Thứ Hai, 31 tháng 12, 2018

Sơ đồ hệ thống Đại Tạng của Phật giáo.





Các bộ Đại Tạng






Đại tạng tiếng Pali = Pali tạng






Tương quan giữa Pali tạng và Hán tạng





Hình bộ Đại Tạng của Thái Lan






Tam tạng (三藏, sa. tripiaka, pi. tipiaka) có nghĩa là ba phần cốt tuỷ của kinh sách đạo Phật, gồm:
 
1. Kinh tạng (經藏, sa. sūtra-piaka, pi. sutta-piaka) bao gồm các bài giảng của chính đức Phật hoặc các đại đệ tử. Hiện tại Phật giáo có 2 hệ Kinh tạng: 

Kinh Nam truyền (Nikaya) được phiên dịch từ tiếng Pali và được được xem là gần gũi với lời Phật dạy nhất; gồm năm bộ: 1. Trường bộ kinh (pi. dīgha-nikāya), 2. Trung bộ kinh (pi. majjhima-nikāya), 3. Tương ưng bộ kinh (pi. sayutta-nikāya), 4. Tăng chi bộ kinh (pi. aguttara-nikāya) và 5. Tiểu bộ kinh (pi. khuddaka-nikāya). 

Năm bộ này được chuyển sang Hán ngữ gọi là A-hàm: Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tạp A-hàm, Tăng Nhất A-hàm, và Tiểu A-hàm.
 
Kinh Bắc truyền: điển hình như các bộ Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Bảo Tích, Đại Tập, Kim Cang, Bát Nhã...
  
2. Luật tạng (律藏; sa., pi. vinaya-piaka), chứa đựng lịch sử phát triển của Tăng-già (sa., pi. sagha) cũng như các giới luật của người xuất gia, được xem là tạng sách cổ nhất, ra đời chỉ vài mươi năm sau khi Phật nhập Niết-bàn.
 
3. Luận tạng (論藏, sa. abhidharma-piaka, pi. abhidhamma-piaka) cũng được gọi là A-tì-đạt-ma, chứa đựng các quan niệm đạo Phật về triết học và tâm lí học. Luận tạng được hình thành tương đối trễ, có lẽ là sau khi các trường phái đạo Phật tách nhau mà vì vậy, nó không còn giữ tính chất thống nhất, mặc dù sự khác biệt giữa các trường phái không đáng kể.
 
Tam tạng còn được truyền lại trọn vẹn nhất chính là Tam tạng tiếng Pali, có lẽ xuất phát từ một bản của Trưởng lão bộ (sa. sthaviravādin) ở Trung Ấn. Theo truyền thuyết, Kinh tạng và Luật tạng bằng tiếng Pali được viết lại trong lần kết tập thứ nhất (năm 480 trước Công nguyên), trong đó Ưu-bà-li nói về Luật và A-nan-đà trình bày giáo pháp. Những lời thuật lại của hai vị đại đệ tử này đã trở thành cơ sở của hai tạng đó. 

Theo một số tài liệu thì Luận tạng cũng hình thành ngay sau đó. Ngoài văn hệ Pali, ngày nay người ta cũng còn các tạng kinh, luật bằng Phạn ngữ, được Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa. sarvāstivādin) lưu truyền, nhất là ở những vùng Tây Bắc Ấn Độ.

Kinh sách của các tông phái khác như  Đại chúng bộ (sa. mahāsāghika) và Pháp Tạng bộ (sa. dharmaguptaka) ngày nay chỉ còn trong bản chữ Hán và tiếng Tây Tạng. Các kinh sách quan trọng của Phật giáo Trung Quốc và Nhật Bản phần lớn đều xuất phát từ Pháp Tạng bộ. Các bộ này không xếp thành hệ thống nghiêm khắc như những tạng Pali và qua thời gian cũng có thay đổi. Danh mục cũ nhất về các Kinh tạng vào năm 518 ghi lại 2113 tác phẩm. Toàn bộ kinh sách đó được in lại lần đầu trong năm 972.

 
Ghi chú viết tắt:            - sa. :  tiếng Sanskrit  hay  Bắc phạn.
 
                                     - pi.  :  tiếng Pali  hay  Nam phạn.



1000 năm bộ Đại tạng Cao Ly
***
VIDEO 
 
 

Bộ Đại tạng Cao Ly (Tripitaka Koreana) khắc trên gỗ lớn hàng đầu thế giới, từng được tổ chức UNESCO liệt vào hàng di sản văn hóa cao quý nhất của xứ bình minh yên tĩnh. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử để tồn tại cho đến tận bây giờ, bộ đại tạng này nay đã 1000 tuổi.     

http://www.korea.net/upload/content/editImage/table_15.JPG

 
Từ ngày 23/9 đến 6/11/2011, Hàn Quốc tổ chức lễ hội Thiên Niên bộ Tripitaka Koreana. Bộ sưu tập này bao gồm hơn 80 ngàn bảng khắc gỗ dùng để in ấn kinh điển Phật. Dưới triều đại Goryeo (918-1392), các vì vua đã ra lệnh khắc bộ kinh điển Phật giáo này trên các tấm bảng gỗ và được lưu trữ tại chùa Haeinsa kể từ thế kỷ thứ 13 trở đi, 80 ngàn bảng khắc gỗ này được chia thành 6568 tập, cất giữ trong kho - Tàng Kinh Các.      

Tọa lạc trên miền cao dãy núi Gayasan, cách Seoul 350 cây số về phía Đông Nam, ngôi chùa Haeinsa ngẫu nhiên trở thành một trong những ‘‘Thư viện Phật giáo’’ lớn nhất hành tinh, với một đặc điểm mà không nơi nào có : đó là thư viện không được bao bọc che kín, mà lại rất thông thoáng, nhờ khí hậu khô ráo và gió lạnh cao nguyên mà bộ Tripitaka Koreana khắc gỗ này mới được bảo tồn nguyên vẹn.
 
HÀN QUỐC KỶ NIỆM  1000 NĂM BỘ KINH PHẬT TRIPITAKA
Lễ rước bộ Tripitaka Koreana về chùa Haeinsa.
 
"Lễ hội khai mạc trong tiếng trống tiếng kèn. Dưới ánh nắng chói chan, hàng trăm Phật tử tham gia buổi lễ rước kinh. Cùng nhau, họ tái tạo hoạt cảnh lịch sử thời xưa: thời mà các tấm bảng khắc gỗ được giao lại cho các chức sắc tôn giáo, đưa về chùa Haeinsea để cất giữ. Mỗi Phật tử mặc y phục truyền thống, đội trên đầu một tấm bảng khắc gỗ, bước chân chầm chậm theo tiếng trống nhịp nhàng, nhan khói lan toả, không khí trang nghiêm. Ngay trước cổng chùa, nơi mà người ta có thể nhìn tận mắt bộ Tripitaka Koreana, khách hành hương cũng như du khách nước ngoài nối bước một hướng dẫn viên Hàn Quốc, để nghe các lời giải thích. 



Chùa Haeinsea

Một khi bước vào chùa Haeinsea, du khách ngoảnh mặt nhìn quanh một vòng để chiêm ngưỡng các tấm bảng khắc gỗ, xếp theo hàng dọc đặt theo trình tự trên các kệ tủ. Theo lời nhân viên hướng dẫn, cho đến giữa thế kỷ XV, người Triều Tiên chủ yếu dùng Hán tự (hanja). Mãi đến năm 1443, nhà vua Sejong mới sáng chế bảng mẫu tự Triều Tiên (hangeul), để thay thế cho chữ Hán. Điều đó giải thích vì sao toàn bộ Tripitaka Koreana của xứ Triều Tiên lại được viết bằng Hán tự.       

