Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013

Đoản Văn Của Một Người Tử Trận


Đọc bài dưới đây, tôi nhớ đến hai người Chú chết vì AK-47, một Chú đi lính không quân bị bắn khi đang bay trên 1 chiếc trực thăng năm 1972, khi về đến bệnh viện thì chết.  Lúc đó tôi còn nhỏ nhưng nghe võ vẽ chú bị bắn bằng đạn AK.  Và Chú út cũng bị bắn bằng AK-47 nhưng oái oăm là sau 1975 (khoảng đầu thập niên 80). 

Tháng 3-1975, khi Sài Gòn chưa thất thủ thì Ông Nội tôi đã bị bắt và đưa bị đi biệt vô âm tín.  Sau 5-6 năm một hôm gia đình nhận được tin đi đón Ông ở một trại tập trung heo hút trong rừng sâu. Lý do vì họ nghĩ Ông sắp chết nên thả về.  Thế mà khi mang Ông về nhà ở cái tuổi gần 70 trong tình trạng thập tử nhất sinh Ông đã hồi phục và sống thêm dăm bảy năm nữa.  Một điều đau khổ cho Ông & gia đình là chiếc quan tài được mua cho Ông (nhưng may mắn không phải dùng nên vẫn còn đó), cuối cùng lại dùng cho Chú Út.

Câu chuyện hơi dài nhưng tóm lại vì Chú tôi là con gia đình Ngụy nên kẻ bắn Chú đã không bị tội mà còn được thưởng.  Chú chết với 2 viên đạn AK vẫn còn nằm trong bụng vì bị bắn ở khoảng cách quá gần.  Theo Ba tôi kể, chính Ba là người đã "xả rum" để Chú ra đi khi thấy bệnh viện không muốn cứu chữa 1 người con Ngụy & không chịu nổi cảnh Chú phải chịu đau đớn quá lâu.  Ba tôi đã ghé vào tai Chú tôi nói những lời xin lỗi & vĩnh biệt cuối cùng trước khi vặn ống rum...  Ba tôi là người rất ít khóc, nhưng tôi đã thấy ông khóc trong đám tang của Chú.  Sau đám tang Ba viết 2 câu thơ dưới bức ảnh của Chú, đến bây tôi vẫn còn nhớ:

Vun vút trời mây hồn P... nhẹ lướt
Oh! sáng ngời rực rỡ mảnh hồn son ...



***
Trần Mộng Tú

Tràng AKa – 47
Khu oanh kích tự do
Bây giờ lần thứ mấy
Anh lỡ cuộc hẹn hò (*)
    Em thân yêu,
Hôm 20 tháng 2 vừa qua, nước Nga đã chào mừng sinh nhật thứ 50 của khẩu AK-47. Khẩu AK là một trong những võ khí chiến tranh nước Nga viện trợ cho miền Bắc Việt Nam, cũng như khẩu M-16 của nước Mỹ viện trợ cho miền Nam Việt Nam.
Khẩu AK-47 là một vũ khí cá nhân tuyệt vời. Nó tuyệt vời ở chỗ không bao giờ hóc đạn, chỉ cần lắp băng đạn cùng cỡ, sản xuất ở bất cứ nơi nào trên thế giới, xử dụng vẫn dễ dàng. Dù có đánh rơi nó xuống nước, ngâm trong bùn rồi lôi ra, lắp đạn vào, nó vẫn bắn chính xác. Và hay hơn nữa tuy là vũ khí cá nhân, nó có thể xử dụng như một khẩu liên thanh, nghĩa là nó bắn ra từng tràng đạn ngọt ngào không gián đoạn.
Khẩu AK-47 được 50 tuổi, anh tử trận 28 năm, hơn nửa số tuổi khẩu súng. Anh tử trận ở Kiên Giang (xã Vĩnh Thanh Vân, tiểu khu Rạch Giá) trong một cuộc hành quân, đánh xáp lá cà, có M-16 của Mỹ và AK-47 của Nga. Trận đánh kéo dài trên hai tuần, và lúc đó anh không biết có bao nhiêu người tử trận bằng AK-47 và M-16 cùng với anh.
Năm 1947, ông Mikhail Kalahsnikow vẽ kiểu khẩu súng mà ngày nay được cả thế giới ưa chuộng, khi đó chỉ là một thượng sĩ khiêm nhường mới 27 tuổi (năm nay là một cụ già 77 tuổi), chắc ông đâu có thể biết được, một ngày nào đó , tràng AK-47 đã xuyên qua ngực của một chàng thanh niên cũng 27 tuổi, mới cưới vợ được ba tháng, ở một nước cách xa nước Nga đến bao nhiêu ngàn dậm. Ông hồn nhiên lãnh những lời khen ngợi trong ngày đánh dấu nửa thế kỷ dành cho cái mà ông gọi là: “Món quà tổ quốc của tôi”, cũng như những người lính Bắc Việt hồn nhiên bắn những tràng AK trong cuộc chiến “Chống Mỹ cứu nước.”
Em còn nhớ không, trận đánh vào tháng 7 năm 1969 đó, sau hai tuần, nhà xác của bệnh viện tiểu khu không đủ chỗ cất xác. Xác của sĩ quan được đem vào trong, xác lính thì nằm dọc, nằm ngang ở lối đi, xếp cả ra sân, sát ra tận chân tường, bên dưới chân tường là dòng sông Kiên Giang, con nước trôi pha bùn đặc quánh. Xác lính được đắp vội vàng bằng những chiếc phoncho, lòi ra một phần ống chân với đôi dầy saut dính bùn và máu đã khô từng mảng.
Nhà xác Kiên Giang nằm cạnh bờ sông
Con nước đục lờ đờ pha sắc máu.(Thơ-tmt)
 Anh nằm ở trong, thấy mẹ và em dắt nhau, cố tránh bước qua những người lính của anh, len lỏi vào bên trong tìm anh. Mà em có nhìn được anh đâu, mùi tử khí và nỗi xúc động đã làm em ngất đi khi vừa vào đến cửa nhà xác. Anh biết, sau này em cứ hỏi đi hỏi lại mẹ là: “Có đúng anh ấy không, anh ấy đã chết thật hả mẹ?”
Anh đã chết thật rồi em ạ, em phải tập tin điều đó. Chiến tranh có thật, và sự mất mát ngoài sức chịu đựng, ảnh hưởng đến đời sống của em sau này là có thật. Anh đã chết cùng với nhiều người bạn đồng đội, và anh cũng biết rằng trong cánh rừng thuộc xã Vĩnh Thanh Vân đó, nơi đã diễn ra cuộc chiến đó, những xác người lính Bắc Việt cũng nằm gối lên nhau, cùng chia nhau những mảnh đạn bắn ra từ khẩu M-16. Người Việt Nam chết bằng cả hai thứ vũ khí được viện trợ của Nga và Mỹ.
 Ông Kalashmikov nói rằng: “Ông muốn võ khí của ông ở trong tay một quân đội có trách nhiệm.” Ông bác bỏ những cáo buộc cho rằng ông có trách nhiệm về cái chết của bao nhiêu người trên khắp thế giới với sự sáng chế của ông. (Reuter)
 Là một người lính, anh hiểu. Một quân đội có trách nhiệm, là một quân đội gửi lính ra ngoài mặt trận để giữ gìn đất đai. Người lính miền Nam đã đi làm nhiệm vụ đó, và người lính miền Bắc cũng được gửi ra dưới cái tựa đề chống Mỹ, đuổi Mỹ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Và cuộc nội chiến đó kéo dài hơn hai mươi năm. Các viên chức Nga cho hay, đã có khoản 70 triệu khẩu Kalashmikov đủ loại được sáng chế từ năm 1947 và được dùng làm vũ khí cá nhân chính cho quân đội của 55 quốc gia trên thế giới, và khẩu AK-47 sẽ tiếp tục đứng hàng đầu cho ít nhất đến năm 2025 (Reuter)

Bây giờ anh đã chết, ở thế giới xa xăm này, anh có thể nói cho em con số chính xác, có bao nhiêu khẩu AK được đem vào Việt Nam và có bao nhiêu người lính Việt Nam chết dưới tràng Ak-47. Nhưng thôi, em chẳng nên biết làm gì những con số nghiệt ngã đó!
Năm 2025, lúc đó tuổi của em cũng sẽ ngang với tuổi của Kalashmikov bây giờ. Anh mong ước em đã có một bài thơ kỷ niệm sinh nhật thứ 50, bài thơ không bắn ra một viên đạn nhỏ nào, không nhân danh một cuộc chiến nào, và cũng có thể nó có một cái tựa được viết bằng chữ số như AK-47. Em có thể đặt tựa cho bài thơ như TY-25 (Yêu Thương 2005 ) hay HB-25 ( Hòa-Bình 2025) hoặc TN-25 ( Tình Người 2005). Em sẽ không phải bác bỏ những lời buộc tội vào tác phẩm của em, vì những bài thơ đó không tung ra những mảnh nhọn, bắn tan lồng ngực của một ai.

Em thân yêu, mặc dù khẩu AK-47 còn được trọng vọng đến năm 2025, nhưng xin em an lòng, nó không thể nào đến gần anh và làm cho anh chết thêm một lấn nữa. Những cái vỏ đầu đạn bỏ sót lại trên mặt trận thì giờ đây đang được thâu lượm, rửa đi những vết máu còn bám trên đó, tái chế thành những vật dụng hàng ngày cho người dân Việt sống sót sau cuộc chiến xử dụng.
 Em hãy sống bình an, thôi lo sợ và đừng hay khóc như ngày chúng ta mới yêu nhau. Chiến tranh đã thực sự tàn lụi như em hằng mong ước, chỉ có đau dớn một điều là chúng ta vĩnh viễn mất nhau.
 (Tháng 3/1997, kỷ niệm 50 năm sinh nhật của khẩu AK-47. tmt)


Source NNS Lá Thư Úc Châu

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013

Người lính già vừa chết đêm qua

Trần Trung Đạo


Người lính già Việt Nam
Vừa mới chết đêm qua
Trên đường phố San Jose bụi bặm
Anh đã đi bao nhiêu nghìn dặm
Ðến nơi đây chỉ để chết âm thầm
Không một phát súng chào
Không cả một người thân
Không ai nói với anh một lời tiễn biệt.

