Thứ Năm, 30 tháng 9, 2021

Tất cả đều là nạn nhân của thời cuộc

Hắn sống xa quê hương đã lâu và trước đó một thời gian hắn đã không còn sống với ba của hắn.  Cuộc đời sóng gió bôn ba có những lúc hắn dường như không có thời gian để nhớ về dĩ vãng.  Chỉ biết rằng tuổi thơ của hắn cũng như bao đứa trẻ thời bấy giờ, buồn nhiều hơn vui.

Sau chiến tranh, gia đình ly tán, cả ba & mẹ của hắn đều được đưa vào "trại cải tạo".  Hắn chỉ muốn quay về cái nhà mà hắn đã lớn lên với anh chị em của hắn, nhưng căn nhà lúc đó đã có bộ đội ở.  Bốn anh em hắn được bà ngoại đưa về nuôi.  Thỉnh thoảng bà ngoại lại chuẩn bị một giỏ đồ thăm nuôi cho anh của hắn (lúc ấy 11 tuổi) đạp xe mười mấy cây số đi thăm nuôi ba mẹ hắn.  Có hôm mẹ hắn nhớ đứa em của hắn (lúc ấy 4 tuổi) xin phép trưởng trại để được thăm con.  Em hắn còn quá nhỏ để bám vững vào yên sau chiếc xe đạp, đã rơi xuống đường mặt mày đầy thương tích đến nỗi khi vô trại ông trưởng trại thương tâm tạm thả mẹ hắn về nhà được mấy hôm.

Rồi một ngày ba mẹ hắn được thả ra khỏi trại và gia đình dời đến sống ở một nơi đồng không mông quạnh.  Quanh nhà đêm đêm chỉ nghe tiếng ếch nhái côn trùng kêu rả rích.  Cuộc sống tuy nghèo khổ nhưng gia đình sum họp ... Nhưng những hạnh phúc nhỏ nhoi ấy cũng không được bền lâu.  Ở tuổi 15, hắn bỗng bất đắc dĩ trở thành "con trai trưởng" trong nhà. Dưới hắn là ba đứa em nhỏ.  Mẹ hắn quần quật suốt ngày đêm để kiếm miếng ăn cho gia đình. Đứa em trai kế của hắn mới chỉ 12 tuổi đã bị hắn lôi "lên rừng xuống bể" để giúp gia đình kiếm kế sinh nhai.

Khó khăn nhưng hắn vẫn cố gắng học xong lớp 12.  Tuy nhiên hắn đã nhận được một tờ giấy từ chính quyền địa phương quyết định không cho hắn thi đại học vì gia đình có "lý lịch xấu". Với đầu óc non nớt hắn chỉ biết oán hận và thậm chí còn trách tại sao ông nội hắn từng là người lãnh đạo một tỉnh mà không dắt dìu con cháu cao chạy xa bay để bây giờ gia đình hắn phải khốn khổ.  Nhưng nghĩ lại thì ông của hắn cũng phải chịu cảnh tù đày như bao người miền Nam thời ấy.

Hắn trốn vào Sài Gòn tìm đường vượt biên.  Với cái tuổi chập chững vào đời hắn nếm đủ mùi: những đêm trốn chạy công an; những lần vượt biên thất bại lạc lõng giữa trời đất mênh mông; những lần tù tội & chết chóc ...

Rồi một ngày hắn cũng đến được bến bờ tự do, trôi nổi cuốn theo những cơn sóng của cuộc sống mới. Thỉnh thoảng hắn liên lạc & gởi tiền về cho ba  hắn ở VN.  Ba hắn đã có một gia đình khác cũng đã gần 40 năm rồi còn gì ...

Hôm qua, bất ngờ hắn nhận được tin ba hắn vừa qua đời.  Hắn cố bình tĩnh & hắn nghĩ là hắn sẽ bình tĩnh ... Nhưng hắn bỗng oà khóc như một đứa trẻ con ...

Có một thời gian hắn đã từng oán hận rất nhiều điều trong cuộc đời và có lẽ trong đó có ba của hắn ... Nhưng một ngày kia, hắn bỗng dưng nghĩ rằng "Tất cả đều là nạn nhân của thời cuộc" và hắn chỉ còn cảm thấy tình thương & tình thương ...


NTTN

09-2021.

Thứ Năm, 23 tháng 9, 2021

Để hồn hoang về với hoàng hôn …


Hoàng hôn tĩnh lặng một góc vườn 

Lòng bỗng nhẹ nhàng không vấn vương 

Bao nhiêu lo lắng dường tan biến

Để hồn hoang về với hoàng hôn …


LÀNG NAM

09-2021

Thứ Bảy, 18 tháng 9, 2021

“Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”

“Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu” là một câu nói vô cùng quen thuộc, mà đôi khi chúng ta thậm chí đã quên mất xuất xứ của nó. Ngày nay, một số bạn trẻ yêu thích thể loại truyện mang bối cảnh cổ xưa, kiếm hiệp, tiên hiệp, v.v. còn thường xuyên dùng câu nói ấy với hàm nghĩa lãng mạn hiện đại. Tuy nhiên hàm nghĩa của câu nói ấy hoàn toàn khác, và xung quanh câu nói ấy có thật nhiều điều đáng phải suy ngẫm.


“Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu” xuất phát từ bài thơ đầu tiên của Kinh Thi thuộc Tứ thư Ngũ kinh của Nho gia, nằm trong thiên Quan thư, chương thứ nhất:


Quan thư


Quan quan thư cưu,

Tại hà chi châu.

Yểu điệu thục nữ,

Quân tử hảo cầu.


Dịch nghĩa là:


Đôi chim thư cưu hót họa nghe quan quan,

Ở trên cồn bên sông.

Người thục nữ u nhàn,

Phải là lứa tốt của bực quân tử.


Dịch thơ:


Quan quan kìa tiếng thư cưu,

Bên cồn hót họa cùng nhau vang dầy.

U nhàn thục nữ thế này,

Xứng cùng quân tử sánh vầy lứa duyên.


Chương thứ nhất nói riêng, và thiên Quan thư nói chung, nếu đặt riêng lẻ khỏi Kinh Thi thì hẳn là sẽ không ít người nghĩ rằng nó nói về tình yêu nam nữ phàm tục thông thường. Tuy nhiên đặt trong toàn bộ Kinh Thi thì người ta mới hiểu được thiên Quan thư này một cách trọn vẹn.


Từ toàn bộ nội dung Kinh Thi mà xét, thì chương này có nguồn gốc như sau:


“Quân tử” trong bài là chỉ vua Văn Vương nhà Chu. Vua sinh có thánh đức, nên cần tuyển chọn người vợ trinh thục để phối với bậc chí tôn, làm chủ tế tông miếu.


Từ “nữ” trong bài thơ là con gái chưa gả chồng, ý nói nàng Thái Tự, vợ vua Văn vương, lúc còn ở nhà với cha mẹ. Nàng Thái Tự rất mực trinh thục không thay tiết tháo, dục vọng không lẫn vào nghi dung, ý vui riêng không hề lộ ra cử chỉ.




