Thứ Ba, 24 tháng 12, 2019

Những Trò Chơi Tặng Quà Vào Dịp Giáng Sinh

Nhân dịp Giáng Sinh về Làng Nam xin viết mấy dòng về vài trò chơi tặng quà của người Tây Phương .



Thường ở các nước phương Tây như Úc, Mỹ, Anh v.v. vào những dịp Giáng Sinh hàng năm họ thường tặng quà cho nhau.  

Một vài gia đình có tập tục mỗi người thường mua quà cho những người khác.  Nếu gia đình có ít người thì việc này không đến nỗi, nhưng có những gia đình số thành viên tương đối không nhỏ, việc một người nào đó phải mua quà cho tất cả mọi người có khi trở thành một "vấn đề" bất tiện ...  

Bởi thế những trò chơi tặng quà vừa vui, vừa tiện, và với những trò chơi này bảo đảm ai cũng có quà.  Thêm nữa mỗi người chỉ cần mua một món quà mà thôi (với một giá định trước).  

Trò chơi này rất thích hợp cho các đồng nghiệp trong một công ty hoặc trong một nhóm hội đoàn, bạn bè v.v.

Có nhiều trò chơi nhưng phổ biến nhất là 3 trò chơi tạm gọi: Ông Già Noel Xấu Xí (Bad/Ugly Santa), Ông Già Noel Bí Ẩn (Secret Santa) và Voi Trắng (White Elephant).

Trò chơi thứ nhất - Ông Già Noel Xấu Xí (Bad/Ugly Santa)

Với trò chơi này mọi người tham gia sẽ được báo trước để tự mua và mang đến một món quà từ $10-$20 chẳng hạn. Có bao nhiêu người tham dự thì sẽ có bấy nhiêu số, mỗi số được viết vào một mảnh giấy, gấp lại và sau đó các mảnh giấy được bỏ vào một chiếc hộp (hay chiếc mũ chẳng hạn). Sau đó chiếc hộp này sẽ được chuyền đến từng người để mỗi người sẽ chọn một mảnh giấy trong đó có ghi một con số.

Tất cả các món quà đều được gói sẵn và để vào một chỗ.  Người chọn đúng số 1 sẽ là người đầu tiên được đến lấy một món quà, sau đó mở ra cho mọi người nhìn thấy.  Kế đến là người có mảnh giấy mang số 2 sẽ đến lấy một món quà và cũng làm như người thứ nhất.  Tuy nhiên người thứ hai có quyền giữ lại món quà của mình hoặc đổi món quà của người thứ nhất (và người thứ nhất không được từ chối).

Tương tự, người thứ 3 cũng làm như hai người trước, và khi mở quà người này sẽ lựa chọn giữ lại món quà của mình hoặc đổi với một món quà của người thứ nhất hay người thứ hai.  Cứ thế người sau sẽ được quyền giữ hoặc đổi quà với bất cứ người nào trước đó.  Trò chơi được tiếp tục cho đến khi tất cả mọi người đều chọn quà.

Theo cách chơi này, người chọn được mảnh giấy có con số lớn nhất sẽ có lợi thế nhất bởi vì người này có thể đổi bất cứ món quà nào mình thích của bất cứ người nào .

Trò chơi thứ hai - Ông Già Noel Bí Ẩn (Secret Santa)

Trò chơi này có lẽ là phổ biến nhất, với trò chơi này, trước ngày họp mặt Giáng Sinh, tên của mỗi người tham gia sẽ được viết vào một mảnh giấy, gấp lại và sau đó các mảnh giấy được bỏ vào một chiếc hộp. Chiếc hộp sẽ được chuyền đến từng người, ai nhận được mảnh giấy có tên của một người nào đó thì sẽ mua quà (với giá định trước như trò chơi trên) cho người đó (nếu chọn phải mảnh giấy có tên của chính mình, thì phải chọn lại mảnh giấy khác ). 

Luật cho trò chơi này là mọi người phải giữ bí mật đến ngày họp mặt Giáng Sinh bởi thế mới có tên Ông Già Noel Bí Ẩn (Secret Santa)...

Trò chơi thứ ba - Voi Trắng (White Elephant)

Trò chơi này cũng giống như trò chơi thứ nhất, mọi người tham gia cũng sẽ được báo trước để tự mua và mang đến một món quà từ $10-$20 chẳng hạn. Có bao nhiêu người tham dự thì sẽ có bấy nhiêu số, mỗi số được viết vào một mảnh giấy, gấp lại và sau đó các mảnh giấy được bỏ vào một chiếc hộp. Sau đó chiếc hộp này sẽ được chuyền đến từng người để mỗi người sẽ chọn một mảnh giấy trong đó có ghi một con số.

Sự khác biệt giữa trò chơi này và trò chơi thứ nhất là mỗi món quà sẽ được ghép với một con số, và nếu bạn chọn đúng mảnh giấy số 1 bạn sẽ nhận được món quà có ghép số 1.  Bạn muốn đổi món quà khác với ai đó thì tùy vào khả năng thuyết phục và sự đồng ý của đối tượng ...

Cuối cùng xin chúc tất cả quý vị & gia đình một mùa Giáng Sinh an lành cùng một Năm Mới nhiều may mắn!

LÀNG NAM

12-2019

Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2019

Một Chút Thôi!


Một chút của những bước chân
Cố hương ngàn dặm cũng gần một khi..
Một vài đá sỏi li ti
Hẹn nhau thành núi Tu Di có ngày.
 
Một chút tình thương mở bày
Người vui - mình cũng đong đầy niềm vui.
Một chút nhường nhịn, bước lui
Nghe hồn thanh thản biển trời bao la 
Một chút tha thứ, bỏ qua
Ngày mai vẫn đậm chung trà đệ huynh
Một chút cử chỉ chân tình
Khổ đau.. gửi lại ánh nhìn Tạ ơn.
 
