Thứ Năm, 29 tháng 7, 2021

Nụ hoa vàng ngày xuân – Kim Tuấn

 TẢN MẠN NHẠC VÀ THƠ…

Hoàng Kim Oanh

 

Anh cho em mùa xuân

nụ hoa vàng mới nở,

chiều đông nào nhung nhớ…

(Kim Tuấn)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhà thơ Kim Tuấn

 

 

 

 

 

Có lần, tôi giới thiệu bài thơ Trong nỗi nhớ thầm của Kim Tuấn được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc thành ca khúc nghẹn ngào xúc động tâm tình người phương xa Ta ở trời Tây nhớ trời Đông trên trang facebook cá nhân của mình:

 

Ta ở trời Tây nhớ trời Đông

Nhớ nhau trăm nỗi xót xa lòng
Nhớ ta bỗng có men đời đắng
Có chút buồn trong nỗi nhớ mong…


Chỉ sau vài phút, tôi đã nhận được comment của một giảng viên văn học ở Hà Nội (HN) hỏi ngay: Kim Tuấn là ai? Em có thể cho tôi biết về sáng tác của ông không? Rồi một nhà văn…, một nhà thơ HN khác… cũng đặt câu hỏi tương tự về cái tên Kim Tuấn. Những vị này thuộc thế hệ 5X, sinh ra và sống ở Hà Nội, cũng từng ngao du đất nước và văn chương Đông Tây không ít lần…nhưng do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của đất nước mình, tôi có cảm giác văn học miền Nam dường như vẫn chưa qua khỏi đèo Hải Vân…Gần đây, một sinh viên ngành Ngữ văn tại Sài Gòn cũng ngạc nhiên khi tôi nhắc về Kim Tuấn…” Cái tên…nghe lạ quá, là nhà văn hay nhà thơ hả cô?” Nhưng khi tôi bảo đó là tác giả bài thơ phổ nhạc Anh cho em mùa Xuân thì hầu như mọi người đều bật lên tiếng “À” đầy thú vị như vừa gặp lại người quen... “Ôi, bài này mình biết lâu rồi…”, “Bài hát yêu thích của em đấy”…

 

Đúng vậy, cứ độ Xuân về, khắp phố phường, thôn xóm…điệu Tango vui tươi rộn ràng, ca từ dịu dàng ấm áp lòng người của Anh cho em mùa xuân, qua nhạc sĩ Nguyễn Hiền đã hóa thân những “Nụ hoa vàng ngày xuân” của Kim Tuấn thành ca khúc không thể thiếu trong bất kì cuộc vui đón xuân nào…

 

Anh cho em mùa xuân,

 nụ hoa vàng mới nở,

chiều đông nào nhung nhớ
Đường lao xao lá đầy,

chân bước mòn vỉa phố,

mắt buồn vịn ngọn cây
Anh cho em mùa xuân,

mùa xuân này tất cả,

lộc non vừa trẩy lá
Lời thơ thương cõi đời,

bầy chim lùa vạt nắng
trong khói chiều chơi vơi

 

 

Thế nhưng, người khai sinh ra những ca từ rộn ràng yêu thương ấy, nhà thơ Kim Tuấn là ai lại ít người biết đến. Một phần do sự thiếu sót của người đưa các bản nhạc thường chỉ chú trọng tên bài hát, nhạc sĩ và ca sĩ. Không riêng gì trường hợp Kim Tuấn. Dù chuyện quy ước về nguồn gốc một tác phẩm văn, thơ, hay nhạc đều đòi hỏi phải cụ thể, chính xác và tường minh. Chỉ ai cẩn trọng lắm mới chú ý đầy đủ những chi tiết ấy. Những năm tháng trước 1975, tôi đã từng nghe Những bước chân âm thầmAnh cho em mùa xuân đến thuộc lòng. Rồi Khi tôi về với hình ảnh “dây thép gai hết rào quanh đồn phòng ngự và người lính đã trở về cày đám ruộng xanh”, với tuổi thơ thật đẹp “con diều bay đùa trong gió…có đứa trẻ để bụng lòi chấm rốn đen cười nụ thanh bình”…Tôi đã mơ theo những khuôn nhạc và giấc mơ thanh bình tuyệt vời của Phạm Duy mà không biết đó là khát khao hòa bình cháy bỏng trong bài thơ Những điều ghi được trong giấc ngủ của Kim Tuấn viết từ 1974…