Người lính già Việt Nam
Như con thú hoang lạc loài
Trên freeway nhộn nhịp
Một tiếng rên thảng thốt chảy trong mưa
Một chiếc lá cuốn đi theo cơn gió cuối mùa
Một tiếng nấc rã rời trong đêm vắng.

Vợ anh đâu?
Sao không về đây vuốt mắt
Con anh đâu?
Sao không đến vấn khăn tang
Anh ra đi như anh đến
Rất vội vàng
Chẳng còn ai trên đời để khóc.

Nhân loại văn minh có nhiều cách sống
Nhưng đồng bào tôi có những kiểu chết rất lạ đời
Người vợ mang thai
Ôm lấy chồng cùng nhảy xuống biển khơi
Ðể khỏi phải rơi vào tay giặc Thái
Cho sóng biển Ðông nghìn năm còn ru mãi
Một bài ca chung thủy vọng về Nam
Ðể mỗi sớm chiều khi thủy triều dâng
Tổ quốc sẽ được bồi thêm
Bằng máu anh thịt chị.

Có những bà mẹ nửa đêm thức dậy
Ði bán máu mình mua gạo nuôi con
Ðường về chưa tới đầu thôn
Bà gục chết không kịp nhìn mặt con lần cuối
Ðứa con út cũng chết dần trong cơn đói
Miệng còn thì thào hai tiếng "Mẹ ơi !"
Những giọt máu tươi đã giết chết hai người
Sẽ đọng lại trong nghìn trang lịch sử
Cho nước sông Hồng bao giờ cũng đỏ
Như màu máu Mẹ Việt Nam.

Ðêm qua thêm một đứa con
Vừa mới chết trên đường phố San Jose nhộn nhịp
Anh không chết ở Hạ Lào, Bình Long, Cửa Việt
Anh không chết ở Hàm Tân, Suối Máu, Hoàng Liên Sơn
Chết ở đây đất lạ sẽ thêm buồn
Trên mộ bia anh thêm một dòng chữ Mỹ

Một người Việt Nam sinh nhầm thế kỷ
Và chết cũng nhầm nơi
Ðêm nay bên kia bờ trái đất xa xôi
Quê hương anh vẫn còn chìm trong lửa đỏ.

Tôi gởi anh đôi dòng thơ
Từ trái tim của một thằng em nhỏ
Cũng lạc loài lưu lạc như anh
Chúng ta, hai chiếc lá chung cành
Bay phơ phất trước từng cơn bão tố
Ngủ đi anh bình yên nơi chín suối
Ðau thương nầy em sẽ viết thay anh.


Source Internet.

Trại cải tạo – địa ngục trần gian ở VN

                                           Bs Nguyễn Ý Đức


Trong hơn một phần tư thế kỷ tiếp tục hành nghề tại hải ngoại, y giới chúng tôi đã có nhiều dịp được tiếp xúc với một lớp người mang những tâm trạng, những rối loạn về thể chất rất đáng để ý.
 
Tìm hiểu căn nguyên của các bệnh tình này cũng không mấy khó khăn vì đa số là nạn nhân của một triền miên hành xác mà đã mấy chục năm qua hậu quả xấu trên sức khỏe của họ dường như vẫn còn. Đó là những người được mệnh danh là ”Tù Nhân Cải Tạo”….Sao mà cứ ”ăn cơm mới nói chuyện cũ” hoài vậy.
 
Vâng, đây là câu ta thường nghe một số người nêu ra, khi có ai nhắc tới cuộc chiến ở VN với các hậu quả của nó.
 
Một trong những hậu quả bi thảm nhất là sự hành hạ các anh chị em quân cán chính Miền Nam trong nhiều trại tù đầy. Nếu có ở trong hoàn cảnh của họ thì ta mới hiểu được những đau đớn mọi mặt mà họ đã phải trải qua.
 
Vả lại, người ta cứ lớn tiếng hô hào khép lại quá khứ mà luôn luôn hậm hực với Sen Đầm Quốc Tế Mỹ và nghi kỵ trục lợi với Khúc Ruột Ngoài Ngàn Dặm Ngụy; đã 30 năm rồi người ta vẫn linh đình ăn khao chiến thắng trên sự ngao ngán thở dài của dân chúng trong, ngoài nước, thì phải chăng ”nói vậy mà không làm vậy”.
 
Và chỉ mới đây thôi, vài tấm bia vô tri bằng đá mang mấy dòng chữ tưởng niệm linh hồn những người cùng máu mủ tử nạn khi vượt biên tìm tự do và tri ân quốc gia cứu giúp cũng bị người ta tìm cách phá hủy.
 
Thì tưởng rằng vô sản đã quá vô cảm, chẳng còn một chút tình người.
 
Cho nên nhắc lại để người ta nhớ cũng là chuyện nên làm. Vì chính những nhân vật chủ trương ra lệnh tù đầy ngụy quân ngụy quyền hồi đó cũng đã lên tiếng nhận có sai lầm chính sách về chuyện cô lập vô nhân đạo này.
 


Sau ngày 30-4-75, mọi người đều e ngại về một cuộc tàn sát trả thù đẫm máu vì đã có những lời đồn đại về hành động này. Nhưng tới phút chót, người thắng trận miền Bắc đã nghĩ ra một giải pháp có vẻ nhân đạo hơn nhưng thương tích sâu đậm dài lâu hơn. Quân cán chánh VNCH đã được khuyến dụ trình diện để ”học tập” ngắn hạn. Gọi là ”tìm hiểu đường lối, chính sách của nhà nước và để gột bỏ tàn tích chống phá cách mạng khi xưa”. Chính quyền mới hứa là thời gian học tập chỉ vài tháng rồi ai nấy trở về với gia đình, phục vụ đất nước.
 
Nhưng thực ra đây là một sự tù đầy, tẩy não, hành xác. Có người vài ba năm. Rất nhiều người mươi năm. Và số người triền miên tù đầy gần hai chục năm cũng không ít. Lại còn một số đáng kể chết mất xác trong tù đầy hành hạ.
 
Người sống sót trở về đã kể lại nhiều thảm cảnh mà họ phải gánh chịu trong thời gian đau khổ ấy. Những thảm cảnh mà nghe lại ai cũng rùng mình.
 
 ”Rồi mai đây, nếu vì may mắn nào đó, tôi được sống trong môi trường khác, tôi có bổn phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả những gì đã xẩy ra, đã khắc xâu vào tâm khảm tôi những chứng tích khổ đau, hờn hận !” (Tạ Tỵ – Đáy Địa Ngục, trang 152).
 


Sau đây là một số nhân chứng đã trải qua các cuộc hành xác tù đầy, kể lại những hình thức hành hạ nạn nhân. Chúng tôi xin phép các tác giả trích đăng để thế hệ con cháu trong ngoài nước hiểu rõ mà tránh đi vào vết xe cũ.
 
Cũng để cảm ơn vì các ghi chép đã giúp thầy thuốc hiểu rõ nguyên nhân xa gần đưa tới bệnh tật của thân chủ và dễ dàng hơn trong khi điều trị, chăm sóc.
Chứ chẳng phải để tiếp tục nuôi dưỡng những hận thù mà làm chi
 
Điều kiện sống mất vệ sinh
 
Vệ sinh trại: Chật chội, ngào ngạt hơi người, mùi hôi của mọi người, mọi bệnh riêng của mỗi người, cả tháng không tắm. Cả ngàn người có một giếng nước, kéo một lúc đã cạn nước. Để lâu không dùng chuột bọ chết thối đầy đáy giếng. Ăn uống vào là bị kiết lỵ. Đi cầu vào các dẫy hố đào trên mặt đất”
 
Cả trại nhốn nháo về bệnh kiết lỵ. Hầu như không khu nào thoát. Chưa bao giờ buổi sáng lại đông người chờ đi cầu như vậy. Mặt mũi người nào cũng nhăn nhó , mệt mỏi trông thật thảm hại… Thật đau khổ, lúc nào bụng cũng quặn đau, mỗi lần đi cầu són ra một chút, phân ít, mũi máu nhiều. Từ nơi tôi ở ra nhà cầu khá xạ Để tiện việc, tôi không về nhà, ngồi ngay ở căn nhà chiếu Tivi sẵn sàng chạy ra hố cầu khi cần. Không phải mình tôi như vậy mà hàng chục người tay cầm lon nước, ngồi bệt xuống mặt cát. Bệnh của tôi kéo dài cả tuần sau khi uống cả lọ tetracycline do Lan chọ Trong thời gian kỷ luật chúng tôi được xuống sông tắm mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ bận hay có việc gì bất thường thì phải chờ lâu tới ba tuần.” (Tầng Đầu Địa Ngục – LM Nguyễn Hữu Lễ).
 
Nhà cầu nổi.-

 
Buồng trống trơn không có thứ gì ngoài mấy cái ống bẩu bằng luồng, một loại tre to và rỗng ruột. Đây là phương tiện toa-lét để tù nhân trong buồng đại tiểu tiện vào đó….Khi đi đại tiện, người tù phải dùng tới hai ống bẩu, mỗi tay cầm một cái. Ống hứng nước tiểu phía trước và ống phân dĩ nhiên là phía sau… Ống phía trước có thể là ống nhỏ, nhưng ống phía sau bắt buộc phải là ống có đường kính to và nhẹ. Yếu tố này rất quan trọng, vì trong lúc ”thi hành nghĩa vụ” của bản năng, nói nôm na là ”đi cầu”, người tù phải quàng tay ra đằng sau để giữ cái ống bẩu. Nếu ống này nặng quá, người tù không thể giữ ống sát vào mông, tuột tay làm đổ phân tung tóe trong buồng..
 
