Thứ Tư, 30 tháng 12, 2020

Tuyển tập thơ Tú Xương.

 

Đi thi

Tấp tễnh người đi tớ cũng đi,
Cũng lều cũng chõng cũng vào thi.
Tiễn chân, Cô mất hai đồng chẵn,
Sờ bụng, thầy không một chữ gì !
Lộc nước còn mong thêm giải ngạch
Phúc nhà may được sạch trường qui.
Ba kỳ trọn vẹn thêm kỳ nữa,
ú ớ u ơ ngọn bút chì

 

Buồn thi hỏng

 

 

 

 

 

 

Bụng buồn còn muốn nói năng chi?
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi.
Một việc văn chương thôi cũng nhảm
Trăm năm thân thế có ra gì !
Được gần trường ốc vùng Nam Định
Thua mãi anh em cánh Bắc Kỳ.
Rõ thực nôm hay mà chữ tốt
Tám khoa chưa khỏi phạm trường qui

 

 

Than cùng

Khách hỏi nhà ông đến
Nhà ông đã bán rồi.
Vợ lăm le ở vú,
Con tấp tểnh đi bồi.
Ai trói voi bỏ rọ?
Đời nào lợn cạo ngôi?
Người bảo ông mãi cùng
Ông cùng thế này thôi!

Chúc Tết

 

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.


Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu:
Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu ?
Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc
Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.


Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang:
Đứa thì mua tước; đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.


Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp, người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non.


Bắt chước ai ta chúc mấy lời
Chúc cho khắp hết ở trong đời
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.

 

Sông Lấp Nam Định

Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò

 

 

Nhớ bạn phương trời

Ta nhớ người xa cách núi sông
Người xa xa lắm, nhớ ta không?
Sao đang vui vẽ ra buồn bã?
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng!
Khi nhớ nhớ cùng trong mộng tưởng,
Nỗi riêng riêng cả đến tình chung.
Tưong tư lọ phải là mưa gió
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng

Hóa ra dưa

 

Ước gì ta hóa ra dưa
Để cho người tắm nước mưa chậu đồng!
Ước gì ta hóa ra hồng
Để cho người bế người bồng trên tay

Phú hỏng khoa Canh Tý

Đau quá đòn hằn;
Rát hơn lửa bỏng.
Hổ bút hổ nghiên;
Tủi lều tủi chõng.

Nghĩ đến chữ "lương nhân đắc ý" (1) thêm nỗi thẹn thùng;
Ngắm đến câu "quyển thổ trùng lai" (2) nói ra ngập ngọng.
Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà thiêng;
Nào ai ngờ chữ tốt văn hay, tài bảng nhãn thám hoa lỡ ra cũng hỏng.

Có một thầy:
Dốt chẳng dốt nào;
Chữ hay, chữ lỏng.
Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao lâu
Hay hát hay chơi, hay nghề xuống lõng. (3)
Quanh năm phong vận, áo hàng tầu, khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh; (4)
Ra phố nghênh ngang, quần tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Định bóng.
Giá cứ chăm nghề đèn sách thì mười lăm mười sáu đỗ tự bao giờ;
Chỉ vì quen lối thị thành, nên một tuổi một già, hóa ra lóng đóng.
Tú rốt bảng giữa năm Giáp Ngọ, nổi tiếng tài hoa;
Con nhà dòng ở đất Vị Xuyên, ăn phần cảnh nọng (5)

Năm vua Thành Thái mười hai;
Lại mở khoa thi Mĩ Trọng (6)
Kì đệ tam văn đã viết rồi;
Bảng đệ tứ chưa ra còn ngóng.
Thầy chắc hẳn văn chương đúng mực, lễ thánh xem giò;
Cô mừng thầm mũ áo đến tay, gặp người nói mộng.
Sáng đi lễ phật, còn kì này kì nữa là xong;
Đêm dậy vái trời, qua mồng bốn mồng năm cho chóng.

Nào ngờ:
Bảng nhỏ có tên
Ngoại hàm còn trống. (7)
Kẻ đến sáng văn còn được chấm, bảng cót nghênh ngang;
Người ngồi khuya tên hãy được vào, áo dài lụng thụng.
Thi là thế, học hành là thế, trò chuyện cùng ai?
Người một nơi, hồn phách một nơi, than thân với bóng!

Thôi thời thôi:
Sách vở mập mờ;
Văn chương lóng ngóng.
Khoa trước đã chầy;
Khoa sau ắt chóng.
Hẳn có kẻ lo toan việc nước, vua chửa dùng tài;
Hay không ai dạy dỗ đàn con, trời còn bắt hỏng!

Chú thích:

(1) Người lành đắc ý (tin tưởng vận may)

(2) Phản công lại.

(3) Xuống lõng: xuống thuyền (chơi bời, hát xướng).

(4) Ô lục soạn: Ô bằng vải nhiễu lụa.

(5) Cảnh nọng: Khoanh thịt ở cổ súc vật được làm thịt, dành cho vị chức sắc.

(6) Nơi đặt trường thi

(7) Tức bị đánh hỏng (vì phạm trường qui hoặc nộp quyển chậm

 

Đi hát mất ô

Đêm qua anh đến chơi đây
Giày chân anh dận, ô tay anh cầm.
Rạng ngày sang trống canh năm
Anh dậy, em hãy còn nằm trơ trơ.
Hỏi ô, ô mất bao giờ,
Hỏi em, em cứ ưỡm à không thưa.
Chỉ e rày gió mai mưa
Lấy gì đi sớm về trưa với tình?

 

 

 

Chữ Nho

 

Nào có ra gì cái chữ nho !
Ông nghè, ông Cống cũng nằm co.
Chi bằng đi học làm ông Phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò !

 

 

Thương vợ

 

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo xèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ, âu đành phận
Năm nắng mười mưa, dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!
Có chồng hờ hững cũng như không!

 

Ông Cò

Hà Nam, danh giá nhất ông cò
Trông thấy ai ai chẳng dám ho
Hỏi mái trống toang đành chịu dột
Tám giờ chuông đánh phải nằm co.
Người quên mất thẻ âu trời cãi
Chó chạy ra đường có chủ lo.
Ngớ ngẩn đi xia, may vớ được
Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to

Bỡn Tri Phủ Xuân Trường

 

Tri phủ Xuân Trường được mấy niên
Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên,
Chữ "thôi" chữ "cứu" không phê đến,
Ông chỉ quen phê một chữ tiền

 

Giễu người thi đỗ

 

Một đàn thằng hỏng đứng mà trông,
Nó đỗ khoa này có sướng không !
Trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt,
Dưới sân, Ông cử ngẩng đầu rồng

 

Giời Nực Mặc Áo Bông

 

Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông,
Tưởng rằng ốm dậy, hóa ra không.
Một tuồng rách rưới, con như bố,
Ba chữ nghêu ngao, vợ chán chồng.
Đất biết bao giờ sang vận đỏ ?
Trời làm cho bỏ lúc chơi ngông.
Gần chùa, gần cảnh, ta tu quách;
Cửa Phật quanh năm vẫn áo sồng.