Kim Tuấn tên thật là Nguyễn Phước Vĩnh Khuê, sinh năm 1938 tại Huế (có nhiều tài liệu ghi là 1940) nhưng thật quê gốc lại ở Hà Tĩnh. Ông là hậu duệ 5 đời của hoàng tử thứ 10 Tùng Thiện Vương Miên Thẩm - một một ông hoàng có nhiều uy tín bởi đạo đức cao, tri thức rộng đồng thời là một thi sĩ nổi tiếng, từng được vua Tự Đức khen tặng “Văn như Siêu Quát vô tiền Hán, Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường". Kim Tuấn là con trai duy nhất của gia đình. Thuở nhỏ ông sống ở Phan Thiết, lớn lên vào Sài Gòn học. Làm thơ từ năm 13 tuổi và có thơ đăng trên các tạp chí đầu những năm 1960. Tập thơ đầu tiên xuất bản là tập Ngàn Thương (chung với Định Giang). Ông từng có một thời gian nhập ngũ và làm thông dịch viên tiếng Anh cho Quân Đoàn II tại Pleiku. Thời gian này ông còn là phóng viên chiến trường với ký danh Vĩnh Khuê. Năm 1977, ông về Thành phố Hồ Chí Minh làm hiệu trưởng Trường Anh văn và dạy nghề Thăng Long ở quận 4 - một ngôi trường do người Anh tài trợ dành cho trẻ em lang thang và dạy học ở đó cho đến cuối đời. Ngày 11.9.2003, sau khi tham dự một buổi văn nghệ phát quà Trung thu cho trẻ em nghèo tại trường, ông về nhà ăn bánh, uống trà, ngắm trăng với vợ con rồi đột ngột bị nhồi máu cơ tim và mất trên đường đưa đến bệnh viện.

Trước 1975, ông có các tập thơ Hoa mười phương (1959), Ngàn thương (chung với Định Giang, 1969), Dấu bụi hồng (1971), Thơ Kim Tuấn 1962-1972 (1975). Sau 1975, mười lăm năm sau, Kim Tuấn trở lại với Thời của trái tim hồng (1990), Tuổi phượng hồng (1991), Tạ tình phương Nam (1994), Thơ Lí và thơ ngắn (2002).

Với ngôn từ, hình ảnh giàu chất thơ và nhạc điệu, nhiều bài thơ của Kim Tuấn đã trở thành ca khúc của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng Nguyễn Hiền, Y Vân, Phạm Duy, Phạm Đình Chương…

Theo Nguyễn Mạnh Trinh, trong “Kim Tuấn, thơ mùa xuân, thơ phố núi” có giải thích về bài thơ Nụ hoa vàng ngày xuân, qua lời thổ lộ của Kim Tuấn: "Tôi làm bài thơ này để nhớ về quê mẹ Hà Tĩnh - vùng đất sỏi đá nhiều hơn cơm gạo với mơ ước "Đất mẹ gầy có lúa" - có lúa chứ không phải cỏ lúa như nhiều người vẫn hát nhầm (cỏ lúa thì phải nhổ đi chứ ai lại mơ ước có thêm!). Bài thơ này tôi sáng tác vào đầu thập niên 1960, sau đó in trong tập Ngàn thương (chung với Định Giang) và được nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ thành ca khúc...". Mùa xuân, bao đời nay vốn là đề tài lớn của văn thi sĩ. “Thời điểm ấy, người và trời đất giao hòa. Năm cũ đi, năm mới đến, hứa hẹn bao nhiêu là thay đổi. Xuân sinh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàn, cái vòng sinh hóa ấy với tiến trình nhất định đã làm thành sự chuyển động của thiên nhiên. Mùa xuân hoa lá tốt tươi, thời tiết ấm áp. Tình yêu vì thế cũng làm tâm hồn mở rộng ra những khuôn trời lãng mạn, những mơ ước của hình thành mộng mơ…”

 

Ngày 28-9-2013 vừa qua, gia đình và bạn bè đã trọng thể tổ chức một chương trình thơ nhạc kỉ niệm mười năm nhà thơ tài hoa này đi xa. Rất cảm ơn anh Đoàn Đình Thạch người đồng nghiệp cùng bộ môn Văn, Trường Đại học Sài Gòn, người bạn đồng môn khác khóa Đại học Sư phạm TpHCM 33 năm xưa, đã dành cho tôi niềm vui và vinh dự này khi gửi cho tôi thư mời đến dự. Buổi họp mặt văn nghệ ấm cúng vốn chỉ dành cho gia đình và bằng hữu thâm giao của Kim Tuấn... Có lẽ, người mời muốn ngầm trả lời một thắc mắc từ lâu của tôi: Vì sao, nhiều năm nay, kể từ năm 2000 khi gặp lại anh ở cùng tổ bộ môn, cùng khoa, cùng trường, trong bất kì buổi sinh hoạt lớn nhỏ nào, mùa xuân hay mùa hè... hễ mời thầy Thạch, nhạc sĩ Đoàn Đình Thạch lên sân khấu góp vui văn nghệ, anh đều hát duy nhất một bài: Anh cho em mùa xuân của nhạc sĩ Nguyễn Hiền, phổ từ thơ Kim Tuấn. Một nhạc sĩ từng phổ rất nhiều thơ của nhiều người như nhạc sĩ Đoàn Đình Thạch (Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu, Nguyễn Thái Dương..., từng in tuyển tập ca khúc của mình...lẽ nào chỉ thuộc có mỗi một bài hát ấy?!