Một chút xoa dịu nỗi buồn
Khô khan dòng lệ tủi hờn bấy lâu.
Một chút lời hỏi han nhau
Lòng biên giới bỗng.. nhịp cầu bắt sang.
 
Một chút thôi, giọt nắng vàng
Cũng làm ấm buổi Đông sang lạnh lùng 
Một chút nến giữa gian phòng
Bóng đêm muôn thuở bàng hoàng, lặng thinh..
 
Một chút tiếng Kệ, lời Kinh
Chiều kia rơi vỡ tâm tình u mê.
Một chút gieo hạt Bồ Đề
Vị lai hoa Giác xum xuê đầy cành.
Một chút là ý niệm lành
Đâu ngờ.. giọt nước viên thành cơn mưa..
 
Một chút ni chớ hững hờ
Đời nghe an lạc từng giờ gọi tên.
Một chút này chẳng bỏ quên
Con đường hạnh phúc bước thênh thang hoài.

Như Nhiên -ThíchTánhTuệ

Source Internet.

Dừng lại 1 phút


_Dừng lại 1 phút để xem xét những quyết định của mình trước
 khi hành động đúng hay sai ?

_Dừng lại 1 phút để suy nghĩ, trước khi bạn nói quá lời.

_Dừng lại 1 phút để suy nghĩ lại xem, mình có nên tranh cãi 
để làm rạn nứt tình cảm không ?

_Dừng lại 1 phút để suy nghĩ và cảm thông, thay vì trách móc.

_Dừng lại 1 phút để suy nghĩ, trước khi bạn bán rẻ nhân cách 
chỉ vì một chút danh dự, một chút tiền.

_Dừng lại 1 phút để suy nghĩ về hậu quả, trước khi bạn ra 
tay và dùng bạo lực.

_Dừng lại 1 phút để suy nghĩ, trước khi bạn lạc lòng trước 
một người không phải vợ, chồng mình. Hãy hỏi lại mình xem, 
người này có đáng để bạn đánh đổi hạnh phúc mà bạn đã khổ
 công xây dựng không ?

_Dừng lại 1 phút để suy nghĩ xem bạn nên ở hay nên đi ra khỏi 
cuộc đời một người, trước khi vội vàng quyết định.

_Dừng lại 1 phút để suy nghĩ, trước khi bạn nhắm mắt làm
 liều bất cứ chuyện gì.

_Dừng lại 1 phút để suy nghĩ, trước khi bạn muốn buông xuôi 
cuộc đời cho khuynh hướng sống không ra gì.

Thật ra thì 1 phút chẳng là bao, nhưng nếu bạn biết áp dụng
 nó vào những lúc bạn đang háo thắng, hoặc nông nổi. Bạn sẽ
 thấy nó hiệu quả vô cùng, và bạn sẽ không phải hối tiếc sau này! 
Khó khăn lơn nhất của đời người là không thể ngược thời gian
 sửa những sai lầm trong quá khứ!

_Dừng lại 1 phút để suy nghĩ, chính là chi CHÁNH TƯ DUY,
 một trong 8 chi phần quan trọng của Bát Chánh Đạo 
đấy bạn ạ! 

Như Nhiên -ThíchTánhTuệ

Source Internet.

Thứ Ba, 3 tháng 12, 2019

Tại sao hai nước Chiêm Thành và Chân Lạp biến mất trên bản đồ Thế giới?


Phan Hưng Nhơn


Gần đây trên một bài báo nọ, có người đã viết:  “công bằng mà nói thì dân tộc nào cũng có đầu óc thực dân cả, không nhiều thì ít, nhưng tôi nghĩ rằng thực dân Việt siêu hơn thực dân Pháp và Tàu nhiều, không tin ư ?.  Thì Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp đã bị xóa trên bản đồ thế giới đó.”

Thật là một phát ngôn kém suy nghĩ, kém hiểu biết về lịch sử bang giao Việt – Chiêm, phụ hùa với những dư luận lỗi thời từng đổ lỗi cho người Việt Nam về sự suy thoái của nước Chiêm Thành.  Vì vậy, cũng nên tìm hiểu nguyên do suy thoái của nước Chiêm Thành thật sự từ đâu ?  Sở dĩ có dư luận đó, là do căn cứ trên hiện tượng người Việt Nam từ lưu vực sông Hồng đã dễ dàng Nam tiến sinh sống trên vùng đất cũ của Chiêm Thành và đồng bằng sông Cửu Long.


SỰ SUY THOÁI CỦA NƯỚC CHIÊM THÀNH

Người Việt nam gọi họ là Chàm.  Chiêm Thành là do người Hán đặt ra.  Người Chiêm Thành gồm nhiều sắc tộc khác nhau.  Mỗi sắc tộc lại bao gồm nhiều thị tộc riêng lẻ, thường hay lẫn lộn đánh nhau.  Có hai thị tộc mạnh nhất là thị tộc Cây Dừa (Narikelavamca hay Kokosno) sống ở vùng đất Indrapura phía bắc thuộc các tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng và Nghĩa Bình ngày nay; vùng lãnh thổ họ có tên là Amaravati (từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 10).  Còn thị tộc Cây Cau chiếm cứ vùng lãnh thổ mang tên là Panduranga từ đèo Cù Mông đến lưu vực sông Đồng Nai do tập tục, lề thói khác nhau nên giữa hai thị tộc này cũng thường xảy ra xô xát các thị tộc nhỏ khác tuy sống trong hai vùng này nhưng tại các nơi rừng núi vẫn giữ độc lập với nhau.  Tổ chức chánh quyền không chặt chẽ như thế, từ nội bộ Chiêm Thành mầm mống chia rẽ vì sắc tộc đã có sẵn.  Thêm vào đó, giới thượng tầng tăng lữ và qúy tộc tuy thiểu số lại điều khiển đa số dân chúng qúa nghèo khổ.  Người Chàm thường hoặc là làm nông, đi biển hoặc làm hải tặc.

