Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2013

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013

Chọi Chữ



QÚY THỂ

Hồi lớp đệ thất (lớp sáu) học sinh chúng tôi có trò chơi lúc đầu gọi là trò làm tự điển, sau gọi là “chọi chữ”. Trò này lấy chữ mà chơi, ai nhiều chữ nấy thắng. Cách chơi khá đơn giản. Cứ đề ra chữ nào đó mối đứa lấy giấy bút ra kê, xong đếm lại, ai nhiều hơn sẽ thắng. Ví dụ: Lấy chữ “cà”
-Cà phê, cà ri, cà rà , cà rá, cà cuống, cà rốt, cà sa, cà rỡn, cà nhắt, cà khịa, cà mèn… cà riềng tỏi, cà kê dê ngỗng, cà lăm cà lặp, cà răng căng tai…
Tôi có thằng bạn tên Đạo, thằng này có biệt tài chọi chữ. Lần nào chơi nó cũng thắng, Nó có những từ rất đặc biệt, có khi người khác cãi, nó đem từ điển tới, ai cũng chịu. Nó có một chữ “cà” hết sức lạ lùng là “cà ràng”. Từ điển lớn và mới nhất mới thấy ghi từ này: Đó là thứ lò đất nung dùng trên ghe thuyền ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Lò gồm ba ông táo nhỏ gắn trên cái đế bằng đất nung. Miền Nam có thành ngữ cà rang cà đụng. Thằng Đạo có vốn từ giàu chẳng ai bằng. Từ ngữ ba miền, mới cũ nó đều thông.
Trò chọi chữ khởi đi từ lớp tôi lan sang những lớp khác. Thế là mỗi lớp thành lập đội tuyển chọi chữ. Đội tưởng có ba thành viên. Năm ấy Đạo, Lê và tôi được cả lớp tín nhiệm cử đi thi đấu với lớp ngũ bốn, nghĩa là lớn hơn lớp tôi hai năm. Đây là cuộc thi không cân sức thế nhưng đội tuyển lớp tôi đã thắng.
Muốn chọi chữ giỏi phải có chữ nhiều. Có vốn từ phong phú, mà vốn từ chính là vốn sống. Chúng tôi những cậu bé mười lắm vốn sống chưa đựng đầy chiếc túi nhỏ, lấy chữ đâu mà chọi. Hồi đó nhà tôi có quyển Từ điển tiếng Việt của Hội Khai Trí Tiến Đức. Quyển sách bọc bìa vải đen, khổ to và dày, ôm không nổi, làm sao học cho hết? Thằng Đạo bày : “tìm chữ lạ mà học” Ôi không biết bao nhiêu chữ nghĩa làm sao học. Tuy chỉ mới lớp sáu nhưng trình độ học sinh thời đó đã khá nên chúng tôi biết liệt kê theo cách các nhà làm từ điển, theo A,B,C…
Học sinh thời nào cũng có nhiều trò chơi, hầu hết những trò chơi đó đều bị thầy cô và nhà trường cấm. Tiếng trò chọi chữ là trò chơi trí tuệ, có lợi cho môn văn và nhất là lại có cái lợi thiết thực khi chơi trò này trong lớp bớt náo loạn ồn ào nên được nhà trường khuyến khích.
Thường vào cuối tháng năm đầu tháng sáu, khi kỳ thi đệ nhị tam cá nguyệt (học kỳ 2) đã xong, không khí học tập có phần uể oải, lơ là, thầy cô cũng nới tay, đó là lúc trò chọi chữ nở rộ. Chiều hôm ấy học sinh tổ chức cuộc thi chung kết chọi chữ giữa lớp Thất Ba đấu với Ngũ bốn. Chữ bốc thăm đem ra chọi là chữ “An”, một chữ rất giàu có của tiếng Việt:
-An thề, ăn vạ, ăn gian, ăn mày, ăn xin, ăn hiếp, ăn sương… ăn xổi ở thì, ăn tươi nuốt sống, ăn vóc học hay, ăn mặn nói ngay, ăn xem nồi, ăn không ngồi rồi, ăn nên làm ra…
Đội thất ba thắng đội ngũ bốn nhờ có ba chữ ăn thuộc loại quái chiêu : An ong ( đi tìm mật ong), ăn đàng sóng nói đàng gió (nói năng ngang ngược), An lông ở lỗ. Công đầu thuộc về thằng Đạo. Chữ nó nhiều vô số.
Tôi đinh ninh sau này thằng Đạo thế nào cũng làm nghề nghiệp gì liê.n quan đến chữ nghĩa. Nó sẽ thành nhà soạn từ điển. Tôi tin từ điển hắn soạn ra chẳng thiếu chữ nào. Thằng Đạo làm luận hay lắm. Bài hắn kỳ nào cũng được thầy đọc cho cả lớp nghe. Hắn còn giỏi văn nghệ, làm thơ, viết báo tường. Hắn là một học sinh kiểu mẫu mà thầy cô lấy ra làm gương cho chúng tôi noi theo.
“Xã hội” học trò chỉ có hai “giai cấp” học giỏi, học dở. Hai nhóm này chẳng cố định và cũng chẳng thấy có đấu tranh gì gay gắt cả. Tháng này học nhiều, đứng cao, tháng sau lười biếng rơi xuống cuối sổ trở thành nhà lực sĩ đội trên đầu bốn mươi bạn đồng lớp, thế là chuyển từ giai cấp này sang giai cấp kia.
Học xong ra đời chẳng thế. Cuộc đời tàn nhẫn hơn. Với sự có mặt của gia thế nó đóng đinh số phận con người vào một vị trí nhất định và trừ khi có phép lạ mới nhảy từ cấp dưới lên cấp trên. Thế nhưng rủi ro sơ sảy, chỉ trong chốc lát rơi tới đáy lầm than!.
Ra đời mỗi học sinh một hoàn cảnh. Có kẻ học rất giàu lại chẳng ra gì. Có đứa học dốt kiếm được chỗ đứng trên cao. Tôi thuộc hạng này. Thuở còn đi học tôi học hành tầm thường thế nhưng khi vào đời lại làm vị quan toà xét xử và định đoạt số phận kẻ khác.
Có lần xử án, cảnh sát lôi từ xe bít bùng xuống một người đàn ông đẩy hắn tới trước vành móng ngực. Tôi ra lệnh mở còng. Trông hắn rách rưới thỉu não, tồi tệ. Hắn bị đưa ra toà về tội trộm. Một tên trộm hạng bét, tầm thường. Tôi bảo hắn khai tên họ, tuổi tác, nghề nghiệp, chỗ ở. Khi hắn ngẫng đầu lên tôi đã ngờ ngợ, nhưng chưa tin vào mắt mình. Tại sao trông hắn giống như thằng Đạo, vua chọi chữ cách đây hai mươi năm thời chúng tôi còn là học sinh ngồi chung bàn? Tuy giờ đây cuộc sống nhọc nhằn đã khiến cho hắn già cả tiều tuỵ. Tôi tự nhủ: Lẽ nào người ấy là thằng Đạo, thằng học trò thông minh học giỏi, hạnh kiểm tốt, đầy tài năng lại chịu cảnh khốn cùng đến nỗi di vào ngõ cụt như thế này? Tôi nhận ra hắn nhưng hắn vẫn chưa ngước lên nhìn tôi. Cũng khó mà nhìn ra tôi. Ngày trước tôi là cậu học sinh ốm o và nhỏ nhất lớp song giờ đây tôi đã trở thành vị quan toà phương phi bệ vệ, mặc áo choàng đen ngồi trên chiếc ghế uy nghi. Chung quanh tôi là một quang cảnh đầy sự tôn kính và đang làm cái công việc định đoạt cho số phận con người nhỏ nhoi hèn mọn đang đứng trong vành móng ngựa dưới kia. Tôi hỏi:
-Tên họ?
Hắn ngẫng lên nhìn tôi. Hình như hắn cũng có tâm trạng như tôi, nghĩa là lẽ nào thằng bạn ngày xưa lại là người xét xử hắn. Hắn cúi xuống, không trả lời. Tôi giục:
-Họ và tên, khai đi!
Và hắn ngước nhìn lên một lần nữa. Bây giờ chẳng còn nghi ngờ gì. Chúng tôi đã nhận ra nhau trong một tình cảnh cực kỳ oái oăm và khó xử cho cả hai. Tôi đùa:
-Này “vua chọi chữ”…
Hắn hỏi:
-Cái gì? Nhái bén chàng hiu (Biệt hiệu của tôi thời học sinh)?
Tôi nói:
-Có một chữ rất dễ…
Hắn hỏi:
-Chữ gì?
-Tên họ của mình…
Hắn buồn bã lắc đầu. Hình như hắn không muốn đem cái chữ “đạo” ra chọi với cuộc đời, với hoàn cảnh éo le bây giờ. Hắn muốn giữ cái tên tuổi tốt đẹp đó cho quãng đời học sinh tuyệt vời ngày trước mà thôi. Tôi cố ép hắn:
-Này vua chọi chữ đừng có giấu nữa. Lấy chữ Đạo ra chọi nhé – và rồi tôi ứng khẩu đọc một lô – đạo diễn, đạo sĩ, đạo đức, đạo hạnh, đạo đồng, đạo mạo…
Hắn nói:
-Thiếu hai chữ.
-Hai chữ gì?
Hắn cười:
-Đạo chích, đạo tặc! (trộm cắp)
Hắn không xin giảm án. Hắn không chịu nhún mình. Hắn vẫn giữ được tính cách cao ngạo dễ thương thời còn đi học. Hắn lãnh án. Đưa hai tay ra cho người ta còng, bước ra, vừa đi vừa cười./.
Source Internet.