Trong một thời gian dài, các vì vua Triều tiên đã cho khắc 81258 tấm bảng gỗ. Nếu xếp chồng các bảng gỗ lên nhau, bộ Tripitaka Koreana sẽ đồ sộ như một đỉnh núi cao hơn 3 ngàn thước. Nếu xếp theo hàng dọc, chiều dài của nó lên đến khoảng 60 cây số. Cũng theo lời hướng dẫn viên, có tổng cộng 52 triệu Hán tự đã được ghi khắc trên bộ Tripitaka Koreana, tức là còn cao hơn cả dân số Hàn Quốc hiện giờ.
 
http://www.eastravel.co.uk/Korea/images/TripitakaKoreana2.jpg
 
Trước cảnh tượng độc đáo, du khách tha hồ mà chiêm ngưỡng nhưng tuyệt đối không được sờ mó vào các tấm bảng gỗ. Chỉ có các tăng lữ chuyên trách về việc bảo quản Tàng Kinh Các mới được quyền di chuyển, thay đổi chỗ sắp đặt các tập kinh. Không khí trang nghiêm tại ngôi đền khiến cho du khách trở nên rón rén, như thể họ không dám cử động, tránh gây tiếng ồn. Theo lời anh Adolpho de Concesao, một du khách ngoại quốc, bất cứ ai đến đây đều cảm nhận được bầu không khí vô cùng trong lành, tuyệt đối yên tĩnh. Anh thật sự cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng trong tâm hồn. Đối với anh, chuyến đi thăm ngôi chùa Haeinsa là một cuộc hành trình bất động, ngược dòng trong thời gian, trở về quá khứ.    

Về phần mình, anh Chiangtai là một du khách đến từ Sri Lanka. Anh cho biết anh là một Phật tử sùng đạo, đến thăm ngôi chùa Haeinsa như một địa điểm hành hương. Theo anh, bộ Tripitaka Koreana xứng đáng được bảo tồn kỹ lưỡng vì giá trị của bộ sưu tập này vượt ra ngoài biên giới Hàn Quốc. Còn tại Sri Lanka, nước này cũng có lưu trữ trong các ngôi chùa nhiều bộ đại tạng, nhưng chủ yếu viết bằng tiếng Nam Phạn mà người Sri lanka gọi đó là Tipitaka thay vì Tripitaka.
 
http://londonkoreanlinks.net/wp-content/uploads/2008/10/4-3wooden-blocks.jpg
 
Đa số các bộ Tipitaka của Sri Lanka được in trên giấy, đóng thành sách. Trong khi bộ Tripitaka Koreana của Triều Tiên do được khắc trên gỗ dùng để in ấn thành nhiều bản sao (xylography), cho nên trên các tấm bảng, các chữ Hán đều được khắc ngược. Để có thể đọc được các Hán tự, người ta buộc phải dùng bảng gỗ in lên vải hay in lên giấy. Nhưng các đại bộ tạng của Hàn Quốc hay của Sri Lanka đều có cùng một mục tiêu như nhau: giáo pháp giác ngộ. 

Vào buổi chiều, khi ánh nắng không còn gay gắt như lúc giữa trưa, không khí vô cùng yên lặng như thể bừng tỉnh với tiếng chuông ngân vang từ xa, vọng từ phía hành lang bên sân trong của ngôi chùa. Lúc đó, người ta mới nghe thấy tiếng động của giới tu hành, tăng lữ chuẩn bị cho giờ tụng kinh, niệm Phật. Hòa thượng Songhak, trú trì ngôi chùa Haeinsa, cho biết ý nghĩa của bộ Tripitaka Koreana: “Từ khi bộ Tripitaka Koreana được rước về chùa, Haeinsa càng xứng đáng với mệnh danh Ngôi chùa của Mặt biển Thanh bình”. 
 
 
Các tấm bảng gỗ đều chứa đựng lời giảng dạy của Đức Phật giúp cho con người giác ngộ, thoát khỏi sự sai lầm, để từ đây tạo dựng được hạnh phúc bền vững cho chính mình.      

Theo các chuyên gia về Phật giáo, Tripitaka có nghĩa là "Tam Tạng" gồm ba bộ : kinh, luật và luận (tiếng Pali gọi là Tipitaka). Trên thế giới đã có nhiều bảng khắc gỗ, chẳng hạn như bộ Tripitaka khắc gỗ đầu tiên của Trung Quốc vào đời Tống, cuối thế kỷ thứ 10. Nhưng phiên bản này lại không được bảo tồn nguyên vẹn. Cho nên Tripitaka của Triều Tiên dưới triều đại Goryeo được xem là bộ Tripitaka Koreana viết bằng Hán tự, cổ xưa nhất và đầy đủ nhất đúng theo phong cách thư pháp và nghệ thuật. 
 
Ngoài giá trị tôn giáo, bộ Tripitaka còn có một tầm quan trọng đáng kể về mặt lịch sử. Đó là bằng chứng cho thấy các triều đại vua chúa ở Triều Tiên đã nâng đạo Phật lên hàng quốc giáo. Bộ Tripitaka Koreana đầu tiên được hoàn tất vào năm 1087. Rồi sau đó mới đến bộ khắc gỗ Tripitaka.
 
 
Công việc khắc gỗ tạo điều kiện thuận lợi cho việc in ấn các bản sao, để dễ dàng phổ biến rộng rãi hơn qua việc phân phát cho các ngôi chùa trên khắp lãnh thổ. Điều đó giúp cho Phật giáo phát triển mạnh mẽ trên đất nước Triều Tiên. Sự sùng đạo cũng góp phần không nhỏ trong việc bảo tồn di sản văn hóa mà trong mắt người dân thuộc vào hàng Bảo vật Linh thiêng.
        
Bất kể giao tranh với ngoại bang hay xung đột nội chiến, bộ Tripitaka Koreana đã tồn tại trong vòng nhiều thế kỷ, phần lớn nhờ vào bàn tay sáng tạo của con người và kế đến nỗ lực bảo tồn. Trong phần sáng tạo, các tấm bảng khắc gỗ gồm nhiều công đoạn cầu kỳ. Gỗ được ngâm thuốc để tránh không cho thấm nước và ít bị mục ruỗng. Công phu hơn cả là công việc ghi khắc và tạc chữ, nhất là tất cả các cổ tự viết bằng chữ Hán đều được khắc ngược. Khắc chữ xong, các bảng gỗ lại được sơn dầu, để tránh cho côn trùng bọ mối làm hư gỗ.      

Không có một sách sử nào cho biết để hoàn tất toàn bộ khắc gỗ này, những người thợ khắc đã lỡ tay làm hỏng bao nhiêu tấm hay viết sai bao nhiêu lần. Hơn 80 ngàn bảng khắc gỗ, nhưng không có tấm nào bị ghi trật một chữ. Phi thường hơn thế nữa vì theo các chuyên gia về thư pháp, công việc khắc chữ là do nhiều thợ khắc làm ra nhưng khi nhìn một cách tổng thể, thì bút pháp sinh động đến nỗi người ta tưởng đây là sáng tác từ bàn tay của một con người duy nhất. 
    

Source Internet.