Khoảng năm  605, thị tộc Cây Cau trở nên hùng mạnh và cai quản luôn vùng lãnh thổ Indrapura phía Bắc của thị tộc Cây Dừa để thành lập nước Chiêm Thành.  Chánh quyền Chiêm Thành thường đem quân đi cướp bóc hoặc chinh quạt khắp nơi.  Trên mặt biển, họ tổ chức những đoàn cướp biển.  Hải tặc Chiêm Thành một thời là mối hãi hùng cho những thường thuyền qua lại ở biển Đông từ Nam Trung Hoa cho đến Nam Dương.  Suốt thời gian dài hải tặc Chiêm Thành hùng cứ vùng biển Đông cho đến thời các nước phương Tây làm chủ Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương với những tàu bè lớn, trang bị súng ống tối tân ngăn trở hoạt động của những người sống nghề cướp biển với những hải thuyền nhỏ với khí giới thô sơ.


NGUYÊN NHÂN NGOẠI LAI

Các hải thuyền Chiêm  Thành thường đi gây hấn nhiều nơi nên Chiêm Thành thường bị các nước đem quân đánh trả.  Trung Hoa tuy ở xa nhưng cũng đã hai lần đến đánh Chiêm Thành vào các năm 605 và  1282.

Sẵn có lực lượng hải thuyền hùng mạnh, thương gia Chiêm Thành buôn bán nhiều nơi khắp Đông Nam Á làm cho vương quốc Jawa chú ý vì bị cạnh tranh.  Người Jawa hai lần đánh cướp Chiêm thành.  Một lần vào năm 774, người Jawa đánh chiếm và tàn phá thị trấn Aya Tra (Nha Trang) và năm 787, họ đánh phá thị trấn Panra (Phan Rang), gây nhiều tổn hại cho dân chúng địa phương.  Sự bang giao giữa hai nước về sau thân hữu hơn vào cuối thế kyẻ thứ 9 sau các cuộc trao đổi viếng thăm giữa sứ bộ hai nước và nhất là sau khi vua Chiêm Thành Chế Mân lấy công chúa Tapani của vương quốc Jawa.


CHIÊM THÀNH VÀ NƯỚC CHÂN LẠP

Sau khi Phù Nam, nước lân bang phía nam Chiêm Thành bị Chân Lạp sát nhập vào giữa thế kỷ thứ sáu, Chiêm Thành áp dụng lối ngoại giao mềm dẻo để ngừa hờ sự bành trướng của Chân Lạp.  Hoàng thân Chiêm Thành Jadgaharm cưới công chúa Cavani con vua Chân Lạp Icanavar-man.

Đến thế kỷ thứ 9, bang giao giữa hai nước ngày càng căng thẳng, năm 950 Chân Lạp đem quân đánh Chiêm Thành ở vùng Nha Trang, nhưng giữa thời gian từ 1074 đến 1080, quân Chiêm lại xâm chiếm đến vùng Sambor (bắc Nam Vang).  Năm 1145, quân Chân Lạp phục thù đánh chiếm Đồ Bàn của Chiêm Thành.  Năm 1177, vua Chiêm Thành Jaya Indra-Varman phái một đội chiến thuyền hùng hậu tiến ngược dòng sông Cửu Long đánh phá thành Angkor, giết vua Chân Lạp, nhưng sau đó phải thối binh vào năm 1181.  Năm 1190, Chiêm Thành lại tấn công Chân Lạp lần nữa, nhưng lần này quân Chân Lạp phản công lại rồi tiến chiếm Đồ Bàn của Chiêm Thành, rồi chia nước Chiêm Thành làm hai tiểu quốc đặt dưới quyền đô hộ của Chân Lạp.  Năm 1192, hoàng thân Chiêm Thành Vidyanandana đánh đuổi được quân Chân Lạp, thống nhất trở lại được nước Chiêm Thành.  Đến năm 1203, vua Chân Lạp đem đại quân đánh chiếm Chiêm Thành và sát nhập Chiêm  Thành vào lãnh thổ Chân Lạp.  Mãi đến năm 1220, dân Chiêm Thành mới có cơ hội độc lal65p nhờ Chận Lạp bận rộn đối phó với Xiêm La (Thái Lan).


CHIÊM THÀNH VÀ VIỆT NAM

Suốt thời gian dài Chiêm Thành thường hay quấy nhiều miền Nam nước Việt.  Năm 192, tướng Khi Liên của Chiêm Thành từng kéo quân đánh phá vùng Tường Lam phía Nam quận Nhật Nam.  Nhưng nước Việt suốt mấy thế kỷ vẫn phải chịu đựng vì mãi lo chống đỡ những cuộc xâm lăng của kẻ thù phương bắc (Tàu Hán).  Năm 982, sau khi chiến thắng quân xâm lược Tống, Lê Hoàn tìm cách lập lại quan hệ bang giao hòa bình và phái sứ gỉa sang giao hiếu với quốc vương Chiêm Thành.  Nhưng quốc vương Chiêm Thành vẫn giữ thái độ thù nghịch với triều Lê, bắt giam sứ gỉa của Lê Hòan.  Do đó, Lê Hoàn phải kéo quân tiến đánh thủ đô Indrapura (Đông Dương, thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay), đánh bại lực lượng quân sự của Chiêm Thành.  Sau khi hoàn thành thắng lợi đó, Lê Hoàn rút quân về nước.

Năm 1069, Chiêm Thành lại liên kết với nhà Tống để đánh nước Nam, một đạo quân do Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt chỉ huy tiến đánh kinh thành Phật Thệ tức Vijaya ở Bình Định.  Bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ định đem về Thăng Long để trừng phạt thì Chế Củ liền dâng tặng 3 châu: Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh để cứu chuộc tự do cho bản thân.  Vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành chỉ có mục đích cần ổn định vùng lãnh thổ phía Nam của Đại Việt để rảnh tay kháng chiến chống quân xâm lăng nhà Tống ở phương Bắc, chớ không có ý định chiếm đất của Chiêm Thành.  Chính việc Chế Củ dâng đất để chuộc tự do bản thân đã tạo tiền lệ cho các nhà lãnh đạo Đại Việt về sau có nhiều đòi hỏi hơn.