Thứ Tư, 27 tháng 3, 2013

Tại sao ấm thì sống, lạnh thì chết?




ĐỂ GIỮ GÌN SỨC KHỎE TA PHẢI LÀM GÌ?

HÃY SỐNG THEO QUI LUẬT ÂM DƯƠNG

Con người ta lúc còn trẻ thường không quan tâm đến sức khỏe, phung phí qua những thói hư tật xấu hoặc cậy sức mà làm liều bất chấp hậu quả. Khi bước vào tuổi 50-60, xương cốt lung lay, bắp thịt rã rời, tứ chi bải hoải, đầu óc không còn minh mẫn, trên bảo dưới không nghe mới vội vàng đi tìm phương thuốc trường sinh.

Xưa kia, Tần Thủy Hoàng, uy quyền tột đỉnh thiên hạ đã ra lệnh cho các ngự y cùng bá quan văn võ đi tìm phương thuốc trường sinh bất lão để kéo dài mạng sống. Cho đến ngày nay thì lớp hậu bối của Vua cũng chẳng chịu kém cạnh. Nào là ăn mật gấu, mật cóc, ăn óc khỉ sống, canh thai nhi, linh chi yến sào… Những ai ỷ vào khoa học công nghệ thì lại đặt niềm tin vào các loại thuốc bổ sung chất này hay chất kia, các loại thực phẩm bổ sung tốn kém, sản phẩm của kỹ nghệ thực phẩm tiên tiến.
Nhưng rốt cuộc tất cả chúng đều không thể giúp con người gìn giữ được sức khỏe một cách bền vững.

Tiến sỹ Y Khoa MARK D.SHUSTERMAN đã viết: “…không còn nghi ngờ gì nữa, những tiến bộ khác nhau của khoa học và công nghệ đã góp phần to lớn vào cuộc sống của chúng ta. Tuy nhiên, những tiến bộ này đôi khi làm chúng ta thừa nhận một số vấn đề và bệnh tật có thể giải quyết chỉ bằng những phương pháp hay công nghệ phức tạp.
Đôi khi những phương pháp này thật sự rất đơn giản! Đôi khi tất cả những gì được đòi hỏi chỉ là một ít lẽ phải thông thường, một ít hiểu biết truyền thống, một ít hướng dẫn nhẹ nhàng.”

Thật vậy, càng ngày thì người ta lại càng quay về với những phương pháp dưỡng sinh truyền thống, phương pháp giúp cho con người cân bằng hơn, gần với tự nhiên hơn. Tuy đơn giản nhưng hiệu quả, mềm mại nhưng thực sự rất mạnh mẽ, vẻ nông cạn nhưng chứa đựng cả một nền triết lí thâm sâu.

Đông y nói: “Thứ tự chuẩn bệnh, tất phải xét trước về âm dương” khi âm dương mất cân bằng thì sinh ra bệnh, làm cho âm dương cân bằng tức là đã giải quyết được bệnh tật. Con người càng lớn tuổi thì càng mang tính âm, khi mắc bệnh cơ thể cũng thường mang tính âm. Chẳng phải khi sống thì trên dương thế, khi chết thì xuống âm phủ, càng lớn tuổi thì càng đi về cực âm còn gì. Theo lẽ đó, muốn sống lâu và sống khỏe tất phải bổ sung tính dương. Nhưng bổ sung tính dương khi nào trong ngày thì tốt nhất, đó là lúc âm nhất - ban đêm

Hiện nay, có một phép dưỡng sinh mà rất nhiều người trên thế giới ngưỡng mộ và học theo, đó là phép thực dưỡng của Tiên sinh OHSAWA.  Nguyên lí cơ bản của phương pháp này là thông qua thực phẩm có chọn lọc, bổ sung tính dương cho cơ thể vì đa phần thực phẩm có tính âm hoặc bị âm hóa do cách nấu và chế biến. Ở Việt Nam, Phương pháp của Ngài OHSAWA được biết đến nhiều thông qua phương pháp “Ăn gạo lức muối mè”.

Âm và Dương cũng là ấm và lạnh (hàn) trong cơ thể. Con người càng về già thì cơ thể càng trở nên lạnh hơn. Vì vậy, muốn có sức khỏe tốt thì phải luôn giữ cho cơ thể ấm áp, đặc biệt là vào ban đêm. Giữ được sự ấm áp cũng là giữ được dương khí cho cơ thể, giữ được sinh mạng vậy. Thông qua phương pháp giữ ấm cơ thể giúp ta sống phù hợp với qui luật âm dương, gần gũi với tự nhiên và vũ trụ vì chỉ những phương pháp tự nhiên và hợp với qui luật Âm Dương (ấm lạnh) mới bảo vệ và mang lại sức khỏe vững bền cho con người.


TẠI SAO PHẢI BỔ SUNG HƠI ẤM CHO CƠ THỂ

Con người luôn luôn mất nhiệt, từng giây từng phút cơ thể ta tỏa nhiệt ra môi trường xung quanh. Vì vậy, Con người phải ăn và uống để có năng lượng, năng lượng này được chuyển hóa tạo thành nhiệt ấm đảm bảo duy trì sự hoạt động của tất cả các cơ quan trong cơ thể.
Nhiệt độ bình thường ở người trẻ là 36.5oC, ở người lớn tuổi là 36oC (giảm 0.5oC so người người trẻ). Ở 35oC người ta sẽ bị sốc, co giật, hoạt động của các cơ quan bị trì trệ, mạch máu co lại, các chất cặn bã kết lại với nhau dẫn đến máu lưu thông kém. Dưới 35oC người ta có thể bị đột tử.
Như vậy, giữa cái sống và cái chết chỉ cách nhau có vỏn vẹn 1oC, 1oC là cái mà ta phải giữ gìn nếu không muốn bị đau bệnh, tai biến mà chết.