Giờ thì mới biết...anh hát những lời thơ, những tâm tình thủ thỉ của người bạn chí thân đã mất của anh, nhà thơ Kim Tuấn, hát như nỗi nhớ không nguôi của anh về người bạn ấy…


Và thật xúc động, nhạc sĩ  Đoàn Đình Thạch còn cố ý nhân buổi tưởng niệm này trao lại cho gia đình nhà thơ Kim Tuấn một kỉ vật quý báu: thủ bút một bài thơ của KT đã được anh lưu giữ suốt 30 năm dài: Bài thơ viết trong một chiều mưa. Trang giấy học trò đã vàng ố, tôi nâng trên tay...một góc cuối bị mất theo nếp gấp...Có cảm tưởng anh đã không biết bao nhiêu lần giở ra, gấp lại, gấp lại rồi mở ra đến hằn cả nếp và rách theo nếp ấy...để cảm nhận cho hết ý tình...bài thơ Kim Tuấn viết cho người yêu, người vợ thân yêu sau này của anh...để thấm cho hết tình của bạn, để nắn nót thành ca khúc MƯA ĐẦU MÙA...

 

Mưa đầu mùa mưa có mưa qua đêm
Mưa lác đác thì thầm trên mái ngói
Em có nghe mưa tưởng lời anh nói
Rất nồng nàn tha thiết tình yêu em
Như tiếng hát em xưa tiếng hát êm đềm
Như mưa đêm nay mưa âm thầm gợi nhớ
Như anh yêu em anh buồn vô cớ
Như em rất gần
Như em rất gần
Mà em rất xa...


Một tình yêu nồng nàn khắc khoải nhớ thương thật đẹp. Giây phút người nhạc sĩ kiêm ca sĩ kết thúc bài hát trong cảm xúc tràn đầy, chị Kim Tuấn đã rưng rưng tặng người bạn của chồng bó hoa cảm tạ tấm tình bè bạn của anh trong gương mặt nhòa nước mắt. Gian phòng như vẫn còn ngập tràn âm hưởng giọng hát khỏe khoắn nồng nàn đúng phong cách Đoàn Đình Thạch tôi từng biết lâu nay của anh. Nhà báo Nguyễn Sông Ba vừa chụp hình đủ góc độ, vừa thủ thỉ: “Ảnh hát hay quá! Giọng hát mang cả âm vọng mênh mông mà nồng ấm của cái đầm Thị Nại quê ảnh..."
Bài thơ Bài hát một chiều mưa này cũng đúng là bài thơ anh làm riêng tặng chị…Vậy mà, người nghe, cứ ngỡ như đâu đó những cung bậc của chính cuộc tình của mình, là tiếng lòng thì thầm của riêng mình...

 

Lắng nghe Đoàn Đình Thạch hát, nhiều người hát, ngâm thơ, thổi sáo...những thi phẩm của Kim Tuấn, lắng nghe những bạn bè của nhà thơ kể lại những kí ức về một Kim Tuấn tài hoa nghệ sĩ, đầy ân tình...chợt hiểu trên cuộc đời này, chết đi không phải là hết...Điều đáng nói là những ngày có mặt trên cõi vô thường này, ta đã sống với mình, với mọi người như thế nào... để vẫn sống mãi trong hoài niệm yêu thương không dứt như Kim Tuấn đã sống, đã yêu, đã nhả tơ lòng thành những di sản quý báu cho văn học nghệ thuật miền Nam...



Sài Gòn, tháng giêng 2014

Gửi tặng chị Kim Tuấn và hai cháu Bảo Khôi, Bảo Khánh

 

 

Hoàng Kim Oanh



Source: NỤ HOA VÀNG NGÀY XUÂN - KIM TUẤN (luanhoan.net)

 



Lê Uyên Phương

 




Lê Uyên Phương là nghệ danh chung của đôi vợ chồng nhạc sĩ Lê Minh Lập (sinh ngày 2 tháng 2 năm 1941 – mất ngày 29 tháng 6 năm 1999) và ca sĩ Lê Uyên Lâm Phúc Anh (sinh ngày 17 tháng 7 năm 1952). Lê Uyên Phương nổi tiếng bởi việc sáng tác và trình diễn những tình khúc ca ngợi tình yêu nồng nàn, lãng mạn tại Sài Gòn trước năm 1975.