Đến thời Chế Mân, vua Chiêm Thành vì muốn cưới cho bằng được công chúa Huyền Trân, đã hoàn toàn tự nguyện tặng hai châu Ô, Lý.  Vua Chế Mân từng cưới công chúa Tapani của Jawa, nay lại cưới thêm công chúa Huyền Trân vì muốn tính bảo đảm an ninh cho triều đại ông ta.

Nhưng suốt thời gian dài, Chiêm Thành vẫn luôn luôn là mối đe dọa thường xuyên cho dân nước Việt, nhất là dưới thời Chế Bồng Nga, người đã bao lần đem quân uy hiếp ngay cả kinh đô Thăng Long.  Suốt 30 năm lãnh đạo Chiêm Thành của Chế Bồng Nga, lãnh thổ Việt đã phải chiẹu bao nhiều cảnh cướp phá hủy diệt !  Cho nên sau này khi bị nước Việt trả đũa, Chiêm Thành bị mất đất đến vùng Amaravati.   Từ năm 1660, lợi dụng tình thế chưa ổn định của Nguyễn Hoàng mới vào  miền Nam, Chiêm Thành gia tăng quấy phá, buộc lòng Nguyễn Hoàng phái quân chống cự vượt đèo Cù Mông tiến chiếm Phú Yên, lập Phú Yên thành Trấn Biên.  Để tạo sự hòa hiếu với Chiêm Thành, chúa Nguyễn Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên đành gả con gái Nguyễn Phúc Ngọc Khoa cho vua Porome vào năm 1631.

Năm 1653, vua Chiêm là Bà Thấm đem quân đánh Phú Yên.  Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần đưa quân vượt đèo Cả sang đánh.  Bà Thấm thua, dâng đất vùng Kauthara để xin hàng.  Hiền Vương nhận rồi lập thành phủ Diên Khánh (trong đó có Nha Trang ngày nay).   Năm 1692, vua Chiêm Thành Bà Tranh đem quân tấn công phủ Diên Khánh, chúa Nguyễn Phúc Chu sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh đến kháng cự.  Qua năm sau, Cảnh bắt được Bà Tranh và giải về Phú Xuân.  Chúa Nguyễn Phúc Tần lấy đất Chiêm Thành còn lại lập ra Phủ Thuận, nhưng vẫn bổ nhiệm người Chiêm như Kê Bà Tử, Ta Trà Viên cai trị Phủ Thuận.  Như thế đến thời này nước Chiêm Thành không còn nữa, tuy người Chiêm vẫn còn một vùng đất tự trị ở Bình Thuận.  Đến thời vua Minh Mạng, hoàng thân Chiêm Po Phank To cai trị vùng tự trị này lại theo về phe với tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt, nên bãi bỏ tổ chức hành chánh riêng của người Chiêm.

Đến đây có thể hiểu vì đâu mà nước Chiêm Thành bị suy thoái.

1)    Giới lãnh đạo Chiêm Thành thường đem quân đi cướp bóc quấy rối khắp nơi từ Việt Nam, Mã Lai, Chân Lạp, xem chiến tranh cướp bóc như một loại hình sinh hoạt kinh tế.  Đánh phá nước người ta thì sao khỏi bị chinh phạt trở lại.  Những cuộc chiến tranh như thế làm cho nước Chiêm Thành kiệt quệ.  Tài sản quốc gia tập trung vào việc mua sắm vu khí, nuôi quân khiến nền kinh tế quốc gia lụn bại, dân chúng càng nghèo khó.  Những cuộc chinh phạt trả đũa của các nước như Việt Nam, Jawa, Chân Lạp càng tàn phá Chiêm Thành nặng nề.  Chiêm thành từng hai lần bị Chân Lạp đô hộ.

2)    Trên mặt biển, người Chiêm Thành tổ chức những đoàn hải tặc khiến một thời hải tặc Chiêm Thành là mối hãi hùng cho những thương thuyền qua lại ở biển Đông.  Nhưng khi các nước phương Tây như Bồ, Hoà Lan, Anh đưa các thương thuyền lớn trang bị khí giới tối tân đã làm mất quyền lợi của những nước sống bằng nghề cướp biển với những tàu nhỏ trang bị khí giới thô sơ như Chiêm Thành.  Chiêm Thành mất đi một nguồn lợi tức lớn.

3)    Nền kinh tế của Chiêm Thành dựa trên căn bản ngoại thương.  Chiêm Thành có một đội hải thuyền đông đúc để buôn bán với các nước Mã Lai, các nước ở quần đảo Indonesia.  Nhưng từ cuối thế kỷ 16, tiếp theo sự sụp đổ của các nước Hồi Giáo khối Indonesia và sự xuất hiện của các thương thuyền Tây phương, nhất là của Hòa Lan và Bồ Đào Nha thì việc giao thương bằng đường biển của người Chiêm Thành lâm cảnh bế tắc.