Đa phần người lớn tuổi thân nhiệt không đủ 36.5oC, tuy chưa làm cho người ta chết ngay nhưng tình trạng này kéo dài sẽ khiến máu lưu thông chậm lại làm cho các tế bào không nhận đủ oxi và dưỡng chất làm cho nó yếu đi hoặc suy thoái, nhiễm bệnh trở thành những tế bào độc hại là nguồn gốc của bệnh ung thư. Các tế bào bị suy yếu sẽ dẫn đến các cơ quan bị suy yếu, bệnh tật. Con người sẽ bị đau đớn dày vò, khổ sở vì bệnh tật chỉ vì cơ thể thiếu hơi ấm.

Thật vậy, trong thực tế cuộc sống hàng ngày người ta cũng đang dùng rất nhiều các biện pháp để bổ sung hơi ấm (dương khí) cho cơ thể nhằm nâng cao sức khỏe và chữa bệnh mà không biết.

VD:
-         Cạo gió, giác hơi: làm ấm cơ thể lên bằng dầu gió, sự ma sát trên da và nhiệt nóng của lửa khi giác hơi.
-         Phép dưỡng sinh xoa tai, vuốt mặt … thông qua động tác xoa, vuốt trên da nhằm gia nhiệt để kích thích máu lưu thông.
-         Sao thuốc để chườm đắp: truyền nhiệt ấm từ thuốc vào cơ thể.
-         Khi uống thuốc cổ truyền thường uống lúc nóng để gia tăng hiệu quả.
-         Tập thể dục cũng là cách làm ấm cơ thể lên => máu lưu thông tốt => khỏe mạnh
-         Em bé sinh thiếu tháng phải vào phòng dưỡng nhi có nhiệt độ ấm để em bé dần phục hồi.
-         Gà mái ấp trứng, khi quả trứng ấm lên mới có thể nở thành gà con.

Nhiệt ở bì nhu, hàn ở cốt tủy (nóng ở ngoài da, lạnh trong xương tủy)

Nhiệt độ ngoài trời càng nóng thì bên trong cơ thể càng lạnh, càng thiếu hơi ấm giống như cái giếng vậy. Mùa hè oi bức thì nước giếng lạnh còn mùa đông lạnh thì nước giếng lại ấm áp. Ở Việt nam việc bổ sung hơi ấm lại càng cần thiết nhất là tại miền nam Việt nam. Khí hậu quanh năm nóng  (làm bên trong cơ thể lạnh) cộng với thói quen sinh hoạt không tốt (thích ăn lạnh, uống lạnh) càng khiến cho lục phủ ngũ tạng lạnh hơn, thiếu hơi ấm hơn và cũng khiến cho người ta yếu hơn, bị bệnh nhiều hơn.

Vì vậy, để giữ gìn và nâng cao sức khỏe của mình hãy luôn nhớ câuấm thì sống, lạnh thì chết
.


Source Internet.

Vì sao đàn ông không đi giày cao gót?



Từ lâu, nói đến giày cao gót là nói tới sự nữ tính, duyên dáng. Thế nhưng thực tế, giày cao từng là phụ kiện thiết yếu cho phái mạnh.

 Đàn ông đi giày cao gót trong một bữa tiệc dành cho đồng giới ở Tây Ban Nha năm 2005.
Đàn ông đi giày cao gót trong một bữa tiệc dành cho đồng giới ở Tây Ban Nha năm 2005.
Giày của người Persia hồi thế kỷ 17.
Theo bà Elizabeth Semmelhack làm việc trong bảo tàng giày bata ở Toronto (Canada), binh sĩ Persia (Persia - tên gọi của Iran ngày nay) thường đi giày cưỡi ngựa. Khi họ cưỡi ngựa và đứng trên bàn đạp ở hông ngựa, đế giày giúp họ chắc chân, quan sát và bắn cung hiệu quả hơn.

Cuối thế kỷ 16, Hoàng đế Shah Abbas I có quân đội hùng mạnh và kỵ binh lớn nhất thế giới. Ông giả vờ liên kết với phương Tây để giúp ông đánh bại kẻ thù mạnh là đế quốc Thổ Ottoman. (Shāh `Abbās I (1571–1629) là vị hoàng đế lỗi lạc của vương triều Safavid, trị vì đế quốc Ba Tư thứ 3, sau đế quốc Ba Tư thứ nhất của vương triều Achaemenes và đế quốc Ba Tư thứ 2 của vương triều Sassanid. Ông được coi là vị hoàng đế kiệt xuất với nhiều chiến công hiển hách).

Vì vậy, năm 1599, Abbas I gửi các đoàn ngoại giao đầu tiên đến châu Âu. Một trong những điểm thu hút sự chú ý ở châu Âu đó là đôi giày kiểu Persia. Tầng lớp quý tộc ngay lập tức tạo ra những đôi giày giống người Persia đeo để thể hiện đẳng cấp và tăng vẻ mạnh mẽ, nam tính của mình.
Dần dần, những tầng lớp thấp hơn cũng mang giày. Thấy vậy, tầng lớp quý tộc tăng độ cao của gót lên.

Ở thế kỷ 17, đường sá châu Âu còn khó đi và những đôi giày cao gót không hề tiện dụng. Thế nhưng chúng lại rất hợp với tầng lớp quý tộc vì nhóm người này không phải làm việc ngoài đồng và chỉ phải đi đoạn đường ngắn.
Một trong những nhân vật lịch sử kiêm nhà sưu tập giày cao gót là Vua Louis XIV của Pháp. Ông vua này chỉ cao 1m63 và thường xuyên đi giày gót cao 10 cm. Gót giày và lòng giày luôn nhuộm đỏ.
Vua Louis XIV đeo giày cao gót đỏ, lòng giày đỏ trong bức chân dung năm 1701.
Xu thế thời trang giày cao gót trong nam giới lan rộng. Trong lễ nhậm chức của Vua Charles II của Anh năm 1661, ông cũng đi giày cao gót theo kiểu Pháp mặc dù ông cao 1m85.
Một đôi giày cho trẻ em thế kỷ 17 (có thể là tại Pháp), đôi giày này có gót màu và lòng giày màu đỏ biểu tượng cho sự giàu có, quyền lực.
Thời trang nam giới nhanh chóng ảnh hưởng tới phong cách của phụ nữ và trẻ em. Theo bà Semmelhack, những năm 1630, phụ nữ châu Âu đã cắt tóc ngắn và may cầu vai vào áo. Họ hút thuốc, đội mũ để tăng vẻ nam tính, mạnh mẽ như đàn ông. Và họ cũng bắt chước luôn việc đi giày cao gót. Thời trang theo phái mạnh của giới quý tộc cứ như vậy và kéo dài cho tới thế kỷ 17, khi trang phục, giày dép bắt đầu có sự thay đổi.

Helen Persson, người làm việc tại bảo tàng Victoria và Albert (London, Anh), cho biết, từ thế kỷ 17, đàn ông bắt đầu đi giày thấp gót hơn, phẳng hơn để thuận tiện hơn. Trong khi đó phụ nữ đi giày mảnh mai gót hơn.
Vài năm sau đó, phong trào khai sáng đề cao tri thức, giáo dục hơn sự đặc quyền, nam giới chuyển sang trang phục có tính hữu dụng nhiều hơn. Ở Anh, những người giàu có bắt đầu mặc quần áo đơn giản, phù hợp với công việc quản lý trang trại, đất đai.

Kể từ phong trào cải cách trang phục nam giới có tên Great Male Renunciation, đàn ông bắt đầu bỏ đeo trang sức, không còn chuộng áo sáng màu. Thay vì đó, họ chọn màu tối, đồng màu, ít hoa hòe. Quần áo lúc này không còn là dấu hiệu phân biệt đẳng cấp mà là để phân biệt giới tính.
Thời điểm đó, giày cao gót bị cho là ẻo lả. Năm 1740, không còn nhìn thấy đàn ông đeo giày cao gót nữa. Thời gian sau, phụ nữ cũng không còn đeo giày kiểu này nữa.