Công nghệ truyền thông không dây


Truyền thông không dây qua vệ tinh. (Hình: commons.wikimedia.org)
Hiện nay mọi người không ít thì nhiều đều dùng những áp dụng của công nghệ truyền thông không dây (wireless communication). Trong nhà thì dùng Wi-Fi, trên xe thì có bluetooth và ngoài đường thì dùng điện thoại di động tất cả đều là truyền thông không dây. Bài này giải thích công nghệ truyền thông không dây và những áp dụng của nó.
Lịch sử công nghệ truyền thông không dây
Từ thời ông Marconi kỹ thuật truyền thông không dây được phát triển qua nhiều giai đoạn và đi song song với những tiến bộ về điện tử và máy tính.
Căn bản về truyền thông không dây
Truyền thông không dây là kỹ thuật gửi và nhận tín hiệu qua không gian. Tín hiệu được truyền đi bằng sóng điện từ (electromagnetic wave). Những sóng đó nằm trong phổ điện từ (electromagnetic spectrum). Ánh sáng mà mắt thường thấy được là một phần nhỏ trong phổ điện từ. Sóng radio, tia X, tia hồng ngoại (infrared) và tia cực tím (ultraviolet) đều là sóng điện từ.
Sóng điện từ được đo bằng độ dài sóng (wavelength) hay tần số (frequency). Độ dài sóng là chiều dài đo từ một cao điểm của sóng tới cao điểm kế. Tần số là số chu kỳ của sóng trong một đơn vị thời gian. Độ dài sóng và tần số liên hệ với nhau qua một phương trình toán học. Tần số càng cao thì độ dài sóng càng ngắn. Đơn vị của tần số là Hertz, viết tắt là Hz, được định nghĩa là số chu kỳ trong một giây. Một ngàn Hertz là kilohertz, ký hiệu kHz, một triệu Hertz là megahertz, ký hiệu MHz; một tỷ Hertz làgigahertz ký hiệu GHz.
Truyền thông không dây có thế phân loại tùy theo độ dài sóng dùng.
Phổ điện từ. (Hình: NASA)
Truyền bằng sóng radio
Truyền bằng sóng radio là loại truyền thông không dây được phát minh đầu tiên và bây giờ vẫn được dùng nhiều. Sóng radio có độ dài sóng từ 1 m tới 100 km tức là có tần số từ 300 MHz tới 3 kHz. Nhiều chỗ định nghĩa độ dài sóng radio từ 1 mm tới 100 km tức là có tần số từ 300 GHz tới 3 kHz.
Có rất nhiều áp dụng của truyền sóng radio. Áp dụng thường dùng nhất là những đài phát thanh và đài truyền hình. Đài phát thanh AM (amplitude modulation) thì có tần số từ 540 KHz tới 1600 KHz. Còn FM (frequency modulation) thì có tần số từ 88 MHz tới 108 MHz.
Truyền bằng vi sóng (microwave)
Độ dài sóng của vi sóng từ 1 mm tới 1 m, tức là có tần số từ 300 MHz tới 300 GHz. Vi sóng trong lò vi sóng là dùng để nấu ăn, nhưng vi sóng cũng được dùng để truyền tín hiệu thông tin.
Vi sóng thường được dùng để truyền tín hiệu giữa hai tháp truyền thông ở dưới đất hay giữa một trạm dưới đất với vệ tinh. Hai tháp đặt ở dưới đất phải nhìn thấy nhau, tức là truyền thông theo kiểu điểm-nối-điểm (point-to-point). Điểm lợi của truyền vi sóng là có thể truyền một lượng dữ liệu lớn, nhưng bất lợi là truyền vi sóng bị ảnh hưởng bởi không khí giữa hai trạm, đặc biệt là nếu bị mưa.
Một tháp truyền thông vi sóng. (Hình: en.wikipedia.org)
Truyền bằng ánh sáng
Ánh sáng ở đây bao gồm ánh sáng thường, tia hồng ngoại và tia cực tím. Dụng cụ điều khiển từ xa (remote control) mà bạn dùng để điều khiển ti-vi là một thí dụ của một dụng cụ dùng tia hồng ngoại để truyền tín hiệu. Tia hồng ngoại cũng có thể dùng để giao dịch giữa hai thiết bị điện tử. Trở ngại chính là hai thiết bị phải nhìn thấy nhau vì tia hồng ngoại cũng như ánh sáng thường không đi xuyên qua được chướng ngại vật như tường. Truyền bằng ánh sáng thường và tia cực tím cũng đang được nghiên cứu và thử nghiệm.
Các loại truyền thông không dây
Truyền thông không dây còn được phân loại theo dụng cụ và khoảng cách.
-Truyền thông qua vệ tinh
Truyền thông qua vệ tinh đóng một vai trò quan trọng trên thế giới. Mọi nước đều dùng truyền thông qua vệ tinh để thu thập dữ liệu và thông tin. Truyền thông qua vệ tinh gồm có hai phần, một phần ở dưới đất và một phần là vệ tinh. Bộ phận dưới đất có một ăng ten dùng để phát và thâu tín hiệu từ vệ tinh. Sóng dùng để truyền tín hiệu qua vệ tinh có tần số trong vòng từ 11 GHz tới 14 GHz và vận tốc truyền là từ 1 Mbps tới 10 Mbps.
-Bluetooth
Bluetooth là tên của một số chuẩn sóng không dây khoảng cách ngắn. Bluetooth dùng tần số từ 2.402 GHz tới 2.480 GHz. Bluetooth dùng rất ít năng lượng và khoảng cách khá ngắn. Bluetooth loại 2 chỉ có tầm hoạt động khoảng 10 m. Bluetooth dùng trong xe hơi để kết hợp điện thoạidi động với hệ thống loa trong xe. Như vậy bạn có thể nói chuyện điện thoại qua hệ thống loa của xe. Nhiều ống nghe không dây (wireless headphone) cũng dùng công nghệ bluetooth.
-Wi-Fi
Wi-Fi là kỹ thuật truyền thông không dây dùng vi sóng để phát và thu tín hiệu từ những dụng cụ điện tử ở gần chung quanh. Có 5 băng tần số dùng cho Wi-Fi: 2.4, 3.6, 4.9, 5, và 5.9 GHz. Ở Hoa Kỳ những bộ định tuyến (router) dùng cho Wi-Fi trong nhà thường là băng tần số 2.4 GHz. Những bộ định tuyến mới còn dùng thêm băng 5 GHz. Loại sóng này dùng ít năng lượng và chỉ phát ra trong một chu vi nhỏ.
Truyền thông không dây và điện thoại di động
Điện thoại di động sở dĩ được phát triển mạnh khắp thế giới là nhờ công nghệ truyền thôngkhông dây. Trước thập niên 1980điện thoạidi động rất là thô sơ và nặng nề, tất cả được gọi chung là thế hệ 0G. Cho đến bây giờ đã trải qua 5 thế hệ, có ký hiệu là 1G, 2G,…, 5G. Điện thoại di động dùng hai vùng sóng từ 800 tới 900 MHz và từ 1.8 tới 1.95 GHz.
Đời thứ nhất 1G bắt đầu từ thập niên 1980. Kỹ thuật trong giai đoạn này là truyền dẫn tương đồng (analog transmission). 1G không có chức năng nào khác hơn là nói chuyện điện thoại.Điện thoại thì to lớn cồng kềnh, liên kết không tốt và rất đắt tiền.
Đến thập niên 1990 thì bắt đầu đời thứ hai 2G. Thế hệ công nghệ truyền thông không dây này dùng kỹ thuật truyền dẫn số (digital transmission) thay vì truyền dẫn tương đồng như thế hệ 1G. Kỹ thuật này có cái lợi là cùng một khoảng tần số cho một người dùng 1G thì 10 người có thể dùng cùng một lúc được. Kỹ thuật 2G còn cho phép người dùng nhắn tin (texting) và nhiều dịch vụ khác nữa.
Năm 2001, công ty điện thoại Nhật Bản NTT DoCoMo cho ra đời hệ thống điện thoại di động 3G đầu tiên trên thế giới. 3G dùng kỹ thuật chuyển mạch gói (packet switching) thay vì chuyển mạch (circuit switching) như 2G. Kỹ thuật 3G có lợi hơn 2G ở tốc độ truyền và người dùng xem được hình ảnh hay trang mạng nhanh hơn nhiều.
Đa số điện thoại di động hiện này đều thuộc thế hệ 4G. Vận tốc truyền của 4G là từ 10 Mbps tới 1 Gbps. Có nhiều kỹ thuật khác nhau của 4G. Ở Hoa Kỳ đa số các nhà cung cấp dịch vụ điện thoạikhông dây đều dùng 4G LTE (long term evolution). Nói chung thì 4G nhanh hơn 3G rất nhiều và cho phép người xử dụng xem video ít bị gián đoạn.
Các công ty điện thoại đang ráo riết chuẩn bị tung ra thị trường điện thoại di động thế hệ 5G. Bạn nhớ đón coi. (Hà Dương Cự)
Source: https://www.nguoi-viet.com/doi-song/cong-nghe-truyen-thong-khong-day/