 

 

Cái Học Nhà Nho

 

Cái học nhà nho đã hỏng rồi,
Mười người đi học, chín người thôi .
Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
Thầy khóa tư lương nhấp nhỏm ngồi.
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo,
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi .
Tôi đâu dám mỉa làng tôi nhỉ ?
Trình có quan tiên thứ chỉ tôi.

Khoa Thi

 

Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Xe kéo rợp trời: quan sứ đến;
Váy lê phết đất, mụ đầm ra .
Sao không nghĩ đến điều tu sỉ ?
Ngảnh cổ mà xem lại nước nhà.

 

Thi Hỏng

  

Mai không tên tớ, tớ đi ngay,
Giỗ Tết từ đây nhớ lấy ngày
Học đã sôi cơm nhưng chửa chín
Thi không ăn ớt thế mà cay .
Sách đèn phó mặc đàn con trẻ,
Thưng đấu nhờ tay một mẹ màỵ
Cống hỉ, mét xì, đây thuộc cả,
Chẳng sang Tàu, tớ cũng sang Tây .

 

Đất Vị Hoàng

 

Có đất nào như đất ấy không?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông
Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Keo cú người đâu như cứt sắt
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng
Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh
Có đất nào như đất ấy không

 

Đêm Buồn

 

Trời không chớp bể với mưa nguồn
Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn
Bối rối tình duyên cơn gió thoảng
Nhạt phèo quang cảnh bóng trăng suông
Khăn khăn, áo áo, thêm rầy chuyện
Bút bút, nghiên nghiên khéo giở tuồng
Ngủ quách sự đời thây kẻ thức
Bên chùa chú trọc đã hồi chuông.

Hỏi Ông Trăng

 

 

Ta lên ta hỏi ông trăng
Họa là ông có biết chăng sự đời ?
Ông cao, ông ở trên trời
Mà ông soi khắp nước người, nước ta
Năm châu cũng một ông mà
Kể riêng thì lại mỗi nhà, mỗi ông

Than Cùng Ii

 

 

Lúc túng toan lên bán cả Trời,
Trời cười: - "Thằng bé nó hay chơi!"
Cho hay công nợ là như thế,
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.
Tiền bạc phó cho con mụ kiếm,
Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi.
Còn năm, ba chữ nhồi trong ruột,
Khéo khéo không mà nữa cũng rơi!

trích: Câu Hỏi Văn Chương
Vũ Văn Thanh & Vũ Huy Bá

Ta Chẳng Ra Chi

 

Nếu có khôn ngoan đã vợ nhờ
Dại mà nhờ vợ, vợ làm ngơ
Sáng nem, bữa tối đòi ăn chả
Nay kiệu, ngày mai lại giở cờ
Ngồi đấy chả hơn gì chú Cuội
Nói ra thì thẹn với ông Tơ
Nhắn nhe chốn ấy tìm nơi khác
Ta chẳng ra chi, chớ đợi chờ

 

Tự Vấn

 

Trải mấy mươi năm vẫn thế ru ?
Rằng khôn ? Rằng dại ? Lại rằng ngu ?
Những là thương cả cho đời bạc
Nào có căm đâu đến kẻ thù
No ấm chưa qua vành mẹ đĩ
Ðỗ đành may khỏi tiếng cha cu
Phen này có dễ trời xoay lại
Thằng bé con con đã chán cù.

 

Hỏi Đùa Mình

 

Ông có đi thi ký lục không ?
Nghe ông quốc ngữ học chưa thông
Ví dù nhà nước cho ông đỗ
Mỗi tháng lương ông được mấy đồng

 

Ba thứ lăng nhăng...

Một trà, một rượu, một đàn bà,

Ba thứ lăng nhăng nó quấy ta.

Chừa được thứ nào hay thứ ấy,

Có chăng chừa rượu với chừa trà.

 

Cảm hứng

 

Xấp xỉ ba mươi mấy tuổi đầu
Trăm năm tính đốt hãy còn lâu
Ví cho thi đỗ làm quan lớn
Thì cũng nhỏ to cưới chị hầu
Ðất nọ vẫn thường hay có chạch (1)
Bể kia có lúc cũng trồng dâu (2)
Hôm nay rỗi rãi buồn tình nhỉ
Thử xuống Hàng Thao đập ngón chầu.

(1) Chạch: do câu tục ngữ “Ðất sõi chạch vàng” Ý nói ở nơi tầm thường vẫn sinh ra người hào kiệt .
(2) Trồng dâu: theo câu “Thương hải biến vi điền” nghĩa là Biển xanh biến thành nương dâu. Ý nói hy vọng có sự thay đổi tốt cho mình

 

Thói Đời

 

Người bảo ông điên, ông chẳng điên
Ông thương, ông tiếc hóa ông phiền
Kẻ yêu người ghét hay gì chữ
Ðứa trọng đứa khinh chỉ vì tiền
Ở bể ngậm ngùi con tói lạch
Ðược voi tấp tểnh lại đòi tiên
Khi cười khi khóc khi than thở
Muốn bỏ văn chương học võ biền

Than Nghèo

  

Cái khó theo nhau mãi thế thôi
Có ai, hay chỉ một mình tôi ?
Bạc đâu ra miệng mà mong được ?
Tiền chửa vào tay đã hết rồi
Van nợ lắm khi tràn nước mắt
Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi
Biết thân thuở trước đi làm quách
Chẳng ký, không thông, cũng cậu bồi !

Quan Tại Gia

 

Một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng
Bốn con làm lính, bố làm quan
Câu thơ, câu phú sưu cùng thuế
Nghiên mực, nghiên son tổng với làng
Nước quạt chưa xong con nhảy ngựa
Trống hầu chưa dứt bố lên thang
Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ
Ðem chuyện trăm năm giở lại bàn.

 

Để Vợ Chơi Nhăng

 

Thọ kia mày có biết chăng ? (1)
Con vợ mày kia xiết nói năng !
Vợ đẹp, của người không giữ được
Chồng ngu, mượn đứa để chơi nhăng
Ra đường đáng giá người trinh thục
Trong dạ sao mà những gió trăng
Mới biết hồng nhan là thế thế
Trăm năm trăm tuổi lại trăm thằng !