Marilyn Monroe sexy với giày cao gót.
Đến khoảng giữa thế kỷ 19, giày cao gót trở lại với thời trang trong những bức ảnh khêu gợi. Các người mẫu nude nhưng lại đi giày cao gót. Và kể từ đó, giày cao gót tiến hóa phát triển theo thị hiếu người dùng, gắn với vẻ đẹp sexy của người phụ nữ.
-- 

Source Internet.


Nursing Home ở Mỹ

Tuy tác giả viết về các viện dưỡng lão ở Mỹ nhưng có thể áp dụng chung cho các nước Tây Phương bởi các nước này đều có hệ thống tương tự.

***

Bs Trần Công Bảo & Ni bun ca ngưi Vit già  Nursing Home
VIỆN DƯỠNG LÃO  
Bác sĩ Trần Công Bảo

Cổ nhân có câu: "sinh, bệnh, lão, tử". Bốn giai đoạn này không ai có thể tránh khỏi. Chuẩn bị ứng phó với bệnh tật và tuổi già của mình và của thân nhân mình là điều ai cũng có dịp nghĩ tới, kể cả chính kẻ viết bài này là tôi cũng đang sắp sửa bước vào tuổi “thất thập cổ lai hi”.
Anh bạn thân của tôi, Bs. TNT từ lâu có đề nghị tôi viết một bài về "Viện Dưỡng Lão" (VDL) để giúp bà con mình có thêm một chút khái niệm về VDL vì anh biết trong suốt 27 năm qua tôi đã liên tục săn sóc cho các cụ già tại các viện dưỡng lão, và cũng đã là "Giám Đốc Y Tế" (Medical Director) của nhiều VDL trong vùng. Nay tôi muốn chia sẻ cùng qúy bạn một số kinh nghiệm và hiểu biết về VDL.

Trong Việt ngữ chúng ta thường dùng từ Viện Dưỡng Lão, nhưng trong Anh ngữ thì có nhiều từ khác nhau như Nursing home, Convalescent home, Rehabilitation and Nursing center, Skilled nursing facility (SNF), Rest home... Nói chung, VDL là một nơi cho những người bị yếu kém về thể xác không thể tự săn sóc cho mình được trong cuộc sống hàng ngày. Thí dụ như không thể nấu nướng, giặt giũ, đi chợ...  nặng hơn nữa như không đủ sức để làm những việc tối cần thiết cho cuộc sống như ăn uống, đi tiêu, đi tiểu... hoặc cần phải có thuốc men đúng lúc mà không thể tự làm được.

Khi nói tới VDL người ta thường chỉ nghĩ tới những người già mà thôi. Thật ra có nhiều người "trẻ" nhưng vì tật bệnh không thể tự lo cho mình được cần phải có sự giúp đỡ của SNF (skilled nursing facility). Vậy thế nào là VDL?

VDL là nơi cung cấp những dịch vụ cần thiết cho cuộc sống hàng ngày cho những người không đủ khả năng lo cho chính mình. Tùy theo mức độ trầm trọng của bệnh tật mà có những VDL khác nhau:
 1- Skilled Nursing Facility (SKF): là nơi cung cấp những dịch vụ cho những người bị khuyết tật nặng như tai biến mạch máu não gây nên bán thân bất toại, hôn mê lâu dài, hoàn toàn không còn khả năng ngay cả trong việc ăn, nuốt, tiêu, tiểu... Thường thường tại SNF có hai phần: phục hồi (rehabilitation) và săn sóc sức khỏe (nursing care). Có những người sau khi được giải phẫu thay xương khớp háng (hip replacement), thay đầu gối (knee replacement), hay mổ tim (bypass, thay valve tim) … cần thời gian tập dượt để phục hồi (rehabilitation). Sau đó họ có thể về nhà sinh hoạt bình thường cùng gia đình.
2- Intermediate care facility (ICF): cung cấp dịch vụ cho những người bệnh như tật nguyền, già cả nhưng không cần săn sóc cao cấp (intensive care). Thường thường những người này không có thân nhân để lo cho mình nên phải vào đây ở cho đến ngày cuối cùng (custody care).

3- Assisted living facility (ALF): Thường thường những người vào ALF vẫn còn khả năng tự lo những nhu cầu căn bản như tắm rửa, thay quần áo, đi tiêu, đi tiểu một mình được. Họ chỉ cần giúp đỡ trong việc bếp núc, theo dõi thuốc men và chuyên chở đi thăm bác sĩ, nhà thờ, chùa chiền hay mua sắm lặt vặt. Họ vẫn còn phần nào "độc lập".

4- VDL cho những người quá lú lẫn (Alzheimer facility): có những bệnh nhân bị lú lẫn nặng, đến nỗi không nhận ra người thân như vợ, chồng, con cháu nữa. Không biết tự đi vào buồng tắm, phòng vệ sinh để làm những công việc tối thiểu. Họ không biết họ ở đâu, dễ đi lang thang và lạc đường. Nếu ở nhà thì phải có người lo cho 24/24. Những VDL dành riêng cho những bệnh nhân này, thường là "locked facilty", cửa ra vào được khóa lại để bệnh nhân không thể đi lạc ra ngoài. Cách đây khá lâu đã có trường hợp một bệnh nhân đi ra khỏi viện, lạc đường, bị xe lửa cán chết! Từ đó có locked facilty. Đôi khi cũng có những viện bệnh nhân được gắn alarm vào cổ chân. Nếu bệnh nhân đi qua cửa thì alarm sẽ báo động và nhân viên sẽ kịp thời mang về lại.

NHỮNG DỊCH VỤ ĐƯỢC CUNG CẤP TẠI VDL: Điều này tùy theo từng viện. Tuy nhiên những dịch vụ sau đây là cần thiết:
        1- Phòng ngủ.
        2-Ăn uống
        3-Theo dõi thuốc men
        4-Những điều tối thiểu hàng ngày như tắm rửa, thay quần áo, vệ sinh cá nhân...
        5-24/24 lo cho những trường hợp bệnh khẩn cấp.
        6-Sinh hoạt hàng ngày như giải trí, tôn giáo...
        7- Vật lý trị liệu. Dịch vụ này rất quan trọng để giúp người bệnh có thể phục hồi càng nhiều càng tốt. Trong vật lý trị liệu có nhiều dịch vụ khác nhau:
                a- Tập dượt (physical therapy): như tập đi, tập lên xuống cầu thang, tập tự vào giường ngủ hay ra khỏi giường một cách an toàn, không vấp ngã...
                b- Speech therapy: tập nói, tập nuốt khi ăn uống... Có những bệnh nhân bị stroke, không thể nói hay ăn được, cần được tập để phục hồi chức năng này.
                c- Occupational therapy: Tập mang giầy, bí tất (vớ)... Tập sử dụng bếp gaz, bếp điện cho an toàn để tránh bị tai nạn.

AI TRẢ TIỀN CHO VDL? Có nhiều nguồn tài trợ khác nhau:
        1-Medicare
        2-Medicaid (ở California là Medi-Cal).
        3-Bảo hiểm tư, có nhiều người mua sẵn bảo hiểm cho VDL.
        4-Tiền để dành của người bệnh (personal funds).

MEDICARE là do qũy liên bang, chỉ trả tối đa 100 ngày cho những bệnh nhân cần tập dượt để phục hồi chức năng tại một skilled nursing facility (SNF). Thường những bệnh nhân bị stroke, gãy xương...  cần dịch vụ này. Medicare KHÔNG TRẢ cho custody care.

MEDICAID là do qũy liên bang và tiểu bang. Qũy này trả nhiều hay ít là tùy từng tiểu bang.  Medicaid trả cho dịch vụ y tế và custody care.