Tranh trong cuốn “Họa Lệ Chu Thúy Tú”, Hác Đạt triều Thanh. (Public Domain)

“Hảo” là đẹp lành, “Cầu” nghĩa là đôi lứa. Những người trong cung, lúc nàng Thái Tự mới đến, thấy nàng có đức hạnh u tịch nhàn nhã và trinh chuyên, bèn làm bài thơ này rằng: Kìa đôi chim thư cưu nghe hót quan quan, đang ứng họa với nhau ở trên cồn bên sông. Người thục nữ yểu điệu nầy há không phải là bạn lứa tốt của bậc quân tử Văn vương hay sao?


Đó là có ý nói nàng Thái Tự và vua Văn vương cùng hòa vui mà cung kính lẫn nhau, cũng như tình chí thiết đậm đà mà lúc nào cũng giữ gìn cách biệt của đôi chim thư cưu vậy.


“Thư cưu” là loài chim nước, lại có một tên nữa là vương thư, hình trạng giống như chim phù y, trong khoảng Trường giang và sông Hoài thì có chim ấy. Chim nầy sống có đôi nhất định mà không hề lẫn lộn. Hai con thường lội chung mà không lả lơi, cho nên sách cổ nói rằng: đôi chim thư cưu tình ý chí thiết khăn vó đậm đà, nhưng lúc nào cũng giữ gìn cách biệt. Sách Liệt nữ truyện cho là người ta chưa từng thấy chim thư cưu sống dư cặp hay sống lẻ loi, là vì tính nó như thế.


“Quan quan” là tiếng chim trống chim mái ứng họa nhau, ý chỉ tâm ý tương thông, tri âm tri kỷ.


Như vậy chương thứ nhất của thiên Quan thư tỏ rõ cho hậu nhân rất nhiều vấn đề trong hôn nhân. Đó là cái đức của người nữ cần trinh thục, u nhã; đức của người nam cần là bậc quân tử; dẫu là trong hôn nhân thì nam nữ cũng rất mực giữ gìn, không lả lơi, buông thả; có vậy mới đạt được phu xướng phụ tùy, tâm ý tương thông, tri âm tri kỷ.


Vậy mới thấy rằng “Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu” của cổ nhân so với quan niệm “lãng mạn” ngày nay thì quả là khác rất xa.


Như vậy “Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu” là một câu trong chương thứ nhất thiên Quan thư của Kinh Thi. Chương thứ nhất đã tỏ rõ cho hậu nhân những quan niệm về hôn nhân rất khác của người xưa. Chương thứ hai của thiên này lại tập trung vào sự trăn trở của vua Văn vương khi chưa cầu được nàng Thái Tự, còn chương thứ ba thì nói đến niềm sung sướng của vua khi cầu được nàng.



Tranh trong cuốn “Họa Lệ Chu Thúy Tú”, Hác Đạt triều Thanh. (Public Domain)

Khổng tử nói rằng: “Thiên Quan thư vui mà không dâm, buồn mà không thương tâm”. Mạnh Tử đã khảo luận Kinh Thi, lấy thiên Quan thư làm đầu, nhấn mạnh vào cái đức của nàng Thái Tự. Tại sao thiên Quan thư lại quan trọng đến như vậy?


Văn vương trằn trọc bồi hồi

Chương thứ hai:


Sâm si hạnh thái,

Tả hữu lưu chi.

Yểu điệu thục nữ,

Ngộ mỵ cầu chi.


Cầu chi bất đắc,

Ngộ mỵ tư bặc.

Du tai! du tai!

Triển chuyển phản trắc.


Dịch nghĩa:


Rau hạnh cọng dài cọng ngắn không đều nhau,

Phải thuận theo dòng nước sang bên tả bên hữu chọn hái.

Người thục nữ u nhàn ấy,

Khi thức khi ngủ đều lo cầu cho được nàng.


Nếu cầu mà không được,

Thì khi thức khi ngủ đều tưởng nhớ.

Tưởng nhớ xa xôi thay! Tưởng nhớ xa xôi thay!

Vua cứ lăn qua trở lại mãi nằm không yên giấc.


Dịch thơ:


So le rau hạnh lơ thơ,

Hái theo dòng nước ven bờ đôi bên.

U nhàn thục nữ chính chuyên,

Nhớ khi thức ngủ triền miên chẳng rời.


Nếu cầu mà chẳng được người,

Khi mơ khi tỉnh bồi hồi nhớ thương.

Xa xôi trông nhớ đêm trường,

Chiếc thân trằn trọc trên giường nào yên.


Chương thứ hai này vẫn có cấu trúc như chương thứ nhất. Trước tiên nêu lên sự vật, rồi từ đó mà ví von với hoàn cảnh của Văn vương. Vào lúc chưa cầu được nàng Thái Tự, Văn vương trằn trọc không sao ngủ được, hết xoay bên này lại xoay bên kia, cũng như người đi hái rau hạnh ở hai bên dòng nước hết qua bên tả lại qua bên hữu vậy. Trằn trọc ấy lại không phải vì tình cảm bứt rứt, dục vọng không yên, mà bởi vì nàng Thái Tự với đức hạnh ấy trên đời không thường có vậy. Nếu cầu nàng mà không được thì không có ai phối, hợp với vua, để thành việc nội trị hoàn mỹ. Cho nên vua lo nghĩ sâu xa không xiết đến thế ấy. Đó chính là “buồn mà không thương tâm” (Khổng Tử) vậy.


Niềm sung sướng của Văn vương

Chương thứ ba:


Sâm si hạnh thái,

Tả hữu thể chi.

Yểu điệu thục nữ,

Cầm sắt hữu chi.


Sâm si hạnh thái,

Tả hữu mạo chi.

Yểu điệu thục nữ,

Chung cổ lạc chi.


Dịch nghĩa:


Rau hạnh so le không đều nhau,

Phải thuận theo dòng nước sang bên tả bên hữu chọn hái lấy.

Người thục nữ u nhàn ấy,

Phải đánh đàn cầm đàn sắt mà thân ái nàng.


Rau hạnh cọng dài cọng ngắn không đều nhau,

Phải nấu chín mà dâng lên ở hai bên.

Người thục nữ u nhàn ấy,

Phải khua chuông đánh trống để thể hiện điều mừng vui.


Dịch thơ:


Vắn dài rau hạnh bên sông,

Kiếm tìm mà hái theo dòng đôi bên.

Được người thục nữ chính chuyên,

Mến nàng, cầm sắt đánh lên vang dầy.

Bên sông rau hạnh vắn dài,

Đem về nấu chín mà bầy hai bên.

Được người thục nữ chính chuyên,

Để nàng vui thích, vang rền trống chuông.


Cầu được nàng Thái Tự rồi, thì Văn vương vui mừng khôn xiết. Đó lại không phải bởi vì thỏa được cái dục rồi mà hoan hỉ, mà bởi vì có được người đức hạnh giúp vua nội trị, nên vua tỏ ý mừng vui khôn xiết. Vậy nên mới lấy cầm sắt tâm giao, mới lấy trống chuông đánh lên mà tỏ nỗi lòng. Dẫu mừng vui thì vẫn thanh cao với rau hạnh. Đây chẳng giống như Khổng Tử nói, “vui mà không dâm” hay sao?