Lê Minh Lập sinh ra và lớn lên tại Đà Lạt. Cha của ông vốn họ Phan, nhưng vì cuộc cách mạng của Phan Bội Châu nên phải đổi thành họ . Mẹ là Công Tôn Nữ Phương Nhi - con gái thứ chín của vua Thành Thái.[1] Do giấy tờ bị thất lạc trong thời chiến tranh nên ông phải làm lại giấy khai sinh hai lần, nhân viên làm giấy tờ nhầm thành Lê Minh Lộc rồi Lê Văn Lộc. Nghệ danh Lê Uyên Phương là ông lấy chữ Phương trong tên mẹ, cùng với chữ Uyên tên người bạn gái đầu tiên mà ghép thành.

Bài nhạc đầu tay “Buồn đến bao giờ” được ông sáng tác năm 1960 tại Pleiku.[2]

Lâm Phúc Anh lúc đó mới 15 tuổi, là con của một gia đình thương gia khá giả và nề nếp ở khu người Hoa ở Sài Gòn, được gia đình đưa lên Đà Lạt để học trường Tây nội trú. Nhà Lê Uyên Phương và Lâm Phúc Anh ở sát nhau - số 18 và 22 Võ Tánh, Thành phố Đà Lạt. Hai người quen rồi kết hôn vào năm 1968. Hầu hết các ca khúc của Phương từ đây về sau đều tặng vợ.

Mùa xuân năm 1970, nhà thơ Đỗ Quý Toàn từ Sài Gòn lên Đà Lạt họp với anh em hướng đạo sinh. Người thân của Lê Uyên Phương cho ông Toàn nghe một băng cassette mà Lê Uyên Phương thu tại nhà. Ông Toàn giật mình nói với người thân rằng làm sao thu xếp để ông Toàn gặp Lê Uyên Phương vào ngày hôm sau. Lần gặp ấy, ông Toàn nói với anh: “Bất cứ lúc nào anh xuống Sài Gòn thì gặp tôi”. Trong kỳ nghỉ Tết, Lê Uyên Phương cùng vợ xuống Sài Gòn và gặp lại Đỗ Quý Toàn. Đỗ Quý Toàn giới thiệu Lê Uyên Phương cho nhà báo Đỗ Ngọc Yến, một người hoạt động phong trào văn nghệ sinh viên. Ông Yến tổ chức cho Lê Uyên Phương buổi biểu diễn đầu tiên tại Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ. Lúc đó, có nhiều phóng viên hỏi Lê Uyên Phương là ai? Ông buột miệng chỉ vợ rồi nói: “Đây là Lê Uyên. Còn tôi là Phương”. Từ đó Lâm Phúc Anh gắn liền với nghệ danh Lê Uyên. Lúc hai người song ca được gọi Lê Uyên và Phương.[1]

Trong vòng 19 ngày, Lê Uyên Phương biểu diễn liên tục các show cho sinh viên Văn khoa, Luật khoa, Sư Phạm, Y Khoa, rồi tới Đài Truyền hình Việt Nam lẫn quán cà phê Con Nai Vàng của nhạc sĩ Cung Tiến. Nhờ vậy, Lê Uyên Phương có được hợp đồng biểu diễn tại 5 phòng trà Sài Gòn, mỗi đêm hát thù lao là 5000 đồng cho mỗi điểm biểu diễn 3 bài (lương giáo viên của anh hồi đó là 5, 6 ngàn/tháng) trong vòng bốn năm.[1]

Từ Đà Lạt vào Sài Gòn, Lê Uyên Phương đã đem đến một luồng gió mới cho tân nhạc Việt Nam với những ca khúc nồng nàn, khắc khoải và đôi khi bàng bạc, triết lý như “Bài ca hạnh ngộ”, “Dạ khúc cho tình nhân”, “Lời gọi chân mây”, “Vũng lầy của chúng ta”... được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt.

Mỗi ca khúc của Lê Uyên Phương đều mang cảm thức hạnh phúc lẫn chia lìa. Bởi theo Lê Uyên Phương, tình yêu của một chàng trai 27-28 tuổi mang trong mình căn bệnh quái ác không biết ra đi lúc nào, với cô gái phơi phới mới lớn như Lâm Phúc Anh, đối với ông là quá lớn.

Năm 1979, hai vợ chồng Lê Uyên Phương rời Việt Nam, đến định cư tại Miền Nam CaliforniaHoa Kỳ. Đây là nơi ra đời hai cô con gái Lê Uyên Uyên và Lê Uyên My.

Năm 1984, Lê Uyên bị trúng đạn lạc từ hai băng đảng thanh toán nhau nên phải ngừng biểu diễn trên các sân khấu ca nhạc hải ngoại. Khoảng thời gian sau tai nạn đó, cả hai lặng yên sắp xếp lại cuộc sống chứ không phải chia tay như nhiều lời đồn thổi. Mãi đến năm 1990, Lê Uyên mới trở lại sân khấu với tiết mục trong chương trình Paris By Night số 11.

Lê Uyên Phương mất vì bệnh ung thư phổi ngày 29 tháng 6 năm 1999 tại bệnh viện UCI (University of California, Irvine).


