Thứ Ba, 9 tháng 8, 2011
QUÀ CHO CON TRONG TÙ - Kỳ 1
Nguyễn Thừa Bình
Đầu khoảng 29 hay 30 tháng 8 năm 1975 gì đó, một tiếng nổ ầm của lựu đạn, như là M.26? Tại một “láng” kế cận, chúng tôi, những tù “Học Tập Cải Tạo” trại An Dưỡng Biên Hòa, hoảng hồn, lo sợ một sự thủ tiêu tập thể. Không. May là không. Nhưng là lựu đạn được tung từ tay một tên “bộ đội” nào đó nổi máu thù hận, giết chết đi người tù Nguyễn Phúc Vĩnh Mỹ tức là nhạc sĩ Minh Kỳ và người bạn đồng hương của tôi, Ung Văn Giàu bị thương nặng một chân. Tôi may mắn về trước đó chưa đầy một phút. Như thường lệ, cứ chiều chiều sau giờ ăn một nhúm cơm “Gạo Trường Sơn” vào cái bụng lép kẹp là tôi qua “láng” kế bên của ông bạn Giàu. Qua bển chỉ để nghe ổng chửi Việt Cộng mà khoái. Nghe ổng nói những chuyện “tếu”, tương tự như “Nam Hàn đã giải phóng Bắc Hàn”, “Tướng Hoàng Cơ Minh đang đánh thốc vào Bắc Việt”... mà sống qua ngày. Anh Minh Kỳ ra đi quá sớm, để lại đằng sau những bài hát “Cách Mạng” anh đang tập dở dang. Thôi thì, “Bão Nổi Lên Rồi”, “Bác Cùng Chúng Cháu Hành Quân”... trên dương gian bây giờ không ai xài nữa rồi anh ạ! Chúng tôi luyến tiếc anh, người trai Huế giống giòng Tôn Thất, tính tình vui vẻ, hiền hòa sao tài trai bạc mệnh. Chúng tôi cũng buồn, rồi đây những tình khúc “nhạc vàng” Lê-Minh-Bằng bị đứt quãng... rồi mất đi. Ai ai cũng ngậm ngùi thương xót cho anh ra đi không có một lời từ biệt. Tội cho anh đã chết từ lâu mà vợ con cứ ngóng trông anh, cứ tưởng anh đang “học tập tốt, lao động tốt mà sớm về đoàn tụ với gia đình”.
Di tản từ Quảng Đức ba chìm bảy nổi về Lâm Đồng, rồi Nha Trang, rồi Cát Lái, rồi háo hức tình nguyện chun đầu vô tù. Tôi trình diện “học tập cải tạo” ngày 27 tháng 6 năm 1975 tại Trường Trung Học Pétrus Trương Vĩnh Ký mà bấy giờ đã bị bọn i-tờ-rít “Bôn-Sê-Vích” lai căng đổi là “Tô Pút Ký”, tính tròn trịa ra cũng đã hai tháng đúng rồi. Người ta ở lại với vợ, với con thêm một ngày nữa có chết thằng Tây nào, có sao đâu lại không chịu. Mới tảng sáng ngày đầu đã tiên phong xin vào “Bảng Phong Thần” tù. Nhìn tới nhìn lui cũng đông dữ. Hóa ra, người ta đâu có khôn hơn mình bao nhiêu!? Toàn ngốc! Hai tháng quá dư thời gian bụng thấy đói meo, thân thể rách rưới với nỗi thương nhớ vợ và các con vô cùng. Khi ra đi, đứa lớn nhất bốn tuổi, đứa thứ hai hai tuổi và đứa chót chưa được thôi nôi. Bà vợ tuổi thiệt mới 24 mà tuổi giấy tờ mới 22, phải làm sao đây nuôi con!? Hồi lấy nhau bả mới chỉ là nữ sinh Đệ Tứ trẻ măng, thời “tuổi ô mai” cắp sách đến trường thơ với mộng, bướm với hoa, rồi theo chồng ra Đà Nẵng, vào Nha Trang, về Phan Thiết, lên Quảng Đức, xuống Sài Gòn... Chuyện như chơi, đùng một cái, “mấy cha nội bần cố nông” ngoài Bắc rủ nhau vào Nam hôi của, cướp cạn... đòi đổi đời! Chồng đi tù, bả ở nhà biết xoay sở làm sao! Trong “trại cải tạo”, mình bị nhục, bị đói, bị khổ sai... Ngoài kia, vợ con cũng bị nhục, bị đói, bị khổ sai. Trách ai bây giờ? Oán ai bây giờ? Kêu trời, trời ở xa quá. Đành cắn răng chịu nỗi đọa đầy triền miên! Có lúc ngồi nghĩ lại mà thắt cả lòng. Thương người vợ một tay nách đứa con gái, một tay bá vai chồng mà bịn rịn, nước mắt chảy ròng ròng nói: “Thôi anh đi mau về”. Thằng con trai út đang bệnh tiêu chảy, mệt mỏi nằm đó, vừa hôn nó một cái tôi vừa nói lớn “Ba sẽ về trước ngày 11 tháng 7 thôi nôi của con. Con ráng mau lành”. Thằng lớn trước đây không rời ba một bước, ôm ba khóc đòi đi theo như có gì báo rằng ba đi là đi biền biệt!