BẢO HIỂM TƯ: thì tuy theo từng trường hợp sẽ có những quyền lợi khác nhau, nhưng thường rất hạn chế.

Hiện nay người ta ước lượng trên nước Mỹ có khoảng 1.4 triệu người sống trong 15,800 VDL.  Các VDL này đặt dưới sự kiểm soát của bộ y tế, đặc biệt là do Centers for Medicare & Medicaid Services (CMS) giám sát. Hàng năm các VDL đều phải trải qua một cuộc kiểm tra rất gắt gao (survey) của CMS. VDL nào không đúng tiêu chuẩn thì có thể bị đóng cửa! Mục đích kiểm tra của CMS là để bảo đảm cho các bệnh nhân tại VDL được săn sóc an toàn, đầy đủ với chất lượng cao. Đồng thời tránh những trường hợp bị bỏ bê (negligence) hay bạo hành (abuse) về thể xác lẫn tinh thần. Tại mỗi VDL đều có lưu trữ hồ sơ kiểm tra cho công chúng xem. Bất cứ ai cũng có thể xem kết quả của các cuộc kiểm tra này. Tất cả các VDL đều phải có các biện pháp để bảo đảm sự săn sóc cho bệnh nhân theo đúng tiêu chuẩn. Nếu không sẽ bị phạt tiền, và có những trường hợp bị đóng cửa.

Trên đây tôi đã trình bày sơ qua về những điểm chính của VDL. Tuy nhiên, như quý bạn đã từng nghe và biết, có nhiều khác biệt giữa những VDL. Theo tôi nhận xét thì quan niệm chung của mọi người là "không muốn vào VDL". Chúng ta từng nghe những chuyện không tốt thì nhiều, mà những chuyện tốt thì ít. "Tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa", là câu ngạn ngữ người mình vẫn nói từ xa xưa đến nay. Tôi đã đọc không biết bao nhiêu là bài viết về việc con cái "bất hiếu", bỏ bố mẹ, ông bà vào VDL rồi không đoái hoài tới. Tôi cũng thấy nhiều trường hợp các cụ vào VDL một thời gian rồi không muốn về nhà với con cháu nữa!  Trên đời này không có gì là tuyệt đối cả, trong cái hay có cái dở, và trong cái dở lại có thể tìm ra cái hay. Vậy chúng ta rút tỉa được kinh nghiệm gì trong vấn đề này? Tôi chỉ xin nêu lên những nhận xét chủ quan của riêng tôi mà thôi. Có thể quý vị không đồng ý hết, nhưng nếu rút tỉa được ít nhiều ý kiến xây dựng thì "cũng tốt thôi".

NHỮNG "BỆNH" CÓ THỂ DO VDL GÂY RA:
        1- Lo lắng (anxiety): Trong tháng 9/2011 những nhà nghiên cứu hỏi ý kiến của 378 bệnh nhân trên 60 tuổi nằm VDL tại thành phố Rochester, New York. Kết qủa là có trên 27.3% trả lời là họ bị bệnh lo lắng, từ vừa đến nặng. Nếu không được chữa trị sẽ đưa đến bệnh trầm cảm (depression). Nên nhớ là 378 bệnh nhân này là người Mỹ chính cống, sinh ra và lớn lên tại Mỹ. Chúng ta hãy tưởng tượng người Việt mình không biết rành tiếng Anh, không hợp phong tục, tập quán thì sự khó khăn sẽ nhiều như thế nào! Còn một vấn đề nữa là thức ăn, chúng ta quen "nước mắm, thịt kho"..., làm sao mà có thể nuốt hamburger, sandwich… ngày này qua ngày khác! Các vấn đề này càng làm bệnh lo lắng, trầm cảm nặng thêm!
        2-Phản ứng của thuốc (adverse drug reactions): Trong tháng 1/2012 ngưòi ta theo dõi các bệnh nhân tại VDL, kết qủa là ít nhất 40% các bệnh nhân dùng trên 9 loại thuốc khác nhau. Uống càng nhiều thuốc thì phản ứng càng nhiều. Có ba loại phản ứng khác nhau:
                a- Phản ứng phụ (side effects): thí dụ như uống aspirin làm bao tử khó chịu, thuốc cao máu làm táo bón... Loại này thường xảy ra, không cần phải ngưng thuốc.
                b- Drug interference: (tạm dịch là thuốc đối tác với nhau): có nhiều loại thuốc uống chung với nhau sẽ làm tăng hoặc giảm sức tác dụng. Thí dụ thuốc loãng máu coumadin mà uống chung với thuốc tim như amiodarone sẽ làm dễ chảy máu. Có những thức ăn hay nước uống dùng chung với thuốc cũng ảnh hưởng đến thuốc. Thí dụ uống nước bưởi hay nho với một vài loại thuốc cũng sẽ tăng sức tác dụng của thuốc, dễ gây ngộ độc.
                c- Dị ứng với thuốc (allergic reaction): Loại này nguy hiểm hơn, thường làm da nổi mề đay, đỏ, ngứa. Nếu nặng thì có thể chết được như phản ứng với penicillin chẳng hạn. Nếu bị dị ứng thì phải ngưng thuốc ngay.
        3- Ngã té (fall): Người già rất dễ bị té ngã gây nên nhiều biến chứng quan trọng như chảy máu trong đầu (intracranial bleeding), gãy xương (như gãy cổ xương đùi, tay...). Khi già quá hoặc có những bệnh ảnh hưởng đến sự di chuyển, không còn đi lại vững vàng, nhanh nhẹn như lúc trẻ nên dễ vấp, té ngã.
        4- Da bị lở loét (decubitus ulcers): Những người bị liệt giường, không đủ sức để tự mình xoay trở trên giường, rất dễ bị lở loét da gây nên nhiều biến chứng tai hại.
        5- Nhiễm trùng (infection): như sưng phổi, nhiễm trùng đường tiểu...nhất là những người cần phải dùng máy móc như máy thở (respirator), ống thông tiểu (Folley catheter)…
        6- Thiếu dinh dưỡng, thiếu nước (malnutrition, dehydration): Ở các cụ già thì trung tâm khát (thirst center) trong não không còn nhạy cảm nữa, nên nhiều khi cơ thể cần nước mà không thấy khát không uống nên bị thiếu nước. Cái cảm giác "ngon miệng (appetite) cũng giảm đi nên không muốn ăn nhiều gây nên tình trạng thiếu dinh dưỡng.