Ấn bản

Lê Uyên Phương trên bìa một tờ nhạc.
NămTựaNội dung
1960 - 1967Yêu Nhau Khi Còn ThơTập nhạc 10 bài / Album nhạc
1967 - 1969Khi Loài Thú Xa NhauTập nhạc 12 bài / Album nhạc
1970 - 1972Uyên Ương Trong LồngTập nhạc
1973Bầu Trời Vẫn Còn XanhTập nhạc
1983Biển, Kẻ Phán Xét Cuối CùngNhật ký, thơ, ca khúc
1985 - 1988Trái Tim Kẻ LạTập nhạc
1973 - 1975Con Người, Một Sinh Vật Nhân Tạo 1Chưa ấn hành
1973 - 1975Con Người, Một Sinh Vật Nhân Tạo 2Chưa ấn hành
1979 - 1983Trại Tỵ Nạn Và Các Thành phố LớnChưa ấn hành
1988Trái Tim Kẻ LạBăng nhạc
1977 - 1990Lục Diệp TốChưa ấn hành
1990Không Có Mây Trên Thành phố Los AngelesTruyện và tùy bút

Ca khúc

  • Bài ca hạnh ngộ
  • Bên đồi lau xanh (thơ Thái Tú Hạp)
  • Bên Hồ Than Thở
  • Bông hồng cho người ngã ngựa (thơ Nguyễn Hoàng Đoan)
  • Buồn đến bao giờ
  • Chiều phi trường
  • Cho lần cuối
  • Có được cuộc đời
  • Còn nắng trên đồi
  • Dạ khúc cho tình nhân
  • Đá xanh
  • Để lại cho em (thơ Hoàng Khởi Phong)
  • Đêm chợ phiên mùa đông
  • Đôi khi hạnh phúc buồn
  • Đưa người tuyệt vọng
  • Hãy ngồi xuống đây
  • Hết rồi những ngày vui
  • Khi xa Sài Gòn (thơ Kim Tuấn)
  • Không nhìn nhau lần cuối
  • Khúc hát nhân tình (thơ Phong Vũ)
  • Kỷ niệm trong chiều
  • Là giọt máu bầm trong trái tim tôi
  • Loài hươu đa cảm (thơ Dã Dương)
  • Lời gọi chân mây
  • Mắt biếc xanh và ngực tôi (thơ Huy Tưởng)
  • Một dạ hội buồn
  • Một ngày vui mùa đông
  • Nàng đã bỏ quên
  • Nàng đã đến với tôi
  • Ngồi lại trên đồi
  • Người đã cho người
  • Nỗi buồn dâng hiến
  • Ở đây thôi ở đây đành (thơ Trịnh Cung)
  • Tình khúc cho em
  • Tôi đứng trên đồi mây trổ bông (thơ Phạm Công Thiện)
  • Tôi muốn tin, tôi muốn yêu cuộc đời (thơ Nguyễn Xuân Thiệp)
  • Trên da tình yêu
  • Uống nước bên bờ suối
  • Vũng lầy của chúng ta
  • Yêu nhau trong phận người


Source: Lê Uyên Phương – Wikipedia tiếng Việt




Chủ Nhật, 25 tháng 7, 2021

XE XƯA TRÊN LỐI CŨ - PHẦN III

 

Phần 3 :  : Xe chở khách miền Nam trước 1975.

Xe Buýt  Xe Đò Xe Taxi

Y Nguyên Mai Trần 

Xem phần 1 Xe cổ điển Pháp trước 1975
Xem phần 2 Xe cổ điển xuất xứ không từ Pháp-Mỹ-Anh-Đức-Ý-Nhật

