng chờ đợi. Trong khi đó khá nhiều bạn bè, độc giả xa gần hỏi: “Khi nào thì anh con trai lạc mẹ ở Việt Nam sẽ đoàn tụ với mẹ, với em ở Hoa Kỳ?”. Tôi không trả lời được, nói gì đến việc viết ra điều ấy như đã loan nơi những dòng cuối bài viết.Nhưng hôm nay, những ngày cuối tháng 11 năm 2009, chúng tôi có mặt tại San Jose, gặp lại người bạn cũ, người đã di tản trên con tàu HQ 502 ngày nào, là người đã cung cấp cho tôi tin tức liên hệ đến Người đàn bà trên tàu HQ 502.
Bằng một giọng nói mạnh, đi thẳng vào vấn đề, bà ấy nói như sau:
“Hỏng rồi. Láo hết. Chúng ta đã bị lừa. Một kịch bản rất tinh vi, kỳ lạ vượt ra ngoài suy nghĩ của chúng ta. Ngay khi Việt Nam họ cho người di tản về thăm quê hương, nói theo danh từ thời thượng là mở cửa, rất nhiều người Việt từ hải ngoại ù về để thăm thân nhân, trong đó không thiếu người thất lạc vợ con là những người hăm hở nhất. Biết bao nhiêu chuyện đoàn tụ gặp gỡ buồn vui đã diễn ra. Trong đó không thiếu người thất lạc con như cô L. nhà tôi đã đăng báo tìm con. Tin này loan đi như một phong trào rất sôi nổi. Trong không khí ấy có L. nhà tôi, từ khi thằng nhỏ rơi xuống khe tàu , cô sống mà như người ngơ ngẩn, mất hồn. Lúc nào trong đầu cô cũng vang vang lời đứa con kêu thảng thốt: “Mẹ ơ...i...” Tiếng kêu ấy như không bao giờ dứt. Trong chuyến về thăm Việt Nam, gặp lại anh em ruột thịt thì mừng sao cho xiết. Vì ông cụ nhà tôi có nhiều dòng con. Cô L. tuy là em tôi nhưng lại lớn hơn tôi mấy tuổi. Cô về Saigon gặp lại mấy ông anh bà chị từ Bắc vào. Những người đi kháng chiến từ những năm bốn lăm, bốn sáu. Sau chín năm ngoài đồng ruộng, họ trở về Hà Nội, thì hai cụ tôi và chúng tôi đã di cư vào Nam cả rồi. Sau bảy lăm, như ông biết đấy, đại gia đình chúng tôi rời Việt Nam trên con tàu HQ 502 cùng với gia đình ông bà. Thôi thì ngàn vạn đắng cay với hai bàn tay trắng, chúng ta làm lại cuộc đời nơi xứ lạ mà lòng thì lúc nào cũng hoài vọng quê nhà. Cô L. nhà tôi thì đau khổ quá sức. Tiếng thằng con cứ văng vẳng trong đầu. Trong nỗi sầu đau cắt ruột ấy, thấy người ta đăng báo tìm thân nhân, người nhà chúng tôi ở Việt Nam bảo, cô ãy đăng báo xem sao, biết đâu thằng nhỏ có ai vớt được, mình tìm lại chuộc về... Chính người nhà nhà mình đề nghị như thế. Họ còn nói, cô cứ về lại Mỹ đi, ở đây chúng tôi theo dõi cho. Khi có tin gì chúng tôi thông báo cho cô biết. Sự khởi đầu như thế và chúng tôi đã cung cấp các sự kiện ấy cho ông. Ông đã viết thành bài văn như báo chí đã đăng. Trong diễn trình này còn nhiều điều lạ lùng lắm. Giữa hy vọng luôn có những khúc mắc, khó khăn. Muốn giải tỏa khó khăn ấy là phải có tiền. Ấy là chưa kể hàng tháng cô L. nhà tôi đều hòa gửi về cho “thằng con lưu lạc” một số tiền là năm trăm Mỹ kim. Còn ngày tư ngày Tết, khi mua xe mua cộ, nào tiền làm thủ tục “bôi trơn”, cứ kìn kìn cô ấy gửi về liên tục bao năm trời. Cho đến lúc phải làm thủ tục đưa thằng nhỏ qua Mỹ, cô em nhà tôi và thằng em của nó bên Mỹ cùng về. Thằng em nó đòi cả hai anh em nó cùng đi thử DNA, thì “thằng anh ở Việt Nam” tìm cách từ chối rồi trốn luôn. Mọi việc đến lúc này mới vỡ lở ra, tất cả là một kịch bản được sắp xếp rất tinh vi. Người đứng ra đóng vai trò chủ chốt trong vụ này không phải ai xa lạ đâu mà là người em ruột của cô em nhà tôi. Thằng nhỏ đóng vai đứa con lạc là chính là con của người em cô L.. trước hoàn cảnh này, cô L. như từ trên trời rơi xuống. Cô lạnh ngắt, ngơ ngác nhìn mọi người. Mọi người từ người em cô L. cho đến những anh em ruột thịt của chúng tôi, hiện là những người có chức, có quyền và có của nữa, tất cả không ai nói gì. Không phiền trách người đã tạo ra cảnh huống này. Mà họ lặng yên cũng phải. Vì đâu phải bây giờ họ mới biết đâu. Họ biết hết, biết rất kỹ từ những ngày đầu khi kịch bản hôm nay mới được thi hành, từ khi cô L. cho đăng báo tìm con cơ. Cô L.nhà tôi ngơ ngáo nhìn mọi người. Mọi người dửng dưng lạnh ngắt.