(1) Một người ở Nam Ðịnh tên là Thọ, có vợ đẹp nhưng lẳng lơ

 

Xuân Nhật Ngẫu Hứng

Xuân từ trong ấy mới ban ra
Xuân chẳng riêng ai khắp mọi nhà
Ðì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Ðỏ lòm trên vách bức tranh gà
Chí cha, chí chát khua giày dép
Ðen thủi, đen thui cũng lượt là
Dám hỏi những ai lòng cố quốc
Rằng: xuân, xuân mãi thế ru mà.

Lên Đồng

Khen ai khéo vẽ sự lên đồng
Một lúc lên ngay sáu bảy ông
Sát quỷ ông dùng thanh kiếm gỗ
Ra oai bà giắt cái khăn hồng
Cô giương tay ấn tan tành núi
Cậu chỉ ngọn cờ cạn núi sông
Ðồng giỏi, sao đồng không giúp nước
Hay là đồng sợ súng thần công?

Dại Khôn

 

Thế sự đua nhau nói dại khôn
Biết ai là dại, biết ai khôn
Khôn nghề cờ bạc là khôn dại
Dại chốn văn chương, ấy dại khôn
Này kẻ nên khôn đều có dại
Làm người có dại mới nên khôn
Cái khôn ai cũng khôn là thế
Mới biết trần gian kẻ dại khôn.

Hỏi Ông Trời

 

Ta lên ta hỏi ông trời
Trời sinh ta ở trên đời làm chi
Biết chăng cũng chẳng biết gì
Biết ngồi nhà hát, biết đi ả đầu
Biết thuốc lá, biết trà tàu
Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi.

 

Thật Vô Tích (1)

 

Trời đất sinh ra chán vạn nghề
Làm thầy, làm thợ, lại làm thuê
Bác này mới thật là vô tích
Sáng vác ô đi, tối vác về !

(1) Thật vô tích: Ý thật là vô tích sự

Một Nén Hương Tâm

  

Im im thâu đêm lại tháng ngày
Bệnh đâu có bệnh lạ lùng thay !
Thuốc thang nghĩ lại chua mà đắng
Ðường mật xem ra ngọt hóa cay
Lắm bệnh bạn bè lui lại ít
Nặng lòng họ mạc hỏi han đầy
Chỉ bền một nén hương tâm nguyện
Thuốc thánh bùa tiên ắt chẳng chầy

Tự đắc

Ta nghĩ như ta có dại gì,
Ai chơi, chơi với, chẳng cần chi.
Kìa thơ tri kỷ đàn anh nhất,
Nọ khách phong lưu bậc thứ nhì.
Ăn mặc vẫn ra người thiệp thế,
Giang hồ cho biết bạn tương tri.
Gặp thời, gặp vận nên bay nhảy,
Cho thỏa rằng sinh chẳng lỗi thì

 

Chiêm Bao

  

Bỗng thấy chiêm bao thấy những người
Thấy người nói nói lại cười cười
Tỉnh ra lại tiếc người trong mộng
Mộng thế thì bằng tỉnh mấy mươi.

Thú Cô Đầu

 

Cái thú cô đầu nghĩ cũng hay,
Cùng nhau dan díu mấy đêm ngày
Năm canh to nhỏ tình dơi chuột,
Sáu khắc mơ màng chuyện gió mây.
Êm ái cung đàn chen tiếng hát,
La đà kẻ tỉnh dắt người say.
Thú vui chơi mãi mà không chán,
Vô tận kho trời hết lại vaỵ

Cái Nhớ

 

Cái nhớ hình dung nó thế nào ?
Khiến người ngao ngán, ngẩn ngơ sao !
Biết nhau cho lắm thêm buồn nhé,
Ðể khách bên trời dạ ước ao !

Năm Mới

 

Khéo bảo nhau rằng: mới với me
Bảo nhau rằng cũ chẳng ai nghe
Khăn là bác nọ to tày rế (1)
Váy lĩnh cô kia quét sạch hè.
Công đức tu hành sư có lộng
Xu hào rủng rỉnh Mán ngồi xe
Phong lưu rất mực ba ngày tết
Kiết cú như ta cũng rượu chè.

Cảm Tết

 

Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu.
Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy
Trà sen mượn hỏi, giá còn kiêu.
Bánh chưng sắp gói e nồm chảy
Giò lụa toan làm sợ nắng thiu.
Thôi thế thì thôi đành tết khác,
Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo.

Áo Bông Che Đầu

 

Hỏi ai, ai đó thương không ?
Ðêm mưa một mãnh áo bông che đầu
Vì ai, ai có biết đâu ?
Áo bông ai ướt, khăn đầu ai khô !
Người đi Tam Ðảo, Ngũ Hồ, (1)
Kẻ về khóc trúc Thương Ngô một mình
Non non, nước nước, tình tình,
Vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ !

(1) Tam Ðảo, Ngũ Hồ: là cảnh tiên, cảnh đẹp (ở Trung Quốc). Cả câu ý nói người đã đi về nơi tiên cảnh.

Gửi Người Cũ

 

Yêu nhau chẳng lấy được nhau nào.
Mình nghĩ làm sao, tớ nghĩ sao ?
Trai gái bởi tay bà mụ nặn
Vợ chồng nguyên mối chị Hằng trao.
Xa đi ngán nỗi lòng thương nhớ,
Gần lại càng thêm dạ khát khao.
Bến Vị non Nùng xa cách mấy
Mà không buộc chặt sợi tơ đào ?

 

Ngày Xuân Của Làng Thơ

 

Ngày ba tháng tám thấy đâu mà (1)
Sao đến đầu xuân lắm thế a ?
Ý hẳn thịt xôi lên chặt dạ
Cho nên con tự mới lòi ra ? (2)

(1) Ngày ba tháng tám: khi giáp hạt thiếu đói
(2) Con tự: con chữ, đây chỉ chữ nghĩa văn chương. Nhà thơ đùa: văn chương ngày tết như những thứ mà bụng dạ lên đầy quá phải trục xuất ra ngoài .

Gần Tết Than Việc Nhà (1)

Bố ở một nơi con một nơi,
Bấm tay tháng nữa hết năm rồi
Văn chương ngoại hạng quan không chấm (2)
Nhà cửa giao canh nợ phải bồi (3)
Tin bạn hóa ra người thất thổ (4)
Vì ai nên nỗi quyển đâm vôi (5)
Ba mươi mốt tuổi đà bao chốc
Lặn lội trèo non đã mấy hồi.