Thiên Quan thư này tỏ rõ trong hôn nhân: đức hạnh như chim thư cưu, tình chí thiết đậm đà mà vẫn giữ gìn cách biệt; khi cầu người thục nữ thì cũng là thức ngủ lăn qua trở lại vì lo không có được người đức hạnh dường ấy; đánh đàn cầm đàn sắt, khua chuông đánh trống, niềm vui buồn đã tột bực mà đều không quá khuôn khổ phép tắc. Hơn thế nữa, ẩn đằng sau những vui buồn đó lại là tâm tư của Văn vương, lo không có người đức hạnh để trợ giúp mình nội trị, sâu xa hơn cũng chính là lo cho con dân, cho quốc thổ. Từ đó có thể thấy sự đoan chính của cổ nhân trong quá trình tìm hiểu lẫn trong hôn nhân.


Khuông Hành nói rằng: “Phối hợp thành vợ chồng là mối đầu của việc phồn sinh của dân chúng, là nguồn cội của vạn phúc. Nghi lễ của hôn nhân được chính đáng thì về sau phẩm vật thoả thuận và thiên mệnh mới hoàn toàn.” Điều này so với cách nói ngày nay, cho rằng gia đình là tế bào của xã hội, cũng là đi trước nhiều lắm. Bởi vì cổ nhân nói về “đức hạnh” của hôn nhân, còn người hiện đại chỉ biết nói về tầm quan trọng của hai chữ “gia đình”.


Mạnh Tử đã khảo luận Kinh Thi, lấy thiên Quan thư làm đầu, ý nói rằng trên hơn hết là bực cha mẹ dân, đức hạnh của bà Hậu phi phu nhân nếu chẳng ngang bằng với trời đất, thì không lấy gì mà thờ phụng thần linh để điều hoà sự thích nghi của vạn vật. Từ đời trước trở lại, việc hưng phế của ba đời Hạ, Thương, Chu chưa có bao giờ không do ở đấy vậy. Điều Mạnh Tử nói lại càng cho thấy sự quan trọng của người phụ nữ trong Nho gia, điều mà không phải ai cũng hiểu cho được cặn kẽ.


Minh Nhật

Dựa theo cuốn Kinh Thi tập truyện, NXB Đà Nẵng, 2003.


Source: https://trithucvn.org/ 

Chủ Nhật, 12 tháng 9, 2021

Nguyễn Hưng Quốc: Cuộc hoà giải vô tận: Trường hợp Bùi Giáng

 

Nguyễn Hưng Quốc - Bùi Giáng

Trích: Thơ Con Cóc và Những Vấn Đề Khác (Ấn bản mới với một số sửa chữa của cuốn Thơ, v.v… và v.v…, 1996, và một số trích đoạn từ hai cuốn Tìm hiểu nghệ thuật thơ Việt Nam, 1988, và Nghĩ về thơ, 1989

… khi viết về thơ ở miền Nam trước 1975 cũng như thơ trong nước sau 1975, tôi ít nhắc đến Bùi Giáng. Không phải vì tôi đánh giá ông thấp. Ngược lại. Tôi đồng ý với Mai Thảo: Bùi Giáng là một tài thơ trác tuyệt. “Có ông, thi ca mới đích thực có biển có trời.”[1] Càng đọc Bùi Giáng, tôi càng thấy ông lạ lùng. Con người ông lạ lùng: nói như Thanh Tâm Tuyền, qua lời kể của Mai Thảo, Bùi Giáng là người “ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ thơ, làm thơ”.[2] Thơ ông càng lạ lùng, lạ lùng đến nỗi ai cũng ngại ngùng khi viết về ông. Kể chuyện về ông: có; nhưng phê bình thơ ông: chưa.

Có lần, Thanh Tâm Tuyền gọi Bùi Giáng là “một thiên tài tự huỷ ghê gớm nhất của thi ca Việt Nam hiện đại” và là “một hồn thơ bị vây khốn”.[3] Bị vây khốn bởi cái gì? Theo tôi, Bùi Giáng bị vây khốn, trước hết, bởi những hoài nghi, những dằn vặt. Thì một số khá đông các nhà thơ khác ở miền Nam thời kỳ 1954-75 cũng hoài nghi, cũng dằn vặt. Song, có điều, không ai sống đến tận cùng sự hoài nghi, sự dằn vặt như là Bùi Giáng. Thơ Bùi Giáng là những phún thạch phun lên từ hoả diệm sơn của hồn ông. Nhưng khác các nhà thơ khác, Bùi Giáng lại nguỵ trang thảm kịch của mình bằng một giọng cợt nhã, bông đùa. Trong một bài viết về Hàn Mặc Tử, sau khi ghi nhận thơ Hàn Mặc Tử là “một tiếng thét và một lời than. Tiếng thét đầy máu, tiếng than tràn ngập hư vô. Lúc hãi hùng khiếp đảm, lúc quạnh quẽ lạc phách xiêu hồn”, Bùi Giáng nhắc đến thơ của chính ông, như một sự so sánh:

Thơ tôi làm… là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm bão giông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn, đem phó thác thảm hoạ trần gian cho chuồn chuồn mang trên hai cánh mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm, bay về Sương Hy Lạp, ghé Calvaire viếng thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về đồng ruộng làm mục tử chăn trâu. Làm mục tử chăn trâu không xong bỏ trâu bò chạy lạc, phá phách mùa màng khoai sắn, thì tôi chạy về bẩm báo với ni cô cho phép con chuồn chuồn của tôi cư lưu một phút giây trong linh hồn bao dung phương trượng. Ni cô xua đuổi tôi thì tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao, thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao.[4]

Có dìu ba đào về chân trời nào khác thì ba đào vẫn cứ là ba đào, động biển vẫn cứ là động biển. Bay đi đâu cánh chuồn chuồn của Bùi Giáng cũng gặp giông bão. Giông bão dậy lên, trước hết, từ đôi cánh của nó: ngôn ngữ. Đã đành, làm thơ, ai cũng chú trọng đến ngôn ngữ. Song tôi có cảm tưởng ít có ai bị ám ảnh bởi vấn đề ngôn ngữ một cách nặng nề, triền miên như Bùi Giáng. Chữ “ngôn ngữ” thường xuyên xuất hiện trong thơ ông, đặc biệt trong hai tập thơ mới xuất bản ở hải ngoại sau 1975,[5] ở đó, câu Đường qua ngôn ngữ tuyệt trù, hay Đường qua ngôn ngữ điệp trùng và Đường qua ngôn ngữ cuối cùng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong nhiều bài thơ khác nhau. Hãy để ý đến nhóm từ đường qua ngôn ngữ: với Bùi Giáng, dường như công việc làm thơ chủ yếu là một cuộc hành trình vượt qua ngọn đèo cheo leo của ngôn ngữ trước khi là bất cứ một cái gì khác. Ngọn đèo ấy không những cheo leo mà còn mù mịt, thăm thẳm. Phần lớn các câu thơ kế tiếp mấy câu vừa dẫn đều là bóng đêm (Mừng xuân viễn vọng đêm bù cho đêm; Mừng xuân viễn vọng đêm lừng lẫy đêm; Mừng xuân viễn tuyệt đêm từng từng đêm). Xuân, ừ, thì xuân. Nhưng đêm vẫn mịt mùng đêm. Đêm vô tận. Ngôn ngữ không làm cho bóng đêm ấy tan biến. Trái lại.