Vào Trại “Tô Pút Ký” trên Đường Nguyễn Văn Cừ, mới ngày nào là Đường Cộng Hòa. Con đường mà tôi đạp xe đạp tới lui hằng ngày khi còn ở trọ nhà chú thím Ba Ích, tiệm Điện Thái Sanh và đi học Trường Trung Học Chu Văn An, Chợ Lớn. Vào đây có đủ các anh em, các chị em các cấp, từ Thiếu Úy đến Đại Úy thuộc các binh chủng, đông thiệt nhưng không quen một ai. Dẫu là lạ, nhưng đồng cảnh ngộ, bắt quen, làm thân cũng không khó khăn chút nào, bảo nhau mươi ngày là về, có sao đâu, có gì đâu. Thôi “trả nợ quỷ thần” cho xong, còn lo kiếm đường làm ăn nữa chớ. Có người tâm địa mình cũng đoán ra, giả vui hết sức, trơ trơ cái bản chất phản phúc, trở mặt ca ngợi “Cách Mạng”. Nhưng cũng có người không thiếu suy tư, dè dặt. Có người hời hợt “nói xấu cách mạng”, có khi chẳng e dè gì ráo. Nhưng thực ra, ai biết được ai trong lòng họ lúc nầy, thời buổi nầy. Nhìn bên kia, thấy người ta vấn thuốc rê, kéo thuốc lào, giũ bộ bà ba đen, vuốt cho thẳng mấy lá thuốc khô. Ngoái lại bên nầy, thấy kẻ bày ra lon Guigoz đậu phụng, muối mè, gạo lứt, khô cá lóc, mắm cá linh. Đằng trước kia kìa, có kẻ kéo ra những thứ lỉnh kỉnh, dép râu, nón tai bèo, “bộ bà ba đen du kích việt cộng”, đúng điệu kẻ trong rừng mới ra. Mười ngày thôi mà, gì mà lo dữ vậy? Tôi nghĩ, chắc họ buông xuôi, sẵn sàng đầu hàng, sẵn sàng hợp tác để ta đây không bị nghi ngờ là “phản động”, là “tàn dư Mỹ Ngụy”. Có điều chắc, họ biết Việt Cộng hơn tôi. Họ toàn là những anh em Miền Trung nói giọng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Ai, chứ tôi phân biệt được tiếng nào là xứ nào Miền Trung. Chắc các ổng đã từng lê kiếp sống trong vùng chiếm Liên Khu V, Liên Khu IV thời Việt Minh trước đây rồi? Còn tôi đi bắt Việt Cộng, đi đánh Việt Cộng lại tơ lơ mơ, biết gì Việt Cộng!? Tôi lấy một ít tiền bọc theo đủ để trả ăn trong mười ngày như thông báo. Đem theo cái võng, có gì sau giờ học, kiếm chỗ treo lủng lẳng, nằm đong đưa cũng thú vị lắm. Chọn hai bộ đồ Tây tươm tất một chút để vào lớp cho được lịch sự, dẫu gì cũng Sĩ Quan của chế độ cũ mà. Đôi dép Nhật để tối mang đi cho khỏi dơ chân với khăn lông, bàn chải, kem đánh răng...