(1) Bài này làm vào cuối năm Canh Tý (1900) sau khi nhà thơ thi trượt.
(2) Ý nói bài ông bị phạm trường qui, bị đánh hỏng.
(3) Giao canh: nhà cửa cầm cố để vay nợ, đến hạn không trả được, chủ nợ đi kiện, phải giao nhà cho chức trách trừ vào nợ .
(4) Thất thố: do chữ “Vong gia thất thổ á”, mất nhà mất đất, hết nơi nương tựa . Vì đã quá tin bạn, cho bạn mượn văn tự nhà mình để đi cầm, sau bạn không trả được nợ, mình mất nhà.
(5) Quyển đâm vôi: sau mỗi kỳ thi, trừ những quyển lấy đỗ, đệ vào kinh hoặc giữ làm tang chứng, còn những quyển bị trượt đều đem ngâm làm bột giây hoặc giã với vôi để làm vữa trát tường.

Cái Khó

Cái khó theo nhau mãi thế thôi
Có ai, hay chỉ một mình tôi
Bạc đâu ra miệng mà mong được
Tiền chửa vào tay đã hết rồi
Van nợ lắm khi tràn nước mắt
Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi
Biết rày, thuở bé đi làm quách
Chẳng ký, không thông cũng cậu bồi.

 

Hỏng Thi Khoa Quý Mão (1903)

  

Trách mình phận hẩm lại duyên ôi !
Ðỗ suốt hai trường hỏng một tôi
Tế đổ làm Cao mà chó thế (1)
Kiện trông ra Tiệp hỡi trời ơi !
Mong gì nhà nước còn thi nữa
Biết rõ anh em chẳng chắc rồi
Mũ áo biển cờ, làng có đất
Ô hay hương vận mãi chưa hồi !

(1) Tế, Cao: nhà thơ nguyên tên là Trần Tế Xương. Vì thi hỏng mãi đến khoa Quý Mão (1903), ông đổi chữ lót, lấy là Trần Cao Xương, nhưng hỏng vẫn hoàn hỏng.
(2) Kiện, Tiệp: hai chữ Hán này viết hơi giống nhau, chữ Kiện ông trông nhầm ra chữ Tiệp nên dù bài thi có hay cách mấy cũng bị đánh hỏng

 

 

Khoa Canh Tý (1900)

 

Hai đứa tranh nhau cái thủ khoa
Tuân khoe văn hoạt, Nghị văn già
Khoa này đỗ rặt phường hay chữ
Kìa bác Lê Tuyên cũng thứ ba.

 

Gửi Ông Thủ Khoa Phan (1)

 

Mấy năm vượt bể lại trèo non
Em hỏi thăm qua bác hãy còn
Mái tóc Giáp Thìn đà nhuộm tuyết (2)
Ðiểm đầu Canh Tý chửa phai son (3)
Vá trời gặp hội mây năm vẻ
Lấp bể ra công đất một hòn
Có phải như ai mà chẳng chết ?
Giương tay chống vững cột càn khôn.

(1) Bài thơ này viết về cụ Phan Bội Châu
(2) Giáp Thìn: năm 190, năm cụ Phan Bội Châu xuất dương
(3) Canh Tý: năm 1900, năm cụ Phan Bội Châu đỗ thủ khoa trường Nghệ An.

Mừng Chủ Làm Nhà Mới

  

Ông bà ngày trước có gì đâu
Chú thím ngày nay đã lại giàu
Mới biết trời cho không mấy lúc
Lọ là nuôi cá với trồng cau
Nhà gỗ năm gian lợp lá gồi
Trông dòng sông Vị tựa non Côi
Ðầu nhà khanh khách vào làm tổ
Ngồi thấy chim non nó há mồi
Kể chi giàu của lại giàu con
Gái gái trai trai hai cỗ tròn
Bà mới bảy mươi còn thọ nữa
Phúc nhà có dễ chứa tầy non
Chú lại nuôi thầy dạy các em
Một bồ kinh sử, mấy xâu nem
Ðất nào là đất không khoa giáp
Quyết mở đường cho thiên hạ xem.

Chế Bạn Lấy Vợ Bé

 

Ông này mê gái thực là mê
Thím khách già kia cũng gớm ghê
Mới hỏi ra chừng chê bạc ít
Gần cheo toan sự trả cau về
Mấy kỳ văn khó sao mà được ?
Một sợi tơ hồng chẳng biết vê
Lo việc ai bằng ông bạn Bát (1)
Cũng còn nhăn nhó chuyện nhiêu khê .(2)

(1) Ông bạn Bát: ông Bát Huy, giỏi nghề mối lái, chạy vạy có tiếng
(2) Nhiêu khê: khó khăn, lôi thôi, rắc rối .

Bỡn Người Làm Mối

 

“Việc bác không xong tôi chết ngay !”
Chết ngay như thế vội vàng thay
Chết riêng dễ một mình anh nhỉ ?
Sống bận ra chi lũ chúng mày !
Lấy được con hầu thì nó sướng
Gẫm xem thiên hạ lắm thằng hay !
Ðứa ăn đứa ngủ, đứa nào sướng ?
Ðứa đắp chăn da, đứa thịt quay !

 

Làm Lẽ

 

Cha kiếp sinh ra phận má hồng
Khéo thay một nỗi lấy chung chồng
Mười đêm chị giữ mười đêm cả
Suốt tháng em nằm suốt tháng không
Hầu hạ đã cam phần cát lũy (1)
Nhặt khoan con ỏm tiếng Hà Ðông
Ai về nhắn bảo đàn em nhé
Có ế thì tu, chớ chớ chung.

(1) Cát lũy: dây leo, địa vị thấp hèn của người làm vợ lẽ .

Làm Lẽ Thứ Tư

 

Những trách có mình tính lẳng lơ
Làm hai chẳng muốn, muốn làm tư !
Say đường buôn bán nên không lãi
Tính chuyện trăng hoa phải mắc lừa
Ấy bởi lầm về anh bợm gốc
Thôi đừng trách lẫn tại ông tơ
Lời này nhắn bảo người son phấn
Nghĩ mối sầu kia đã biết chưa ?

Khóc Vợ Bạn

  

Quả núi Châu Phong mới bắc cầu (1)
Thương anh về trước chị về sau !
Tên đề bảng phấn ai không tiếc
Tiếng khóc non xanh vượn cũng sầu
Có mẹ tưởng là vui gượng lại
Không chồng hồ dễ sống chi lâu !
Bắc thang lên hỏi ông cầm sổ
Thăm thẳm mù xanh ngát một màu .

(1) Bắc cầu: cầu Hàm Rồng xây dựng năm 1904.

Lụt Năm Bính Ngọ (1)

 

Thử xem một tháng mấy lần mưa
Ruộng hóa ra sông cỏ vật vờ
Bát gạo Ðồng Nai câu chuyện cũ (2)
Con thuyền Quý Tỵ nhớ năm xưa (3)
Trâu bò buộc cẳng coi buồn nhỉ,
Tôm tép khoe mình đã sướng chưa ?
Nghe nói miền Nam trời đại hạn,
Sao không san sẻ nước cho vừa ?