Vì đã làm quen với cuộc sống tù quá ư là chật trội, bẩn thỉu và thiếu mọi tiện nghi tối thiểu của con người, nên chúng tôi chẳng ai cảm thấy mùi thối tha hôi hám gì trong cái buồng giam kín như cái thùng sắt này. Buồng giam chỉ có một cửa sổ duy nhất và rất hẹp, khí không thể lùa vào buồng được. Do đó chúng tôi cứ phải thở ra hít vào buồng phổi mình cái hơi nóng của bầu khí trong buồng mà tôi có cảm tưởng nó đã đặc quánh lại thành một thứ chất dẻo, không còn là ở thể khí nữa. (Tầng đầu địa Ngục – LM Nguyễn Hữu Lễ).
 


Lao động quá sức.
 
Tù nhân bị ép buộc phải liên tục Hạ quyết tâm làm những điều mà trại đặt ra như sau:
Tôi không bao giờ quên rằng tôi là kẻ có tội với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân. Tôi cũng không quên rằng Đảng đã khoan hồng tha tội chết cho tôi, lại tập trung tôi lại, tạo điều kiện cho tôi học tập cải tạo để trở nên người công dân lương thiện. Để đền ơn Đảng, tôi nhất trí:
 
1. Tích cực học tập cải tạo lao động tốt.
 
2. Giải phóng mọi tình cảm gia đình yếu đuối và tình nguyện ở lại trại học tập lao động cho dến khi nào được cách mạng công nhận tiến bộ cho về phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân.
 
3. Trong thời gian học tập tại trại, tôi phải chấp hành nghiêm chỉnh mọi nội quy quy định. Khắc phục mọi khuyết điểm tồn tại. Đấu tranh sai trái để thủ tiêu mọi mặt yếu của các bạn cải tạo khác hầu biến trại ta trở thành trại cải tao tiên tiến về mọi mặt.
 
4. Tố giác kịp thời với Cách mạng bọn xấu trong và ngoài trại đang còn ý đồ chống phá cách mạng.
 
5. Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối khoan hồng trước sau như một của cách mạng.” (Hà Thúc Sinh ghi lại trong Đại Học Máu trang 100).

 
Lao động là thước đo mức độ giác ngộ của tù nhân.Thế là lại được đi lao động để giác ngộ! Sau đây là các tiêu chuẩn mà tù nhân phải lao động: 
 
- Cuốc đất: 150m2/ngày/người; 
- Trồng mì: 5000m2 / 1 ngày/4 người; 
- Khai quang: 300m2/ngày/người; 
- Lấy cây đường kính 30cm, dài 4 thước /hai người một cây, xa 3 cây số; đường kính 10 phân, dài 4 thước hai người năm cây một ngày.
 

 Dọa nạt, nhục mạ.
 
Tao bảo thật với chúng mày ngoài việc lao động như thế có mà ăn cứt, ngày về của chúng mày cũng kéo dài vô tận. Tao đã lên lớp cho chúng mày nhiều lần rồi. Cách mạng không có tình trạng lơ lửng con củ cặc. Một, chúng mày học tập lao động cho tốt để có ngày mà trở về. Hai, bánh xe lịch sử sẽ nghiền nát chúng mày trong này mất thôi(Đại Học Máu – Hà Thúc Sinh, trang 116).

"Các anh là những người có tội. Chính sách 3 năm Cải Tạo đề ra, nhưng nó không phải là mốc nhất định cho tất cả mọi người ! Các anh đừng có giả vờ ” nín thở qua sông” để hết cho ba năm thì về. Tôi nói thẳng cho các anh biết, có thể 3 năm cũng có thể 15 hay 20 năm đó!(Tạ Tỵ – Đáy Địa Ngục trang 439).
 
Bỏ đói khát.
 
Có lẽ bỏ cho đói khát là chính sách để kiềm chế, kiểm soát người tù. Nên bất cứ tù nhân nào cũng nói rất nhiều về sự hành xác này.
Đã hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn miếng thịt nào. Lao động mỗi ngày 8 tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có, mỗi ngày lãnh hai chiếc bánh mì luộc, mỗi cái khoảng 200 gram và ” chiếc bánh buổi sáng 50gram, như vậy chúng tôi chỉ được ăn 450 gram chất bột với muối, không có chất béo, chất rau và chất đạm nào! Do đó, ai nấy đều gầy dộc hẳn, da khô khốc. Trên nguyên tắc theo giấy tờ chúng tôi được ăn 18 kí lô chất bột, 300 gram thịt mỗi tháng, nhưng thực tế chúng tôi chỉ được ăn 13 kí 500 chất bột..” (Đáy Địa Ngục – Tạ Tỵ trang 378- 379).
 


Ăn bất cứ thứ gì là thịt.
 
Nam cầm con rắn dài khoảng 6 tấc, to bằng ngón tay cái, không trắng không đen. Anh tìm sợi dây, buộc đầu con rắn cạp nong treo lên cành cây, rồi dùng lưỡi dao nhỏ cứa xung quanh cổ rắn. Con rắn lắc lư, lắc lư như chiếc que. Tôi không hiểu bằng cách nào Nam lột da con rắn nhanh như vậy. Da rắn vứt xuống suối, dòng nước cuốn đi trong nháy mắt. Nam hạ con rắn xuống mổ ruột, rửa nước suối rối sắt ra từng khúc , bỏ vào lon ghi gô, cho chút bột cà ri mà lúc nào anh cũng mang theo, đổ chút nước, thêm tí muối rồi cho lên bếp lửa. Lát sau, hạ xuống, anh trịnh trọng ngồi trên tảng đá sát dòng suối ăn hết con rắn một cách ngon lành(Tạ Tỵ ”Đáy Địa Ngục, tr 439).
 


Mỗi bữa hai miệng chén cơm nhỏ gạo mục, cả trăm người chỉ có vài chục con cá ngừ thối nấu với rau, từ xa đã ngửi thấy mùi hôi…Cho ăn để khỏi chết đói, đó là khẩu hiệu của trại.
Có nhiều tù nhân đã nướng sống sít các con sên con ốc rừng mang hàng triệu vi trùng sốt rét hoặc ăn quả sung rừng cho đỡ đói, ăn phải quả độc ” đứt thần kinh, sùi bọt mép, lên kinh phong rồi chết”
Cái lon nhôm sữa bột guigoz được gọi vắn tắt là cái Gô, là bạn bạn đồng hành thân thiết của tù. Người tù nào cũng kè kè bên mình một cái vừa đựng nước uống ra bãi, vừa dùng để nấu canh tại bãi lao động. Những loại rau cỏ dại ăn được tìm thấy ngay tại hiện trường, lén nhổ bỏ vào gô rồi nhờ nhà bếp nấu. Nấu chín xong để bụi cát lắng xuống phần dưới, ăn phần rau cũng đỡ cái bao tử rỗng một lúc. Hôm nào bắt được con cóc, con nhái thì ” canh có người lái”, tù gọi là Protein; con gì cũng qui vào chất thịt, chất protein bổ dưỡng. Tù có câu:” con gì nhúc nhích là ăn được”; rau gì không chết thì ăn”.
 
Tiêu chuẩn kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu . Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp nhai cái lưỡi đã đưa cơm vào cổ” Đến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện một lần, vì đại tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó.” (Nguyễn Chí Thiệp- Trại Tù Kiên Giam trang 35).
 


Thiếu thốn
 
Chia nhau vài thìa đường: ”Anh ta cầm nhanh lấy cái thìa và với một tư thái rất cẩn trọng, anh gom các phần đường đang chia dở và bắt đầu chia lại. Mười người mười phần. Trợ chia thật khéo nhưng cũng thật chậm. Đôi khi tay anh run làm một vài hạt đường rơi xuống miếng giấy dầu, văng dính vào ngón chân anh. Anh vội lấy ngón tay chấm mấy hạt đường ấy và cho lên miệng. Người ta bực mình nhưng người ta không thể giành lại những hạt đường đã dính vào những ngón chân cáu bẩn của kẻ khác.” Mỗi người được ba thìa đường sau ba tháng tù” (Hà Thúc Sinh- Đại Học Máu, trang 148).
 

Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mỗi lần đi ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi lên hương. Hai con mắt hoạt động tích cực để tìm nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn thì cái bàn chải đánh răng cũ hoặc ít giấy bao xi măng làm vở viết chữ Tầu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố học” (Tầng Đầu Địa Ngục- LM Nguyễn Hữu Lễ).
 


Hành hạ cơ thể.
 
Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên tắc mà tù nhân bị ”đại cá’ ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ tù.
 
Nếu chỉ để cảnh cáo và áp đảo tinh thần những lính mới để bắt phải đi vào khuôn phép thì chỉ cần sử dụng ”chưởng” tức là đánh bằng hòn đá bọc trong cái vớ; hoặc ”bẻ ngà” là dùng đá cà hoặc đập gẫy hết cả hai hàm răng. Trường hợp nặnghơn thì ”lấy cấp phá’tức là móc đôi mắt, hoặc ” xin cặp nạng” nghĩa là cắt gân gót chân. Trường hợp nghiêm trọng thì đối phương sẽ được ”cất” có nghĩa là giết chết. (Tầng Đầu Địa Ngục – LM Nguyễn hữu Lễ).
 


Tên vệ binh hung ác vừa quật roi mạnh hơn vừa chửi rủa thậm tệ:
 
- Đ.M. chúng mày là đồ tư sản, dưỡng xác quen, làm việc chây lười, không cố gắng, không có kỷ luật gì hết !
Chiếc roi lại tiếp tục rít trong không khí, bay tới tấp vào thân xác ba người tù. Đại đức Thích Thiện Cao bị đòn đau quá chỉ biết rú lên những câu quen thuộc ”Mô Phật”, rồi nhắm mắt, oằn người lên chịu đựng. (Phạm Quang Giai-Lần cuối bên anh, trang 247)
 
Bắt quỳ để trừng phạt.
 