Thứ Năm, 27 tháng 12, 2018

Phật Giáo và người Hy-Lạp



East is East, and West is West, and never the twain shall meet
——– Rudyard Kipling
Đào Viên
1. Vua Hy-Lạp A-Lịch-Sơn Đại-Đế Chinh phục Ấn-Độ
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle – cũng là ông thầy dậy học mình –  nói về Ấn-Độ như là một dải đất mênh mông xa tít mù tắp tận chân trời, nên cảm thấy hứng thú phải đi chiếm lấy và để đem nền văn minh Hy-Lạp reo rắc cho các dân bản xứ.
Vương quốc Macedon của A Lịch Sơn Đại Đế
A-Lịch-Sơn nối ngôi vua cha là vua Phillip II, vua xứ Macedonia(1), Hy-Lạp, khi đó đã tóm thâu các nước xung quanh, kể cả nước Ba Tư (Persia) mà làm nên một đế quốc rộng lớn. Vua Phillip II vẫn chưa hài lòng với đế quốc của mình, theo truyền thuyết, đã bảo con Alexander là: “Con à! Chắc con phải thấy nước ta chưa đủ lớn cho hoài bão của con. Nước Macedonia quá nhỏ đối với con
Hưởng thụ một bộ máy chiến tranh vô địch của vua cha, A-Lịch-Sơn cầm đầu một đội quân sáu chục ngàn người, chưa kể một số tư tưởng gia, khoa học gia luôn luôn đi theo vua A lich Sơn, Đông tiến, chinh phục Ấn-Độ. Đoàn quân tiến hành rất chậm. A-Lịch-Sơn đã mất 7 năm mới tới sông Ấn Hà (Indus).
Trước đó, đoàn quân đã vượt qua A-Phú-Hãn (Afghanistan), đến miền Ngũ Hà, tức là Punjab của Pakistan ngày nay. Sau khi vượt qua một con sông lớn, họ đã tới Taxila, một thị trấn sầm uất có nhiều thương gia đi qua trên con đường Tơ Lụa. Ở Taxila, A-Lịch-Sơn đã trông thấy nhiều nhà tu hành và những đệ tử của họ, sống một cuộc đời khổ hạnh, gần như trần trụi, chỉ quan tâm đến đời sống tinh thần hơn là những tiện nghi vật chất bên ngoài. Họ là những người Bà La Môn hay theo đạo Kỳ Na Giáo hay là Jainism Ấn-Độ.
A Lịch Sơn Đại Đế
Vua A-Lịch-Sơn rất chú ý đến những người này, khi thấy họ có một sức chịu đựng mãnh liệt, tự kiểm soát được mình không bị ảnh hưởng ngoại lai xô đẩy. Vì muốn có một  tu sĩ như thế trong đoàn quân viễn chinh của mình, vua A-Lịch-Sơn cùng quần thần là những tư tưởng gia Hy-Lạp liền mời một nhà sư đến nói chuyện. Ông này, theo sử sách Hy-Lạp, tên là Dandamos, đến nhưng không chịu trả lời những câu hỏi của triều đình Hy-Lạp.
Sau cùng ông hỏi lại: “Tại sao Ngài đã phải đến đây từ quá xa vậy? Tôi cũng có nhiều đất đai như Ngài và như những người khác. Dù ngài có chiếm giữ được tất cả sông ngòi, Ngài cũng không thể uống nước nhiều hơn tôi. Bởi vậy, tôi không  sợ hãi, tôi không bị thương tích, tôi không đi phá hủy những thị trấn. Tôi cũng có đất đai, nước uống như Ngài. Tôi có đầy đủ tất cả. Thưa Ngài! Ngài hãy học điều hiểu biết khôn ngoan này của tôi. Đó là:  đùng có mong cầu điều gì và Ngài sẽ có đầy đủ mọi chuyện
A-Lịch-Sơn để ngoài tai lời khuyên đó. Đoàn quân viễn chinh của A-Lịch-Sơn vẫn tiếp tục sứ mang chinh phục. Một năm sau, khi tới con sông Beas cũa vùng Punjab, Pakistan, đoàn quân này đã phải ngưng lại, rồi phải rút lui, không phải bị ai đánh bại, mà chỉ vì quân đội bắt đầu chán chường mỏi mệt. Mưòi tám tháng sau, A-Lịch-Sơn đưa quân về đến Babylon, thuộc Mesopotamia, bây giờ là Irắk, thì ngã bệnh mà qua đời. Khi ấy ông mới 32 tuổi, chưa kịp thấy Ấn-Độ là thế nào. Ông để lại một triều đình Hy-Lạp bắt đầu tan rã.
2. Sứ Thần Megasthenes của Vua Hy-Lạp tại triều đình Mauryan.
Trong khi ấy, bên Ấn-Độ, năm 324 trước Tây lịch, tại tiểu bang  Magadha,
Vương quốc Mauryan
phía nam của bộ tộc Shakya (Thích Ca) của Đức Phật, bây giờ là Nepal,một tướng lãnh của bộ tộc Mauryan, tên là Chandragupta, nổi lên cướp ngôi vua lập ra triều đại Mauryan, đóng đô tại Pataliputa (Hoa Thị). Đây là một triều đại lớn của Ấn-Độ kéo dài 137 năm.
Công việc đầu tiên của vua Chandraguptata là đuổi nốt tàn quân của A-Lịch-Son đi, giữ gìn biên giới phía Tây tới con sông Indus, ngăn chặn ngoại xâm, kế đến là dẹp loạn trong nước. Triều đình Hy-Lạp không thể dùng võ lực xâm chiếm Ấn-Độ như trước nữa, đã phải gửi một sứ giả ngoại giao đến vua Chandragupta. Ông này tên là Megasthenes sống trên 10 năm tại Ấn-Độ, trước khi mãn nhiệm kỳ. Về nước, ông viết một cuốn hồi ký tên là  “Indika” kể lại xứ sở Ấn-Độ, triều đình vua Chandragupta, cùng là những nhà hiền triết Ấn Đô.
Sứ thần Hy Lạp Megasthenes
Mặc dầu ông đã sống trên 10 năm tại đây, chỉ ít lâu sau Đúc Phật Thích Ca nhập diệt, Megasthenes trong sách ‘Indika” không đả động gì đến Phật giáo, bởi lẽ những nhà hiền triết ông gặp đều là những người Bà La Môn, cũng như là chính vua Chandragupta. Hơn nữa đạo Phật khi đó đã chưa lan tràn ngay trên lục địa Ấn-Độ, mà vẫn chỉ loanh quanh vùng đất gần Nepal.
Phải chờ đến năm 273 trước Tây Lịch, khi cháu nội của vua Chandragupta là vua A-Dục (Ashoka) lên nối ngôi, thay thế vua cha Bindusara, con của Chandragupta,  Phật giáo mới có cơ hội bành trướng ra khắp mọi nơi, đặc biệt đến những nơi có người Hy-Lạp sinh sống.
Kể từ đấy chúng ta thấy đã có nhiều người Tây phương theo đạo Phật. Trong số này có một ông vua người gốc Hy-Lạp là một Phật tử thuần thành, sau đó đã xuống tóc đi tu, đắc chứng quả A La Hán.
Vua A-Dục là một hoàng đế hăng say chiến tranh để mở mang thêm bờ cõi vương quốc Mauryan. Vào năm thứ tám sau khi lên ngôi, ông gửi quân xâm lăng dến vương quốc nhỏ Kalinga, chưa chịu thần phục. Ông đã chiến thắng. Đây là  một trận chiến tranh tàn khốc trong đó 100,000 người bị tàn sát, 150,000 người bắt làm tù binh và số người bị liên lụy còn đông rất nhiều lần như thế. Sau khi nghe được tình trạng tổn thất nặng nề do đạo binh của mình gây ra, vua A-Dục cảm thấy ăn năn hối hận vì đã làm một tội ác ngập trời. Ông trở nên một Phật Tử, dành cuộc đời con lại tân lực gia công hoằng dương Phật Pháp ngay tại trong nước cũng như ra ngoài xứ Ấn-Độ.