4)    Khi hai nguồn lợi tức chính là cướp bóc và giao thương bị bế tắc thì chỉ còn hy vọng vào nông nghiệp.  Nhưng từ xưa tới nay, Chiêm Thành không mấy chú ý đến ngành nông.  Đất đai bỏ hoang không cày cấy.  Trước đây vì thường đi gây hấn khắp nơi nên Chiêm Thành thường bị các nước, nhất là Chân Lạp, Jawa, đem quân đến đánh trả đũa, thì cảnh cướp bóc tàn phá lại xảy ra ngay trên lãnh thổ Chiêm Thành.  Các thánh địa Chiêm Thành bị tàn phá hủy hoại và cứ mỗi lần sau chiến tranh như thế, triều đình Chiêm Thành lại chỉ lo bắt dân tái dựng thánh địa thì còn đâu người để lo gầy dựng nông nghiệp, nên người Chiêm Thành chỉ còn cứu cánh sau cùng là cướp phá phần đất biên cương phía Nam của đất Việt, để rồi cứ như thế tạo thêm những cuộc chinh phạt của người Việt.  Tại những vùng đất mà Chiêm  Thành đã dâng để cầu hòa, chúa Nguyễn đưa dân mình tới khai thác, mở mang cày cấy, sống hòa lẫn với dân Chiêm Thành nên họ ở lại rất đông vì ở đấy đời sống thiết thực được chăm lo, tổ chức xã thôn được xây dựng vững mạnh.  Sở dĩ được như thế vì các chúa Nguyễn cần xây dựng một hậu cứ vững chắc để chống các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.  Các chúa Nguyễn không muốn trong khi họ phải lo chống cự với chúa Trịnh mà người Chiêm liên tục tạo tình thế bất ổn thường xuyên ở biên giới phía Nam.

Như vậy đủ thấy rõ nguyên nhân suy thoái của Chiêm Thành tiềm ẩn trong tổ chức xã hội do tộc họ lãnh đạo Chiêm Thành và chính nhờ những suy thoái đó mà cuộc Nam tiến của người Việt phần nào dễ dàng hơn.

Về trường hợp nước Thủy Chân Lạp cũng vậy.  năm 1658, chính vua Nặc Ông Trấn đã dâng vùng đất hoang vu Bà Rịa, Biên Hòa..vv..  để nhờ chúa Nguyễn Phúc Chu làm hậu thuẫn để chống với quân phản loạn trong nước và sự xâm lăng của Xiêm La (Thái Lan) trước đó đã nhiều lần đánh phá Chân Lạp.  Xã hội Chân Lạp cũng giống như xã hội Chiêm  Thành với một giai cấp lãnh đạo hiếu chiến chỉ biết giao thương và gây hấn, cướp bóc gây lợi nhuận riêng tư của tộc họ cầm quyền, lơ là với sinh hoạt của quần chúng.  Do đó, khi giai cấp lãnh đạo suy thoái kéo theo sự suy thoái của nước Chân Lạp cũng như sự suy thoái của tộc họ lãnh đạo Chiêm thành kéo theo sự suy tàn của nước Chiêm Thành, chớ không phải nguyên nhân nào từ bên ngoài !!  Bởi chán nản hết hy vọng vào lớp lãnh đạo như thế mà ngày xưa ở những vùng đất dâng cho Việt nam để bù thiệt hại, dân Chàm phần đông ở lại rất nhiều.  Bằng cớ là ngày nay người Chiêm Thành vẫn sinh sống ở miền Trung.  Các sắc tộc Chiêm như Churu, Ragla hoặc Banhar vẫn tồn tạo ở vùng Cao Nguyên nam Trung phần.  Tôn giáo, tập tục, văn hóa, thánh địa của người Chiêm vẫn được người Việt tôn trọng.  Chẳng những thế, văn hóa và văn minh Chiêm hội nhập nhiều vào văn hóa văn minh người Việt về nhiều mặt như ngôn ngữ, âm nhạc, ca nhạc, những điệu múa cung đình hoặc trang phục.  Mảnh đất miền Trung ngày nay như là quê hương chung của hai dân tộc Chiêm -Việt đã hội nhập cùng nhau và không còn xa lạ với nhau nữa, vì sau thời gian dài bình đẳng sống chung với nhau, hiểu biết nhau hơn, họ đã xem nhau như ĐỒNG BÀO !

Người Chiêm Thành đã hiểu sự suy thoái của quê hương họ là do những mầm mống nội bộ, chớ không phải do người Việt Nam gây ra !  Họ đã hiểu nếu không có sự hiện diện của người Việt Nam, Chiêm Thành tất phải rơi như Mã Lai, Chân Lạp, Phi Luật Tân, Nam Dương vào tầm tay các nước thực dân Pháp bị đuổi khỏi Việt Nam.   Chúng đã cho tay sai kêu gọi người Chàm ở miền Trung và người Thượng ở Cao Nguyên thuộc Hoàng Triều Cương Thổ nổi loạn để gây khó khăn cho chính phủ Việt Nam, đồng bào Chiêm vẫn thờ ơ vì họ hiểu từ ngày hội nhập vào xã hội Việt, được đối đãi bình đẳng như đồng bào, họ có nhiều cơ hội thăng tiến hơn thời họ phải sống dưới chế độ qúy tộc và tăng lữ Chiêm.

Rất đáng tiếc là ngày nay có ít người Việt lại tự hào qúa đáng khi họ nói: “Bắc cự Trung Hoa, Nam cự Chiêm Thành”, hoặc có nhiều người Việt kém hiểu biết, nói: “thực dân Việt siêu hơn thực dân Pháp và thực dân Tàu”.  Họ không hiểu thực dân là dân các cường quốc đi xâm chiếm các nhược tiểu để vơ vét tài nguyên các nước này, như thực dân Anh, Pháp từng chiếm cả lục địa Phi Châu, hoặc cùng với thực dân Hòa Lan đã chiếm cứ Ấn Độ và Đông Nam Á.  Người Việt Nam đã tiến về Nam là do các vua Chàm Chế Mân và Chế Củ đã tạo ra tiền lệ dâng đất để lấy vợ hoặc để chuộc tự do cho bản thân !  Những cuộc chinh phục của người Việt chỉ để trả đũa những cuộc gây hấn của chính quyền Chiêm  Thành, chỉ nới rộng một chút lãnh thổ gọi là bồi thường thì làm sao lại có thể nói là siêu hơn thực dân Pháp từng chiếm cứ cả lục địa Phi Châu, một phần Đông Nam Á và các hải đảo Thái Bình Dương, hoặc Tàu từ một nước Hoa Hạ nhỏ bé đã bành trướng xâm chiếm hàng trăm tiểu quốc lân bang để thành một cuờng quốc rộng lớn như ngày nay và đang còn muốn xâm chiếm cả nước Việt Nam của chúng ta nữa !