Nói đến sùi bọt mép mà thấy nét mặt của mười thằng ”ngụy” vẫn trơ thổ địa ra, thằng quản giáo cáu quá hét: Tao phạt chúng mày quỳ hai tiếng. Quỳ xuống.” Bọn tù chỉ liếc nhìn nhau chẳng ai chịu quỳ. Thằng quản giáo đâu có chịu thuạ Hắn móc súng bắn đến đùng một phát. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh em lần lượt êm ái quỳ. Thằng quản giáo đứng chửi rủa một lúc rồi mới chịu bỏ đị..” (Đại Học Máu-Hà Thúc Sinh. trang 116).
 
Hai chân tôi bị còng chéo để bức cung. Còng chéo hai chân bị đóng cứng chặt giữa hai cái còng hình chữ U và thanh sắt xuyên. Vì độ cao của thanh sắt giở hổng hai chân lên thành ra không thể nằm thẳng lưng, vì nằm như vậy thân mình căng ra hai chân bị siết chặt vào sắt đau buốt tận tủy óc. Người bị còng phải dùng hai khuỷu tay để chống hoặc cởi hết quần áo ra chêm ngang thắt lưng mới chịu được một thời gian. Chờ một vài ngày hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp thì hai chân sẽ thẳng ra nhưng phải nằm sấp. Nhưng chỉ vài ngày chân đã sưng húp vì ban đêm bị lắc còng điểm danh” (Trại Tù Kiên Giam- Nguyễn Chí Thiệp- tr 473)


Bệnh xá – Bệnh tật.
 
Mặt đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm cứ như những cái xác chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút nước vo gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù thũng trầm khạ..” (Đại Học Máu Hà Thúc Sinh tr 251).
 
Nói là bệnh xá cho xôm trò chứ nơi đây chỉ là một nhà thường có sạp nằm cho bệnh nhân. Lúc tôi đến đây thì đã có hai mươi trại viên đang trị bệnh tại đây. Người tôi bị tê liệt toàn thân do đó những việc vệ sinh cá nhân tôi không làm được, tôi phải nhờ sự giúp đỡ của hai bệnh nhân nằm hai bên tôi. Hai bệnh nhân này không cùng một trại với tôi.
Một hôm cán bộ bác sĩ đến tận giường tôi đọc lệnh mà nội dung như sau:- Anh Phan Phát Huồn, anh là một tên có nợ máu với nhân dân nhưng đảng và nhà nước ta đã tha tội chết cho anh, anh đau ốm vẫn cho anh nằm ở bệnh xá điều trị, vậy mà anh không biết điều, vi phạm nội quy của bệnh xá bằng cách quan hệ với người khác trại, vậy ngay từ giờ phút này anh phải ra khỏi bệnh xá. Nói xong ông ta ra lệnh cho y công buộc dây thừng vào hai chân tôi và kéo tôi như một con chó ra khỏi bệnh xá”.(AK và Thập Giá- LM. Phan Phát Huồn). ”
 
"Tại bệnh viện tôi đã nghe nói và chứng kiến những cuộc ”căng mùng” ghê rợn. Căng mùng tức là nói đến giải phẫu bệnh nhân. Để tránh ruồi muỗi bu vào lúc giải phẫu, bệnh nhân được đưa vào trong mùng. Vì không có thuốc tê nên người ta cột bệnh nhân vào giường, lại còn có các anh hộ lý đè bệnh nhân xuống để bệnh nhân khỏi vùng vẫy lúc quá đau đớn. Thường thường bác sĩ dùng dao cạo râu để giải phẫu. Bệnh nhân gào thét kêu la thảm thiết, tôi có cảm tưởng là một con lợn đang bị thọc huyết” (AK và Thập Giá-LM Phan Phát Huồn).
 
Bệnh nhân bị bệnh gì gã cũng cho uống Xuyên tâm liên. Kiết ly, tiêu chẩy: xuyên tâm liên. Sốt rét sốt nóng: xuyên tâm liên. Ho lao, sưng phổi: xuyên tâm liên.Vì thế rất nhiều bệnh nhân chết oan uổng.” (Thanh Thương Hoàng-Những Nỗi Đau Đời ”trang 51).
 
Chứng kiến sự hành hạ tù nhân khác
 
Vừa dứt câu hỏi, tên vệ binh xuất kỳ bất ý dùng chân móc cú đá hậu vào khuỷu đầu gối của Trác, khiến Trác lao chao. Tên cảnh vệ tiếp theo cái lao chao của Trác bằng một cú đập mạnh báng súng AK vào người Trác, khiến người tù Việt quốc không còn đủ sức đứng vững, cả thân xác ông rơi xuống như quả sung rụng. Trác vừa té sóng soài trên hiện trường sám hối thì liền lúc đó tên này tung người lên dùng một đòn hiểm nhẩy lên đứng trên thân xác của Trác. Các đồng đội của Trác ngồi trong vòng tròn đều nhắm mắt mỗi khi nhìn thấy tên cảnh vệ dùng những cú giầy đinh nện mạnh trên mặt, trên người Trác. Máu bắt đầu chan hòa trên hiện trường sám hối” (Phạm Quang Giai-Lần Cuối Bên Anh-trang 165) ”


Tiếng kêu rú rùng rợn vẫn không ngớt phát ra từ những căn phòng xung quanh. Phượng vẫn ngồi như chết cứng. Rồi đột nhiên đèn bật sáng chói, nàng thấy mình đang ở trong một căn phòng toàn những dụng cụ tra tấn”.Nàng thấy ghê tởm, rồi tự dưng trong nàng nảy ra một ý định tìm cái chết, trước khi bị tra tấn, nàng đang nghĩ”Chợt cánh cửa sau bật mở. Nàng vội ngồi thu người lại sát tường, mắt ánh lên, thấy hai tên chuyên viên tra tấn xốc nách một người đàn ông, kéo sệt trên nền xi-măng. Mặt người đó tím bầm, hai bên mép ứa máu còn chẩy ra ròng ròng, tóc rối bù bết máu, đầu ngoẹo sang một bên, mình trần trụi bê bết máu, chân tay mềm nhũn rá”’ (Trần Nhu- Địa Ngục Sình Lầy, trang 163)
 


Cô lập trong hầm đá
 
Tên vệ binh hầm hầm đi về phía cửa hầm đá số 5. Hắn tra chiếc chìa khóa vào ổ rồi quay một vòng nghe răng rác. Hắn kéo chiếc cửa sắt nặng nề ra, để lộ một không gian tối om. Mùi hôi thối từ trong phòng xông ra những; đồng thời với tiếng hú ma quái ngân dài lê thê phát ra từ trong long hầm đá, nghe thật ai oán. Tên vệ binh trở lại chỗ Sâm ra lệnh:
- Vũ Sâm ! Mày vào hầm đá số 5 để mà tưởng nhớ đến người vợ đẹp của mày.
Sâm lần thần đi thật chậm, tiến vào miệng hầm, rồi cũng thật nhanh, anh lọt hẳn vào bên trong. Vũ Sâm quay người lại nhìn tên vệ binh lần chót trước khi chìm hẳn vào bóng đêm dầy đặc, vu vơ vàtăm tối. Cánh cửa sắt đóng lại, tạo thành tiếng sầm khô khan.” (Phạm Quang Giai-Lần Cuối Bên Anh. Trang 43).
 
Ngoài ra còn nhiều cách hành hạ khác như :
Chói cột với tù nhân khác; nhốt trong thùng sắt, trong túi; đầy ải ngoài nắng, nóng, dưới đèn sáng; bịt mắt; chói cột xuống đất; đá đít, bạt tai; giả xử tử; bắt uống những thuốc lạ; dìm dưới nước; làm cho nghẹt thở; cheo lơ lửng trên không; gây tổn thương cho ngọc hành cơ quan sinh dục; tạt phẩn, nước tiểu lên mặt; tra tấn bằng điện; châm chọc kim vào đầu ngón tay, ngón chân; không cho ngủ; bỏ cho muỗi, kiến, đỉa cắn…
Những hành hạ đưa tới bệnh tật triền miên cho người sống sót.
 


Kết luận
 
Liên Hiệp Quốc coi hành hạ tra tấn là bất cứ hành động nào đưa tới đau đớn về thể xác và tâm thần nạn nhân.
Theo cơ quan Ân Xá Quốc Tế, sự tra tấn vẫn còn được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Tra tấn xẩy ra quá thường khiến cho cơ quan này không ước lượng được số nạn nhân mà chỉ nêu ra một số quốc gia áp dụng sự hành hạ này, vì chiến tranh, đàn áp, tiêu diệt chủng tộc.
 
Các nhà tâm lý xã hội cho hay hành hạ có mục đích làm xáo trộn, hoặc đúng ra là để phá hủy sự liên tục của cuộc sống con người cho tới một mức độ mà sự hồi phục trở nên tốn kém đôi khi không sao thực hiện được.
 Mà đa số nạn nhân bị đối sử tàn tệ sau đó lại được định cư ở một quốc gia khác như người tị nạn, nên họ gặp nhiều khó khăn hội nhập vào một nền văn hóa với nếp sống mới, ngôn ngữ mới. ”
 
Đó chính là trường hợp các cựu tù nhân quân cán chính VNCH. Nạn nhân sống sót của tù đầy tra tấn có những phản ứng cảm xúc khác nhau tùy theo cá tính và căn bản giáo dục: từ giận giữ, phẫn nộ tới cảm thấy nhục nhã; cảm xúc ngay thẳng chính đáng tới sai trái tội lỗi; tự tin quyết đoán tới tủi thẹn, xấu hổ. Chắc chắn là họ khó mà quên được những vết thương mà người có quyền đã để lại trên cơ thể tâm hồn họ.
 Những ảnh hưởng này sẽ tồn tại rất lâu, có khi suốt đời.
 
Những hoảng hốt, lo sợ, những trầm buồn, những cơn ác mộng sẽ thường trực đến với họ và có nhiều tác dụng xấu cho đời sống cá nhân cũng như gia đình. Rồi lại còn những suy nhược tim gan tỳ phế vì thiếu ăn, thời tiết khắc nghiệt, lao động khổ sai nơi rùng sâu nước độc.
Nhiều ngàn người hiện nay không thi vào quốc tịch mới được vì trí nhớ suy kém, giảm khả năng học ngoại ngữ. Và còn cần sự chăm sóc của giới y tế đồng hương trong nhiều năm còn lại của cuộc đời. Giải thích để họ hiểu tại sao hành hạ đã xẩy ra có hy vọng một phần nào mang họ trở lại cuộc sống bình thường.
 