Phương tiện chuyên chở khách bằng xe hơi ở miền Nam trước 1975 rất đa dạng. Thời Pháp thuộc-Hòn Ngọc Viễn Đông trước 1954, người Pháp đã xử dụng một số xe chở khách nhỏ lớn trong phạm vi thành phố Saigòn Chợ Lớn và các tỉnh phụ cận như Tây Ninh, Vũng Tàu, Vĩnh Long Cần Thơ. Khi miền Bắc trở thành bảo hộ, người Pháp cũng mang vào xe khách chuyên chở người và thư tín, hàng hoá đến các tỉnh chung quanh Hà Nội như Bắc Ninh, Hải Phòng…
Ở Saigon, người cần dùng phương tiện có thể đến mướn xe ở những bãi đậu – trước sở Hoả Xa (đường Hàm Nghi) (thập niên 1930s, 1940s), đường Lê Lai (Boudonnet) cạnh ga xe lửa Saigon xưa (1940s, 1950s), hoặc sau nầy dọc theo đường Nguyễn Huệ, Lê Lợi, hoặc vẫy tay dừng taxi trên đường phố. Taxi là từ đã được dùng từ khi người Pháp dùng cho xe chở khách từ thập niên 1930s-1940s. Sau đó Renault 4CV được nhập cảng vào Miền Nam cho tư dụng và dùng làm taxi vào cuối thập niên 1940s. Tuy nhiên phải đến thời VNCH sau 1954 taxi mới trở thành phổ biến – taxi phải được sơn 2 màu, phần dưới màu xanh (dương), phần trên màu bơ (màu ngà) và phải gắn đồng hồ tính tiền (taxi meter). Tuy đa số taxi thuộc dòng xe Renault 4CV, các dòng xe khác cũng được dùng làm taxi như Peugeot, Simca và Dauphine xuất hiện trên đường phố khoảng giữa thập niên 1960s.
Taxi là phương tiện giao thông nổi bật của Sài Gòn nói riêng và của cả Việt Nam nói chung từ cuối thập niên 1940s qua những thập niên 1950s, 1960s đến 1975.
Song song với Taxi , từ năm 1957 , hệ thống xe buýt thay thế xe lửa điện vận hành trong địa phận Sàigòn Chợ lớn Gia định. Từ bến xe buýt chính ở công trường Diên Hồng, các tuyến xe buýt vận hành thay thế  các tuyến xe lửa xưa với nhiều tram dừng xe hơn. Nếu đi xa hành khách có thể đến những bến xe đò đi về đi miền Đông, miền Trung hay Miền Tây. Ở các tỉnh lớn như Mỹ Tho, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đà Nẳng-Huế…cũng có những bến xe đò địa phương đi những vùng lân cận.

Có thể phân biệt một cách tổng quát, những loại xe chở khách:

Xe đò, xe buýt: Đây là loại xe to, trung và nhỏ, nhiều hàng ghế, chở 10 người trở lên, từ buýt mượn từ phương Tây bus hay autobus thường để chỉ loại xe khách lưu hành trong nội vi thành phố lớn và thường là vận hành bởi cơ quan nhà nước (xe buýt trong thành phố) hay công ty tư nhân (xe đò). Hành khách xe buýt không cần mua vé trước, lên/xuống tại những trạm xe bus được định sẵn và cách nhau không xa. Xe đò thường để chỉ loại xe chở khách đi đến địa điểm xa hơn thành phố, đi liên tỉnh, chở hàng hoá, đồ đạt trên mui xe nói chung, thường phải nên mua vé trước tại trạm xe đò có số ghế ngồi hoặc không tùy hãng. Ở miền Nam thời ấy, xe đò đủ lọại lớn, nhỏ, trung (lỡ). Xe lớn và lỡ thường có một người lơ phụ giúp tài xế, xe buýt thì có người bán vé trên xe, giúp khách hàng lên xuống.
Phần đông các xe đò miền Nam trước 75 đều được đóng thùng (thân xe) tại VN dựa trên dàn gầm (khung chassis), động cơ, hộp số… nhập cảng từ Pháp ngoại trừ một số được nhập cảng nguyên chiếc hoặc bộ phận từ Mỹ giai đoạn 54-75.
Cũng nên biết những bộ phận nhập cảng này , tùy nhu cầu cũng được ráp làm xe cam nhông. Thời này xe cam nhông khác biệt với xe đò vì đầu máy thường nhô ra phía trước thùng xe (đầu nhọn), một số xe buýt xưa đầu máy không nhô ra phía trước mà lại thụt vào phía trong thùng (đầu bằng) và như vậy bác tài và cần sang số ngồi bên hông của đầu máy được che chở bởi một lớp da cách nhiệt.
Cuối cùng cụm từ xe đò thường gợi lại bao nhiêu hoài niệm cho những ai từng xuôi ngược miền Nam, liên tỉnh hay từ làng thôn ra thành phố.
Hoài niệm về xe đò đối với người viết là chuyến đi xe đò từ bến xe Hậu Giang (bến xe Miền Tây) từ Saigon xuống Cần Thơ với hai đêm không ngủ bên đường vì đường bị đặt mìn, xập cầu, đào hố, lấp hố ở đoạn qua Trung Lương, Cai Lậy, Cái Bè trước khi tới Vĩnh Long 1966/67 với bao nhiêu lo âu trăn trở, bất an vì sợ pháo kích trong đêm, bắt gặp những ánh mắt bâng quơ, những nụ cười gượng gạo, tiếng khóc em bé khát sữa với tiếng ru buồn của người mẹ trong đem đen với ánh đèn măng xông bên cạnh những mảnh ruộng vô tình, âm vang của xe công binh ra sức lấp hố, sửa cầu trong đêm, chưa kể vấn đề vệ sinh cá nhân phiền toái.

Den ManchonHinh 1: Đèn Măng Xông (Manchon) xưa.