Lính tráng “học tập” ở Phường chỉ ba ngày. Đúng ba ngày thì về. Cấp Tá vào hàng Sĩ Quan Cao Cấp rồi, học một tháng là đúng lắm, mình cấp Úy mười ngày thì phải lắm. Mười ngày mà làm gì cụ bị như “trường kỳ kháng chiến” dữ vậy, mà khắc khổ dữ vậy!? Tôi thầm nghĩ và “chê” anh em mình tối dạ, nhát gan, nhảm nhí. Đúng là kẻ ngu, kẻ điên, kẻ khùng... cứ tưởng mình hơn người ta hết thẩy. Long bong tháng ngày chờ đợi “học tập cải tạo” mà nôn ruột, còn phải tìm kế sinh nhai chớ. Được lệnh của “Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Hồ Chí Minh” bảo trình diện học tập cải tạo, mừng lắm. Tôi chun đầu vào ngay ngày đầu như nói ở trên, đóng tiền ăn cơm nhà hàng, không nhớ là Đồng Khánh, Soái Kình Lâm, Á Đông hay Ngọc Lan Đình, Đại La Thiên, Ái Huê... đem tới. Ở đây, trường ốc tốt quá cho những “cải tạo viên”! Học tập cải tạo là đúng lắm, là phải lắm. Ai cũng nghĩ như vậy. Tôi thì tin hơn ai hết là như vậy. Trưa, chiều nhà hàng dọn bàn tròn ra, cứ mười người vô một bàn. Thức ăn cũng sang trọng mà người ăn cũng vui vẻ. Ăn xong, chiều lòng vòng trong sân trường, nói đủ thứ chuyện trên trời, dưới đất mà đợi ngày khai giảng khóa “học tập cải tạo”. Có anh nói là, khi về không biết sẽ làm gì. Có anh nói là, đất nước thống nhất rồi, thiếu gì việc làm. Có anh nói là, mình “Ngụy quân, Ngụy quyền” khó sống. Có anh nói là, về đạp xích lô là chắc. Có anh nói là, vào rừng làm rẫy... nhưng cũng có anh nói là, vào “Hội Trí Thức Yêu Nước”... Ôi kế hoạch lớn, kế hoạch nhỏ, thông minh, ngu dốt, khéo léo, dại khờ, anh hùng, hèn nhát, nịnh hay đâm sau lưng chiến sĩ... đều chết toi. Một danh nhân tầm cỡ bác học như Pétrus Ký, tượng ngay chỗ nầy đây nầy, cũng bị những kẻ chiến thắng vô thần, ngoại lai “hăng tiết vịt” đập phá, giật sập nữa là. Máu trường sinh bất tử vẫn là sự trả thù sao mà quá cay nghiệt của người Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa hành hạ người anh em Đồng Bào Miền Nam không còn bút mực nào tả hết nỗi đoạn trường.
Tối 29 tháng 6, tất cả bị lùa lên xe GMC bịt bùng mới vừa lấy được của Việt Nam Cộng Hòa. Chúng nhồi nhét anh em ngồi chật cứng đến nỗi như hết không khí để thở. Một đoàn xe dài thật dài, chiếc nào chiếc nấy bốn phía đều thả tấm bạt kaki che kín mít, bên hông viết nguệch ngoạc bằng phấn trắng chữ “Tô Pút Ký”. Đi đâu đây? Không lẽ đem đi thủ tiêu? Chắc đày vào rừng lao động khổ sai “sống chết mặc bay”. Đố ai biết? Mọi người lo lắng. Xe chạy thẳng, cua trái, cua phải trên những con đường Sài Gòn, chắc chắn, những con đường nầy tôi đã ít nhất có một lần đi qua. Nhưng ngồi trong xe, đố ai biết nó chạy đi đâu? Lòng vòng cả hai tiếng đồng hồ, xe ngừng lại. Đâu đây? Có người nói là Trại Giam Tân Hiệp Biên Hòa. À, té ra ta nhốt nó, nó nhốt ta. Rất buồn, tôi không giấu được một cái nhếch môi cười mỉa, chua chát! Luật có vay có trả? Trại có đường rầy xe lửa sát bên. Ngày mấy lần nghe còi hú, thấy xe chạy rập rình mà lòng buồn thân cá chậu chim lồng. Nhớ cha mẹ. Nhớ vợ, nhớ con. Nhớ đời tự do... Ở đây, người ta đã bắt mình tập ăn ít lại đi. Tập hát “Nhạc Cách Mạng” thật nhiều đi. Tập nói năng làm sao cho không bị tố là “phản động”, không bị coi là “Tàn Dư Mỹ Ngụy”. Không biết các bài hát của cái Quân Bắc Việt ở đâu mà các ông tù bắt các ông tù tập, bắt các ông tù hát, bắt các ông tù vỗ tay “mạnh lên, mạnh lên”?. Những bài hát mà tôi chưa bao giờ được nghe. “Ai đã từng đi qua Sông Cửu Long Giang. Cửu Long Giang sóng trào nước xoáy. Ai đã từng nghe tiếng tiểu đoàn. Tiếng Tiểu Đoàn Ba Trăm Lẻ Bảy...” hay “Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc. Bước chân dồn vang trên đường gập gềnh xa. Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước. Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca...”. Một anh, tôi tin chắc là cư dân cũ rích của cái xứ sở Liên Khu IV của Việt Minh, giang tay nói giọng trọ trẹ: “Tôi xin hát bản nhạc cách mạng hay vô cùng, tôi khoái hết sức hồi nhỏ và tôi tin chắc các anh cũng thích cho mà coi. “Ở tận Sông Hồng em có biết, quê hương anh cũng có giòng sông. Anh vẫn gọi với lòng tha thiết. Vàm Cỏ Đông, ơi Vàm Cỏ Đông...”. Tiếng vỗ tay rầm rầm. Ai biết ai bấy giờ? Anh bạn ngồi kế tôi kề tai nói nhỏ “ĐM mấy thằng láu cá. Thích con đĩ mẹ mầy chớ thích!”. Tôi bấm tay anh ta và bảo, tai vách mạch rừng. Coi dzậy mà không phải dzây. Ảnh còn ráng thêm, “ĐM, tôi ghét mấy thằng “Phản Trụ Đầu Châu”, đâm sau lưng chiến sĩ. Bài hát mới có sau nầy, làm gì nó biết hồi nào mà nói không khoái với khoái hết sức hồi nhỏ?”.