(1) Tức năm 1906
(2) Năm trước Bắc Kỳ bị lụt to, sau đó xãy ra nạn đói ghê gớm, phải chở gạo Nam Kỳ (Ðồng Nai) ra phát chẩn.
(3) Quý Tỵ: năm 1893 cũng có lụt to đến nỗi có thể chở thuyền vào trong đường phố, dân chết cũng nhiều. Do đó có thành ngữ “ Lụt tràn Quý Tỵ”

 

Đại Hạn

 

Dạo này đá chảy với vàng trôi
Thiên hạ mong mưa đứng lại ngồi
Ngày trước biết gì ăn với ngủ
Bây giờ lo cả nước cùng nôi
Trâu mừng ruộng nẻ cày không được
Cá sợ ao khô vượt cả rồi
Tình cảnh nhà ai nông nỗi ấy
Quạt mo phe phẩy một mình tôi

Nghèo Mà Vui

Kể suốt thế ai bằng anh Mán
Trải mùi đời, khôn chán giả làm ngây
Hổ sinh ra lúc thời này
An thân mệnh thế, giấu tay anh hùng
Không danh cho dễ vẫy vùng
Mình không phú quý, mắt không vương hầu
Khi để chỏm, lúc cạo đầu,
Nghêu ngao câu hát nửa tàu nửa ta
Không đội nón chịu màu da dãi nắng
Chẳng nhuộm răng để trắng để cười đời
Chốn quyền môn luồn cúi mặc ai ai
Ngoài cương tỏa thảnh thơi ai đã biết ?
Chỉ ấm ớ giả câm giả điếc
Cứ vui tràn khi hát khi ngâm
Trên đời mấy mặt tri âm ?

Bắt Được Đồng Tiền

 

Ðầu năm ra cửa được đồng tiền
Nào có cầu đâu, được tự nhiên
Ý hẳn nhà nho sang vận đỏ
Hay là con tạo thử người đen ?
Muốn đem trả nợ đòi nhà lại
Hay để làm lương giúp nước liền
Của cải vua ta đâu sẵn thế
Chữ đề Tự Ðức hãy còn nguyên.

Ông Hàn Bị Vợ Dọa Bỏ

 

Ông đã ơn vua một chữ Hàn
Nay lành mai vỡ khéo đa đoan
Ðược thua hai ngả ba câu chuyện
Khôn dại trăm năm một tiếng đàn
Chim chuột sau này nên gắng sức
Lợn gà thuở ấy đã nên oan
Có ai lành thủng ông không biết
Còn phải mang điều với gái ngoan

Ông Lão

   

Ông Lão ngày xưa tính thực hiền
Bảy ba vui thú cảnh điền viên
Sách đèn học tập năm Minh Mệnh
Áo mũ ăn ngồi xã Vị Xuyên
Giá phỏng có thi may cũng đỗ,
Thôi thì không lụy thế là tiên
Ðầu râu tóc bạc như mua được
Thầy bá nhà quê chán vạn tiền (1)

(1) Bá hộ rất nhiều tiền, nếu như tuổi thọ mà mua được như mua phẩm hàm thì họ đã bỏ tiền ra mua rồi !

 

Chơi Cuộc Tổ Tôm

 

Bực chẳng nhẽ anh hùng khi vị ngộ
Như lúc đen chơi cuộc tổ tôm
Bài chạm thành cuối cánh phỗng ầm ầm
Ngồi thôi chẳng bốc quân rác rãnh
Cũng có lúc không chi thì bát sách
Cũng có khi bạch định bốc yêu hồng
Cất bài lên ông lão vẫn lẩn vòng
Không đâu cả gặp kề năm bảy phỗng
Cũng có lúc tôm lèo lên chờ rộng
Vớ phải thằng bạch thủ phỗng tay trên
Gớm ghê thay đen thực là đen
Sắc như mác cũng thua thằng vận đỏ
May mắn nhẽ hữu duyên năng tái ngộ
Bĩ cực rồi đến độ thái lai
Tiếng tam khôi chi để nhường ai
Hết bạch lại hồng, thông mãi mãi
Nào những kẻ tay trên ban nãy
Ðến bây giờ thay thảy dưới tay ta
Tiếng bài cao lừng lẫy gần xa
Bát vạn ấy người ta ai dám đọ
Thế mới biết tổ tôm có đen thì có đỏ
Thì anh hùng vị ngộ có lo chi
Trước sau, sau trước làm gì.

Tự Trào

 

Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành (1)
Mắt thời lơ láo mặt thời xanh
Vuốt râu nịnh vợ con bu nó
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh
Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh
Thế mà vẫn nghĩ rằng ta giỏi
Cứ việc ăn chơi, chẳng học hành

(1) Phố Hàng Nâu: Phố Tú Xương ở, thành phố Nam Ðịnh

Chợt Giấc

 

Nằm nghe tiếng trống, trống canh ba
Vừa giấc chiêm bao chợt tỉnh ra
Thiên hạ dễ thường đang ngủ cả
Việc gì mà thức một mình ta ?

Than Thân Chưa Đạt

 

Ta phải trang xong cái nợ ta
Lẽ đâu chịu nợ mãi ru mà ?
Ðường con, bu nó một năm một
Tính tuổi nhà thầy ba lẻ ba
Mở mặt quyết cho vua chúa biết
Ðua danh kẻo nữa, mẹ cha già
Năm nay ta học, năm sau đỗ
Chẳng những Lương Ðường cũng thủ khoa . (1)

(1) Lương Ðường: tên làng, nay là làng Lương Ngọc, thuộc tỉnh Hải Hưng, nổi tiếng có nhiều người đỗ đạt .

Thành Pháo

 

Tượng tượng, xe xe xé lẻ rồi
Sĩ đen, sĩ đỏ chẳng vào đôi
Ðố ai biết được quân nào kết ?
Mã cũng chui mà tốt cũng chui

 

Đi Thi Nói Ngông

 

Ông trông lên bảng thấy tên ông
Ông tớp rượu vào ông nói ngông
Trên bảng năm ba thầy cử đội (1)
Bốn kỳ, mười bảy cái ưu thông (2)
Xướng danh tên gọi trên mình tượng
Ăn yến xem ra có thịt công
Cụ xứ có cô con gái đẹp
Lăm le xui bố cưới làm chồng.