VẬY CÓ NÊN VÀO VDL KHÔNG? Việc này thì tùy trường hợp. Theo tôi:
        1- Nếu còn có thể ở nhà được mà vẫn an toàn thì ở nhà tốt hơn. Nếu tài chánh cho phép, thì dù mình không đủ khả năng lo cho mình, mình vẫn có thể mướn người "bán thời gian" (part time) đến lo cho mình vài giờ mỗi ngày, giúp ăn uống, tắm rửa, dọn dẹp trong nhà, thuốc men, chở đi bác sĩ...
        2-Nếu không thể ở nhà được, mà tài chánh cho phép thì có thể ở những assisted living facilities. Ở đây thường họ chỉ nhận tiền (personal funds) chứ không nhận medicare & medicaid. Tại đây thì sự săn sóc sẽ tốt hơn.
        3-Group homes (nhà tư): Có những người nhận săn sóc cho chừng 4-6 người mỗi nhà. Họ cũng lo việc ăn uống, chỗ ở, thuốc men, chở đi bác sĩ...Thường thì rẻ hơn tùy từng group.
        4- Nếu "chẳng đặng đừng" phải vào VDL thì phải làm sao để có được sự săn sóc "tốt nhất"?
                a- Làm sao để lựa chọn VDL:
* Vào internet để xem ranking của VDL (tương tự như các tiệm ăn có xếp loại A, B, C...)
* Mỗi VDL đều phải có cuốn sổ phúc trình về các cuộc kiểm tra (survey) do bộ y tế làm hàng năm. Trong đó bộ y tế sẽ nêu lên những khuyết điểm mà họ đã tìm thấy. Cuốn sổ này được để ở khu công cộng (public area) trong khuôn viên của VDL. Hỏi receptionist thì họ sẽ chỉ cho.
* Hỏi ý kiến thân nhân những người có thân nhân đang nằm tại đó.
* Quan sát bên trong và ngoài của VDL: xem có sạch sẽ, không mùi hôi, nước tiểu. Theo dõi cách đối xử, săn sóc của nhân viên với bệnh nhân.
* Nếu có thể thì tìm một VDL có nhiều người Việt đang ở để có nhân viên nói tiếng Việt, có thức ăn Việt, có chương trình giải trí theo kiểu Việt.
                b- Nếu đã quyết định chọn VDL cho người thân rồi thì phải làm gì sau đó?
* Chuẩn bị tư tưởng không những cho bệnh nhân mà con cho cả chính mình và mọi người trong gia đình để có được sự chấp nhận (acceptance) càng nhiều càng tốt.
* Thăm viếng thường xuyên: Nếu nhà đông con cháu thì không nên đến thật đông một lần rồi sau đó nhiều ngày không có ai đến. Nếu được, nhất là trong vài tháng đầu, luân phiên nhau tới, mỗi ngày một lần một vài người. Làm lịch trình ai đi thăm ngày nào, giờ nào...
* Nên làm một cuốn sổ "thông tin" (communication book) để cạnh giường. Trong cuốn sổ này mỗi khi ai đến thăm thì viết ngày giờ, tên người đến thăm, và nhận xét xem bệnh nhân có vấn đề gì cần lưu ý, giải quyết. Nếu không có vấn đề gì thì cũng nên viết vào là không có hoặc cho nhận xét về vui, buồn, than thở của bệnh nhân...
* Cuối tuần hay ngày lễ: nên có người vào hoặc mang bệnh nhân về nhà nửa buổi để được sống với không khí gia đình dù ngắn ngủi, hay đưa ra khỏi VDL để làm đầu, tóc hoặc tới tiệm ăn cho khuây khỏa...
* Nên sắp xếp để bệnh nhân có sách báo, băng nhạc bằng tiếng Việt cho bệnh nhân giải trí.
* Cho dù có những bệnh nhân bị hôn mê bất tỉnh lâu dài, nhưng khi đến thăm hãy cứ thì thầm bên tai họ những lời yêu thương, những kỷ niệm cũ. Nắm tay, xoa dầu để tỏ tình thương yêu. Tuy họ không có thể cảm thấy được 100% nhưng chắc chắn họ vẫn còn một chút nhận thức, làm họ hạnh phúc hơn, mặc dù mình không nhận thấy. Để bên đầu giường những băng nhạc, câu kinh mà khi còn khỏe họ đã thích nghe.
* Một điều chót mà theo kinh nghiệm của tôi, rất có hiệu qủa: đối xử tốt nhưng nghiêm túc với nhân viên của VDL:
                             - Đối xử tốt: lịch sự, nhẹ nhàng, không thiếu những lời cám ơn cho những nhân viên phục vụ tốt. Thỉnh thoảng mua một vài món quà nhỏ cho họ (tôi xin nhấn mạnh “nhỏ thôi”– đừng nên coi đây là hối lộ) như đồ ăn, thức uống ...  để bày tỏ lòng biết ơn của mình. Mình tốt với họ thì họ sẽ quan tâm đến mình nhiều hơn. Người mình vẫn nói: "Có qua có lại mới toại lòng nhau").
                              _ Tuy nhiên đối xử tốt không có nghĩa là mình chấp nhận những sai trái của họ. Thí dụ mình đã báo cáo những thay đổi về sức khỏe của bệnh nhân cho họ mà không ai quan tâm giải quyết thì mình phải lịch sự nêu ra liền. Nếu cần thì gặp ngay những người có trách nhiệm như charge nurse, nursing director và ngay cả giám đốc của VDL để được giải quyết. Nên nhớ là phải lịch sự, nhã nhặn nhưng cương quyết thì họ sẽ nể phục mình. Tôi đã thấy nhiều trường hợp đạt yêu cầu một cách rất khả quan.

Trên đây là những kinh nghiệm của tôi xin chia sẻ với quý bạn. Dĩ nhiên là không hoàn toàn đầy đủ tất cả những gì quý bạn mong muốn, nhưng hy vọng cũng đáp ứng được phần nào những ưu tư, lo lắng cho người thân của quý bạn.
 
Bs. Trần Công Bảo


Source Internet.

Cô Nhi Viện và Viện Dưỡng Lão



Theo bài viết, đây là tự sự một người con lai Mỹ đen, bị mẹ bỏ rơi ngay từ khi mới sinh, được “ghép hộ” để định cư tại Mỹ, và rồi cũng bị cha mẹ nuôi đuổi ra khỏi nhà. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông được chuyển đến bằng email. Mong ông tiếp tục viết.

Từ xưa đến nay, tôi chưa bao giờ có ý tìm lại cha mẹ. Tôi hiểu rằng những đứa con lai, nhất là lai Mỹ đen như tôi, là những đứa con ngoài ý muốn; hầu như ít khi biết thực sự cha của đứa trẻ là ai.

Tôi bị Mẹ của tôi bỏ sau khi sinh ra mới có 48 giờ ở tại nhà thương. Tôi lớn lên trong cô nhi viện và trốn ra khỏi cô nhi viện năm 13 tuổi, ra giang hồ bữa đói bữa lạnh; sau cùng ghép hộ làm con một gia đình có 4 em 2 trai 2 gái để ra đi sang Mỹ theo diện Con Lai.

Tôi đến Mỹ năm 20 tuổi và đi làm ngay góp phần nuôi 4 đứa em đi học. Sau 18 năm các em 2 đứa là bác sĩ, 2 đứa là kỹ sư; Tôi bị ba má nuôi đuổi ra khỏi nhà vì gia đình sợ mang tiếng với suôi gia nhà trai nhà gái của 4 đứa em tôi. Tôi chưa được đến trường ngày nào trên đất Mỹ.

Mới 40 tuổi mà mắt đã mờ! Tôi đến gặp Bác sĩ gia đình, xin giấy giới thiệu gặp Bác sĩ chuyên khoa để có đốt hay mổ gì thì họ đưa đi hay chữa cho khỏi mất công.

20 năm rồi trên đất Mỹ; nhưng tiếng Mỹ của tôi chưa đầy lá mít,  nên tôi nhờ cô thư ký ở văn phòng bác sĩ gia đình tìm Clinic nào có người nói được tiếng Việt. May sao có clinic lớn mà chỉ đợi có 2 tuần; nhưng lại phải là giờ cuối cùng sắp đóng cửa!

Tôi đến sớm trước giờ hẹn nửa tiếng, đưa giấy giới thiệu cho một bà Mỹ gìa rồi ngồi ở phòng đợi chờ tới phiên. Tôi nhìn quanh coi có ai là Việt Nam mình không, nhưng chẵng thấy ai.  Bệnh nhân lần lần được gọi vào phòng khám rồi ra về gần hết vì sắp đến giờ đóng cửa. Sau cùng thì tôi cũng được gọi tên do một cô gái có nét Việt Nam mà từ nảy giờ tôi chưa hề thấy. Cô ta nói tiếng Anh với tôi từ lúc gọi tên đến lúc bảo ngồi ghế nhìn đọc. Tôi không hiểu rõ hết được nên hỏi cô có nói được tiếng Việt Nam không? Cô ta tỏ ra ngạc nhiên.

- Anh không phải là người Mỹ sao?

- Tôi là người Việt Nam.