Tối 11 tháng 7, lại chuyển trại, đúng vào ngày thôi nôi đứa con trai út của mình. Khi ra đi, tôi có ghi vào tờ lịch treo tường rằng: “Ngày nầy, ba sẽ về ăn thôi nôi của con”. Con còn nhỏ chưa biết chờ. Ba còn đi, đi chưa về. Chắc vợ tôi buồn lắm! Thằng con trai lớn chắc nhắc ba hoài, rằng “Ba đi đâu, lâu về quá má?”. Đi bộ thành hàng dài trong đêm tối, qua vài căn nhà quê đèn leo lét, qua các cánh đồng nỉ non ếch nhái côn trùng, qua những con đường làng heo hút hẻo lánh... theo lệnh “khẩn trương”, “lộn xộn bắn bỏ”, “cái anh kia đi cho đúng hàng”. Khoảng 12 giờ đêm, chúng tôi đến Trại An Dưỡng Biên Hòa. Nghe nói, trại nầy ngày xưa an dưỡng những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa sau đợt trao trả tù binh với Việt Cộng. Từ đây, đã ám ảnh từng ngày nỗi chết không rời mà khởi đầu là sự ra đi của nhạc sĩ Minh Kỳ và ông bạn Giàu của tôi bị thương nặng như đã nói ở trên. Từ đây đã thấy đói khát khiến ai nấy tự thực hành bài học “mưu sinh thoát hiểm” xưa thật là xưa hồi ở quân trường để ngoắc ngoải qua ngày. Và từ đây, áo quần đâu còn cái nào lành lặn, thân tù rách rưới hơn kẻ ăn mày. Năm đó Mùa Đông trong Nam, Trời “dọa” để thử gan hay là “đọa” những người tù sa cơ thất thế hay sao đó, mà làm lạnh quá sức là lạnh đến xương tủy! Bác Đá nằm kế bên hộc máu tươi, ho sụ sụ. Tôi và anh bạn Thanh cứ suyễn lên cơn hoài, đi không nổi. Các anh Vân, anh Hay đau bao tử nằm bên kia, ôm bụng rên hừ hừ. Bác Giồng, bác Thành,... anh em làm đủ cách cũng vẫn run cầm cập, luôn luôn chấp tay cầu Trời khẩn Phật. Hai ông cầu thủ túc cầu Quốc Gia Đức và Trọng cũng lóng cóng như người bệnh nặng chưa lành, lấy hết mền bao cát nầy đến mền bao cát kia đắp, choàng cũng “lạnh quá, lạnh quá!”.
Những ngày tháng đìu hiu nầy làm mình nhớ nhà hết sức. Thương bà xã côi cút, làm sao cáng đáng việc nhà? Còn quá trẻ măng, dẫu gì, bả cũng là vợ một Đại Úy, trưởng cơ quan tình báo một Tỉnh và hoa khôi trường Văn Hiến, Tân Định hồi nào. Thương thằng con lớn bốn tuổi, đứa gái kế hai tuổi quấn quít bên ba với má nhân ngày Trung Thu năm ngoái ở Gia Nghĩa, cầm lồng đèn nhảy múa với những anh chị lớn tuổi hơn trong Trường Tiểu Học Nghĩa Đức. Người ta hát “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi. Em rước đèn đi khắp phố phường. Lòng vui sướng với đèn trong tay. Em múa ca trong ánh trăng Rằm...”. Hai đứa cũng ú ớ hát theo không điệu không lời, thật ngây thơ mà cũng thật tuyệt vời. Bây giờ, ba nằm đây chèo queo. Trung Thu đã qua đi mà lòng ba vẫn còn đau vời vợi. Ai mua lồng đèn cho các con? Ai làm lồng đèn cho các con? Ai dắt các con đi coi “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi...”.