Những lời lẽ kém hiểu biết như thế không nên có, vì chỉ gây sự phẫn nộ của người Chiêm và gây thêm mối chia rẽ giữa hai dân tộc, vô tình tiếp tay cho ước vọng của thực dân Pháp khi chúng bị đuổi khỏi Việt Nam.


Phan Hưng Nhơn




Thuý Kiều, Từ Hải sống chết ra sao thời cướp biển đánh nhà Minh?

Nguyễn Giang

Truyện Kiều của đại thi hào Việt Nam Nguyễn Du dựng cảnh cho sự xuất hiện của Vương Thuý Kiều bằng các câu:
"Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh
Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng
Có nhà viên ngoại họ Vương
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung..."
Nguyễn Du đặt ra các câu thơ êm ả để mở đầu cuộc đời đầy sóng gió của nàng Kiều thời Hoàng đế Gia Tĩnh, Minh Thế Tông, trị vì từ 1521 tới năm 1567.
Trên thực tế, đây là triều đại rất nhiều bất ổn.
Phía Bắc, nhà Minh bị quân du mục của Altan Khan liên tục tấn công - Yên Kinh bị vây hãm nhiều lần.
Bờ biển Đông Nam là địa bàn bị cướp biển tập kích kéo dài, bắt đầu từ đời vua trước, qua thời Gia Tĩnh sang thế kỷ 17.
Nàng Kiều của đời thật chưa bao giờ tới Việt Nam nhưng có thể đã từng trú ngụ ở Nhật Bản cùng đội thuyền hải tặc thời Gia Tĩnh, 'Jia Jing Da Wo Kou (嘉靖大倭寇).
Có những vấn đề và chi tiết không thấy xuất hiện trong Truyện Kiều nhưng khiến người quan tâm lịch sử châu Á thấy thú vị.
Đó là vai trò của người Bồ Đào Nha, Nhật Bản trong cuộc chơi chứa chấp, hỗ trợ cướp biển Trung Quốc.
Không phải ai khác mà chính tộc Satsuma Han nổi tiếng sau này giúp Minh Trị Thiên Hoàng làm cuộc Duy Tân, từng bao che cho Từ Hải.
Bạn đọc Việt Nam, qua Truyện Kiều, có thể cảm nhận Hồ Tôn Hiến, là kẻ phản diện, "Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình".
Nhưng trong chính sử ông cùng Thích Kế Quang, Du Đại Du là các vị tướng chống cướp biển thành công.

Nghề tơ lụa, các nhân vật chính và căn cứ ở Nhật

Về phía phản diện thực sự chúng ta thấy một loại nhân vật sừng sỏ có liên quan đến Vương Thúy Kiều.
Hải phỉ Trung HoaBản quyền hình ảnhPRINT COLLECTOR
Image captionHải phỉ Trung Hoa tấn công tàu Phương Tây - tranh lịch sử
Đó là Uông Trực và con nuôi là Mao Liệt, là Trần Đông, Từ Hải, Vương Ao và Shimazu Yoshihisa, xuất hiện vào thời đỉnh cao của hải khấu.
Theo tài liệu của James Kai-sing Kung và Chicheng Ma đăng lại, dựa trên Minh Thực lục thì đây là thời giao thương trên biển nhộn nhịp.
Thương thuyền châu Âu vào mua lụa mà không mua được vì nhà Minh "trọng nông khinh thương", bế quan tỏa cảng từ 1550.
Để đáp ứng nhu cầu hàng hóa này, băng đảng hải khấu đổ bộ vào đất liền cướp lụa đem ra biển bán.
Người Bồ Đào Nha cũng đem tới Đông Á súng cò giật (matchlock), nòng thép, gây sát thương cao trong hải chiến.
Cùng thần công (cannon) kiểu Âu, súng mới ưu việt hơn cung tên trong hải chiến vì cung nỏ bị gió biển, độ lắc của tàu tác động.
Nhưng súng và thuốc nổ cũng làm các cuộc tàn sát, cướp bóc dữ dội hơn trước rất nhiều.
Trong Truyện Kiều có câu 'Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ' như thể nghề buôn tơ lụa có gì đó đểu cáng.
Thực tế cuộc sống có vẻ xác nhận điều này.
Hải tặc không chỉ vào bờ cướp hàng mà còn bắt cóc phụ nữ Trung Hoa đem ra đảo để trồng dâu, dệt lụa, đáp ứng nhu cầu hàng hóa thuyền châu Âu mua nhiều.
Chuyện Kiều phải bán thân có vẻ giống cảnh nhiều phụ nữ thời đó ở Phúc Kiến và Quảng Đông.
Phim 'Đãng khấu phong vân' (God of War -2017) về trận Sầm Cảng dựng lại cảnh các cô gái bị hải tặc nhốt làm nô lệ tình dục và nhân công rẻ mạt.
Nàng Kiều có nằm trong số này hay không?
Chúng ta không rõ, chỉ biết khi Kiều được Từ Hải lấy làm vợ thì cũng đã trải qua ba chìm bảy nổi rồi.
Quan hệ căng thẳng với Nhật Bản là nét quan trọng của lịch sử Minh thời đó, khiến thái độ ghét Nhật còn lưu cữu đến nay.
Các hải đội của cướp biển Trung Hoa thường lấy đảo ngoài khơi làm căn cứ, nằm ngoài tầm kiểm soát của quan quân nhà Minh.
Khi bị truy đuổi, cướp biển Minh sang lánh nạn ở các đảo của Nhật và được lãnh chúa địa phương trợ giúp, cùng chia chiến lợi phẩm.
Uông Trực (Wang Zhi) chẳng hạn đã đến đảo Gotō với lời mời của Matsura Takanobu.
Từ nơi đó, xưng là Hồi Vương, Uông không chỉ thách thức nhà Minh bằng quân sự mà còn đòi thay đổi chính sách ngoại giao.
Theo James Kai-sing Kung và Chicheng Ma trích lời để lại của Uông Trực, thì đầu lãnh cướp biển này gửi tối hậu thư cho nhà Minh đòi bỏ chính sách bế quan tỏa cảng thì sẽ chẳng còn bị đánh nữa.
Đó cũng là yêu sách của các sứ quân Nhật, đòi Trung Quốc cho họ vào buôn bán.
Nói đến cướp biển Hoa - Nhật, ta phải hiểu đây là những lực lượng hàng vạn quân, có tiền, vũ khí hiện đại, và hỗ trợ quốc tế.
Trung HoaBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionPhụ nữ chơi đàn thời Minh - tranh từ sách về Trung Hoa của Alexander Buchner
Uông Trực từng làm thuê cho người Bồ Đào Nha, người Nhật, từng sang cả Xiêm La buôn thuốc súng.
Còn đoàn thuyền của tướng cướp Từ Hải có tới 10 nghìn lính và hàng trăm tàu, khiến câu "Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?" trong Truyện Kiều nói về phạm vi hoạt động của Từ Hải là tin được.
Từ Hải (Xu Hai), theo các tài liệu của Trung Quốc thì không rõ năm sinh, nhưng năm chết được xác định là 1556.
Vốn từng đi tu, Từ Hải sau theo chú ruột là Từ Duy Học gia nhập băng đảng của Uông Trực.
Tách ra một nhóm riêng nhưng thất bại và Từ Hải bị chú bán cho một nhóm cướp biển Nhật.
Nhật Bản cũng là nơi Trần Đông, nhân vật nổi trội thứ ba trong thời kỳ giặc biển (wokou pirates) từ Trung Quốc đến trú ngụ.
Trần Đông về đầu quân cho lãnh chúa đảo Satsuma, thuộc gia tộc Shimazu nổi tiếng và liên kết với Từ Hải.
Từ các hòn đảo của Nhật Bản, Từ và Trần tung chiến thuyền liên tục tập kích bờ biển Phúc Kiến và Quảng Đông.
Trong một chiến dịch như vậy, Từ Hải nghe Thuý Kiều để rồi mắc mưu Tổng đốc Hồ Tôn Hiến, phản bội Trần Đông, dẫn đến cái chết của cả ba năm 1556.
Căn cứ vào chính sử và lời kể ở Trung Quốc thì sự kết thúc của Thúy Kiều, Từ Hải và Trần Đông xảy đến như người hùng thực thụ của nhà Minh, ông Hồ Tôn Hiến vào cuộc.