Cũng như một hành động, một lời nói ”sorrý’ từ phía chính quyền hiện tại.
 
Như người da trắng đã sorry với nô lệ da đen bị kỳ thị, bóc lột trong thế kỷ trước.
 
Cũng như Giáo hội Công giáo đã nhìn nhận nhiều sai lầm trong quá khứ liên quan tới sự tôn trọng đối với những cá nhân hoặc cộng đồng.
 
Thế hệ con cháu khi nghe những chuyện đau thương này của cha chú, chắc cũng rùng mình kinh sợ.
Kinh nghiệm Holaucost vẫn còn ám ảnh lương tâm loài người sau cả trên nửa thế kỷ. Cũng như thảm cảnh tù đầy ”cải tạo” ở VN vào thập niên 70-80 của thế kỷ vừa qua.
 


Ghi lại để mà tránh tái diễn. Và nhắc nhở người ta đừng quá ảo tưởng với hào quang chiến thắng bọt nước mà quên sự tàn ác mà mình đã áp đặt lên những anh em cùng chung một bọc, Trăm Con Trăm Trứng Tiên Rồng.
 


Bs Nguyễn Ý Đức, Texas
Source Internet.

Đi tìm mộ ông Nguyễn Hiến Lê



 
 
 
-                    Mộ Nguyễn Hiến Lê hả? Chị không biết. Chị chưa nghe cái tên này bao giờ.
 
Chị Dương vừa nói vừa lắc cái đầu nhỏ nhắn làm đuôi tóc vẫy vùng sau lưng. Giọng nói nhẹ nhàng của cô gái miền Tây không chút giấu giếm và đùa giỡn. Nhìn sâu vào mắt chị, tôi biết chị nói thật.
 
Có lẽ nào, tôi tự nhủ trong lòng. Ông Nguyễn Hiến Lê mà chị ấy không biết sao. Tôi cứ nghĩ một vị học giả lẫy lừng như ông chí ít ai từng cắp sách đến trường đều biết. Huống hồ, chị là một nhân viên kế toán kiêm luôn chân giữ thư viện huyện mà lại lạ lẫm với cái tên quen thuộc ấy sao. Kỳ lạ! Ngửa mặt nhìn tấm bảng hình chữ nhật treo vững vàng trên bậu cửa, tôi nhẩm lại dòng chữ “Phòng Văn hóa Thông tin huyện Lai Vung - tỉnh Đồng Tháp”. Không lẽ nào.
 
Khi đọc xong cuốn “Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười”, tôi nổi hứng muốn đi tìm mộ tác giả để thắp một nén nhang biết ơn. Nhớ có lần đọc trong một cuốn sách nói rằng mộ ông nằm ở Lai Vung, tôi phóng xe Honda đến đó. Tôi nghĩ, với một người có nhiều đóng góp cho nền văn hóa như ông, chắc sẽ có một khu mộ đàng hoàng mà chỉ cần hỏi nhỏ người dân ở đó là biết. Cho nên, ngay cả khi chị Dương nói một câu rất chân thật nhưng phũ phàng, tôi cũng không suy suyển lòng tin. Tôi tự an ủi, chắc chị nghe không rõ tiếng tôi, cũng có thể là chị chưa kịp nhớ ra. Tôi cẩn thận ghi tên ông ngay ngắn vào một tờ giấy rồi đưa chị đọc. Chị đọc đi đọc lại một cách chậm rãi như thể đầu óc đang làm việc hết công suất để sàng lọc từng milimet trí nhớ hòng tìm ra cái tên Nguyễn Hiến Lê. Cuối cùng, chị trả lại tôi mảnh giấy với nụ cười e lệ.
 
-                    Chị không biết thật rồi. Chắc anh Tú, trưởng phòng Văn hóa Thông tin biết. Để chị dẫn em vô gặp anh ấy nhé.
 
Tôi lẽo đẽo theo chị trong lòng khấp khởi mừng. Nếu quả thật người tôi đang đi tìm có ở Lai Vung và nổi tiếng như thế thì trưởng phòng Văn hóa Thông tin huyện biết là cái chắc. Anh Tú có phòng làm việc riêng, trên bàn chiếc máy tính nối mạng đang phát một bài nhạc cách mạng hào hùng. Sau khi nghe nguyện vọng của tôi, anh nhún vai nói giọng rề rà nhưng chắc nịch.
 
-        Anh chưa nghe tên ông ấy bao giờ. Chắc em lầm với ông Huỳnh Thủy Lê ở Sa Đéc rồi.
 
Tôi nhủ thầm, người miền Tây thích đùa và biết cách đùa khéo quá. Chắc anh ấy thử mình thôi chứ với chức vụ anh ấy mà không biết ông Nguyễn Hiến Lê thì còn ra thể thống gì nữa. Tôi cố nở một nụ cười hỏi lại anh bằng giọng nhẹ tênh:
-        Anh không biết ông ấy thật à?
-        Thật mà. Ông ấy là ai vậy em? Anh hỏi lại tôi hết sức bình tĩnh như đang chờ được cung cấp thông tin về một con người xa lạ. Nhìn chiếc máy tính, tôi đề nghị:
-        Anh cho em mượn máy tính chút nhé? Anh đồng ý.
 
Tôi gõ tên ông vào Google, cả một núi thông tin về ông xổ ra nhưng không có một chi tiết nào đả động đến chuyện mộ ông hiện ở đâu. Anh trưởng phòng đứng cạnh tôi nheo mắt chăm chú đọc. Cuối cùng anh à lên một tiếng:
-        Ông này cũng nổi tiếng dữ hen.
 
Thấy anh có vẻ say sưa, tôi bỏ ra ngoài hiên ngồi mong nguôi ngoai cơn thất vọng đang dâng lên trong lòng. Có vẻ như ông trời cũng biết tôi buồn, nên đang nắng ngon lành, tự dưng đổ mưa xối xả. Cơn mưa giữa trưa đuổi bắt nhau trên những tấm tôn lúp xúp, xám màu. Mưa níu chân tôi lại nơi góc hiên thư viện. Ngồi xuống chiếc ghế đá lạnh lẽo, tôi tự hỏi mình còn cách nào không, còn mối quan hệ nào tôi chưa chạm tới để tìm ra mộ ông không. Tôi có cảm tưởng mình đang phiêu lưu trong khu rừng rậm rạp để tìm kiếm một linh hồn bí ẩn trên sách vở. Giây phút linh hồn mỏng manh kia vút lên trời cao khiến tôi thấy lòng hồi hộp một cách lạ kỳ. Tôi chỉ mới hỏi han hai người, quá ít để đi tới một kết luận. Hẳn phải còn một khe hở nào đó mà tôi chưa tìm ra.
 
Chợt nhớ bà cô dạy văn hồi cấp 3. Quê của cô ở Lai Vung thế nào cô cũng có chút thông tin về mộ ông Nguyễn Hiến Lê nếu nó thật sự ngự trị tại đây. Cô là người học cao hiểu rộng chắc sẽ giải đáp được thắc mắc cho tôi. Không chần chừ đến một giây, tôi hăng hái bấm số điện thoại của cô. Tiếng bên kia đầu dây đánh thức những dây thần kinh trong người tôi đến mức phấn khích như người chết đuối vớ được chiếc phao. Nhưng đôi khi, phao không đưa ta đến bờ được. Cô biết ông nhưng không biết mộ ông nằm ở đâu. Cô hứa sẽ gọi điện hỏi thăm bà con ở Lai Vung xem thử có ai biết không, và dặn tôi chờ.
 
Còn ai có thể trả lời câu hỏi của tôi đây? Nhà giáo không biết liệu nhà văn có hơn không? Nghĩ thế tôi không ngần ngại bấm số của một anh nhà văn. Tôi tin rằng giới văn nghệ sĩ rất rành mấy chuyện bên lề này. Anh bạn tôi là người hay giang hồ vặt, lại thêm dân miền Tây, chắc sẽ có những thông tin hay ho. Nhưng câu hỏi của tôi thuộc loại khó nuốt, anh biết rất rõ ông Nguyễn Hiến Lê nhưng cái vụ mồ mả thì anh bí. Anh nói sẽ gọi những bạn văn của anh để hỏi xem có ai biết không. Lại một lời hứa.
 
Đã hỏi hai “nhà” rồi, tôi hăng hái hỏi nốt nhà báo cho đủ bộ tam. Nhà báo đi còn ác liệt hơn nhà văn và giao thiệp rộng, sao lại không hỏi thử nhỉ? Đã mất công đi xuống tận đây thì lẽ nào lại đi về tay không? Tôi tìm số anh nhà báo quê miền Tây. Sau hồi chuông thứ nhất, anh bắt máy liền. Vừa nghe câu hỏi của tôi xong, anh đáp lại bằng một tràng cười sặc sụa. Có vẻ như chuyện tôi đang làm buồn cười lắm. Khi không lại đi tìm mộ một người không phải họ hàng thân thích, chưa một lần gặp mặt, chỉ biết qua những trang sách. Thật điên rồ! Cuối cùng, anh cũng nín được cười để trả lời tôi một cách rõ ràng và mạch lạc rằng không biết.
 