“Lao Động Là Vinh Quang” được nhắc tới nhắc lui như điệp khúc dài dằng dặc. Cái cuốc, cái xẻng, cái cào, cái rựa, cái dao, cái liềm, cái búa, cái ky, cái “xe cải tiến”, cái thùng tưới arrosoir , vân vân và vân vân... mà chẳng thấy cái nào. Mấy tên “cán bộ giáo dục”, mấy tên “quản giáo”, mấy tên “dẫn giải” cứ ong ỏng hô hào “thi đua sản xuất”, “người tốt việc tốt”, “bình công chấm điểm”, “cá nhân xuất sắc”, “giựt cờ đỏ”, “tiên tiến”... dai như giẻ rách.“Chúng tôi đánh Pháp, đánh Mỹ, đánh Ngụy đâu chờ đủ súng, đủ đạn mới đánh. Đánh chúng từ tay không đấy chứ!”. Hết cai tù nầy đến cai tù kia rập y khuôn như vẹt. Và cũng y như rằng, lần nào như lần nấy, tiếp theo người ta sẽ nghe “Địt mẹ, đụ má... Bác và Đảng bảo “khoan yêu”, “khoan cưới”, “khoan có con”, mầy ra lúc nào mà đánh Pháp, đánh Mỹ...?”
Rồi “sáng tạo”, anh em tù cũng chế ra được ba cái thứ trời ơi đất hỡi đó mà cuốc, mà đào, mà cào, mà xới, mà tưới, mà... lần hồi làm nấm mồ chôn cho chính mình. Ở trên mô đất cao lại khô, chúng tôi phải thay nhau đào giếng cho “Khung” và cho “C” của mình gồm có các “láng” 21 đến 28. Tôi ở Láng 27 của Nguyễn Văn Thống làm Láng Trưởng. Dĩ nhiên, giếng rất sâu và hết sức nguy hiểm. Một anh gãy tay, một anh lọi chân mà may không ai chết. Dưới những lớp đất nơi nầy trước là khu quân sự nên chúng tôi “thu hoạch” được nhiều kiện hàng bao cát, loại sợi nylon, tha hồ may áo, quần, khăn, bện dây, làm võng... cũng đỡ cho những kẻ khốn cùng. Tôi, Cường, Hy, Nhuận lại đào được nhiều cuộn dây điện lớn bằng cổ tay, bên trong có những sợi dây điện nhỏ nhiều màu. Tôi nghĩ ngay, làm cái gì cho thằng con đây hả? Phải rồi, làm cho nó cái lồng chim. Ngày còn nhỏ, tôi thường bắt nuôi những con cà cưỡng con trên những cành cây cao to, những con sáo sậu con trong lòng cây bọng, cả những con chim cu, chim chào mào, chim sâu, chim sẻ dưới mái hiên nhà hay trên những cành cây cao vắt va vắt vẻo, như một thời kỷ niệm tuổi thơ đi qua. Nghĩ rằng, con trai mình cũng thích lắm. Khi về tôi đem theo cái lồng, mua con chim họa mi bỏ vô trỏng. Chắc cũng không còn lâu nữa đâu con. Quá lắm cũng ngày 2 tháng 9 hay cùng lắm cũng Tết tới là ba sẽ về mà thôi. Tôi thầm nói như vậy. Đã bao lần, tôi cũng lạc quan “tếu”, lạc quan ” điên”, thầm nói “ngu” như vậy. Dĩ nhiên là đã bao lần “trớt quớt”, không một lần nào trúng hết. Buồn cười. Đã trúng thì đâu còn ở đây lầm lũi con đường tối tăm!