Chấm ngòi bút sắt se vào mực Viết ra câu thúc giục sương mù (Mùa xuân chiêm bao)

Trong lúc hầu hết các nhà thơ khác, mặc dù nhận chân được vị thế hẩm hiu của nhà thơ trong xã hội, vẫn tin tưởng vào ngôn ngữ và vẫn tự hào về công việc sáng tạo của mình, nói như Thanh Tâm Tuyền, cuộc hành trình hoàn toàn cô độc trên một con đường chưa ai tới,[6] Bùi Giáng, ngược lại, tuy vẫn làm thơ, hơn nữa, còn làm thơ cực kỳ nhiều, nhiều hơn bất cứ một người nào khác, lại có vẻ rất coi thường cái việc làm thơ ấy và chắc chắn là không mấy tin tưởng vào khả năng thể hiện của ngôn ngữ: Người điên ngôn ngữ điệp trùngDở chừng như mộng dở chừng như mê Thưa em ngôn ngữ quặt què Làm sao nói hết nghiệp nghề người điên (Người điên)

Trong quyển Mùa thu trong thi ca, Bùi Giáng viết: một hôm mai thảo bảo rằng làm thơ bê bối sao bằng đi rong phố phường mọc cỏ quanh năm (Sa mạc phát tiết)

Có người đọc câu thơ thấy đâm ra bực mình hỏi: “Phố phường đâu có cỏ nào mọc! Thằng thi sĩ ăn nói tầm phào, sai sự thật!” Ấy thế là người ta cưỡng bức thi ca một cách không chính đáng. Và trầm trọng hơn nữa, người ta tưởng chừng như tin rằng ngôn ngữ có thể nói ra được sự thật. Tưởng chừng như người ta chẳng bao giờ suy gẫm về Kim Cương Kinh. Thế gian ngôn ngữ phi chân kinh.[7]

Ngôn ngữ không những quặt què, không những không nói ra được sự thật mà, hơn nữa, trong thời hiện đại, đặc biệt, khi cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối Tư bản – Cộng sản đang gay gắt, khi cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam đang ác liệt, khi vấn đề thắng bại không những được quyết định ngoài chiến trường mà còn trên các bàn hội nghị quốc tế, ngôn ngữ còn có tác dụng ngược lại: nó che giấu sự thật và, thay vì đem lại sự cảm thông giữa loài người, nó lại làm cho con người ngộ nhận lẫn nhau, thù ghét lẫn nhau, say sưa chém giết lẫn nhau. Đó là lý do tại sao Bùi Giáng lại

Tôi gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ Mỹ Thọ muôn đời là Lục Tỉnh hôm nay Tôi gọi Sóc Trăng là Sóc Trắng Gọi người sương phụ gái thơ ngây (Lẫn lộn lung tung)

Bùi Giáng xáo trộn chữ nghĩa để nói lên một sự thật: ngôn ngữ đang bị xáo trộn, đang bị tha hoá. Bùi Giáng gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ, Mỹ Thọ, người ta cho là hài hước hoặc điên khùng, nhưng chẳng phải là trong cuộc sống người ta đã không từng gọi một kẻ bán nước là yêu nước, một kẻ giết người như ngoé là nhân đạo, một kẻ bắn súng vào anh em vào đồng bào vào đồng loại vì một thiên đường không tưởng nào đó là cách mạng đó ư? Chẳng phải là người ta đã không từng gọi nhà tù là trại học tập, độc tài là tập trung dân chủ, sự ngu đần là đỉnh cao trí tuệ, khố xanh khố đỏ là quốc gia, thái độ khom lưng trước ngoại bang là biểu hiện của tinh thần dân tộc đó ư? Thử thế chữ “Mỹ Tho” bằng bất cứ chữ nào trong từ điển chính trị Việt Nam hiện đại người ta sẽ thấy ngay cái điều mà Ionesco từng nói: “một nền văn minh của ngôn ngữ là một nền văn minh quẩn trí, hỗn độn”.[8]Ngôn ngữ mất linh hồn. Ngôn ngữ xác xơ, rách mướp, tơi tả. Nhiều người thuộc loại nhạy cảm nhất trong thời đại chúng ta đã thất vọng não nề. Sự thất vọng ấy, ở Tây phương, dẫn đến sự im lặng của một số người cầm bút, sự ra đời của loại kịch không lời; ở Bùi Giáng, tạo ra những vần thơ đại loại thế này: – … Một hai hai một di hài Dài hy hữu mộng an bài chẩm ma Chả xin? Chả hỏi? Vịt gà? Và thân thể máu me và thịt xương…

– Ma đên ỳ nẽ ô mà Xơ tin ô đố đâu là đến đâyXền nô đô thí xi đầy Xè rê tê nến ngọn lầy lội cơn A tin a tỷ oan hồn Vong lưu lỳ lẫy cung đờn cợt trêu Người ôi ô ướt dấu bèo Ồ thôi thế vậy thu vèo sang thu Lừng bay thân thế pha mùSương mây tuyết dậy thân bù cho thân (Đạm Tiên)

Gắn liền với sự hoài nghi ngôn ngữ [9] là sự hoài nghi lý trí. Trong lúc hầu hết các nhà thơ khác, mặc dù hoài nghi lý trí, luôn luôn khắc khoải tìm kiếm sự thật, với niềm tin, dù mơ hồ và mong manh, là sự thật ấy có, đâu đó, sẽ gặp được, một ngày, Bùi Giáng, ngược lại, tuy dịch và viết khá nhiều tác phẩm về triết học hiện đại Tây phương, lại hoàn toàn phủ nhận đầu óc duy lý của Tây phương, hoàn toàn mất niềm tin với mọi cái gọi là chân lý. Cuộc đời, với Bùi Giáng, là chuỗi dài những nghi vấn và phẫn nộ: Đi vào giữa cuộc thị phi Nửa tam bành tới nửa nghi vấn về (Y ư mộng, du ư mê)

Làm thơ, với Bùi Giáng, là một hành động phản kháng, phản loạn. Như Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: Sao bằng riêng một biên thuỳ Cõi điên vũ trụ tuỳ nghi tung hoành Xiết bao vô ngại ngọn ngành Chọc trời khuấy nước tan tành thịt xương Ấy như thể, ấy như dường Đi vô tận ý đi đường chơn không Đi mây gió đi phiêu bồng Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng ra đi Đi về thể lệ lâm ly Đi đi suốt cõi lời nghi vấn lời. (Sao bằng)

Nghi vấn. Lúc nào cũng nghi vấn. Nghi vấn cả lời nói của mình. Bài thơ “Tặng Mã Giám Sinh” là một bài thơ hay: Hỏi tên, rằng biển xanh dâu Hỏi quê, rằng mộng ban đầu đã xaGọi tên, rằng một hai ba Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm.

Tôi đoán là Bùi Giáng rất tâm đắc bài thơ này: nó được in lần đầu trong Mùa thu trong thi cavới tựa là “Mã Giám Sinh”, sau, in lại trong Thơ Bùi Giáng xuất bản tại Canada năm 1990 với sự thay đổi nhỏ: thêm chữ “tặng” ở tựa đề. Có hay không có chữ “tặng”, thật ra, cũng chả có gì quan trọng. Cũng như mọi cái tựa trong thơ Bùi Giáng: chả có gì là quan trọng. Lười, ông thường nhặt bất cứ từ hay nhóm từ nào trong bài dùng để làm nhan đề. Bài thơ trên được đặt tựa là “Mã Giám Sinh” hay “Tặng Mã Giám Sinh” có lẽ để ghi lại xuất xứ một nguồn cảm hứng: nó xuất phát từ mấy câu thơ trong Truyện Kiều có liên quan đến Mã Giám Sinh:Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh Hỏi quê, rằng: huyện Lâm Thanh, cũng gần.