Ngoài kia mưa vẫn rơi, gió vẫn thổi, và tôi ngồi đây, lục tìm trong danh bạ số điện thoại của một người quen ở Đồng Tháp, bất chợt bàn phím ngừng ở số tổng đài 19001080. Tại sao lại không gọi nhỉ? Tổng đài là nơi giải đáp mọi thắc mắc từ quan trọng đến tầm phào mà. Hơn nữa, nơi ấy đâu chỉ có một cái đầu. Tôi bấm số tổng đài. Tiếng tút tút dài đằng đẵng kết thúc bằng giọng nhẹ nhàng của cô nhân viên. Nhưng nghe yêu cầu của tôi xong, giọng cô có vẻ khác. Tôi nghĩ rằng cô đã phải nhịn cười. Cô nói tôi chờ máy để cô tra cứu thông tin. Một phút. Ba phút. Năm phút trôi qua. Đến phút thứ sáu, cô nói rằng tổng đài của cô chưa cập nhật thông tin này và mong khách hàng thông cảm. Tôi có thể thông cảm và hiểu cho yêu cầu kỳ quặc này, nhưng sẽ thật là có lỗi với người đã khuất khi ông mất đến nay là tròn 25 năm. 25 năm mà chưa cập nhật thì bao giờ mới cập nhật đây?
 
Chị Dương thấy tôi cầu cứu hết mọi nơi mà không kết quả gì cũng ái ngại giùm tôi.
-        Em tính đi đâu bây giờ?
-        Em cũng không biết nữa. Tôi nghĩ đến đoạn đường về.
-        Em có muốn về nhà chị ăn cơm không?
 
Có người nhắc, tự dưng cái bụng tôi đâm ra dở chứng. Tôi biết người miền Tây rất hiếu khách nhưng không ngờ hôm nay lại được mục kích sự hào sảng ấy. Cớ gì lại từ chối lòng tốt của một người như chị nhỉ?
-        Em không làm phiền chị chứ?
-        Phiền gì đâu. Về cho biết nhà. Sau này có xuống Lai Vung thì ghé nhà chị chơi.
 
Trời đã tạnh. Cơn mưa ban trưa như gột rửa cái nóng mùa hè, để lại những vũng nước loang loáng trên đường. Chị chạy xe đi trước, tôi rà rà theo sau. Mái tóc chị bay bay trong gió làm tôi nhẹ lòng. Nếu chuyến đi này không tìm được mộ ông Lê thì ít nhất, tôi cũng có thêm được một người chị dễ thương. Tóm lại là không lỗ.
 
Từ phòng Văn hóa Thông tin đi chừng 2 km nữa là tới nhà chị. Ngôi nhà lá nằm im ắng bên đường quốc lộ. Cả nhà đang xem ti vi nên không ai chú ý đến tôi. Mọi người chỉ lao xao về tôi khi nghe tôi hỏi mộ ông Nguyễn Hiến Lê. Ba má chị là người sống gần hết một đời ở đây cũng không biết mộ ông ở đâu. Thấy vậy, tôi không hỏi thêm ai nữa. Tôi còn nhớ lời tựa của ông Nguyễn Hiến Lê mở đầu cho cuốn Đông Kinh Nghĩa Thục có đoạn như sau: “Mà có bao giờ người ta nghĩ đến việc thu thập tài liệu trong dân gian không? Chẳng hạn khi một danh nhân trong nước qua đời, phái một người tìm thân nhân hoặc bạn bè của người đã mất, để gom góp hoặc ghi chép những bút tích cùng dật sự về vị ấy, rồi đem về giữ trong các thư khố làm tài liệu cho đời sau. Công việc có khó khăn tốn kém gì đâu, mà lại có lợi cho văn hóa biết bao. Có như vậy các người cầm bút mới có tài liệu để soạn sách, còn như bây giờ thì một nhà văn Việt viết tiểu sử Tản Đà còn khó hơn viết tiểu sử của Molier, của Shakespeare, của Tolstoi. Thực là ngược đời nhưng rất dễ hiểu. Vì tra cứu ở đâu bây giờ để viết về đời sống của Tản Đà?” Thật không ngờ, điều ông luôn canh cánh trong lòng đến khi mất lại vận vào chính đời ông.
 
Tôi đi tìm nơi an nghỉ của ông chỉ vì lòng kính trọng. Theo tôi, ông là một trí thức thứ thiệt lúc nào cũng trăn trở vun vén cho văn hóa nước nhà. Ông đã góp vào nền văn hóa Việt Nam một số lượng tác phẩm đồ sộ gấp bốn lần thời gian ông làm việc. Nhưng quan trọng hơn, đó là nhân cách sống của ông: giản dị và tự trọng. Một con người như thế rất đáng để tôi đi tìm và thắp một nén nhang chứ. Có điều, tôi vô duyên, không tìm được mộ ông dù biết là ông chỉ nằm đâu đó quanh đây. Tôi biết ông qua một người thầy đáng kính. Đúng rồi, người thầy của tôi. Sao tôi không nghĩ ra nhỉ? Tôi cuống quýt gọi điện, thầy cười nói đi mà không rủ, ra nông nỗi này ráng chịu. Thì thầy cũng chưa tới mà, xem như chuyến này em đi dò đường trước, lần sau dẫn thầy đi mới ngon lành chứ. Thầy cười ha hả bảo được, rồi nhắn cho tôi địa chỉ mộ ông. Tôi hí hửng chạy lại khoe với chị Dương cái tin: “Mo Nguyen Hien Le o chua Phuoc An – gan nga tu Cai Buong, Vinh Thanh, Lai Vung”. Cả nhà chị xúm xít quanh tôi khi nghe nói tôi đã tìm ra nơi an nghỉ của ông. Tôi sung sướng đọc to rồi hồ hởi hỏi đường đi đến đó, nhưng lạ thay, tôi đọc xong mà chẳng ai hiểu đó là đâu. Cuối cùng, ba chị Dương đoán một hồi mới rõ đó là ngã tư Cai Bường, thuộc xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò chứ không phải Lai Vung. Té ra, cả cuốn sách tôi đọc lẫn tin nhắn của thầy đều sai tên huyện. Ba chị Dương dặn:
-        Từ Lai Vung con đi thêm khoảng 10km nữa dọc theo quốc lộ 80 là sẽ tới ngã tư Cai Bường. Tới đó con hỏi chùa Phước Ân ai cũng biết hết.
 
Từ biệt ngôi nhà thân thiện, tôi tiếp tục cuộc khám phá. Mưa bắt đầu nặng hạt quất vào mặt, vào mũi, vào áo mưa ràn rạt nhưng tôi không cảm thấy rét buốt. Có điều gì đó cựa quậy trong lòng, vừa đê mê vừa khấp khởi. Tôi thấy con đường trắng xóa trong màn mưa như những bông tuyết bay lững lờ trong không trung. Giọt mưa nào ngọt ngào rớt lên môi mắt tôi. Giọt mưa nào tắm mát tâm hồn tôi. Đường mưa vắng tanh không một bóng người. Tịnh như chốn này chỉ có mình tôi và linh hồn ai đó đang luẩn khuất trong mưa, hí hửng và reo vui.
 
Vĩnh Thạnh nghèo nàn và ướt át chào đón tôi. Từ ngã tư Cai Bường rẽ tay trái vào hơn 1km đường đất nữa là tới chùa Phước Ân. Con đường len lỏi qua những vườn cây ăn trái xanh mướt và một cây cầu gỗ bắc ngang con kênh. Nhà dân nằm im lìm dưới tán lá như trái chín giấu mình sau vòm lá. Không khí thuần khiết hòa vào hương xoài dịu êm khiến tôi ngẩn ngơ. Người thiên cổ về chốn điền viên này nằm, sáng nghe tiếng chuông chùa, chiều nghe tiếng sóng vỗ, làm tôi cũng phát ham.
 
Chùa Phước Ân hiện ra trước mắt tôi vừa trang nghiêm lẫn thân thiện. Ngôi chùa đơn ẩn hiện sau lớp lá bồ đề lóng lánh nước mưa. Tôi dắt xe chầm chậm qua sân chùa. Không một bóng người. Không gian im ắng. Đang khi tôi không biết hỏi ai thì có một bà cụ đi ra. Bà mặc áo nâu sòng, mái tóc đã hoa râm. Tay bà cầm cỗ tràng hạt đang lẩm bẩm tụng kinh. Nghe tôi hỏi mộ ông, bà nói:
-        Ông Lê viết sách chứ gì?
-        Vâng ạ.
Nhìn tay chân tôi tím tái, bà lặng lẽ mời vào phòng khách. Trong gian phòng ấm cúng bên ly trà nóng, bà cụ hỏi tôi có bà con thân thích gì với ông ấy không? Sao lại đi thăm mộ lúc trời mưa gió như thế này? Làm thế nào mà biết ông nằm ở đây? Tôi ngồi hầu chuyện bà cụ một hồi đủ để giải thích cho bà hiểu tôi chẳng là gì của ông cả và đi tìm mộ ông chỉ để thắp một nén nhang vì lòng mộ mến thôi.
 
Nghe xong bà cười, rồi bà kể tôi nghe chuyện cách đây khoảng một tháng, cũng có cậu sinh viên đến viếng mộ ông ấy. Cậu ta còn mua trái cây, đèn nhang cho ông ấy nữa. Bà chưa đọc sách ông nên hỏi ông ấy viết sách hay lắm sao mà mất lâu thế vẫn còn có người nhớ đến.
Tôi trả lời ông ấy không những viết hay mà còn rất hữu ích nữa. Nghe thế, bà dẫn tôi vào chánh điện, nơi khung ảnh ông Nguyễn Hiến Lê được treo bên cạnh người vợ thứ hai của ông, bà Nguyễn Thị Liệp. Sau khi ông mất, bà Liệp xuất giá đi tu và trước khi bà mất, bà nói con cháu hãy đem ông bà về đây an nghỉ. Phía sau lớp kính mờ ảo, nụ cười ông vẫn tươi rói và đôi mắt dường như vẫn dõi theo trần đời.
-        Đi theo bà, bà dẫn cháu ra mộ ông ấy.
 
Bên trái chùa có một khoảng đất rộng dành cho những người đã qua đời an nghỉ. Ngôi mộ ông Nguyễn Hiến Lê nằm lọt thỏm trong số khoảng 20 ngôi mộ khác. Không có gì đặc biệt cho thấy đó là ngôi mộ của một con người lỗi lạc. Nó nhỏ nhắn và giản dị như chính cuộc đời ông. Cạnh mộ, hoa đổ nhang tàn.
 