(1)Thầy cử đội: 52 ông cử nhân đội tên mình (ở dưới tên mình) tức là mình đỗ đầu, trên 52 người khác. Thực ra, theo thường lệ, mỗi khoa thi Hương chỉ lấy 50 cử nhân. Ðứng trên 52 người là nói xạo .
(2) Ưu thông: Ưu là điểm cao tột bậc, ưu thông là suốt cả mấy lần đều ưu. Mỗi kỳ thi có 4 lần cho điểm, 4 kỳ là 16, nếu là ưu thông thì cũng chỉ có 16 cái ưu, mà đây là trường hợp rất hiếm, nhưng nhà thơ tự cho mình những 17 cái ưu .
(3) Mình tượng: mình voi. Vị quan đọc danh sách thí sinh trúng tuyển thường ngôi trên mình voi có che lọng.

Mai Mà Tớ Hỏng

 

Mai mà tớ hỏng tớ đi ngay
Giỗ tết từ đây nhớ lấy ngày (1)
Học đã sôi cơm nhưng chửa chin,
Thi không ăn ớt thế mà cay !
Sách đèn phó mặc đàn con trẻ
Thưng đấu nhờ tay một mẹ mày (2)
“Hẩu lố”, “mét xì” thông mọi tiếng (3)
Chẳng sang Tàu tớ cũng sang Tây

(1) Nhớ lấy ngày: nhớ lấy ngày ra đi mà làm giỗ, coi như chết.
(2) Thưng đấu: cái thưng và cái đấu. Hai thứ dùng để đong thóc gạo . Cả câu ý nói: việc buôn bán kiếm sống nhờ cậy cả ở bà vợ
(3) Hẩu lố: tiếng Tầu Quảng Ðông: tốt đẹp.
Mét xì: tiếng Pháp: cám ơn
Có bản chép: “ Cống hỉ, Mét xì đây thuộc cả”

 

Đổi Thi

 

Nghe nói khoa này sắp đổi thi
Các thầy đồ cố đỗ mau đi !
Dẫu không bia đá còn bia miệng
Vứt bút lông đi, giắt bút chì.

 

Thi Phúc

 

Này này hương thi đỗ khoa nào ?
Nhân hậu hay lòng quan thượng Cao (1)
Người ta thi chữ, ông thi phúc (2)
Dù dở, dù hay ông cũng vào (3)

(1) Quan thượng Cao: tức Cao Xuân Dục, người làng Thịnh Mỹ, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. đỗ cử nhân năm 1877. Ông đã từng là tổng đốc Nam Ðịnh, thượng thư bộ Học. Khoa thi Hương này ông được cử làm chánh chủ khảo, trường Nam có tiếng là chấm nới taỵ
(2) Thi gặp may (nhờ có phúc) mà đỗ
(3) Vào: thông thường thi hương phải qua 4 kỳ. Ðạt được kỳ trước mới được vào kỳ sau. Ðây có ý là đỗ .

Muốn Hóa Ra Dưa

 

Ước gì ta hóa ra dưa
Ðể cho người tắm nước mưa chậu đồng
Ước gì ta hóa ra hồng
Ðể cho người bế người bồng người chơi

 

Bệnh

 

Thua bạc ra đi với mẹ nhà
Bệnh gì chẳng bệnh, bệnh tiêm la
Vui quá đến nỗi ra người dại
Lỡ bước cho nên nhắm mắt qua

 

Tiến Sĩ Trung Thu

 

Ông đỗ khoa nao ở xứ nào?
Thế mà hoa hốt với trâm bào
Một năm, một tiết trung thu đến
Tôi vẫn quen ông chẳng muốn chào.

 

Cười Mình

 

Nước muốn cho trong phải đánh phèn
Cớ sao lại giữ thói bon chen
Sá chi người thế lòng xanh trắng
Chỉ tại thân ta vận đỏ đen
Ðể bụng phải đeo điều nhẹ nặng
Ôm tai mặc quách tiếng chê khen
Làm chi việc ấy mà lo liệu
Ai nghĩ như ai chả cũng hèn.

 

Thông Gia Với Quan

 

Gái góa đem mình tựa cửa quan
Nghĩ rằng quan lớn thế thì sang
Thương con toan lấy dây tơ buộc
Kén rể vì tham cái lọng tàn
Nào có ra chi phường khố lục (1)
Thôi thì cũng tủi kiếp hồng nhan
Cậu này ắt hẳn hay nghề sáo (2)
Dây vũ dây văn vụng ngón đàn (3)



(1) Phường khố lục: do chữ “xích khóa tử đệ” ( con em bọn khố đỏ) nghĩa là bọn con quan.
(2) Nghề sáo: mồm cậu ấm chum chúm như thổi sáo, cho nên tác giả đùa là làm nghề thổi sáo
(3) Ý nói văn dốt vũ dát.

 

Mừng Ông Cử Lấy Vợ Kế

 

Một sớm ơn vua chiếm bảng vàng
Lam Kiều lối cũ lại lần sang
Câu văn Hán, Tống hay ghê gớm
Quyển truyện Phan Trần thuộc cháo chan
Gỗ tốt nỡ đem trồng cột giậu
Chim khôn sao khéo đậu nhà quan
Làng nho ai lại hơn ông nhỉ
Có lẽ ông nay sướng nhất làng

 

Ông Cử Ba (1)

 

Cửa Vũ ba nghìn sóng nhảy qua
Ai ngờ mũ áo đến ba ba !
Ðầu như lươn đất mà không lấm
Thân tựa xà hang cũng ngó ra
Dưới nước chẳng ưa, ưa trên cạn
Ðất sét không ăn, ăn thịt gà
Tuy rằng cổ rụt mà không ngỏng,
Hễ cắn ai thì sét mới tha (2)



(1) Ông Cử là con thứ ba cho nên gọi là Cử Ba, nhân đó nhà thơ lấy con ba ba để giễu .
(2) Người ta thường nói: ba ba hễ cắn được ai thì có sấm sét mới chịu nhả

 

Đùa Ông Hàn

 

Hàn lâm tu soạn kém gì ai ?
Ðủ cả vung nồi, cả cóng chai
Ví phỏng quyển thi ông được chấm
Ðù cha, đù mẹ đứa riêng ai …

 

 

Gái Góa Nhà Giàu

 

Ta thấy người ta vẫn bảo rằng:
Bảo rằng thằng Cuội ở cung trăng
Cõi đời cũng lắm nơi thanh quý
Chị Nguyệt dung chi đứa tục tằn
Mình tựa vào cây, cây chó ỉa
Chân thò xuống giếng, giếng ai ăn
Con người như thế mà như thế
Như thế thì ra nghĩ cũng xằng

 

Ông Cử Nhu

 

Sơ khảo khoa này bác cử Nhu
Thực là vừa dốt lại vừa ngu
Văn chương nào phải là đơn thuốc
Chớ có khuyên xằng chết bỏ bu

 

 

Mừng Ông Lang

 

Làm thuốc như ông cũng có tài
Thực là chăm chỉ lại lanh trai
Phen này mồ mã nhà ta phát
Thi cử, hai con đỗ cả hai

 

Phòng Không

 

Em giận thân em mãi chửa chồng
Ngày năm bảy mối tối nằm không
Thiếu gì chốn ấy xêu trầu vỏ
Mà lại nơi kia giấm cốm hồng
“Hẩu lố” khách đà ba bảy chú
“Mét xì” Tây cũng bốn năm ông
Ép dầu ép mỡ duyên ai ép
Có mắn may ra đã bế bồng

 

Gái Buôn

 

I.