Mưu mô của vị 'kinh luân toàn tài'

Năm 1554, Minh Thế Tông phong cho Hồ Tôn Hiến chức Chiết Giang tuần án ngự sử - bản tiếng Anh gọi là 'The Grand coordinator of Zhejiang', có quyền cả về quân sự, dân chính và ngoại giao.
Việc đầu tiên ông làm là triệt phá hậu phương của Uông Trực, Từ Hải bằng cách gửi hai sứ thần sang Nhật Bản đàm phán trực tiếp để Uông Trực về thần phục.
Uông Trực đồng ý nhưng vẫn ở lại Nhật và chỉ cho con nuôi Vương Ao về Trung Quốc làm con tin.
Vương Ao viết thư cho Từ Hải, khuyên bảo nên đi "cải tà quy chính".
Cùng sự thuyết phục ngọt ngào của Vương Thuý Kiều muốn chồng về với triều đình, thư của Vương Ao đã khiến Từ Hải lung lay.
Tuy thế, Từ Hải vẫn gây chiến tiếp vào năm 1556, giết chết tướng Tông Lễ ở Chiết Giang.
Quân Từ Hải vây hãm Đồng Hương và nếu chiếm được thì có lẽ đội cướp biển đã đặt được căn cứ đầu tiên trên bờ.
Nhưng Hồ Tôn Hiến đã dùng tiền hối lộ rất nhiều để dụ Từ Hải rút đi. Các nhóm của Trần Đông và Diệp Ma cũng rút theo.
Vẫn theo kế mua chuộc rồi đánh úp, Hồ Tôn Hiến cử bạn cùng quê Từ là La Long Vân đem quà và thư tới trại của Từ Hải ngoài đảo cửa sông Châu Giang.
Vương Thuý Kiều đã nhận tiền bạc để khuyên chồng về hàng, nhận bổng lộc, tước vị, theo nhãn quan Nho giáo 'hoàn lương' cổ hủ.
Từ Hải còn chần chừ thì Hồ Tôn Hiến đã dùng mưu khích Trần Đông tấn công Từ Hải, nói rằng Từ đã phản bội.

Trong trận đánh ở sông Châu Giang, lúc hai bên Từ, Trần hỗn chiến, quân nhà Minh tấn công vào, dùng súng bắn phá dữ dội.
Từ Hải nhảy xuống nước mà chết.
Có tài liệu nói Vương Thuý Kiều trẫm mình vì có lỗi với Từ Hải.
Nguồn khác nói Kiều chết đuối trong lúc chạy trốn.
Trần Đông tử trận cùng lúc.
Vương Trực dù đầu hàng nhưng đến năm 1559 thì sự bảo hộ của Hồ Tôn Hiến không còn hiệu lực và bị triều đình xử tử.
Tên tuổi ông nay được tôn thờ ở Nhật Bản chứ không phải Trung Quốc, với tượng đồng còn đứng ở bảo tàng Matsura.
Hồ Tôn Hiến, chiến lược gia chống giặc biển để lại bộ "Trù hải đồ biên", sau lên tới Thượng thự bộ binh nhưng bị dèm pha và bỏ ngục.
Ông tự sát trong tù năm 54 tuổi.
"Sự nghiệp" của các đầu lĩnh cướp biển tuy thế còn kéo đến hết thời kỳ hoạt động của Mao Liệt, con nuôi Uông Trực.
Căm phẫn vì các băng đảng Uông, Từ, Trần đều bị Hồ Tôn Hiến lừa và tiêu diệt, Mao Liệt đem tàn quân đánh chiếm Sầm Cảng và đóng ở đó tới năm 1559 thì bị Du Đại Du xóa sổ.