Cũng nên biết ngày xưa, xe đò từ Saigon về miệt Mỹ Tho, Gò Công, về Hậu Giang mất cả ngày, phải qua hai cầu sắt Tân An và Bến Lức, hai cầu này thiết kế cho cả xe lửa Saigon –Mỹ Tho và vận hành giống như cầu Bình Lợi (đi từ Bà Chiểu xuống đường Nguyễn Văn Học để qua cầu lên Thủ Đức ăn nem hay Lái Thiêu ăn măng cụt, sầu riêng, lên núi Châu Thới Biên Hoà, hay thẳng đường ra Cấp (Vũng Tàu). Ai về miền Châu Đốc, Long Xuyên thường phải qua hai bac Mỹ Thuận và Vàm Cống còn về Hậu giang phải qua hai phà Mỹ Thuận và Cần Thơ mà thời gian đến tuỳ thuộc vấn đề an ninh và tình trạng kẹt Bac (Bac tiếng Pháp, có nghĩa là phà, hay ferry tiếng Anh )
Xe taxi: Xe nhỏ, thường chở tối đa 4-5 người, thường chạy trong thành phố, địa điểm đi đến tùy khách, tiền xe được tính dựa trên đồng hồ taxi meter. Nếu được bao thuê, giá cả thương lượng giữa người bao thuê và tài xế Taxi.
Taxi có thể được neo (máy tính tiền vẩn “nhảy”) taxi được giữ lại bởi khách cho tới khi khách không dùng dịch vụ nữa.
Xe chở khách: Những loại xe chở khách khác taxi hay xe đò. Những dòng xe của thập niên 30s hay 40s hay sau này như xe lô ca xông hay xe Hoa-Hoa Kỳ, thường chở tối đa 4-5 người, thường chạy trong thành phố, địa điểm đi đến tùy khách, tiền xe được thương lượng giữa khách và tài xế lái xe.

Xe buýt, xe đò miền Nam trước 1975.

Xe đò là loại xe chở khách số lượng nhiều it tùy loại xe lớn, trung hay nhỏ và tùy hãng vận hành. Xe nhỏ 10-15 người, lớn lên đến 50-70 người, hàng hóa thường để trên mui xe.
Xe buýt, xe đò xuất hiện từ thời Pháp thuộc để đáp ứng nhu cầu chuyên chở người, hàng hoá và thư tín. Người Pháp dùng từ autobus, autocar để chỉ một trong những dòng xe dùng làm xe đò thời bấy giờ được nhập cảng từ Pháp như Renault Latil, Saviem, Saurer, Berliet (phần đông các hãng này về sau đều xáp nhập vào hãng Renault) hoặc những dòng xe Mỹ, sau 1954, gồm những nhản hiệu như De Soto, Chevrolet, International Harvester, Fargo, Ford , GMC hay xe Nhật Toyota .
Hành khách đi xe đò có thể đến các bến xe nằm rác khắp nơi trong thành phố như bến xe An đông, bến xe Lục tỉnh Petrus Ký, bến xe Chợ lớn Bình Tây, bến xe Nguyễn cư Trinh, bến xe Nguyễn thái Học . Sau cuối thập niên 1950s đầu 1960s thì lần lượt chuyển về bến xe Petrus Ký, xe khách đi các tỉnh thành phố miền Đông, miền Trung, hay Tây thường sơn màu khác nhau để cho khách dể tìm xe.
Bến xe Petrusky trở nên quá tải, để giải toả áp lực xe đi miền Tây (được gọi là bến xe Miền Tây) được dời ra Phú Lâm (Bình Chánh) đổi thành Xa cảng Miền Tây (bến xe Hậu Giang) khoảng 1965, xe đi Miền Đông vẩn còn ỏ đường Petrus Ký đổi thành xa cảng Miền Đông. Sau năm 1976 xa cảng miền Đông dời về quận Bình Thạnh với tên củ Bến xe Miền Đông.

Hinh 2 Ben xe Pertus Ky

Hinh 2 : Bến xe đò lớn trên đường Trương Vĩnh Ký (Petrus Ký) năm 1950, gần Ngã sáu Sài Gòn có tượng Phù Đổng thiên vương ( Ảnh Donald F. Harrison Collection – The Vietnam Centerand Archive)

Hinh 3 Ben Xe do Luc Tinh

Hinh 3: Bến xe đò Lục Tỉnh (miền Tây) với xe đò lỡ (lỡ cở=không lớn không nhỏ=trung)

Hinh 4 Be xe do Petrus Ky 2M

Hinh 4: Saigon, August 1955 – Bến xe đò lục tỉnh đường Trương Vĩnh Ký với xe đò nhỏ thường thấy như – Renault Goelette, Estafette, Volkswagen Kombi, Toyota, Ford –cho khách đi Vũng Tàu, Biên Hoà, Bình Dương, Long Khánh – François Guillemot Collection- Source Báo Tiếng Dội Miền Nam https://www.flickr.com/photos/97930879@N02/15326931012
Hinh 5
Hinh 5: Bến xe Petrus Ký 1960.
http://tuoitre.vn/tin/ban-doc/20160116/duong-petrus-ky-o-sai-gon-voi-ben-xe-lay-lung-mot-thoi/1039267.html