Ngày 2 tháng 9 đã qua đi rồi, như cơn mộng mị đem theo những tai ương, thống khổ. Có ai về đâu? Tôi vẫn còn tù. Tôi vẫn đang chờ hai tháng nữa là Tết. Tin tức sao mà âm u quá, không có một thoáng tương lai. Nhưng tôi vẫn hy vọng. Trời vẫn lạnh căm căm mỗi ngày một hơn! Hôm nay cũng cơm nấu “Gạo Trường Sơn”. Một loại gạo chôn từ những năm lâu lắm rồi trong mật khu “Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây”. Gạo mốc, mọt, mục, nát... cũng không đủ ăn, anh nào anh nấy vừa phù thủng vừa đói meo, đi muốn không nổi. Nổi hay không nổi cũng phải đi, cũng bị lùa đi “lao động là vinh quang” hết trơn. Bịnh cũng đi, chỉ chết là chôn mà thôi. Cũng đã hơn sáu tháng rồi, đâu còn ai dại khờ nhắc tới cái cớ sự “10 ngày” quỷ quái mà Việt Cộng “gài” Người Quốc Gia không quen thói lừa bịp. Có về được hay không về được, tôi nhứt định cũng phải làm cho có cái lồng chim cho con tôi làm quà. Tôi thầm nói, con cố gắng đợi nhé. Thế nào rồi ba cũng về. Thế nào rồi con cũng có cái lồng chim. Nếu ba có nửa đường nằm xuống thì, ba cũng gởi nơi chú bác bạn tù của ba đem về cho con trước khi nhắm mắt ra đi. Ba mua cho con, con chim họa mi. Con nhớ cho nó ăn được no mà nghe nó hót hay lắm. Nó nhảy nhót đẹp lắm.
Ngoài kia, người ta đang chuẩn bị thứ nầy thứ kia cho đêm văn nghệ Tết. Người tù mày mò làm ra đờn Guitar, làm ra trống lớn, trống nhỏ, micro, ampli... và các “ca sĩ bất đắc dĩ” tập đơn ca, tập “tốp ca” hát bài ca Việt Cộng. Đại khái “Vùng lên, nhân dân Miền Nam anh hùng. Vùng lên, xông pha vượt qua bão bùng, Thề cứu lấy nước nhà. Thề hy sinh đến cùng, cầm gươm ôm súng xông tới...” hay “Thành Phố Hồ Chi Minh, ngời ngời rực sáng tương lai. Trong mỗi trái tim, trong mỗi ước mơ, trong mỗi cuộc đời, ta luôn có Bác. Lời Bác thiết tha, dìu dắt chúng ta sáng mãi bên Người...”. Anh Phúc người Bình Định nóng máu Võ Tây Sơn: “Dìu dắt cha mầy chớ dìu dắt ai!”. Anh Nhuận không thèm nghe, vừa bịt tai vừa ngâm nga Sa Mạc giọng Bắc Kỳ năm 54 của mình: “Gặm một mối căm hờn trong cũi sắt. Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua. Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ. Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm. Nay ta sa cơ nhục nhằn tù hãm...”. Phần tôi đố ai biết đang suy tính gì? Ai hát, ai hò, ai đàn, ai địch, ai ... mặc kệ ai. Lỗ tai nầy đã bế quan tỏa cảng từ lâu rồi. Tôi chỉ biết tính là, không biết nên làm lồng tròn, lồng vuông hay lồng chữ nhật cho đẹp, cho con nó thích mà thôi, sợ về thình lình hay chết đi mà không có quà cho con là bất hạnh lắm. Bất hạnh cho mình. Bất hạnh cho con.