Cướp biển thế hệ sau

Trịnh Nhất TẩuBản quyền hình ảnhCULTURE CLUB
Image captionTranh Phương Tây vẽ nữ hoàng cướp biển - the pirate queen - Trịnh Nhất Tẩu, người lãnh đạo đội hải phỉ của Hồng Kỳ Bang ở bờ biển Trung Quốc sau khi chồng bà, tướng người Hoa, Trịnh Nhất của nhà Tây Sơn bị quân Nguyễn Ánh giết chết ở Việt Nam
Cũng phải nhắc rằng một số nhóm cướp biển "hậu bối" của Uông, Từ, Trần đã tiếp tục cầm cự rồi dần dần bỏ chạy sang Đông Nam Á.
Ngô Bình chạy sang Đại Việt và mất tích ở đó, tàn quân bị liên minh Minh - Việt diệt nốt.
Lâm Đạo Khiêm đem đoàn thuyền hàng nghìn quân và vũ khí tới Côn Đảo trú ngụ trước khi sang Pattani.
Lâm Phong tấn công Manila, bị hạm đội Tây Ban Nha đánh bật ra, lộn trở về bờ biển Trung Hoa làm cướp biển rồi sang Cao Miên.
Trong cả câu chuyện này, chỉ có còn con cháu của Shimazu Yoshihisa thuộc gia tộc Satsuma là sống khoẻ nhất.
Kiếm lợi lớn từ thương mại và cướp bóc, đến 1609 Satsuma mạnh tới mức đánh Okinawa (Ryukyu) và cưỡng bức lãnh chúa ở đó triều cống.
Trong hai thế kỷ tiếp, tộc Satsuma hùng cứ một phương và khai thác thương mại quốc tế khi Mạc Phủ (shogunate) bế quan tỏa cảng.
Năm 1866-67, họ cùng nhà Choshu (Trương Xuyên) lập liên minh (Satchō Alliance) ủng hộ tân Thiên Hoàng trẻ tuổi, phá bỏ chế độ tướng quân Tokugawa, mở đường cho thời Minh Trị duy tân, đưa Nhật lên con đường hiện đại hóa thành công.

Truyện Kiều - văn và thơ nhiều hơn sử

Như một số nhận định, Nguyễn Du đã tạo lên kiệt tác truyện thơ trong tiếng Việt từ Kim Vân Kiều Truyện, một tiểu thuyết hạng hai (second-rate Chinese prose novel), vốn được xây dựng khá mờ ảo dựa trên một sự kiện lịch sử là trận đánh diệt cướp biển thời Gia Tĩnh.
MinhBản quyền hình ảnhSEPIA TIMES
Image captionTranh lụa thời Minh
Tuy thế, tác giả khác, Charles Benoit đã tinh ý nhìn thấy trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có ba nhân vật nổi bật: Thuý Kiều, Từ Hải và Hồ Tôn Hiến.
Đây cũng là ba nhân vật lịch sử có thật chứ không phải một anh chàng Kim Trọng 'tốt ảo' hay nàng Thuý Vân chỉ làm cái bóng hiền lành cho cuộc đời chìm nổi của chị.
Lấy thời khắc cuối cùng của đời chiến trận - tình ái của Từ Hải, người mà Nguyễn Du ngầm khen là anh hùng, làm điểm soi chiếu thì chúng ta sẽ thấy hiện ra nhiều mảng dữ dội của lịch sử châu Á giai đoạn bản lề, va đập Đông Tây mà Kiều của đời thật đã sống qua.
Việt Nam chỉ biết đến Thuý Kiều, nhưng trong lịch sử Trung Hoa thì còn có các nhân vật nữ tướng cướp khác.
Vào cuối thế kỷ 18, đầu 19 có Trịnh Thị (Zheng Shi, hay Cheng I Sao - Trịnh Nhất Tẩu), người đi vào văn học Phương Tây.
Từ 'gái điếm trở thành nữ hoàng cướp biển' (from prostitute to pirate queen), Trịnh Thị chính là phu nhân của Trịnh Nhất, tướng người Hoa của nhà Tây Sơn.
Có nguồn nói Trịnh Nhất chết ở Việt Nam vì thua quân của Gia Long trong trận chót nhằm báo thù cho vua Quang Toản.
Vợ ông lên nắm Hồng Kỳ Bang (từng có 70 nghìn quân và 400 thuyền), trở về Quảng Đông tiếp tục nghề hải tặc.
Đến 1810 thì bà hoàn lương, đầu hàng vua Gia Khánh của nhà Thanh với kết cục giống ước mơ 'về với triều đình' của 'Thuý Kiều văn học'.
Trịnh Nhất Tẩu đã vào văn châu Âu qua ngòi bút của Jorge Louis Borges, Dian Murray và sau vào phim 'The Pirates of the Caribbean: At World's End' (2007), ở vai Mistress Ching của Takayo Fischer, diễn viên Mỹ gốc Nhật.
Điện ảnh Việt Nam cho tới nay vẫn chưa dựng lại được Truyện Kiều ở tầm xứng với thiên tài của Nguyễn Du và bối cảnh lịch sử dữ dội một thời.
Nguyễn Giang
bbcvietnamese.com


Source: https://www.bbc.com/vietnamese/culture-social-50437651