Tôi cắm vào hương nén nhang thành kính. Hương trầm tỏa bay. Cay cay khóe mắt.
 
Trn Th Trung Thu


Source Internet.

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2013

NHỮNG BỆNH... VÔ DUYÊN!

BS  Ðỗ Hồng Ngọc


        
Tuy già không phải là một bệnh nhưng già thì thường có bệnh. Bệnh thì có bệnh nặng, bệnh nhẹ, bệnh có duyên và bệnh... vô duyên. Ai cũng biết thầy thuốc là người được học hành cẩn thận để giúp ta chữa trị bệnh tật, vậy mà thầy thuốc cũng có thể gây bệnh cho ta, dù là ngoài ý muốn, cái đó gọi là bệnh do thầy thuốc gây ra (iatrogenic) mà theo GS. Phạm Khuê, một chuyên gia về Lão khoa, Chủ tịch Hội người cao tuổi Việt Nam thì có đến hơn một phần tư các bệnh ở người già là do thầy thuốc gây ra! (Bệnh học tuổi già, Phạm Khuê, NXB Y Học, 1998, trang 364).

        Những bệnh... vô duyên còn có thể do chính bản thân mình, người thân trong gia đình, bạn bè, hàng xóm, hoặc các nhân viên tâm lý xã hội gây ra nữa! Bà cô của một bác sĩ bạn tôi trên 80 tuổi kêu lúc nào trong người cũng nóng bức, miệng khô nên đã mua rễ tranh, mía lau, mã đề ngoài chợ về nấu "nước mát" uống. Mát đâu không thấy, thấy đi tiểu liên tục gây thêm tình trạng mất nước trong cơ thể, lại thấy nóng bức, thấy khô miệng, lại uống thêm "nước mát"! Thì ra "rễ tranh, mía lau, mã đề" là những loại thuốc lợi tiểu (diuretics).
Một ông bác gầy còm nghe hàng xóm bày vẽ có loại tễ mập, bèn mua uống mấy cây. Mập thiệt! Nhưng người béo bệu, cơ thể bạc nhược! Thì ra, thuốc tễ đó chỉ là bột mì trộn với mật ong và Corticoil, một thứ thuốc uống vào lâu ngày gây hội chứng Cushing, ứ nước, làm mập bệu và gây ra vô số những tác dụng tai hại khác như giảm sức đề kháng, mọc lông, loãng xương, loét bao tử, cao huyết áp...
Ta cũng biết thuốc chữa đau khớp có thể gây loét dạ dày; thuốc điều trị cao huyết áp có thể gây hạ huyết áp đột ngột; thuốc trị tiểu đường làm hạ đường huyết; thuốc uống cho đỡ bị đái són ở người già thì gây khô miệng, đỏ da, mờ mắt, chóng mặt...
Một đặc điểm sinh học của người cao tuổi là khả năng thích ứng dần kém đi. Hấp thu thuốc đã chậm mà đào thải cũng chậm. Tác dụng phụ của thuốc lại thiên hình vạn trạng, tùy từng người, từng lúc, có thuốc người này dùng thì tốt mà bày cho người khác không xong, uống vào bị phản ứng ngay.
Cho nên dùng thuốc ở người già phải dò dẫm trên từng trường hợp, giảm liều, giảm lượng, đắn đo tính toán trước sau, nào bệnh trước mắt, nào bệnh tiềm tàng; thuốc chữa được bệnh này nhưng có gây ra bệnh khác không, có làm bộc phát một bệnh cũ nào đó không, người bệnh ăn uống ra sao, tiêu tiểu ra sao và trạng thái tâm thần ra sao?
Người cao tuổi cũng thường hay tự ý gia giảm thuốc, tin lời bày vẽ, ai mách gì cũng nghe, gây tương tác thuốc lung tung rất dễ sinh ra nhiều bệnh.... vô duyên đáng tiếc.
Ngày càng có nhiều máy móc xét nghiệm và một số người cao tuổi cũng thường muốn được xét nghiệm này nọ.
Báo Paris Match của Pháp có đăng trường hợp một bà già bị rối loạn tiêu hóa đến khám ở một bác sĩ. Bác sĩ thấy không có gì nặng nhưng cũng gởi cụ làm thêm vài xét nghiệm cho chắc. Sau đó, bà cụ được tiếp tục làm thêm hàng loạt các xét nghiệm khác ngày càng phức tạp hơn vì xét nghiệm đơn giản không tìm ra bệnh: Siêu âm, nội soi, sinh thiết, chụp cắt lớp, chụp cản quang mạc treo...
Sau hơn một tháng chuyển từ trung tâm này đến bệnh viện kia, nằm đợi trên những băng ca lạnh lẽo, đẩy từ hành lang này sang hành lang khác, tiếp xúc với những người mang khẩu trang chỉ chừa đôi mắt lạnh lùng, bà cụ rơi vào tình trạng khủng hoảng tâm lý trầm trọng và tiêu tốn mất 35 ngàn quan Pháp.
Cuối cùng các bác sĩ hội chẩn kết luận không có bệnh gì cả!
Tây gọi những người sính xét nghiệm là "examinite".
Tổ chức sức khỏe thế giới (WHO) cũng cảnh báo hiện tượng over - investigation, "thăm dò quá mức cần thiết" này (Health of the Elderly, WHO, 1989).
Một số người cao tuổi được chăm sóc bảo bọc quá đáng, được làm xét nghiệm thăm dò, theo dõi liên tụclàm cho người bệnh muốn... hết bệnh cũng không được; không kể trong quá trình thăm dò, chọc hút, bơm tiêm, thụt tháo... không phải là không có nguy cơ.
Dĩ nhiên nếu có bệnh thì cần phải làm để có chẩn đoán chính xác và điều trị hiệu quả. Còn thăm dò chỉ để... thăm dò thì không nên. Các chuyên gia khuyên chỉ nên làm xét nghiệm cho người già khi nhằm để chẩn đoán một thứ bệnh có thể chữa được, có thể phục hồi được, có lợi cho người bệnh hoặc để chẩn đoán phân biệt tìm ra một bệnh có tiên lượng tốt hơn, điều trị có kết quả hơn, có lợi cho bệnh nhân và gia đình hơn mà thôi. Tóm lại, biết ơn mình thì cần thiết lắm mới phải làm xét nghiệm và phải có chỉ định của bác sĩ.

       Thế nhưng có thứ không phải là thuốc, không phải là thủ thuật gì cả mà vẫn có thể gây ra những bệnh vô duyên: đó là lời nói!
Có những lời nói gây hoang mang, lo lắng, làm mất ăn mất ngủ, gây kiêng cữ quá đáng làm cho tình trạng bệnh khó phục hồi hơn. Cái đó gọi là sự "dán nhãn" (labelling). Chẳng hạn như người không có chuyên môn, không đủ cơ sở khoa học chắc chắn mà "phán" cho một cái chẩn đoán kiểu như "nghi ung thư", "hơi bị lớn tim", hoặc một từ mơ hồ như "máu lộn mỡ, gan hơi nhiễm mỡ, viêm nhiễm phần phụ, rối loạn thần kinh thực vật"... hoặc "bị thư phù, bị người cõi trên nhập...."đều đem lại những kết quả tai hại không thể ngờ được!
Ngay cả bị dán nhãn là già cả, già nua, già yếu, mất sức rồi bị ép phải nằm yên một chỗ, lúc nào cũng có người nâng đỡ chăm sóc thì sẽ ngày càng lệ thuộc, ngày càng suy nhược, mau loãng xương, bắp cơ thoái hóa, cứng khớp nhanh.
Ðáng sợ hơn cả là bị ép phải vào nằm viện, nằm nhà thương, nhà dưỡng lão, nhà nghỉ mất sức... khi vẫn còn có thể tự quản được. Thật ra đây chỉ là giải pháp cuối cùng vì một khi đã vào các cơ sở này rồi thì không hy vọng gì trở lại đời sống bình thường được nữa vì càng ngày càng thụ động, ỷ lại, lệ thuộc, suy sụp.
 
Các cơ sở chăm sóc cho người già thực ra rất cần thiết, miễn là phải giữ một số nguyên tắc như đảm bảo sự riêng tư, tôn trọng cá nhân, giúp tự chủ, tự quản, và tạo nhiều cơ hội cho họ tham gia sinh hoạt phù hợp với sở thích và sức khỏe.
Tóm lại, không nên để người cao tuổi mắc thêm những bệnh... vô duyên!

 


Source Internet.