Trong bài “Chiều nguyên xuân” in trong tập Mưa nguồn, xuất bản từ năm 1963, Bùi Giáng đã bị ám ảnh bởi vấn đề quê hương:Hỏi rằng: người ở quê đâu Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà.

Từ ở rất lâu quê nhà đến mộng ban đầu đã xa, tư tưởng của Bùi Giáng đã vượt biên, lấn sang một tầm khác. Với một sức oằn khác.

Dẫu sao, ở đây, điều quan trọng nhất là câu cuối cùng: đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm. Mọi sự phân biệt đều bị xoá nhoà. Tôi cho đây là đặc điểm nổi bật nhất trong phong cách thơ Bùi Giáng: thơ Bùi Giáng chính là sự xoá nhoà của mọi đường biên quen thuộc vốn được mọi người chấp nhận như là một quy ước, một luật lệ trong văn học từ xưa đến nay.

Thứ nhất là xoá nhoà những đường biên về giọng điệu. Những ai từng viết lách ít nhiều cũng đều hiểu cái khó nhất đối với người cầm bút là pha trộn giọng điệu, nghĩa là, chẳng hạn, vừa nghiêm túc lại vừa cười cợt, vừa uyên bác lại vừa bình dân, vừa suy tư lại vừa thích thảng. Bùi Giáng vượt qua tất cả những khó khăn ấy một cách nhẹ nhàng. Ví dụ dưới đây, tôi chọn một cách tình cờ: Hai cô bán phở dịu dàng Đừng nên nói bậy hai nàng buồn ta

– Trẫm từ lịch kiếp phôi pha Tái sinh bất chợt mà ra phụ lòng Tình thương ẩn mật từ trongNội tâm vô tận mà long đong vì Phong tao phấn đại tương nghi Tuỳ thời thể dựng mà tuy nhiên là. (Tặng quán phở Huyền Trân)

Ai cũng thấy rõ hai câu đầu và sáu câu sau có giọng điệu khác hẳn nhau. Vậy mà, riêng tôi, thú thật, tôi không hiểu tại sao Bùi Giáng có thể chuyển từ hai câu đầu xuống sáu câu dưới một cách dễ dàng tự nhiên như vậy. Mà đây cũng lại là một đặc điểm rất phổ biến trong thơ Bùi Giáng. Nói một cách tóm tắt, thơ ông có hai loại từ vựng: một loại tạm gọi là bác học và một loại tạm gọi là bình dân. Bác học thì như thục nữ, thuyền quyên, cảo thơm, thượng thừa, miên trường, đoạn trường, băng tuyết, thập thành v.v… nghĩa là những từ Hán Việt lâu lắm không còn được sử dụng nữa. Còn bình dân thì như đại ca, Huê Kỵ, Liên Xồn, lai rai, nhậu nhẹt, máu me, số dzách, giấn bước, giấn liều v.v… nghĩa là những khẩu ngữ, còn lấm lem bụi bặm ngoài đường ngoài phố. Cả hai loại đều dễ khiến giới làm thơ chùn tay. Dùng loại trên thì dễ có nguy cơ trở thành sáo, cổ. Dùng loại dưới thì dễ có nguy cơ trở thành nhả nhớt, rẻ tiền. Bùi Giáng hoàn toàn thoát khỏi hai nguy cơ ấy. Hơn nữa, ông còn hoà trộn cả hai loại ngôn ngữ ấy lại với nhau một cách tài tình. Đọc, người ta không hề có chút cảm giác lấn cấn nào. Như một phép mầu.

Gắn liền với sự xoá nhoà trên là một sự xoá nhoà khác: xoá nhoà ranh giới giữa truyền thống và hiện đại. Không phải Bùi Giáng kết hợp truyền thống và hiện đại, như cái điều chúng ta có thể nói về một số nhà thơ khác. Nói đến sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại tức là thừa nhận chúng ta có thể ít nhiều khu biệt đâu là truyền thống và đâu là hiện đại. Ở Bùi Giáng, mọi nỗ lực khu biệt ấy đều trở thành vô vọng. Ở Bùi Giáng, tính chất truyền thống và tính chất hiện đại tan hoà vào với nhau. Là một. Thể thơ ông dùng: cũ; hình tượng ông dựng: cũ; ngôn ngữ ông viết: cũ; thế nhưng, rất lạ, toàn bộ bài thơ của ông thì lại mới, mới như chưa từng có ai viết được như thế. Mới đến độ tôi có cảm tưởng phần lớn những từ, những chữ nào đã được Bùi Giáng sử dụng một lần đều trở thành của riêng của Bùi Giáng, một thứ tài sản của Bùi Giáng, trên đó có dấu ấn của Bùi Giáng; sau đó, ai dùng lại những từ ấy, chúng ta cứ ngờ ngợ ngỡ như họ ăn cắp của Bùi Giáng. Đọc thơ của bất cứ người nào, hễ gặp chữ “giũ áo”, “rớt hột”, “đười ươi”, “chuồn chuồn”, “châu chấu”… chúng ta hay tri hô lên: Bùi Giáng! Ngay cả một số từ quen thuộc hơn, như “thập thành”, “máu me”, “lai rai” và những cách nói lái có âm tố “ôn” (lá hoa cồn, liên tồn),… chúng ta cũng lại tri hô lên: Bùi Giáng! Trong lịch sử thi ca Việt Nam hiếm có trường hợp nào lạ lùng đến như vậy. Phần lớn, tính chất độc đáo chỉ ở cấp độ bài hoặc cấp độ câu. Ở Bùi Giáng, tính chất độc đáo thể hiện ngay ở đơn vị từ. Với sự xuất hiện của Bùi Giáng, số phận của các nhà thơ đâm ra lao đao hẳn. Khi chọn chữ không khỏi có cảm giác e dè vì sợ dẫm vào dấu chân của Bùi Giáng.

Thứ ba là sự xoá nhoà ranh giới giữa cái gọi là thơ và cái gọi là phi thơ. Ngổn ngang trong thơ Bùi Giáng những chi tiết ngỡ như không bao giờ thành thơ được, ngỡ như mãi mãi thuộc thế giới của văn xuôi, của tiểu thuyết, của đời thường. Nhớ người yêu, có lẽ ai cũng nhớ như Bùi Giáng nhưng không có ai viết được như Bùi Giáng: Bây giờ em đứng nơi đâuCỏ trong mình mẩy em sầu ra sao (Gửi thôn nữ Vĩnh Trinh)

Bùi Giáng có tài hoá giải những tình thế oái oăm: cái đáng lẽ sàm sỡ, dưới ngòi bút ông, tự nhiên thành thơ mộng, thiết tha, tội nghiệp. Bùi Giáng cũng có tài làm cho những cái lắt nhắt trở thành mênh mang: Sáng nay bao tử mơ mòng Cà phê bên nọ, cháo lòng bên kia(Sáng nay)

Tất cả những chi tiết ấy đều tầm thường đến độ nhảm nhí. Đi vào thơ Bùi Giáng, tự dưng chúng lại có một âm vang gì rất lạ, rất xa, tưởng như không còn là chuyện “cà phꔓ hay “cháo lòng” nữa. Một nỗi phân vân giữa cuộc đời, chẳng hạn. Một niềm xót xa trong cảnh khốn cùng, chẳng hạn. Bùi Giáng còn có tài làm cho những cái linh thiêng trở thành bình thường. Những Thượng đế, Phật, thánh hiền… đi vào thơ ông, mất một chút hào quang song bù lại, dường như đẹp hơn. Bùi Giáng làm cho cái đáng kính biến thành cái đáng yêu. Hình tượng ni cô trong thơ ông là một ví dụ. Bùi Giáng cũng lại có tài làm cho cái thô và tục trở thành những cái thơ mộng, xôn xao.