Vua A Dục (Ashoka)
Sau khi trị vì ngôi báu được 36 năm, vua A-Dục già yếu lơ làng việc triều chính. Ông đã băng hà năm 231 trước Tây lịch để lại một vương quốc bắt đầu suy tàn. Những lời giáo huấn của Đức Phật như cấm sát sanh, không gây hấn, giải quyết mọi chuyện bằng đường lối hòa bình, được vua A-Dục ban ra, là những đường lối chánh trị dường như làm cho nhóm quân đôi trong triều mỗi ngày một yếu thế, mất quyền lực. Bốn mươi hai năm sau vua A-Dục băng hà, vị tướng lãnh cầm đầu quân đội vương quốc, ông Pushyamitra, nổi lên, ám sát chết nhà vua đương thời, đưa vương quốc Mauryan vào một cuộc khủng hoảng, rối loạn. Pushyamitra theo đạo Bà La môn cũng như Chandragupta, thay đổi chính sách, gây ra nhiều mâu thuẫn trong nước, khiến Pushyamitra phải đánh đông dẹp bắc, để biên thùy ngỏ cửa cho quân ngoại xâm.
3. Vua Hy-Lạp Demetrius và vua Hy-Lạp Menander
Quân ngoại xâm đến là từ ông vua người gốc Hy-Lạp, Demetrius, đang trị vì một vương quốc tại Bactria (Đại Hạ), bây giờ là A-Phú-Hãn. Demetrius thấy đây là cơ hội ngàn năm một thủa để thực hiện hoài bão bất thành của hoàng đế Hy-Lạp A-Lịch-Sơn Đại-Đế.
Năm 182 trước Tây Lịch, Demetrius đem quân vào Ấn-Độ, chiếm được Taxila rồi Gandhara, bây giờ là Pakistan. Chỉnh đốn song hàng ngũ, vua Demetrius cùng bộ tướng Menander đem quân Đông tiến tràn vào Ấn-Độ.
Tiền trạm hình Vua Menander
Menander – sau này Phật Giáo Nam Tông tiếng Pali gọi ông là Milinda và Hán tạng dịch là Di Lan Đà – là người Hy-Lạp đầu tiên đã qua được sông Beas, nơi mà A-Lịch-Sơn Đại-Đế đã phải dừng chân, không thể qua sông mà rút quân về. Menander đã nhanh chóng tiến vào vương quốc Mauryan, chiếm được thủ đô Patiluputra (Hoa Thị) của vua A-Dục ngày xưa.
Đến đây thì, quân viễn chinh Hy-Lạp đã không còn được may mắn nữa.
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Tin tức từ quê nhà đưa đến bản doanh của Demetrius là thủ đô Bactria (Ðại Hạ) có chính biến do Eucratidès cầm đầu. Nhà Vua ủy thác cho Menander về đóng giữ vùng Ngũ Hà, còn mình thì trực chỉ về Ðại Hạ để dẹp nội loạn. Nhưng khi đến gần thủ đô thì vua Demetrius bị  Eucratidès phục kích giết chết. Bấy giờ là năm 167 trước Tây lịch. Từ đó, Vương quốc Ðại Hạ tách ra làm hai: Vương quốc miền Tây do Eucratidès cai trị, và vuơng quốc miền Ðông do Apollodots I (em ruột Démétrios) cai trị. Ðến năm 163 trước Tây lịch, Apollodotes I bị Eucratidès tiến đánh và giết chết luôn, Menander lên kế vị và dời đô từ Taxila về Sagala (Xá Kiệt) ở chân núi Hy Mã Lạp Sơn, giữa Udiyama, bây giờ là thung lũng Swat Valley, Pakistan và Sialkot thuộc Punjab (Ngũ Hà).
Hình tướng Phật Giáo thời vua Menander
Sử sách Hy-Lạp không nói nhiều về ông vua Hy-Lạp Menander này, có lẽ bởi vì tuy ông giòng giõi Hy-Lạp – cha là người Hy-Lạp, mẹ là người Trung Á (Miđle East) – nhưng sinh sống và trưởng thành tại A-Phú-Hãn. Ông chưa bao giờ về Hy-Lạp.
Tại Sagala, vua Menander đã dành cuộc đòi còn lại nghiên cứu Phật Pháp. Sử sách Phật giáo Nam Tông bằng tiếng Pali mô tả Menander là một ông tướng Hy-Lạp tài ba, một nhà lãnh tụ chính trị sáng suốt và là một Phật Tử Hy-Lạp thuần thành. Cuộc đời hành đạo của vua Menander xẩy ra thế nào, không ai biết rỏ. Sử sách Pali Phật giáo Nam Tông cho rằng Menander đã đạt chứng quả A La Hán.
Vua Menander – hay là Milinda theo sử sách Phật Giáo Nguyên Thủy viết bằng tiếng Pali, hay là Di Lan Đà theo Hán tạng– đã có một cuộc tham vấn Phật học với một nhà sư đắc đạo theo truyền thống Nguyên Thủy tên là Nagasena, dịch sang tiếng Việt là Tỳ Kheo Na Tiên.
4.Cuôc đối thoại giữa vua Di Lan Đà và Tỳ Kheo Na Tiên
Hình vẽ Tỳ Kheo Na Tiên (nagasena)
Cuộc tham vấn này đã được ghi chép lại để trở thành một một bản kinh rất nổi tiếng trong giáo lý Nguyên Thủy. Bản kinh tiếng Pali gọi là “Milindapanhà”: Milinda là tên vua Menander, hay Di Lan Đà; panhà là hỏi, Minlindapanhà là vua Di Lan Đà hỏi. Bản Kinh chữ Hán gọi là “Na Tiên Tỳ Kheo Kinh”. Hai bản Pali và Hán tạng có đôi chút khác biệt nhưng cơ bản thì như nhau. Ngài Hòa Thượng Thích Trí Thủ(2) đã giới thiệu bộ Kinh này như sau:
Na Tiên Tỳ kheo Kinh là một bộ Kinh phản ảnh đầy đủ những đường nét chính của Giáo lý Nguyên Thủy. Nhưng nếu chỉ có thế thôi thì Kinh này chỉ là một bản trùng tuyên vô vị, không đáng được có một địa vị Tam Tạng Thánh Giáo.
Ðặc sắc của Kinh này dĩ nhiên không phải ở chỗ trùng tuyên vô bổ ấy. Ðặc sắc của nó là chính ở những ví dụ rất khế lý và khế cơ mà Ngài Na Tiên đã khéo sử dụng để làm sáng tỏ các chủ điểm giáo lý căn bản của Phật Giáo Nguyên Thủy. Các ví dụ rất linh động ấy là hoàn toàn do Ngài sáng chế để đóng góp vào chánh pháp và thúc đẩy bánh xe Chánh Pháp chuyển mau thêm.
Tiểu sử của vua Menader (hay Di Lan Đà) đã dược trình bầy nơi trên
Tiểu sử của Ngài Na Tiên, căn cứ vào phần một của Na Tiên Tỳ kheo Kinh, hoặc quyển I của Milindapanhà, đại khái như sau:
Ngài sanh tại làng Casangala (có nơi viết là Kajangala), dưới chân núi Hy Mã Lạp, ở vùng Tây bắc Ấn Ðộ, trong một gia đình Bà La Môn mà thân phụ tên là Sonattara. Theo bản Hán dịch thì làng này thuộc nước Kế Tân (Kashmir). Ngài xuất gia thọ giáo với La hán Lâu Hán (Rohana), từng được bổn sư cho tháp tùng để học đạo và du hóa tại các Chùa trên núi Hy Mã Lạp Sơn. Tiếp theo Ngài được gửi đến thọ giáo với La hán Át Bá Nhựt (Assagutta) tại Chùa Hộ Tân (Vattaniya). Trong thời gian thọ giáo với La hán Át Bá Nhựt, nhân một thời pháp nói cho một lão tín nữ nghe, cả Ngài và lão tín nữ bổng nhiên được pháp quả “nhãn tịnh“, và cả hai cùng chứng đắc sơ quả “Dự lưu” mà siêu phàm nhập Thánh. Sau đó, Ngài được La hán Át Bá Nhựt cho đông du, đến thọ giáo với La hán Ðạt Ma Ra Khi Ta (Dhammarakhita) tại Chùa A-Dục (Asokàrama) ở thành Hoa Thị (Pataliputra). Ngài thông suốt Tam Tạng Thánh Giáo và chứng quả A La Hán tại đây. Từ đó, tiếng tăm lừng lẫy, Ngài đi giáo hóa khắp đó đây. Cuối cùng, Ngài dừng chân tại Chùa San Khế Da (Sankkheyà) ở thủ đô Xá Kiệt (Sagala) trong vùng thượng lưu Ngũ Hà (Punjab). Tại đây, Ngài gặp Vua Di Lan Ðà, trước đó đã quy y với trưởng lão Dã Hòa La (Ayupàla) mà nhà Vua đã nhiều lần đến hỏi đạo và không mấy được thỏa mãn. Sự tương ngộ giữa Di Lan Ðà và Ngài là đầu mối của Kinh Milindapanhà hay Na Tiên Tỳ kheo Kinh