Hai mẹ con cô L. lặng lẽ dắt nhau về Mỹ, lặng lẽ sống trong nỗi đắng cay. Chúng tôi hơn lúc nào hết biết rằng cô L. đã thật sự mất đứa con từ tối hôm tháng 4 năm 1975 rồi. Và bây giờ khi kịch bản kia vỡ ra, không chỉ có cô L., mà tất cả chúng tôi, giòng họ chúng tôi ở Mỹ này, chúng tôi coi như mất hết tất cả bà con ruột thịt hiện sinh sống tại Việt Nam. Giữa họ và chúng tôi như không còn chút liên hệ huyết thống nào nữa. Họ là những người Cộng Sản thuần thánh. Họ là những người khác. Họ không có những rung động, suy nghĩ như chúng ta. Họ như một thứ sinh vật khác. Họ coi chúng ta như những sinh vật hạ đẳng, dễ tin, dễ bị lừa dối, nhẹ dạ. Và khi họ giăng được mẻ lưới, thu được lợi nhuận từ phía chúng ta, họ vui cười hưởng thụ và không có chút xót thương nào cho chúng ta cả.
Có thể tôi đã nhận định sai. Và tôi cũng mong là tôi sai. Mong lắm. Nhưng với nỗi đau của cô L. nhà tôi, của chúng tôi, thì tôi không suy nghĩ khác được. Người Cộng Sản Việt Nam không phải là người như chúng ta. Họ là những sinh vật khác, tôi không thể gần họ được...”.
Người viết thấy lòng mình tê dại và không dám có ý kiến nào thêm. Rồi từ trong sâu thẳm của suy tư, những sự việc mới cũ, những người này người khác, kẻ ở quê nhà, người ở hải ngọai, chằng chịt qua bao nhiêu liên hệ buồn vui… Mọi việc đều khiến tôi phải nghĩ lại, dò xét lại. Sao lại có thể thế được? Thế nào là anh em, là máu mủ? Bao niêu hệ lụy, cái tốt cái xấu hòa hợp, chồng chất lên nhau… Sao lại như thế được nhỉ? Những giọt nước mắt lã chã tuôn rơi khi em gái tôi vượt bao gian khổ khi đi thăm ông anh giữa đi núi Sơn La. Tiếng gọi anh thảng thốt òa vỡ với nụ cười và tiếng khóc. Khi ông anh tôi ngồi ăn những miếng xôi, gắp những miếng thịt gà cho vào miệng, thì cô em tôi cũng òa khóc. Vì nhớ những ngày xưa bé dại, khi thầy mẹ tôi còn sống, trong ngày giỗ ông bà, chúng tôi cũng có những lần ăn giỗ như thế. Nhưng bây giờ thì khác. Anh tôi đang là một người tù ngồi ăn những miếng cơm ơn nghĩa… Rồi anh tôi được tha. Tha ra là ra đi đoàn tụ với con cái ở nước ngoài. Dù mới chân ướt chân ráo tới xứ người, anh đã có những thùng quà “anh gửi về biếu cô chú”. Sau đó là những đồng tiền “anh dành dụm chút tiền hưu gửi về để cô chú mua hương hoa cúng Thầy mẹ, và gọi là có thẻ hương đem ra nhà thờ họ, nhà đình, nhà chùa…” Nó là như thế, nhưng cô em tôi bảo “mấy trăm bạc anh gửi về ngày ấy to lắm, chúng em tằn tiện xài đuợc ba bốn tháng…” Những liên lạc thương yêu đùm bọc ấy là gì, phát xuất từ đâu, nếu không phải phát xuất từ máu huyết từ cha từ mẹ. Đó là tình anh em, máu thịt của mình, dù có cách xa nghìn trùng cũng không thể nào phai nhạt. Tình thương máu mủ đó đã tuôn chảy, qua lại, cưu mang lẫn nhau vượt ra những suy nghĩ giáo điều của thời cuộc. Có lẽ hàng triệu người Việt Nam đã cùng trải qua cảnh huống này. Trong giao tiếp, chúng ta là con người, chúng ta chắc không thiếu sơ sót, vụng về. Nhưng với tình thương ruột thịt, những sơ sót ấy hình như đều “chín bỏ làm mười” hết cả. Nhưng ở trường hợp bà L. sao lại thế? Thảm thương và tàn nhẫn như thế? Động lực nào đã khiến chị em ruột thịt trong nhà đối với nhau như thế?!.
Phải chăng đây là một trong những nỗi đau to lớn nhất của tất cả chúng ta sau cuộc chiến tương tàn. Ngoài nỗi tang thương, chia lìa, sống chết, ròng rã mấy mươi năm, dân tộc chúng ta đang đối diện với sự phá sản tận cùng của lương tri?
Lỗi ấy từ đâu?!
Tháng 12/2009
Source Internet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.