Cuối cùng, thứ tư, tôi tạm gọi là sự xoá nhoà giữa cái lý và cái phi lý. Ít, nếu không muốn nói là chưa, có ai để ý trong thơ Bùi Giáng có đặc điểm này: ông rất thích dùng những từ có tính chất lý luận như “mặc dù”, “càng… càng”, “vẫn là”, “và”, “vì”, “rằng”, “bởi chưng”, “chỉn e”, “té ra”, và đặc biệt, nhiều nhất là từ “tuy nhiên”… Chắc chắn là không có nhà thơ nào dùng các từ này nhiều bằng ông. Thế nhưng, cách Bùi Giáng sử dụng các liên từ này rất lạ lùng, không giống bất cứ người nào trước ông hoặc sau ông. Xin hãy đọc lại bài “Tặng quán phở Huyền Trân” dẫn ở trên, và hãy chú ý đến ba câu cuối cùng: chữ “vì” và chữ “là” đứng hết sức lửng lơ. Chúng không nối kết cái gì cả. Chúng cũng không giải thích cái gì cả. Chúng hoàn toàn trái ngược mọi luật lệ ngữ pháp. Chúng thường xuất hiện ở những vị trí thật bất ngờ: ở cuối câu, thường là câu cuối bài: – Em về – nhà cửa nhỏ nhoi Buồn rầu khôn xiết em soi gương và… (Em đi)

– Nối đuôi khởi sự từ đầu Ví dù kết thúc trước sau vẫn là. (Vẫn là là)

– Bá phương phảng phất rồi ra Mùi hương xa vắng càng xa xôi càng (Băng tâm)

– Mai sau dù có đi về Xin nhìn gió rụng ngành tre thưa rằng. (Em về)

Một điều vừa thú vị vừa khó hiểu là: người đọc thơ Bùi Giáng lại ít chú ý, không bị giật mình vì những cách dùng từ, đặt câu ngược ngạo như vậy. Mà, ở những trường hợp này, Bùi Giáng đều cố tình cả. Một mặt, tần số xuất hiện của những kiểu câu như thế ê hề; mặt khác, nhiều lúc Bùi Giáng đem những liên từ lý luận ra đùa nghịch: Nếu và nhưng vẫn ắt rằng Tuy nhiên thế nọ thường hằng thế kia Và nhưng tuy dẫu là chia Lìa cha biệt mẹ bốc tia sinh tồn (Tuy nhiên)

Tuy nhiên đất quạnh sơn hà Còn tuy nhiên mãi hoạ là nhiên tuy (Ích dụng hung sự)

Mầng răng ra rứa ví dù Mầng ri thế nọ tịt mù thế kia. (Mỗi ngày)

Một lần, Bùi Giáng giải thích: Dù sao, tôi nói dù sao, bởi vì thiên hạ vốn ưa thích dù sao. Cho có mạch lạc. Chứ thật tình tôi chẳng rõ sao gọi là mạch lạc liên tục ngụ trong tính tình của ngôn ngữ dù sao dao sù.[10]

Cách phân tích như trên khá nguy hiểm: nó dễ làm cho người ta có cảm tưởng thơ Bùi Giáng là một cái gì tĩnh tại và cố định. Thật ra, không phải. Theo dõi thơ Bùi Giáng, chúng ta sẽ nhận ra ông thay đổi không ít. Tập Mưa nguồn xuất bản năm 1962 rất trong sáng; từ tập Ngàn thu rớt hột (1963) về sau, thơ ông tối tăm hẳn; sau năm 1975, ở hai tập thơ xuất bản tại hải ngoại, thơ ông trong sáng trở lại, nhưng so với Mưa nguồn, đằm hơn, lắng hơn và chín hơn.

Mưa nguồn là niềm nhớ thương đồng ruộng không nguôi: Viết thơ lạc dấu sai dòng |Viết trong tức tưởi sợ đồng lúa mong

[…]

Viết thơ là trở lại bên Con người thôn nữ răng đen hai hàng (Ca dao)

Sau này, ông vẫn bâng khuâng nhớ đồng quê. Chỉ bâng khuâng thôi. Nghĩa là rất man mác. Có một câu thơ có lẽ ông thích, cứ lặp đi lặp lại rải rác ở nhiều bài thơ khác nhau: Trông về đồng ruộng đôi khi Thị thành tâm sự hoài nghi trăng tà. (Gấu buồn)

Nhưng tâm sự chính của ông là nỗi tuyệt vọng về khả năng giao cảm giữa người và người, niềm cay đắng trước một xã hội ngày một đảo điên. Ông hoàn toàn cô độc: quay về một cõi riêng thôi liệu trong tấc cỏ kiếm trời ba xuân (Đời rộng đương chìm)

Ông làm thơ cho hư không: Bây giờ xin ngó cụm cây Chắp hàng viết nốt áng mây về trời(Bây giờ)

Ông độc thoại: Ngàn năm độc đối riêng hàngTờ xanh ứa lệ đẫm trang xuân đầu (Khởi từ)

Có khi ông im lặng: Từ đây đổi vịt thay gàChán chường đến thế là ta ngậm lời (Nhà ma đi đời)

Sau 1975, cảm giác cay đắng và tuyệt vọng ấy, không hiểu tại sao, dường như nhẹ nhàng đi nhiều. Đời sống ông cơ cực hơn, những cơn điên đến với ông thường xuyên hơn,[11] song thơ của ông lại có vẻ thanh thản hơn. Ông bớt những thắc mắc siêu hình để quan tâm hơn đến khía cạnh cảm xúc, từ đó, nhấn mạnh đến yếu tố tâm hồn, coi đó là nguồn gốc của thơ: Chợt mùa thơ vội đổi giòng Cỗi nguồn cũng bởi tự lòng mà ra (Từ bấy tới nay)

Với quan niệm như vậy, thơ không còn là trò đùa nghịch chữ nghĩa nữa mà là một sự bộc bạch tâm sự: Lời tỉnh táo, lời mê man Điệu thê thiết rống điệu bàng hoàng ca (Y ư mộng du ư mê)

Do đó, ông khao khát được thông cảm: Xổ bầu tâm sự điêu linh Ai người chia sẻ với mình với ta (Một giờ)

Bài “Bao giờ” in trong tập Thơ Bùi Giáng do Thế Kỷ 21 xuất bản là một bài thơ hay: Bằng bút chì đen Tôi chép bài thơ Trên tường vôi trắng Bằng bút chì trắng Tôi chép bài thơ Trên lá lục hồng Bằng cục than hồng Tôi đốt bài thơTừng phút từng giờ Tôi cười tôi khóc bâng quơNgười nghe cười khóc có ngờ chi không?