Hôm nay, toàn C lại tiếp tục ngồi làm kiểm điểm qua ngày thứ ba việc anh Quý, Láng Trưởng 28 nhớ vợ, nhớ con, nhớ Sài Gòn làm sao mà nửa đêm “zdọt” mất. Ra đi, ảnh để lại tờ giấy “Quý đi trong lúc tập thể dục”. “Tập thể dục” là “tập thể” nào, “nhóm” nào “xúi dục”, “dục dã” ảnh đi và đi đâu? Người ta biến “giục giã” ra “dục dã” để kiếm cho ra tội mà buộc. Chiều về, ăn uống xong xuôi, đốt điếu thuốc Hoa Mai hút cho đời đỡ đói. Trước 30 tháng 4 năm 1975 đốt đuốc tìm khắp nước Việt Nam Cộng Hòa, bét cả mắt đố ai tìm cho ra cái thứ thuốc hạ cấp Hoa Mai, Hoa Mốt nầy. Nó hôi, nó khói, nó hốc, nó sặc... dở hết chỗ nói. Tôi bước chầm chậm qua bên kia đường đến khu tráng dầu hắc, thẫn thờ suy nghĩ lấy gì làm cho được cái khung. Hồi nhỏ ở Phan Thiết, tôi tự làm lồng chim một mình dễ ẹt bằng cây tre, sợi sóng lá. Bây giờ ở đây, cái gì cũng không có, mới khó chớ. Bỗng nghĩ ra, phải rồi, lấy dây kẽm gai làm sườn cũng được mà. Cả tháng nay căng dây kẽm gai, rào dây kẽm gai làm hàng rào, rào mình lại, xướt cả tay chân, máu chảy ròng ròng cũng phải làm kia mà. Không nghe các anh Ninh, anh Đức, anh Cường... buột miệng: “Ngày nào không đổ máu thì ngày đó không có bữa ăn” hay sao. Cũng may không có ai bị làm độc hay bị tétanos gì ráo. Nhưng có một người phải vào trạm xá, còn một chút nữa là móc cặp mắt ra. Đã rào mấy lớp kẽm gai barbed wire, concertina rồi, mấy cháu ngoan ông Hồ, ông Duẩn, ông Chinh, ông Đồng... vẫn cảm thấy chưa an tâm, chưa đủ, phải rào thêm, rào nữa, rào hoài. Bọn họ được dạy rằng, “chúng nó là những con thú dữ, phải nhốt lại”. Bọn Việt Cộng khát máu, suy bụng ta ra bụng người, thường coi chúng tôi như vậy, nói chúng tôi như vậy. “Chúng tao là những con thú dữ thì chúng mầy cũng là những con thú dữ vì vô phước quá, thất đức quá mà bị tụi bay sinh vào giòng giống Rồng Tiên của chúng ông”, anh Lượng giận quá bảo như vậy. Ảnh người Phan Rang, Chỉ Huy Trưởng Thám Sát tỉnh Quảng Đức. Lính của ảnh là những Thám Sát Viên người Thượng gan lì, dầy dạn, chỗ nào có Việt Cộng là phục kích giết hết trơn. Dây kẽm gai ở đây không thiếu. Thiếu là không biết sao lấy gai ra khỏi dây. Nhưng khó gì ba cái chuyện lẻ tẻ đó với hằng ngàn đầu óc người có học, dù bị tù chứ không phải bùn. Dùng những cái “cartouche” đạn mà gỡ ra thì bao nhiêu gai với góc lại không ra.
Lợi dụng những lúc nghỉ trưa ngoài bãi lao động nắng chang chang hay trong láng trại iêng ẳng im lìm, tôi lẫy từng gai, từng gai kẽm ra. Một chùm dây cầm trong tay, tôi nói một mình, đủ rồi. Một anh bạn trẻ tên Năng đi ngang qua hỏi “Anh làm gì đó?”. Tôi trả lời “Làm cái lồng chim cho con”.Anh ta mỉm cười như mỉa mai, đi không ngoái lại. Tôi cũng không thắc mắc gì thái độ không đồng tình của anh ta, bởi ảnh còn trẻ, chưa vợ, chưa con... làm sao hiểu được thằng tôi bấy giờ. Hôm đào ao nuôi cá, ai ai cũng mệt đứt hơi, mong trưa cho mau mà tìm chỗ mát nghỉ xả hơi một chút. Tôi thì tìm thời gian bẻ khuôn lồng chim cho con. Vừa chun đầu vô một lùm cây nhỏ đã thấy ngay cái anh chàng ba phải Triều, Hoàng Hoa Triều? Có chức phận, có học hành, có chiều sâu thăm thẳm tâm hồn, hiền khô, hình như ảnh đang đóng kịch, diễn vai Học Tập Cải Tạo, lúc nào cũng cách mạng sáng ngời, cũng lao động vinh quang, cũng học tập tốt lao động tốt, ngây ngây khụng khịu mà khôn vô cùng, dính chết cái tên “Triều Ba Phải”. Người ta sáng tạo ra đủ thứ: lược, cài, nhẫn, dây chuyền, xuyến.... mong ngày về tặng vợ, tặng con hay tặng người yêu vẫn đợi chờ hay đã ôm thằng cán bộ, “bộ đội” nào