NHỮNG MẢNH TRỜI NGHIÊNG ĐỔ BÊN BỜ SÔNG BA





muaxuanden_bia
 
Dòng thác người thoát đi từ Cao Nguyên bức tử, từng đợt bỏ xác theo từng tấc đường oan nghiệt mùa xuân 1975. Lớp lớp người lính miền Nam súng trên tay mở đường, dân theo lính ra đi., một người lính mấy chục người dân nối đuôi theo sau. Những AK, những B40 bắn xả vào đoàn người, những chiếc xe, từ xe tăng đến xe đò, dầy đặc người, người rụng xuống như sung khi bị B40 của Bắc quân nả trúng. Người lính miền Nam bắn trả, người lính miền Nam gục chết theo đường, người dân miền Nam gục chết theo lính. Những viên đạn oan nghiệt của Bắc quân đeo đuổi đoàn người chạy loạn và khựng lại tại Sông Ba.
Người ta không biết bao nhiêu người đã chết dọc theo quốc lộ 14 rồi liên tỉnh lộ 7B. Rất nhiều, không ai biết ai đã chết, không ai xem căn cước người dân ngã xuống, không ai xem thẻ bài người lính ngã xuống dọc đường miên man, mê loạn… Những cái lệnh bỏ Cao Nguyên quái đản đưa đến một cuộc rút quân “không sách vở”, và trong đó có những cái chết anh dũng, có những hy sinh anh dũng mà người nằm xuống không cần ghi tên….Họ, những người lính miền Nam, những người lính Lôi Hổ… đã đem thân mở đường máu cho dân chạy giặc “Giặc từ miền Bắc vô đây, bàn tay thấm máu anh em!” Lời hát đã hiện thực.
Chưa bao giờ trong cuộc chiến, người ta thấy người dân kinh sợ Bắc quân phải bỏ chạy và chết thảm dọc dường như ngày tận thế. Có những cái chết mà người dân đã chết trên lưng người lính. Họ đã dìu nhau đi, họ đã cõng nhau đi, và họ đã cùng nhau nhận những tràng AK ngã xuống, họ đã cùng chết một chỗ. Những dòng máu đổ theo vệ đường di tản rút quân nối nhau từng đoạn, máu của người dân miền Nam, máu của người lính miền Nam, chan hòa, đậm đặc, khô cứng dưới trời Cao Nguyên. Bị bỏ lại sau lưng, dòng người cứ cuồn cuộn đổ về phía trước, ngơ ngác, bàng hoàng, mắt không khô lệ …
Bên này bờ sông Ba, quân cũng như dân, hết toán này sang toán khác, băng mình qua con nước chảy. Hắn chần chừ nhìn dòng nước chảy xiết, rồi đi dọc ngược theo bờ sông Ba, dừng lại bên một chiếc xe ieep lùn với hai chiếc cần câu cột quặt về phía trước, hai bánh trước dừng lại sát bờ nước. Đứng trầm ngâm trên xe là Thiếu Tá Nguyễn Bá Nguyệt, đơn vị trưởng 103 Pháo binh 175 ly nòng dài. Không biết ông đang suy nghĩ gì giữa âm thanh chát chúa của hàng loạt AK đâu đó vọng lại. Quanh xe ông là những người lính thuộc quyền. Họ không qua sông vì ông chưa quyết định qua sông. Họ không muốn bỏ ông thầy, người đơn vị trưởng sống chết của họ . Hắn chen giữa những người lính, những người lính thấy hắn là một sĩ quan mang phù hiệu pháo binh cùng tiểu đoàn nên lách ra. Hắn đến gần ông đưa tay chào và hỏi:
- Thiếu tá quyết định ra sao?
- Tụi mày cứ qua sông! Dìu nhau qua sông nhanh lên! Còn tao… Tao sẽ tính sau!
Giọng ông chắc và tĩnh. Ông vẫn quen gọi đàn em và lính ông cái kiểu “mày tao” thân mật như thế. Ông trả lời hắn, và đồng thời lời ông cũng là lệnh. Ông ngước nhìn đồi núi xung quanh, nhìn mấy đứa con qua sông. Hắn chào ông rồi đi dọc theo bờ sông để tìm chỗ vượt. Hắn đứng lại bên bờ nước nhìn về chiếc xejeep của Thiếu Tá Nguyệt như muốn từ giã ông một lần cuối. Bóng ông sừng sững trong trời chiều ảm đạm.
Bỗng hắn thấy ông đưa tay lên, mũi súng ngắn phòng thân của ông dí thẳng vào đầu. Một tiếng nổ, người ông đổ xuống khung kính xe Jeep. Thế là hết ! ông đã hy sinh. Tiếng súng Bắc quân nghe thật gần. Hắn lao mình vào dòng nước. Tiếng AK như đuổi theo dòng nước chảy.
Hắn qua khỏi sông Ba tối 13 tháng 3 năm 1975. Hắn vượt núi rừng hướng về Củng Sơn, quần áo tả tơi. Trưa hôm sau, lên tới đỉnh đồi, miệng khô khốc, hắn dựa lưng vào một gốc cây nghỉ mệt. Hắn muốn thiếp đi, nhưng tiếng súng địch như gần lại, như theo chân hắn. Hắn lửng thửng đứng dậy tiếp tục xuống núi và mơ dưới chân núi là một dòng suối nước trong vắt. Những vục nước hiện trong trí, trong mắt hắn, giục hắn đổ dốc nhanh hơn.
Đến nơi, trước mắt hắn chỉ là một dòng suối cạn, vương vải những đồ đạc, áo quần, những bi đông không còn một giọt nước của lớp người đi trước bỏ lại. Hắn lại trèo lên một sườn đồi khác, rồi lại mơ ước bên kia chân đồi là một dòng suối. Gần đó, một chiến xa bốc cháy. Người lính mũ đen nằm úp mặt bên cạnh xe, máu tươm trên mặt cỏ. Hắn lại gần đỡ anh dậy.
Người lính thều thào:
- Tôi bị đạn vào ruột rất nặng! Tôi sẽ chết tại đây? Nếu anh về được Tuy Hòa nhờ nhắn… .
Người lính thều thào rồi tắt thở trước khi nói lời sau cùng. Anh là ai? Gia đình anh là ai? Hắn đặt người lính mũ đen xuống, vuốt mắt anh và chạy tiếp. Lên lưng chừng đồi, một quảng trống và bằng có bóng cây, hắn ngã lưng nằm dài xuống cỏ, bóng mát không che lấp nỗi cô đơn tuyệt vọng của hắn. Hắn nhìn những đám mây qua bầu trời. Đám mây thênh thang, bay về phương Nam. Hắn nghĩ đến Sài Gòn. Sài Gòn vời vợi trong cơn mơ. Hắn muốn thành mây, nhưng thực tại chôn chân hắn trên đất, chôn chân hắn trong hiểm nghèo, trong thân phận của một bại binh tháo chạy.
Hơi gió núi làm hắn tỉnh người. Hắn bỗng nhớ hai bông mai còn trên bâu áo trận, vai áo còn phù hiệu binh chủng. Hai cái này có thể giết hắn như chơi nếu hắn bất ngờ gặp VC. Hắn lột bộ đồ trận nhét vào bụi rậm và lôi ra trong bọc vải một bộ quần áo cũ, mặc vào. Cuộc đời binh nghiệp của hắn gói trọn trong bụi rậm. Hắn không buồn. Đúng ra, hắn không còn cảm giác để tiếc nuối. Khi hắn dợm đứng lên và đi tiếp, một người hạ sĩ quan quân y trên vai còn nguyên phù hiệu, không rõ đơn vị, bỗng xuất hiện tiến về phía hắn, hai tay dính đầy máu.
- Anh bị thương phải không?
- Không? Tôi vừa sanh cho một chị ở cuối dốc. Trời ơi! Còn cái cảnh nào đoạn trường hơn? Người đàn bà phải sinh con trong cảnh chạy loạn sống chết này. Tôi đã thay cô Mụ để làm tất cả cái gì tôi có thể làm được. Tôi đã bọc đứa bé trong cái áo của mẹ nó, và để hai mẹ con dưới gốc cây. Tôi không hiểu làm sao hai mẹ con có thể về tới Củng Sơn hay Phú Bổn. Làm sao người mẹ bất hạnh này trèo non, vượt suối làm sao cô ta biết đường đi xuyên rừng, đói khát! .Tôi phải đi, không ở lại giúp gì hơn. Dường như VC sẽ có mặt nơi đây. Thôi tụi mình đi cho có bạn!
Hắn và người bạn đồng hành đổ nhanh qua một khu rừng thưa và lần mò xuống núi. Bóng chiều theo chân, màn đêm dần dà phủ chụp không gian. Những người chạy loạn vẫn còn nghe tiếng đạn réo xé từng mảnh âm thanh tịch mịch.
Thoai thoải trên sườn đồi, có những toán người rách rưới, phờ phạc đi về hướng mặt trời mọc. Người đàn ông tay dìu vợ tay dắt một đám con nhỏ. Vạt áo trước bụng người đàn bà đẫm ướt máu. Không biết chị bị trúng đạn từ bao giờ. Tiếng súng AK càng gần, người đàn ông càng kéo vợ chạy nhanh hơn. Mấy đứa con theo mẹ như đàn gà, và nó không ..biết là mẹ nó đã kiệt sức. Đến một gốc cây có bóng mát, người đàn bà giật tay chồng và thều thào:
- Em không thể sống! Anh bỏ em lại đây! Đem mấy đứa con thoát khỏi chỗ này ! Trời ơi t Anh ơi !
- Làm sao anh và các con bỏ em lại đây cho đành!
- Anh không thể đem xác em về Tuy Hòa được ? Phải cứu các con, Em không còn sức! Em không còn máu! Em không còn hơi thở! Để em xuống? Dựa em vào gốc cây! Chạy nhanh đi!
Người đàn ông như hiểu được những lời cuối cùng của vợ mình. Nàng sắp từ giã cõi đời. Anh bó tay tuyệt vọng. Anh không làm gì được để cứu vợ. Anh thương vợ đứt ruột, nhưng anh đầu hàng trước định mệnh nghiệt ngã. Người đàn bà nhắp miệng thều thào:
- Sao anh không dắt con chạy đi! Vĩnh biệt anh! Vĩnh biệt các con !
Hai dòng nước mắt chị tuôn ra. Chị còn thoi thóp nhưng yếu dần. Người đàn ông gọi mấy đứa con lại quì trước mẹ.
- Lạy mẹ đi con!
Và anh, nước mắt đầm đìa, cùng với mấy đứa con quỳ sụp xuống lạy mấy lạy trước hình hài bất động của người đàn bà. Tiếng súng AK nghe đâu đó rất gần. Người đàn ông gạt lệ, nhìn vợ lần chót rồi ôm con chạy xuyên rừng, lúp xúp ba đứa trẻ chạy theo sau rồi khuất dần trong rừng xanh…
Anh là ai? Chị là ai? Những người lính miền Nam bỏ xác bên đường Cao Nguyên di tản là ai? Nào ai đếm được bao nhiêu sinh linh đã ngậm hờn trong rừng sâu núi thẳm, dọc quốc lộ 14, dọc liên tỉnh lộ 7B … của những ngày giữa tháng Tư 1975 oan nghiệt.
Viết những dòng này 27 năm sau mà người viết vẫn không kềm được những nghẹn ngào, đau xót đến hai khóe mắt cứ muốn ứa ra những giọt lệ không cầm…
haitrieu_sign



Source Internet.