Nước buôn như chị mới ăn người
Chị thấy ai đâu chị cũng cười
Chiều khách quá hơn nhà thổ ế
Ðắt hàng như thể mớ tôm tươi
Tiền hàng kẻ thiếu, mi thường đủ
Giá gạo đầu năm, đấy vẫn mười
Thả quýt nhiều anh mong mắm ngấu
Lên rừng mà hỏi chú đười ươi

II.

Ai đấy ai ơi khéo hợm mình !
Giàu thì ai trọng, khó ai khinh
Thằng Ngô mất gánh, say câu chuyện
Chú lái nghiêng thoi, mắc giọng tình
Có khéo có khôn thì có của
Càng giàu càng trẻ lại càng xinh
Xuống chân lên mặt ta đây nhỉ !
Chẳng biết rằng dơ dáng dạng hình

 

Hót Của Trời

 

Nó rủ nhau đi hót của trời (1)
Đang khi trời ngủ, của trời rơi.
Hót mau kẻo nữa kinh trời dậy
Trời dậy thì bay chết bỏ đời !
(1) Bọn quan lại vơ vét của dân.

 

Hát Tuồng

 

Nào có ra chi lũ hát tuồng ! (1)
Cũng hò cũng hét cũng y uông
Dẫu rằng dối được đàn con trẻ
Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn ! (2)


(1) ám chỉ bọn người tấp tểnh ra làm việc cho thực dân Pháp.
(2) Mặt bôi vôi : nghĩa đen là hoá trang mặt, nghĩa bóng là bôi gio trát trấu lên mặt.

Đùa Bạn Ở Tù

Người đăng: Loi Bai Hat (Lyric)

Bài này đã được xem 566 lần  

Cái cách phong lưu, lọ phải cầu !
Bỗng đâu gặp những chuyện đâu đâu,
Một ngày hai bữa cơm kề cửa,
Nửa bước ra đi, lính phải hầu.
Trong tỉnh, mấy toà quan biết mặt
Ban công ba chữ gác ngang đầu. (1)
Nhà vuông thong thả nằm chơi mát,
Vùng vẫy tha hồ thế cũng âu !


(1) Ban công ba chữ : ba chữ khẩu, tạo thành hình cái gông.

 

Đạo Đức Giả

 

Hỏi lão đâu ta ? Lão ở Liêm
Trông ra bóng dáng đã hom hem.
Lắng tai, non nước nghe chừng nặng (1)
Chớp mắt trăng hoa, giả cách nhèm (2)
Cũng đã sư mô cùng đứa trẻ (3)
Lại còn tấp tểnh với đàn em.
Xuân thu ướm hỏi đà bao tá ?
Cái miếng phong tình vẫn chửa khem.



(1) Nặng tai.
(2) Giả mắt kèm nhèm để sán lại nhìn gái.
(3) Ra vẻ mô phạm với người ít tuổi.

 

Cô Tây Đi Tu

 

Rứt cái mề đay ném xuống sông
Thôi thôi tôi cũng "mét xì" ông !
Âu đành chùa đó, âu đành phật
Cũng chẳng con chi, cũng chẳng chồng.
Chớ thấy câu kinh mà mặc kệ
Ai ngờ chữ "sắc" hoá ra "không" ! (1)
Tôi đây cũng muốn như cô nhỉ
Cái nợ trầu duyên rũ chửa xong. (2)




(1) ý nói : có hoá thành không.
(2) ý nói : chưa dứt được nợ vợ chồng đã cưới nhau từ trước

 

Cô Hầu Trách Quan Lớn

 

Chỉ trách người sao chẳng trách mình ?
Mình trung đâu đấy, trách người trinh ? (1)
áo dầy cơm nặng bao nhiêu đứa ?
Chiếu cạnh giường bên, mấy hột tình ?
Tơ tóc nỗi riêng thì xét nét
Giang sơn nghĩa cả nỡ mần thinh ! (2)
Cổ cong mặt lệnh, người đâu thế ? (3)
Cái cóc bôi vôi khéo dại hình !

(1) Một viên quan vì giỏi nịnh Tây mà có địa vị, đuổi một cô hầu vì cho cô lẳng lơ.
(2) Tác giả mượn lời cô hầu để vạch mặt viên quan này quên đất nước.

Chửi Cậu Ấm

 

Ấm Kỉ này đây, tớ bảo này :
Cha con mày phải cái này cay !
Thôi đừng điếu tráp nghênh ngang nữa,
Thằng tiểu Phù Long nó chửi mày.

 

Chế Ông Huyện Đ (1)

 

Thánh cắt ông vào chủ việc thi (2)
Đêm ngày coi sóc chốn trường qui.
Chẳng hay gian dối vì đâu vậy ?
Bá ngọ thằng ông biết chữ gì ! (3)


(1) Ông huyện Đ được cử làm chủ một kì thi khảo của hội thánh thành Nam.
(2) Việc cử ông chủ thi thông qua cuộc lễ thánh (xin quẻ)
(3) Bá Ngọ : tiếng chửi của nhà sư.

 

Chế Ông Đốc Học (1)

 

Ông về đốc học đã bao lâu,
Cờ bạc rong chơi rặt một màu !
Học trò chúng nó tội gì thế
Để đến cho ông vớ được đầu ?

(1) Đốc học Nam Định lúc bấy giờ.

 

Than Sự Thi

Cử nhân: cậu ấm Kỷ ,
Tú tài : con đô Mỹ
Thi thế mà cũng thi !
Ới khỉ ơi là khỉ !
(1) ấm Kỷ và con của đô lại Mỹ, đều là kẻ dốt nát, vì đút tiền được đỗ.

 

 

Kể Lai Lịch (1)

 

Cũng võng cũng dù
Cũng hèo cũng quất (2)
ăn, cậu cũng "thời"
Ngủ, bà cũng "giấc" (3)
Tháng rét quạt lông
Mùa hè bít tất.
Tráp tròn sơn đỏ, bà quyết theo trai ;
Điếu ống xe dài, cậu đành lễ phật.
Tai gài ngọn bút, anh kia dòng tịch sĩ xuất thân (4)
Lưng giắt thẻ bài, chú nọ loại lính tuần được đất. (5)
Hai cậu con đóng vai ấm tử, lối bếp bồi cậu cũng như nhau
Đôi đức bà lên mặt phu nhân, ngón đĩ thoã bà nào cũng nhất .
Nhất tắc mộ sư mô chi cực, nay chùa này mai chùa khác,(6)
mở lòng từ tô tượng đúc chuông ;
Nhất tắc ham chài lái chi khu, lên mành nọ xuống mành kia, (7)
che miệng thế đong dầu rót mật.