Thơ, với Bùi Giáng, trước hết là một sự hiện hữu cụ thể với những màu sắc cụ thể nhất định: đó là một văn bản với những từ, ngữ, giấy, mực cụ thể. Văn bản ấy có đời sống riêng của nó: có sinh có tử. Nhưng đằng sau, ẩn náu phía trong cái hình thức cụ thể ấy lại là một tâm tình, là tiếng cười, là tiếng khóc. Tâm tình của người làm thơ oà vỡ bất chấp những giới hạn tự thân của ngôn ngữ: Ngữ ngôn khép kín mặc dầu Hùng tâm tim máu óc đầu mở ra (Bé con ơi)

Bùi Giáng băn khoăn: Tôi cười tôi khóc bâng quơ Người nghe cười khóc có ngờ chi không?

Bùi Giáng lại năn nỉ: Tặng nhau từ ngữ lạc lầmCũng xin hồng lệ hãy đầm đìa tuôn (Y ư mộng du ư mê)

Trong bài “Thuở chưa điên” in trong tập Thơ Bùi Giáng do Việt Thường xuất bản tại Canada năm 1990, Bùi Giáng tự so sánh thơ mình ngày trước với thơ mình bây giờ: Ấy là thơ thuở chưa điên Ở trong dấu ngoặc quàng xiên reo cười Bây giờ xoang điệu đười ươi Điệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân

Sự khác nhau không phải ở chỗ: có lúc ông quàng xiên reo cười, có lúc ông lại ngậm ngùi dấn thân. Ở Bùi Giáng cái cười và cái khóc đôi khi rất giống nhau. Theo tôi, chỗ khác nhau căn bản là: trước đây, Bùi Giáng loay hoay mãi trong dấu ngoặc của ý thức, của cái tôi; sau này, ông tung hê hết, ông hoà nhập vào cái chung của cuộc đời: Ta quên như thể mình ta quên mình (“Tặng hai cháu Quỳnh và Na”). Ông trở thành dễ thương và tội nghiệp vô cùng: Trái tim mỗi mới mỗi ngày Mỗi giờ phút động mây trời rung rinh Đường đi mất hút thình lình Những khuôn mặt lạ những hình ảnh quen Tạm nhờ men rượu nguôi quên Niềm vui nỗi nhớ chênh vênh lạ lùng (Đường quanh ngõ quẹo)

Ở khía cạnh này, có thể nói Bùi Giáng xoá nhoà ranh giới giữa cái tôi và cái ta, giữa cái riêng và cái chung: Hoặc rằng người cũng là tôi Hay là tôi cũng là tôi như người Ấy rằng tinh thể đười ươi Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và Ấy rằng một cũng là ba Là hai mai một mốt là hôm nay.

Xoá nhoà. Xoá nhoà ranh giới giữa các giọng điệu, giữa truyền thống và hiện đại, giữa thơ và phi thơ, giữa cái lý và cái phi lý, giữa cái tôi và cái ta, cái riêng và cái chung, xoá nhoà mọi sự phân biệt, biện biệt: theo tôi, đó là những đặc điểm nổi bật nhất trong thơ Bùi Giáng. Bằng những sự xoá nhoà ấy, Bùi Giáng xoá nhoà luôn cả ranh giới giữa cái gọi là văn hoá cao cấp và văn hoá bình dân. Đồng thời, Bùi Giáng cũng xoá nhoà luôn cả tính chất nghiêm nghị, nghiêm túc với những khẩu hiệu ồn ào như “vị nhân sinh”, “vị nghệ thuật” vốn kéo dài rất lâu trong văn học Việt Nam. Khác với các nhà thơ khác lúc nào cũng nhăn mặt nhíu mày, lao vào thơ như lao vào một trận địa, kỳ khu và khắc khổ, lúc nào cũng khắc khoải sáng tạo ra cái mới, mà chưa chắc đã mới và chưa chắc đã hay, Bùi Giáng, ngược lại, làm thơ cứ như đùa như giỡn, như không phải đang làm thơ, vậy mà tự nhiên thơ lại trở thành bát ngát và lấp lánh và lộng sắc và lộng hương. Mai Thảo kể: “ba chữ ‘vui thôi mà’ là câu trả lời mơ hồ nghịch ngợm duy nhất của Bùi Giáng trước mọi tìm hiểu của (về ?) lực thơ và số lượng thơ không thể tưởng tượng được ở nơi ông”, rồi bình tiếp: “Thơ Bùi Giáng vui thật. Một vĩ đại vui”.[12]Theo Leslie Fiedler, sự xoá nhoà ranh giới giữa văn hoá bình dân và văn hoá cao cấp, và cùng với nó, việc đoạn tuyệt với chủ nghĩa đặc tuyển (elitism) và tính chất nghiêm cẩn (seriousness) là những đặc điểm chính yếu của chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism).[13]

Ở khía cạnh này, Bùi Giáng rất gần các nhà thơ hậu hiện đại. Bùi Giáng còn gần gũi các nhà thơ hậu hiện đại ở một khía cạnh khác nữa: một số khá nhiều những bài thơ của ông là loại thơ không thể giảng. Susan Sontag cho một trong những đặc trưng lớn của chủ nghĩa hậu hiện đại là tính chất phản-diễn dịch (anti-intepretation), là sự nhấn mạnh vào hình thức và sự trình diễn (performance) hơn là nội dung và ý nghĩa.[14] Chúng ta biết theo quan niệm của Ferdinand de Saussure, ngôn ngữ chỉ là một hệ thống ký hiệu, ở đó, mỗi đơn vị ký hiệu đều có hai mặt: cái biểu đạt (signifier) và cái được biểu đạt (signified). Cái biểu đạt là âm hoặc chữ viết. Cái được biểu đạt là ý niệm do âm hoặc chữ viết ấy gợi lên trong đầu chúng ta. Ví dụ: nghe âm “chó” (cái biểu đạt), chúng ta nghĩ ngay đến giống vật thường được nuôi trong nhà (cái được biểu đạt).[15] Từ đó, người ta đi đến chỗ coi bài thơ cũng là cái biểu đạt. Đọc thơ là để tìm kiếm cái được biểu đạt, tức ý nghĩa, điều ẩn giấu phía sau bài thơ. Với Bùi Giáng, cũng như với các nhà thơ hậu hiện đại, ngược lại, bài thơ là cái được biểu đạt chứ không phải là cái biểu đạt. Nói cách khác, bài thơ là bài thơ. Không có ý nghĩa nào ẩn đằng sau bài thơ để chúng ta đào xới, tìm kiếm. Nó giống như một bức tượng đá. Bề mặt: đá; trong ruột: cũng là đá. Do đó, nếu hỏi ý nghĩa bài thơ “Đạm Tiên” tôi dẫn ở trên là gì ư? Chịu! Ý nghĩa của nó là chính sự hiện hữu của nó, là bài thơ có nhan đề là “Đạm Tiên”, vậy thôi. Chúng ta không thể phân tích. Chúng ta chỉ cần nghiệm (experience). Đọc lần thứ nhất: chúng ta không hiểu gì cả. Đọc lần thứ hai: chúng ta vẫn không hiểu gì cả. Đọc lần thứ ba: chúng ta lại vẫn không hiểu gì cả. Nhưng càng đọc chúng ta càng nghe rõ, càng thấm, càng cảm cái nhạc điệu lầm rầm, lầm rầm của bài thơ. Nghe như thần chú. Như tiếng tụng kinh. Như lời cầu hồn. Chúng ta sống trong một không khí huyền bí, ma quái, không có gì rõ nét. Thì Đạm Tiên là một bóng ma mà! Ở nhiều bài thơ khác, điều chúng ta nghiệm được thường là sự bất lực của ngôn ngữ: chúng ta không hiểu vì chính nhà thơ cũng không thể diễn tả được những gì ông chỉ cảm nhận một cách mơ màng hoặc bằng trực giác hoặc bằng tiềm thức.