- Nhưng Anh đâu có nét nào giống người Việt đâu?

Như biết mình lỡ lời, cô ta nói thêm tiếng “Sorry”.

- Chị không phải Sorry, nhiều người nói như thế mà! Tại tôi giống Mỹ Đen. Chị quê ở đâu ở Việt Nam?

- Ba tôi người Mỹ Tho, Mẹ ở Bình Dương nhưng tôi sinh ra ở Miền Trung, Nha Trang. Anh tôi và tôi đều sinh ở Nha Trang vì cha là Hải Quân  phục vụ ở Quân Trường Nha Trang. 

- Tôi cũng sinh ở Nha Trang; nhưng rất tiếc là không biết cha mẹ của Tôi là ai?

- Anh sinh năm mấy? Cô ta vừa hỏi nhưng nhớ lại hình như câu hỏi có hơi thừa. Hồ sơ bệnh của tôi đang để trên bàn nên cô ta nhìn và ngạc nhiên nói:

- Ngày tháng năm sinh của anh giống y như của tôi! Có phải anh sinh ở nhà Bảo sinh Quân đội Nha Trang hay không? 

- Đúng rồi, sao cô biết vậy?

- Ba má tôi có kể cho tôi nghe và tôi còn nhớ. Tôi sinh ra lúc 12 giờ rrưa thì khoảng 8 giờ tối có một bà nữa sinh một bé trai. Sáng hôm sau, khi cha tôi vào thăm, mẹ tôi nói là bà mẹ sinh tối hôm qua muốn cho con của bà. Ba tôi nói, vậy mình xin, sẵn nuôi luôn có gì mướn thêm người giúp việc có sau đâu. Mẹ tôi nói Mỹ đen đó. Cha tôi nghe vậy, có đến  nhìn thằng bé, rồi trở lại bảo nó cũng không đen lắm, trông rất dễ thương. Nhưng mẹ tôi không đồng ý, nói sợ người ta đàm tiếu. Cha tôi bảo: Anh bất cần thiên hạ. Chỉ cần em chịu là anh xin ngay. Nhưng cuối cùng mẹ tôi không chịu và nói mình đã có một trai một gái đủ rồi. 

Thấy tôi chú ý nghe câu chuyện, cô ta nói thêm:

- Nếu anh là Mỹ trắng, có lẽ mẹ tôi đồng ý nuôi anh, và anh đã là em của tôi.

Sau phần làm thủ tục, tôi phải vào gặp bác sĩ chuyên khoa,  khi xong thì cô ta đã về rồi.

Tôi về nhà mà vẫn bị ám ảnh vì câu chuyện do cô y sĩ nhãn khoa kể lại.

Ba của cô ta là người thế nào? Sao ông ta lại có ý tưởng xin tôi để nuôi? Phải tìm gặp ông ta mới được, tôi tự nhủ.

Ít ngày sau, tôi trở lại tìm gặp cô nha sĩ khám bệnh cho tôi hôm trước và xin được gặp Ba của cô ta. Cô ta bằng lòng ngay, viết cho tôi địa chỉ. Nhìn địa chỉ tôi hơi ngạc nhiên với 3 chữ “Viện Dưỡng lão”. Cô ta như đoán biết nên nói:

- Ba của tôi mới được đưa vào Viện Dưỡng Lão hôm tháng rồi.

Ngay Chủ nhật tuần đó, tôi vào Viện Dưỡng Lão xin gặp cái ông đã từng muốn nhận tôi làm con. Nếu tôi là con của ông ta, chắc tôi cũng sẽ như ba đứa con của ông đều tốt nghiệp Đại học cả, vì dù sao những kẻ có lòng tốt không để Tôi thất học.

Tôi chọn cái ghế nhìn được suốt dãy hành lang từ phòng khách đến phòng ăn để dễ nhìn người qua lại bên trong. Một Ông chừng 65 là cùng mặc dù người tôi muốn gặp nay đã 71. Ông ta đi còn nhanh nhẹn lưng không khòm tay chân nhịp đi đúng là người lính nhiều năm trong quân ngũ năm xưa; chẳng có vẻ gì là một cụ già đến độ phải vào Viện Dưỡng lão để chờ chết!

Hình như được con gái báo trước nên ông ta đi thẳng đến đưa tay bắt tay tôi và từ giới thiệu:

- Chú tên là Hùng, cứ gọi tên và gọi Chú cho bớt già hơn là gọi Cụ hay Bác.

Ông ta còn lanh lẹ, tiếng nói còn uy nghi rành rọt không có chút gì run rẩy hay khàn giọng của người già.

Ông ta hỏitTôi dành bao nhiêu thì giờ để gặp ông ta. Tôi nói cả ngày hôm nay cũng được. Ông ta hỏi tôi có uống cà phê và hút thuốc được không. Tôi nói được cả hai.

Ông ta đến nói với người quản lý xin được tiếp tôi ở phòng riêng để mời người bạn trẽ ly cà phe; rồi ông bảo tôi đi theo ông ta. 

Theo ông ta về phòng riêng, tôi đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác.

Căn phòng có mùi dầu thơm chứ không khai và hôi như thiên hạ thường nói về nơi người già sống. Cái bàn Computer có cả máy in TV DVD player và Multimedia player với mấy chồng CD và DVD ca nhạc. Ông ta bắt đầu nấu nước pha cà phê phin; vừa làm vừa giải thích đây là cà phê Ý pha với cà phê Ban Mê Thuộc cho có đủ vị đắng và thơm.

Xong hai ly cà phê, ông bảo tôi “Đi, mình ra vườn. Ra bằng cửa này.” Cửa hông từ trong phòng riêng của ông mở thẳng ra vườn. Ông nói, áp phe lắm mới được phòng nầy ăn thông ra vườn để trốn ra ngồi hút thuốc. 

Khu vườn thoáng mát, vắng vẻ. Ông lấy ra bao thuốc Vogue mời tôi một điếu. Đây là loại thuốc điếu nhỏ chỉ bằng phân nửa điếu thuốc thường nhưng dài hơn và nặng hơn. Ông đốt thuốc cho Ông và đưa quẹt gaz cho tôi để tự tôi đốt lấy. Hớp xong hớp cà phê ông hỏi:

- Vừa không Cháu?

- Dạ ngon và thơm lắm, Chú.

- Nào giờ thì cháu muốn biết gì cứ hỏi. Chú nhớ được gì sẽ nói nấy.

- Cháu không có mục đích tìm cha hay mẹ, vì có muốn chắc cũng không bao giờ tìm được mà tìm để làm gì! Chú biết được nhớ được gì cháu cũng muốn biết hết.

- Con trai lớn của chú và con gái đều sinh ở bảo sinh viện Quân đội thành phố Nha Trang. Con gái của chú sinh lúc 12 giờ trưa. Chú bận nên 2 giờ chiều mới vào thăm sau đó đi làm và chiều vào thăm vợ von đến gần 7 giờ thì về. Sáng hôm sau chú vào thăm vợ con sớm trước khi đi làm thì phòng bên có thêm một sản phụ mới. Vợ chú nói bà ta mới sinh lúc 9 tối, nhưng không muốn nuôi nên cho con.

Chú bước sang đứng cửa phòng bên nhìn vào hơi tối nhưng cũng thấy mặt được cháu bình thường như bao trẻ khác nhưng đẹp hơn con gái chú nhiều; vì khi mới sinh con bé của chú trán nhăn ba lằn, giống y như chú, mũi gãy trán cao gần như giồ. Chú trở lại nói với vợ là mình có thể xin đứa bé. Nếu nuôi luôn 2 đứa chú sẽ mướn thêm người giúp việc. Nhưng vợ chú nói “con Mỹ đen đó. Anh không sợ nhưng Em sợ miệng đời. Chú nói, không lẽ sinh đôi mà một đưa con Việt nam còn đứa kia là con Mỹ hay sau mà sợ. Vọ chú nói thôi, nếu trắng nếu trắng em mới nuôi. Chú Sorry với cháu. Tại chú cháu mình không có cái duyên làm cha con với nhau!