Thế mà:

Bà vẫn nghênh ngang,
Cậu càng phong vận.
ý hẳn cậu còn tuổi trẻ, tính hãy thơ ngây
Quái thay bà đã về già, cũng còn lẩn thẩn ...[/blue]




(1) Hai nữ nhân vật thành Nam Ðịnh, vợ các quan lớn, goá chồng, thường ăn diện rất xa hoa và cho con trai cũng ăn diện như thế. Hai bà này có tính cách và nhiều hành vi giống với bà Phó Đoan (Số đỏ).
(2) Hèo, quất : trang bị của lính hầu kiệu.
(3) Lối nói "sang" của giới quí tộc.
(4) Tịch sĩ: nho sĩ .
(5) ý nói ông quan xuất thân chỉ là lính tuần.
(6) Mộ sư mô chi cực : "rất mực mộ sư mô". Tác giả chơi chữ : "cực" để đọc trệch . . .
(7) đại ý là một nguời thì ham chơi lái buôn thuyền (chỉ mụ Bố Cao)

 

Không Học Vần Tây

 

Mợ bảo vần Tây chẳng khó gì ! (1)
Cho tiền đi học để chờ thì.
Thôi thôi lạy mợ "xanh căng" lạy. (2)
Mả tổ tôi không táng bút chì !

(1) Vần Tây : chữ quốc ngữ.
(2) Xanh căng : 50 (tiếng Pháp).

 

Mẹ Vợ Với Chàng Rể

 

Ai về nhắn bảo việc này cho :
Nhắn bảo ai rằng việc nhỡ to ! (1)
Chép miệng, bà nuôi to cái dại,
Phờ râu, ông rể ẵm con so !
Cắm sào sâu quá nên thêm khổ, (2)
Néo chặt dây vào hoá phải lo.
Vẫn biết sống lâu nhiều sự lạ
Tử qui thắt lại một "con cò". (3)

 

Nhà Nho Giả Danh

 

Hỏi thăm quê quán ở nơi mô ?
Không học mà sao cũng gọi "đồ" ?
Ý hẳn người yêu mà gọi thế,
Hay là mẹ đẻ đặt tên cho ?
Áo quần đinh đáo trông ra "cậu".
Ăn nói nhề nhàng khác giọng ngô.
Hỏi mãi mới ra thằng bán sắt,
Mũi nó gồ gồ, trán nó giô.

 

Bỡn Ông Ấm Điềm

 

Ấm không ra ấm, ấm ra... nồi,
Ấm chạy lăng quăng ấm chẳng ngồi.
Chán cả đồ chuyên cùng chén mẫu
Luộc giò, ninh thịt, lại đồ xôi !

 

Ông Cử Thứ Năm

 

Ông cử thứ năm, con cái ai ? (1)
Học trò quan đốc Tả Thanh Oai.
Nghe tin, cụ cố cười ha hả
Vứt cả dao cầu xuống ruộng khoai !
Thứ năm, ông cử ai làm nổi,
Học trò quan đốc tỉnh Hà Nội ?
Nghe tin, bà cố cười khì khì

 

Phố Hàng Song

 

Ở phố Hàng Song thật lắm quan, (1)
Thành thì đen kịt, đốc thì lang (2)
Chồng chung vợ chạ, kìa cô Bố
Đậu lạy quan xin, nọ chú Hàn.

(1) Thuộc Nam Định, nối liền với phố Hàng Nâu Tú Xương ở.
(2) Thành: viên phòng thành. Đốc : viên đốc học, có nhiều vết lang trên mặt.

Phường Nhơ (1)

 

Bấy lâu chơi với rặt phường nhơ
Quen mắt ưa nhìn chả biết dơ.
Nào sọt nào quang nào bộ gắp,
Đứa bưng đứa hót, đứa đang chờ.
Mình hôi mũi ngạt không kỳ quản
Áo ấm cơm no vẫn nhởn nhơ.
Ngán nỗi hàng phường khi cúng tế
Vẽ ông ôm đít để lên thờ ! (2)


(1) Bài này tác giả viết nhân Vũ Tuân đang cậy cục Hoàng Cao Khải để được chân hậu bổ.
Phường nhơ : nghĩa đen chỉ những người đi lượm phân, nghĩa bóng chỉ bọn quan lại mưu bổng lộc nhơ bẩn.
(2) Tức "thần tượng" để tế cúng của "phường nhơ".

 

  Ông Và Mấy Ả Lên Đồng

 

Chẳng khốn gì hơn cái nợ chồng ! (1)
Thà rằng bạn quách với sư xong !
Một thằng trọc tuếch ngồi khua mõ,
Hai ả tròn xoe đứng múa bông.
Thấp thoáng bên đèn lên bóng cậu (2)
Thướt tha dưới án nguýt sư ông.
Chị em thủ thỉ đêm thanh vắng:
"Chẳng sướng gì hơn lúc thượng đồng !"

(1) Giọng lưỡi hạng đàn bà lẳng lơ, vô hạnh.
(2) Tức nhập đồng "cậu"

 

Sư Ở Tù

 

Quảng đại từ bi cũng phải tù
Hay là sư cũng vụng đường tu ?
Tụng kinh cứu khổ ba trăm quyển
Ý hẳn còn quên một phép phù ?

Ông Ấm Mốc

 

Tôi hỏi thăm ông đến tận nhà
Trước nhà có miếu, có cây đa.
Vườn ao đất cát chừng ba mẫu (1)
Nứa lá tre pheo đủ một toà.
Mới sáu bận sinh đà sáu cậu,
Trong hai dinh ở, có hai bà.
Trông ông mốc thếch như trăng gió
Ông được phong lưu tại nước da.


(1) Có bản chép: Cửa hè sân ngõ chừng ba thước
.

 

Vì Tiền

 

Vì chưng chẳng có hoá ra hèn
Hổ với anh em chúng bạn quen.
Thuở trước chơi bời còn quyến luyến,
Bây giờ đi lại dám mon men !
Giàu sang, âu yếm, tình quen thuộc,
Bần tiện, thờ ơ, dạ bạc đen.
Ví khiến trong tay tiền bạc có
Nói dơi nói chuột, chán người khen.


Source Tuyển tập thơ Tú Xương. - phutrangwebsiteduyquetho (google.com)