Chúng ta có thể gọi Bùi Giáng là nhà thơ hậu hiện đại được chăng? Khái niệm hậu hiện đại, mặc dù xuất hiện từ thập niên 1930 và 1940 với Frederico de Oníz, Dudley Fitts và Arnold Toynbee, được sử dụng khá nhiều tại Mỹ vào thập niên 1950 và 1960, trở thành thời thượng tại Âu Mỹ từ giữa thập niên 1980 đến nay,[16]vẫn còn khá xa lạ với giới cầm bút Việt Nam. Điều đó dễ gợi cho chúng ta ấn tượng chủ nghĩa hậu hiện đại là cái gì rất mới, chỉ gần đây thôi, gắn liền với máy vi tính, chẳng hạn. Tuy nhiên, trên thực tế, khác hẳn. Danh sách các nhà thơ hậu hiện đại được Jerome Mazzaro phê bình trong quyển Postmodern American Poetry bao gồm W.H. Auden (1907-73), Randall Jarrell (1914-65), Theodore Roethke (1908-63), v.v…[17] Với Margaret E. Gray, ngay cả Marcel Proust (1871-1922) cũng là một nhà văn hậu hiện đại.[18]

Chúng ta có thể gọi Bùi Giáng là nhà thơ hậu hiện đại được chăng? Thú thực, tôi không chắc. Xã hội Việt Nam, ngay cả bây giờ, cũng còn xa lăm lắm cái gọi là hậu hiện đại. Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam vốn khởi phát từ thập niên 1930 đến nay dường như vẫn chưa hoàn tất. Trong hoàn cảnh như thế, may lắm, người ta chỉ vươn tới được một thứ chủ nghĩa hậu “iện” đại (vượt ra ngoài chủ nghĩa “iện” đại tại Việt Nam) hay “ậu” hiện đại (ít nhiều – chứ chưa hoàn toàn – nhích ra khỏi chủ nghĩa hiện đại theo cách hiểu truyền thống tại Tây phương). Cái nào cũng dở dang. Cũng lửng lơ. Cũng què quặt.

Dù sao, vấn đề xác định danh xưng ở đây, tôi nghĩ, cũng không phải là điều quan trọng. Quan trọng hơn, chúng ta cần ghi nhận đóng góp lớn lao của Bùi Giáng: ông đã tiến một bước khá xa trên con đường hoà giải giữa thơ và hiện thực cũng như giữa nhà thơ và người đọc.

______________________________

[1] Mai Thảo (1994), “Thay lời bạt: Một vài kỷ niệm với Bùi Giáng”, in trong tập Thơ Bùi Giáng, nxb Thế Kỷ 21, California, 1994, tr. 146.[2] Như trên, tr. 139. [3] Thanh Tâm Tuyền (1994), “Bùi Giáng, một hồn thơ bị vây khốn”, Tạp chí Thơ (California) số 1, mùa thu 1994, tr. 73-75. [4] Bùi Giáng (1969), Thi ca tư tưởng, Ca Dao, Saigon, tr. 102-3. [5] Thơ Bùi Giáng, Việt Thường xuất bản tại Montreal, 1990 và Thơ Bùi Giáng, Thế Kỷ 21 xuất bản tại California, 1994. [6] Trong bài “Bao giờ” và “Bài thơ của tháng giêng” in trong tập Liên, đêm mặt trời tìm thấy, nxb Sáng Tạo, Saigon, 1964. [7] Bùi Giáng (1970), Mùa thu trong thi ca, Sống Mới in lại tại hải ngoại, không ghi năm, tr. 223-4. [8] Dẫn theo Steiner, G. (1967), Language and Silence, Faber & Faber, London, tr. 72. [9] Xin xem thêm bài “Bùi Giáng, càng điên… càng tỉnh” trong cuốn Văn học Việt Nam từ điểm nhìn h(ậu h)iện đại do Văn Nghệ xuất bản tại California năm 2000, trong đó, tôi phân tích kỹ hơn về ngôn ngữ thơ của Bùi Giáng. [10] Bùi Giáng (1970), Mùa thu trong thi ca, sđd, tr. 17. [11] Xem Phạm Xuân Đài, “Kẻ cuồng sĩ trong vườn cây” lời tựa tập Thơ Bùi Giáng, Thế Kỷ 21, 1994, tr. 15-26. [12] Mai Thảo (1994), bài đã dẫn, tr. 141. [13] Fiedler, L. (1975), “Cross the Border – Close the Gap: Postmodernism” in trong tập American Literature since 1900 do Cunliffe chủ biên, Sphere Books, London, 1975, tr. 344-366. [14]Sontag, S. (1966), Against Interpretation and Other Essays, Delta, New York. [15] Tác phẩm chính của Saussure, Cours de linguistique générale, in tại Paris năm 1916, sau đó, được dịch ra nhiều thứ tiếng và tái bản rất nhiều lần; một thời gian dài, ít nhất cho đến đầu thập niên 1970, được xem như một tác phẩm kinh điển trong ngành ngôn ngữ học trên khắp thế giới. Về Saussure, có thể xem quyển sách giới thiệu rất hàm súc của Jonathan Culler, Saussure, Fontana / Collins, 1976. [16]Về lịch sử thuật ngữ “chủ nghĩa hậu hiện đại”, có thể xem: Bertens, H. (1986), “The Postmodern Weltanschauung and Its Relation with Modernism: An Introductory Survey” in trong Approaching Postmodernism do Fokkema, D & Bertens, H. biên tập, John Bengamins xuất bản tại Amsterdam, 1986, tr. 9-51; Best, S & Kellner, D. (1991), Postmodern Theory, Macmillan, Hampshire, tr. 1-33. Về chủ nghĩa hậu hiện đại trong lãnh vực văn học, có thể xem: Hassan, I. (1982), The Dismenberment of Orpheus: toward a Postmodern Literature, Oxford University Press, New York; Hassan, I. (1987), The Postmodern Turn: Essays in Postmodern Theory and Culture, Columbus; Spanos, W. (biên tập) (1979), Martin Heidegger and the Questions of Literature: toward a Postmodern Literary Hermeneutics, Indiana University Press, Bloongton; Connor, S. (1989), Postmodernist Culture: an Introduction to Theories of the Contemporary, Basil Blackwell, Oxford, đặc biệt chương 4, “Postmodernism and Literature”, tr. 103-131; McHale, B. (1986), “The Semantic and Syntatic Organisation of Postmodernist Texts” in trong tập Approaching Postmodernism, sđd, tr. 81-98; và Jameson, F. (1988),”Postmodernism and Consumer Society” in trong Postmodernism and its Discontents: Theories & Practices, Kaplan E.A. biên tập, Verso, London, tr. 13-29.[17] Mazzaro, J. (1980), Postmodern American Poetry, University of Illinois Press, Urbana.[18] Gray, M. E. (1992), Postmodern Proust, University of Pennsylvania Press, Philadelphia.

Source: https://vebe.us/