Kinh Milindapanhà tiếng Pali hay Na Tiên Tỳ kheo Kinh chữ Hán khá dài vì cuốc tham vấn của vua Menander với nhà sư Nagasena hayTỳ kheo Na Tiên, có trên 240 câu vấn đáp.
Hòa thượng Giới Nghiêm
Hòa thượng Giới Nghiêm
Ở đây chúng ta sẽ chỉ xem 3 câu hỏi đầu, tiêu biểu cuộc đối thoại lý thú đầy hương vị giáo lỳ Nguyên Thủy, trich từ bản dịch của  Hòa Thượng Giới Nghiêm(3) (Maha Thera Thita Silo) từ Kinh Milindapanhà tiếng Pali.
a.  Câu hỏi thứ nhất về Danh
Đức vua Mi-lan-đà sau khi đảnh lễ Tăng chúng tám mươi ngàn vị cùng với đại đức Na-tiên, ngồi một nơi phải lẽ, đức vua khởi chuyện:
– Bạch đại đức, Trẫm muốn đàm luận với ngài vài điều được chăng?
Tỳ kheo Na-tiên đã quan sát vị vua hữu danh đã từng làm cho các tôn giáo điên đảo từ bấy lâu nay. Quả thật là không hư truyền, vì ngài chưa từng gặp một người có tướng mạo phi phàm như thế. Nhưng với thắng dũng, thắng trí và thắng tuệ, ngài cảm thấy không khó khăn gì khi nhiếp phục đức vua này.
Khi nghe hỏi, Na-tiên tỳ kheo mỉm cười đáp:
– Tâu đại vương, ngài cứ hỏi, bần tăng sẽ nghe.
– Bạch đại đức, trẫm hỏi rồi, ngài hãy nghe đi.
– Tâu đại vương, bần tăng nghe rồi, ngài hãy nói đi!
– Bạch đại đức, Trẫm hỏi rồi.
– Tâu đại vương, bần tăng đáp rồi.
– Ngài đáp như thế nào?
– Đại vương hỏi như thế nào?
Chỉ vài câu vấn đáp khởi đầu, cử tọa thính chúng gồm tám mươi ngàn Tăng chúng, năm trăm tùy tùng của đức vua cùng với cận sự nam nữ đông đặc bên ngoài giảng đường… đều cảm thấy thú vị, họ cất tiếng hô “lành thay!” vang rền như sấm dội.
Đợi cho không khí yên lặng, nhà vua hỏi tiếp:
– Bạch đại đức, ngài tên gì?
– Tâu đại vương! Bần tăng tên là Na-tiên! Thầy tổ, huynh đệ, pháp hữu của bần tăng cũng gọi tên bần tăng như thế. Còn cha mẹ của bần tăng không những gọi tên bần tăng là Na-tiên, mà đôi khi kêu là Viranasena, Surasena hoặc Sihasena! Tuy nhiên, dù gọi tên gì đi nữa thì nó cũng chỉ là cái tên, cái tên suông, chẳng liên hệ gì đến bần tăng cả. Cái tên ấy chỉ để mà phân biệt giữa người này và người kia, thế thôi, chẳng có gì là “tôi” là “của tôi” như ngã chấp và tà kiến thế gian thường nhận lầm, tâu đại vương được rõ!
Đức vua Mi-lan-đà ngạc nhiên, đưa tay lên, phân bua với mọi người xung quanh:
– Xin tất cả các vị hãy làm chứng cho trẫm. Đại đức Na-tiên vừa nói rằng, cái tên Na-tiên là tên do cha mẹ đặt, các vị đồng phạm hạnh cũng gọi như thế, nhưng chẳng có cái gì là Na-tiên ở đấy, chẳng có gì là “tôi” và “của tôi” cả. Mọi người nghe rõ rồi đấy chứ?
Rồi quay sang tỳ kheo Na-tiên , đức vua phản vấn:
– Bạch đại đức! Nếu không có cái gọi là “ta” và “của ta” thì những người bố thí cúng dường y bát, vật thực, thất liêu, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh, vật dụng v.v… thì ai là người thọ nhận tứ sự ấy? Ai trì giới? Ai tham thiền? Ai chứng ngộ đạo quả và Niết bàn? Từ đó suy ra, những tội ác như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói lời hư dối, uống rượu; cho chí những ngũ nghịch đại tội vô gián địa ngục, cũng chẳng có ai làm gì cả! Và như vậy thì nghiệp lành, nghiệp ác cũng không, chẳng có ai tạo tội cả, lành dữ đều không có quả báo. Nếu thế có kẻ giết chết đại đức họ cũng không phạm tội giết người. Và thầy tiếp dẫn, thầy giáo thọ, hòa thượng tế độ cho đại đức cũng không có. Các vị đồng phạm hạnh gọi tên đại đức Na-tiên là gì đó cũng không có luôn. Vậy cái gọi là Na-tiên đó là ai? Mong đại đức giảng giải cho trẫm. Đại đức nghe rõ rồi đấy chứ.
– Tâu đại vương! Bần tăng nghe rõ rồi!
– Người nghe đó có phải là Na-tiên chăng?
– Tâu, không phải.
– Chẳng có gì là Na-tiên cả sao?
– Vâng, chính thế!
– Tóc, lông, móng, răng da… kia là Na-tiên sao?
– Tâu, đại vương, không phải.
– Thịt, tủy, gân, xương là Na-tiên chăng?
– Thưa, không phải!
– Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Na-tiên chăng?
– Tâu, Đại vương, không phải.
– Hay lục căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là Na-tiên?
– Tâu, không phải thế.
– Vậy ngũ uẩn họp lại là Na-tiên?
– Tâu, cũng chưa chắc là vậy.
Đến ngang đây chợt đức vua Mi-lan-đà cất giọng nói lớn:
– Bạch đại đức! Hồi nãy giờ trẫm đã cặn kẽ hỏi về ba mươi hai thể trược, lục căn, ngũ uẩn v.v… có phải là Na-tiên chăng, tất thảy đều bị đại đức phủ nhận. Và quả thật, trẫm cũng công nhận như thế. Vì khi quán tưởng một cách tận tường từng phần được nêu ra trong câu hỏi, thì chẳng có cái gì được gọi là Na-tiên cả. Thế tại sao, trước đây khi trẫm hỏi, đại đức bảo đại đức là Na-tiên? Té ra là đại đức nói dối! Này, năm trăm tùy tùng thân tín của trẫm và tám mươi ngàn Tăng chúng tỳ kheo, xin quý vị hãy làm chứng cho trẫm đấy nhé!
Đại đức Na-tiên là một Thánh nhân A-la- hán đắc thần thông và đắc cả 4 tuệ phân tích: tuệ về nhân, tuệ về quả, tuệ văn tự, ngữ nghĩa, tuệ biện tài, biện luận. Tâm ngài như đỉnh núi chúa, trí ngài như mặt trời, mặt trăng, lòng từ của ngài bao la như biển lớn. Do vậy, ngài độ lượng với đức vua Mi-lan-đà như mẹ đối với con; với tâm nguyện là phải nhiếp phục đức vua, tế độ đức vua, đặt đức vua trong Chánh đạo; nên dù đức vua có nói gì ngài cũng chỉ ngồi làm thinh và mở rộng lòng từ.
Tham vấn học Đạo trong chùa