rồi. Ảnh mót những thứ người ta làm hư bỏ đi, bác Giồng, bác Đá, anh Thống, anh Đức, anh Dũng... cho ảnh thêm một cái tên nữa nghe lạ hoắc là “Triều Sáng Lượm”. Triều đang cầm đọc một cuốn sách dầy thật là dầy mà to cũng thật là to hết sức, tôi có cảm tưởng như nó có thể đè lép kẹp cái thân thể ốm nho ốm nhách của ảnh xuống như chơi, cuốn Tư Bản Luận của Karl Marx. Tôi nghĩ, ảnh chỉ “nhá” để che mắt cái trí trá của mình hơn là “có ai ngu” mà đọc Marx, Angel, Lénine lúc bụng đói chết cha mà lao động khổ thấy mẹ... Tôi ngồi xuống, bắt đầu bẻ cọng kẽm gai cong cong để làm cái lồng chim tròn. Chiều nay, một số đông anh em cấp Trung Úy từ Trại Cải Tạo Kàtum ở Tây Ninh chuyển về. Tôi gặp được người anh em bạn quen mà không thân là Dũng Kèn, cùng người Phan Thiết với tôi. Anh nầy nhỏ con mà “chịu chơi” từ hồi bé tí teo, đánh đờn cũng khá. Tôi nhớ hoài Dũng chơi và hát bài Love Potion Number Nine, hay nhất những câu sau chót “But when I kissed a cop down on Thirty-Fourth and Vine. He broke my little bottle of Love Potion Number Nine. Love Potion Number Nine. Love Potion Number Nine. Love Potion Number Nine”. Gặp nhau chưa nói năng được gì thì, anh em đó đã chuyển qua khu trại gần bên. Tôi định hỏi thăm tin tức người anh, không biết đang bị “học tập cải tạo” ở đâu, nhưng họ đã đi rồi. Và họ, có những anh em ra đi mãi mãi không về. Không chết ở Trảng Lớn, ở rừng sâu nước độc Kàtum mà những Sĩ Quan trẻ tuổi của chúng ta đang bị chết tức tưởi từng ngày ngay đây, trong lòng Thành Phố Biên Hòa. Họ bị lùa vào vùng “hỏa tuyến” thuộc Quận Công Thanh, tháo vòng rào kẽm gai, gỡ mìn, lựu đạn... ngày xưa làm tuyến an ninh cho vòng đai Phi Trường Biên Hòa. Tiếng nổ khô khan, cộc lốc cứ nghe hoài. Máu chảy, có người chết, nhiều người mất đi một phần thân thể... cứ thấy khiêng về luôn.
Lồng chim, tôi cứ làm tới làm lui hoài mà cái khung vẫn chưa xong. Làm kiểu nào rồi không vừa lòng, cũng phải tháo ra làm lại, phồng cả tay. Những buổi trưa, người nằm một chút nghỉ ngơi lấy sức, mình thì tìm chỗ im mát mà mày mò không biết mệt. Có khi nghĩ dại, mà sao lại không có thể xẩy ra, rằng có khi nào mình chết đi mà cái lồng chim cho con cũng chưa làm xong!?. Vợ chồng tôi lấy nhau hơn ba năm, trông con hơn trúng độc đắc. Nó sinh vào giờ Ngọ, đúng năm tuổi của tôi, đúng giờ khắc tôi thoát nạn ở Trường Bộ Binh Thủ Đức. Hôm đó tập trận “Trung Đội Tấn Công”, ông bạn trẻ người Thủ Đức tên Sơn, thường gọi là Sơn Rhadé vì đen thủi đen thui như người Thượng, nằm giường dưới, tôi nằm giường trên, vào lúc khám súng đã bắn một tràng đạn M.16 bên tai phải của tôi, khi tôi đang nghiêng bên trái. Một tràng đạn thật, không phải đạn mã tử. May cho tôi không chết, mà tội cho anh ta bị những đêm “phạt dã chiến” khổ quá trời. Là đứa con lần đầu mới sinh, nó vừa lớn xác lại vừa ngoan cố chưa muốn ra, vợ tôi sinh khó. Nhà Bảo Sanh Phúc Hải không đỡ đẻ được. Bác Sĩ Lộc trên Đoàn Mạnh Hoạch phải “hút” nó ra. May vô cùng, thường vào ngày giờ nầy, Bác Sĩ Lộc đâu có ở đây, đã đi lên Căn làm việc từ lâu rồi. Ba má tôi, chị ruột tôi, chị dâu tôi, bà con lối xóm của tôi... thắp nhang van vái tứ phương, nhổ bỏ cây nhãn lồng, cây đu đủ tôi mới trồng cách đó vài tháng. Ai ai cũng thở phào, chấp tay cám ơn Trời, Phật, Ông Bà “Nó sinh rồi, thằng con trai”. Tôi nghĩ, không biết nên làm cái lồng cao thấp thế nào, lớn nhỏ làm sao, cái cửa phải mở ra đóng vào bằng cách nào cho tiện, màu sắc thế nào cho đẹp…
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.