Thấy tôi chăm chú nghe nhưng không nói gì, ông kể tiếp:

- Chiều hôm đó Chú vào thăm thì thấy Má của cháu đi lại nhanh nhẹn chứ không nằm liệt như vợ của chú. Mẹ của cháu là người cao lớn, đẹp, coi mạnh khỏe và lanh lợi hơn vợ của chú. Nghe nói mẹ cháu ở đâu ngoài Chu Lai hay Qui Nhơn gì đó vào Nha Trang sinh; Chồng bà ta là Trung Úy Biệt Kích đi hành quân vùng Một ít khi về thăm. Có lẽ Má của cháu làm sở Mỹ có quan hệ trong sở, nên khi có bầu không biết là con của chồng mình hay với ai nên cứ sinh rồi mới tính. Nếu là con Việt thì đem về nuôi mà là con lai thì cho luôn. Sáng hôm sau, khi chú vào thăm thì vợ chú cho biết người đàn bà đó đã bỏ con và rời nhà thương lúc nửa đêm; nên nhà thương giao cháu cho Ban Xã hội của Quân Đội lo. Hầu hết là đem vào Viện Mồ Côi. Chú chỉ biết bao nhiêu đó. Cháu còn muốn biết đìều gì thì cho biết,  nếu chú có thể giải thích thì chú sẽ nói cho Cháu biết.

Tôi nói với ông:

- Chú đã nói ra tất cả những gì cháu thắc mắc. Bấy lâu cháu thắc mắc “Tại sao không muốn sinh con mà không phá thai; sinh ra để bỏ thì sinh làm gì?” nay chú nói cùng môt lúc sống với chồng mà còn phải sống với Mỹ thì làm sao biết con của ai nên cứ phải sinh ra rồi mới tính thì có lẽ là cách giải thích hợp nhứt cho trường hợp của cháu. Cháu hận mẹ hận cha mặc dù cháu không biết họ là ai;  Từ thời thập niên 60 đến 1975 không biết đã có bao nhiêu trẻ mồ côi như cháu. Cháu hận bà mẹ, hận đàn bà nên đến nay mà cháu vẫn chưa lập gia đình!

Ông ta mồi thêm điếu thuốc và để gói thuốc cạnh tôi ra dấu mời. Tôi xoa tay từ chối trong im lặng. Ông ta đột nhiên cười khá lớn rồi ngó vào mắt tôi hỏi:

- Cháu có biết Viện Dưỡng Lão để làm gì không?

- Thì để cho người già sống.

- Ừ! Cả miền Nam Việt Nam trước 75 chú chỉ biết có một Viện Dưỡng lão ở Thị Nghè gần Xa Lộ Biên Hoà; nhưng cũng chỉ có mấy chục người, gồm những người không nhà, không con cháu không thân nhân mà người ta gọi là tứ cố vô thân. Tại Việt Nam trước đây, hầu hết người già sống nhờ vào con cháu nuôi vì bởi cha mẹ còn trẻ làm nuôi con cháu đến khi gìa thì nuôi lại coi như trã hiếu hay trả công. Xứ tư bản này, mỗi tiểu bang có mấy chục Viện Dưỡng lão. Gìa thì dù có con hay không con, có nhà hay không nhà giàu sang cũng như nghèo cũng đều phải vào Viện Dưỡng lão, bởi lý do con cháu ai cũng bận đi làm, không chăm sóc được.

Ông thở khói rồi tiêp:

- Chú có ba người con, ba cháu nội thì còn quá nhỏ không tính; nhưng cả đời, chưa bao giờ chú để các con của Chú đói lạnh. Sau 75 khổ sở thế nào Con của Chú vẫn không bị ăn độn. Sau đó chú đi vượt biên để được sống tự do và Vợ Con của Chú sang đây bằng máy bay do Chú bảo lãnh.

Ngày xưa chú còn trẻ sinh con bận bịu tại sau chú không gởi vào Viện Mồ Côi để được rảnh đi làm và hữơng thụ cái tuổi hoa mộng của Chú. Bận rộn đi làm lắm khi đói khổ vẫn không bỏ các Con ; nhưng Cháu có biết tại sao Chú còn mạnh khỏe đáng lý chưa đến độ vào đây; thế mà chú lại ở đây! Chú cũng còn là con người biết đủ hỷ nộ aí ố lạc, 71 tuổi là già nhưng Chú chưa mất trí còn tự mình chăm sóc được nhưng Chú bị tai biến mạch máu; Tim ngừng đập nên xe cứu thương đưa vào bệnh viện. Từ bệnh viện có thể đưa trực tiếp người già vào viện dưỡng lão ít có xét hồ sơ hay phỏng vấn phiền toái coi thực sự già lú lẫn hay chưa như trường hợp ở nhà muốn gởi vào Viện Dưỡng lão. 

Người già nào hay nói ra người trẻ cũng lắm khi quên tắt lửa lò bếp hay quên chìa khóa hay quên bóp; nhưng gìa mà bị tố là có lắm cái quên như thế thì bị kết tội là “lú lẫn.” Chú bị đưa thẳng vào Viện Dưỡng lão trong trường hợp nầy cho dễ hơn nếu sau nầy chú về nhà thì khó có được sự dễ dàng để vào đây nên các con của chú tố chú lú lẫn để bỏ luôn chú vào đây một cách dễ dàng sớm hơn dự định của Chú.

Có con nhưng chúng bận rộn đi làm chúng có đời sống riêng nên không chăm sóc cho cha mẹ già được. Cháu thấy lý do nầy hợp lý chứ?

Nghe ông hỏi, tôi không biết trả lời ra sao. Ông tiếp tục châm thuốc, tiếp tục nói, vẫn với giọng tỉnh queo:

- Tuổi trẻ chú bận vừa đời lính lại khi VC chiếm Miền Nam thì cơ cực lầm than dễ gì đủ ăn no lòng; sao chú khờ dại không bỏ con mà chạy lấy thân để vui cuộc đời Việt Kiều đôc thân. Tại sao phải thí mạng vượt biên rồi còn bảo lãnh con, nuôi con cho nên người để rồi các con cũng có thời tuổi trẻ bận như mình. Chúng bỏ mình nhưng ngày xưa mình lại không biết bỏ chúng. Cháu biết tại sao không? Là tại mình ngu.

Ông ta cười lớn nhưng sao cái cười quá chua chát:

- Cháu về bỏ hết, quên hết đi cái đời mồ côi của cháu đi mà vui sống. Vì cháu nên người ta mới lập  “Viện Mồ Côi.” Và cũng vì có chú nên người ta mới lập “Viện Dưỡng lão.”

Lời an ủi của người từng có ý định làm cha nuôi của tôi làm tôi thấy mềm lòng. Nhìn ông, người cha bị con cái thành đạt bỏ vô viện dưỡng lão, tôi thật cũng muốn nói điều gì đó an ủi ông, nhưng không biết phải nói ra sao.

Source Internet.

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013

Bộ Ảnh : Lời Phật Dạy




Tác giả : Trí Huệ (GS Trì Thịnh Huệ- TH Hồ Ngọc Cẩn )


Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình.

Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.

Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại.

Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị.

Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình.

Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu. 
(Có bản ghi: Tội lỗi lớn nhất của đời người là tự lừa dối mình)

Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ti.
Đáng khâm phục lớn nhất của đời người là vươn lên sau khi ngã.
Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng.

Tài sản lớn nhất của đời người là sức khoẻ, trí tuệ.

Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm.

Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung.

Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết.

An ủi lớn nhất của đời người là bố thí.


Source Internet.