Để cho ngạo khí và sự xao động trong tâm trí đức vua yên lắng lại một chút, đại đức Na-tiên mới chậm rãi nói:
– Tâu đại vương! Ngài là một bậc đế vương nhiều phước báu và nhiều an vui, tháng ngày sống trong hạnh phúc cao sang. Nhưng vì tâm cầu đạo, ngài chẳng quản đường xa, đến đây giữa cơn nắng nóng oi bức nên có lẽ ngọc thể cũng bất an. Lại nữa, từ hoàng cung đến đây mà sao đại vương không đi bằng xe mà lại đi bằng chân cho mệt?
– Bạch đại đức! Trẫm đến chùa bằng xe chứ! Chỉ đi bộ từ cổng, nhưng vào giảng đường mới đi bằng chân không!
– Thế ra đại vương tới đây bằng xe.
– Vâng, trẫm đến bằng xe.
Đại đức Na-tiên giờ cũng làm như cách của vua Mi-lan-đà , phân bua với mọi người:
– Năm trăm tùy tùng quan chức, thị vệ của đức vua và tám mươi ngàn chư tỳ kheo đại chúng hãy xác nhận cho: đức vua đã nói rằng ngài đến đây bằng xe!
Rồi quay sang đức vua, ngài Na-tiên hỏi lại:
– Đại vương bảo rằng đạivương đến đây bằng xe, đấy là lời nói thật chứ?
– Chắc chắn là thật.
– Vậy đại vương hãy nói cho rõ về cái xe ấy! Cái gì gọi là xe? Cái gọng chăng?
– Không phải.
– Hay cái trục, cái bánh là xe?
– Cũng không phải.
– Cái thùng, cái mui là xe chăng?
– Chẳng phải đâu.
– Hoặc roi, dây cương là xe?
– Chẳng phải.
– Thế chắc cái ách, căm xe?
– Không phải nốt.
– Vậy cái gì là xe?
Đức vua Mi-lan-đà im lặng.
Đại đức Na-tiên cất giọng chậm rãi:
– Tâu đại vương! Bần tăng đã đưa từng bộ phận một, và hỏi rằng cái gì là xe thì đều bị đại vương phủ nhận. Mà quả thật, bần tăng cũng thấy vậy, chẳng có cái gì được gọi là xe trong tất cả các bộ phận chi tiết ấy. Tuy nhiên, đại vương là vị hoàng đế cao cả, là đấng nhân chủ, là bậc anh minh cai quản một quốc độ mênh mông; quả thật là không thích đáng khi đạivương nói dối rằng, ngài đến đây bằng xe! Xin tất cả chư vị và Chư Tăng đại chúng ở đây hãy làm chứng cho!
Mọi người không ngớt lời tán dương ca ngợi biện tài của đại đức Na-tiên . Riêng năm trăm người tùy tùng thì cung thỉnh đức vua tìm cách luận thắng đối phương.
Sau một hồi làm thinh, đức vua Mi-lan-đà nói:
– Đại đức biện luận hay lắm! Nhưng mà hãy nghe trẫm nói đây! Tất cả những bộ phận chi tiết như thùng, mui, căm, bánh, trục v.v… nếu nằm riêng lẻ thì không thể gọi là xe, nhưng chúng kết hợp toàn bộ lại thì giả danh gọi là xe, có phải thế chăng? Vậy trẫm bảo rằng, trẫm đến đây bằng xe đâu phải lời nói dối?
– Tâu đại vương! Cũng thế, tất cả những cái gọi là tóc, lông, móng, răng, da, ngũ uẩn, lục căn… nếu chúng nằm riêng lẻ thì làm sao được gọi là Na-tiên? Nhưng nếu được kết hợp lại thì giả danh gọi là Na-tiên! Bần tăng nói rằng, bần tăng tên là Na-tiên thì đâu phải lời nói dối?
Nghe đến đây, đức vua Mi-lan-đà vô cùng thích thú, hết lòng tán thán đại đức Na-tiên:
– Hay lắm! Hôm nay, lần đầu tiên trong đời cái lỗ tai của trẫm rất là hoan hỷ, đại đức có biết thế chăng?
Cả đại giảng đường vang lên tiếng “lành thay, lành thay” làm chấn động cả kinh đô Sàgala.
b. Câu hỏi thứ Hai về con số Hạ lạp
Để cho không khí im lắng lại một lúc, đức vua hỏi tiếp:
– Đại đức năm nay được bao nhiêu hạ lạp rồi?
– Thưa, bần tăng tu mới được bảy hạ.
– Con số 7 ấy là đếm luôn cả đại đức vào trong, hay là chỉ đếm cái hạ không thôi? Con số 7 ấy là con số của đại đức hay con số của hạ?
Khi ấy, đức vua đang mặc y phục vương giả với những đồ trang sức quý báu, cái bóng sáng rỡ của ngài rọi vào trong chai đựng nước ai cũng trông thấy rõ ràng. Đại đức Na-tiên đưa tay chỉ, rồi hỏi ngược lại rằng:
– Tâu đại vương! Cái bóng với đồ trang sức rực rỡ trong chai nước kia là đại vương, hay người đang đối thoại với bần tăng đây là đại vương?
 Trẫm đây mới thật là trẫm, còn cái bóng kia nương nơi trẫm mà có. Nó có là bởi trẫm.
– Cũng thế, tâu đại vương! Số 7 kia là số hạ lạp chứ không phải bần tăng, nhưng nó có được là do nương gá nơi bần tăng. Nó có là bởi bần tăng.
– Hay lắm! Quả thật đúng như vậy! Cục đá quăng qua thì cục chì ném lại. Thật thú vị làm sao!
c. Câu hỏi thứ Ba: Đàm thoại như một Trí giả hay như một Vương giả?
Sau hai câu hỏi mở đầu, đức vua biết là gặp được bậc trí tuệ, nên ngài muốn đi sâu vào giáo pháp, bèn ướm lời:
Vua Mi Lan Đà
– Bạch đại đức! Trẫm rất thích đàm đạo với đại đức về nhiều vấn đề khác nữa, nhưng không rõ đại đức có hoan hỷ không?
– Tâu đại vương! Cái đó còn tùy thuộc nơi đại vương! Nếu đại vương đàm thoại mà lấy tư cách một Trí giả (Panditavàda), thì bần tăng sẵn sàng hầu đáp. Nhưng nếu đại vương đứng trên tư cách mình là bậc Vương giả (Ràjavàda), thì xin thưa thẳng, bần tăng sẽ không thể hầu đối được.
– Tư cách một Trí giả là như thế nào?
– Tâu đại vương! Phàm là Trí giả nói chuyện với nhau, bao giờ cũng nói lời ngay thật, muốn trao đổi hiểu biết, soi sáng hiểu biết cho nhau. Trong câu chuyện, nếu có những lý lẽ đưa ra, dù đúng, dù sai, dù cao, dù thấp, dù phải, dù trái v.v… các bậc Trí giả không bao giờ vì thế mà phiền lòng hay nóng giận. Họ tôn trọng nhau, dù ý kiến, tư tưởng có bất đồng chăng nữa. Thắng, bại không hề làm cho họ chau mày, mà chính chân lý, sự thật mới thuyết phục được họ. Nếu gặp phải đối phương là tay lợi trí, lợi khẩu, hùng biện đại tài, bậc Trí giả không vì thế mà tìm cách cản ngăn, áp chế, bắt ngừng nói, đuổi ra khỏi chỗ ngồi; hoặc lươn lẹo dùng những xảo thuật miệng lưỡi, ngụy biện nhằm tranh thắng cho kỳ được! Đấy là cốt cách, phong thái đầy hiểu biết của bậc Trí giả, tâu đại vương!
Đức vua gật đầu mỉm cười:
– Đúng bậc Trí giả là vậy! Còn tư cách của bậc Vương giả là thế nào, thưa đại đức?
– Tâu đại vương! Bậc Vương giả vì quen sống trong quyền lực, nhất hô bá ứng, nên khi đối thoại thường quen áp đảo, bắt buộc kẻ khác chấp thuận quan điểm của mình. Nếu có ai đó nói một câu không vừa ý, hoặc đối nghịch với tư kiến của mình; bậc vương giả sẽ không hài lòng, sẵn sàng dùng quyền uy của mình mà bắt tội, chẳng dựa vào lẽ phải và công bằng. Những cuộc nói chuyện như thế rồi chẳng đi đến đâu, vì thái độ và lối xử sự của các bậc Vương giả đã tự ngăn chặn con đường về với sự thật, đốt cháy mối cảm thông và cắt đứt sự hiểu biết. Đối thoại trong tư thế bậc Vương giả thường rơi vào một chiều, phiến diện và ngõ cụt như vậy đấy, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà lại gật đầu nữa:
– Hay lắm, thưa đại đức, trẫm đã hiểu rõ rồi. Trẫm chẳng thích cách nói chuyện của người Vương giả, trái lại, trẫm sẽ cố gắng xem mình là người Trí giả để hầu chuyện với đại đức. Khi đối thoại, đại đức hãy quên cái hào nhoáng cao sang bên ngoài của trẫm đi, mà hãy tiếp xúc với chính con người của trẫm thôi. Đại đức cứ nói chuyện một cách tự nhiên, bình thường như đại đức nói chuyện với chư tỳ kheo, tỳ kheo ni, sa di, sa di ni, cận sự nam, nữ v.v…; thậm chí như nói chuyện với người hộ tự, người quét rác, người nấu ăn trong ngôi chùa này cũng được vậy, trẫm không bắt lỗi gì đâu!
– Tâu đại vương! Ngài đã phán những lời rất cao quý, rất hay, rất đúng đắn, đúng là lời của một bậc minh quân vĩ đại nhất trên thế gian. Bần tăng rất khâm phục, và bần tăng sẽ rất hoan hỷ, thoải mái để hầu chuyện với Đại vương như là một bậc Trí giả
– Vậy đại đức hãy nghe Trẫm hỏi.
– Tâu, xin ngài cứ hỏi đi?
– Bạch, trẫm đã hỏi xong rồi.
– Thưa, bần tăng đã đáp rồi.
– Đại đức đáp như thế nào?
– Đại vương hỏi như thế nào?
Đức vua Mi-lan-đà vì vui thích mà thử trí tuệ của đại đức Na-tiên đó thôi, các câu hỏi này chỉ lặp lại, nhưng giảng đường thì mọi người hoan hô, tán thán vang rân.
Đén đây đức vua bảo viên đại thần Devamantiya đến đảnh lễ đại đức Na-tiên và xin mời ngài vào hoàng cung ngày mai.
***
Đến cuối đời vua Menander, trong nước không được yên. Nhà vua lại phải đem quân đi đánh giặc. Menander đã bi chết trong một cuộc hành quân. Cái chết của nhà vua đã đem lại tiếc thương của cả nước. Theo Plutarch, sử gia Hy-Lạp, các bộ lạc trong nước tranh nhau dành ngọc xá lợi của nhà vua sau khi được hỏa táng.
Sau triều đại Menander, nhiều thế hệ con cháu người Hy-Lạp tiếp tục cai trị vùng đất vương quốc của Menander. Vương quốc này trở nên suy yếu, ảnh hưởng của văn minh Ấn-Độ ngày một gia tăng, trong khi những gì là giá trị Hy-Lạp nhạt dần trong xã hội. Sang đến cuối thế kỷ thứ 2 sau Tây Lịch, nghĩa là 350 năm sau vua Menander băng hà thì người ta không còn thấy một cộng đồng Hy-Lạp đáng kể nào nữa.
5. Di Tích của người Hy-Lạp tại Ấn-Độ
Người Hy-Lạp đã để lại những gì sau cuộc gặp gỡ Đông Tây suốt trong chiều dài lịch sử, bắt đầu từ cuộc chinh phạt Đông tiến của vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế?
Dấu chân Đức Phật
Nhiều người Hy-Lạp đã trở thành Phật Tử. Dù cho đến 500 năm sau khi Đức Phật Thích Ca thành đạo, người Ấn-Độ đã không hình dung ra được Đức Phật như là một thực thể con người. Kinh Phật chỉ chép lại Ngài có 32 tướng tốt với 80 vẻ đẹp. Trong các trụ đá, các hang động, hình tướng về Đức Phật chỉ là những bánh xe Pháp Luân, gốc cây Bồ Đề, hay cùng lắm là những vết chân mà người ta nghĩ là của Đức Phật.
Tượng thần Apollo
Hy-Lạp, ngay từ thế kỷ thứ 5, thứ 6 trước Tây Lịch, đã có một nền văn minh khá cao, được các sử gia coi là nềnvăn minh cơ bản cho học thuật và văn hóa Tây phương, ảnh hưởng nhiều đến văn hóa La Mã và Âu Châu. Hy-Lạp đã có những nhà điêu khắc, dắp tượng rất giỏi mà tác phẩm còn lưu truyền mãi đến bây giờ tại các viện bảo tàng danh tiếng trên thế giới.
Tượng Đức Phật
Không được trực tiếp nhìn Đức Phật, nghệ nhân Hy-Lạp đã tạc tượng Đức Phật như là một vị thần, đẹp trai, khỏe mạnh, thần Apollo, vị thần của ánh sáng, của trí tuệ. Những tượng đó, tóc xoăn, tai dài, vóc dáng Tây phương, lần lần trở thành những tượng Phật trong các chùa chiền tại nhiều nước ngày nay.
_________________________________________________
Tài liệu tham khảo:
a) The awakening of the West- the Encounter of Buddhism and Western Culture của Stephen Batchlor
b) Nghiên Cứu Phật Học. Triết học Phật giáo- Kinh Na tiên Tỳ kheo viết bởi Cao Hữ Đính
c) Bud dha Sasana – Mi Tiên Vấn Đáp (Milinda Panhà)- Dịch Giả Hòa Thượng Giới Nghiêm
1)Macedonia là một đế quốc Hy-Lạp rộng lớn ngự trị bởi vua Phillip II. Sau khi Phillip II bị ám sát chết, con là A-Lịch-Sơn (Alexander) lên nối ngôi, tước hiệu là Đại-Đế Hy-Lạp. Đến năm 148 trước Tây Lịch thì bị La Mã (Ý Đại Lợi) xâm chiếm và cai trị.
2) Hòa Thượng Thích Trí Thủ, thế danh Nguyễn Văn Kính, sinh năm 1909, mất năm 198, 76 tuổi đời, 56 tuổi đạo, là mộtcao tăng thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Ngài đã xuất gia thọ giới năm17 tuổi với Hoà Thượng Viên Thành, chùa Trà Am, Huế. Năm Ngài 20 tuổi (1929), được Bổn sư cho vào thọ giới Cụ Túc (Tỳ Kheo) tại Đại giới đàn chùa Từ Vân ở Đà Nẵng. Ngài đã dẫn đầu nhiều phái đoàn đại biểu Phật giáo Việt Nam tham dự Đại hội Phật Giáo Quốc Tế.
3) Hòa thượng Giới Nghiêm (Thitasìlamahathera), thế danh Nguyễn Đình Trấn, sinh ngày 5/5/1921 tại làng Giạ Lê Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ngài xuất thân trong một gia đình có truyền thống đạo đức lâu đời, tại một quê hương nghèo khổ, nhưng lại phát tích rất nhiều tu sĩ và cao tăng thuộc cả hai truyền thừa Nam Bắc tôn. Chỉ riêng trong gia đình, bác của Ngài – Hòa thượng Thích Phước Duyên – và chú của Ngài đều là bậc xuất gia. Còn vị thân sinh – Hòa thượng Thích Quang Diệu (Nguyễn Đình Tải) – sau nửa cuộc đời lập gia đình với mẹ của Ngài là cụ bà Huỳnh Thị Thành, cũng xuất gia, sống đời phạm hạnh.
______________

Source: https://daovien.wordpress.com