Hinh 6 -Nguyen cu trinh
Hinh 6 : Xe đò Ford tại bến xe Nguyễn cư Trinh 1965

Quang cảnh nhộn nhịp của những bến xe đò-người, hàng hoá, âm thanh, màu sắc…không nơi nào bằng bến Petrus Ký. Những chiếc xe đò mang tên như Á Đông, Tân Á,Đông Á, Thuận Thành và Ngọc Châu chạy tuyến Saigon Mỹ tho. Các hảng Tam Hữu, Thành Long, Công Tạo- Thuận Thành chạy tuyến SG-Châu Đốc .Xe đò đi miền Tây (Thuận Thành, Lộc Thành, Nhan Nhựt, Quang Minh, Đại Hưng, Thuận Hiệp, Vĩnh Phát, Thuận Lợi, Liên Hiệp, Nhơn Hòa, Phi Long, Hiệp Hưng, Kim Long, Nam Thành, Hữu Phước, Quang Minh, Hiệp Thành,Tam Hữu … phục vụ nhu cầu đi lại và chuyên chở hàng hoá của người dân khắp miền Nam Việt Nam, đặc biệt là những chuyến xe thơ chở thơ tín và hàng hoá cho bưu điện nhà nước.
Những chiếc xe đò nầy thường chạy sớm khoảng 4 hay 5 giờ sáng và có quyền ưu tiên qua phà…

Xe đò miền Đông (Bình Dương, Phước Long, Long Khánh), Đông Bắc (Vũng Tàu), Cao nguyên (Đà Lạt), và miền Trung như Thuận Hiệp, Liên Hiệp, Hiệp Thành, Nam Thành Kim Long (Tuyến SG-Thủ Dầu Một (QL 13) …. thì hầu như là hãng xe đò duy với các điểm dừng ở Dầu Tiếng, Bến Cát, Đôn Luân (Đồng Xoài), Phước Bình, Lộc Ninh, v..v… Nói tóm lại thì toàn là vùng “xôi đậu” .. có khi vừa gửi “tờ báo” cho ông “Trưởng đồn Bảo an” ở Lai Khê … thì chạy khoảng 10 phút sau đã ghé “đóng Thuế” cho “trạm Giải Phóng” ở Lai Uyên rồi …. Cái thế “hai hàng” này có lẽ đã là lợi thế cạnh tranh mà hãng này giữ lâu dài nhất … và gần như độc chiếm …. trong hoạt động vận tải hành khách trên con lộ Tử thần ấy của các hãng xe đò đối thủ … Rất hiếm khi dân SG nghe nói “xe đò của hãng Kim Long bị mìn trên QL 13” so với các tin tương tự trên các tuyến đường khác …

Miền Trung thì gần như chỉ có hãng Phi Long chọn hướng vận tải xa nhất : SG-Huế-Quảng Trị … Hành khách trên tuyến này có khi ăn ngủ luôn trên xe trong suốt hành trình … Ngày xưa, chỉ cần thấy trên xe đò có một chiếc gà-mên lớn, bằng inox … cao bằng đứa bé 12 tuổi … trên mui có một cái bồn nước … loại dùng trong quân đội .. Người ta biết ngay đó là xe đò miền Trung … Thỉnh thoảng cũng có tin “xe đò bị mìn” trên tuyến này … Nhưng là những hiệu khác .. không phải Phi Long …
Trich từ
http://memory2010blog.blogspot.com.au/2011/02/269-sai-gon-xua-phan-3.html

Xe đò xưa trước 1954.

Hinh 7
Hinh 7: Xe đò Renault mẫu 1927 của hãng STACA trên quai Courbet 1950,, trước trụ sở của hãng Liên hiệp thương mại Đông Dương và Phi Châu (L’U.C.I.A) lập năm 1904- Về sau là trụ sở Tổng lãnh sự Hoa Kỳ trước 1975 – Ngày nay là khách sạn Indochina River side .

http://ktsdanang.vn/Default.aspx?PageId=706

Hinh 8
Hinh 8 : Xe đò băng qua cầu trên đường Saigon-Mỹ tho 1950s.

Hinh 9
Hinh 9 : Xe đò Renault chạy tuyến từ Huế qua An Lỗ rồi đến Sịa –trung tâm huyện Quảng điền ngày nay. Hinh chụp 1964. Nguồn Lonnie M. Long Collection – Vietnam Center and Archive
Trích”
Một điều nữa là trừ Huế ra, Sịa ngày xưa cũng là một vùng đất trù mật, buôn bán sầm uất của cả một vùng ngoại vi kinh thành, không thiếu thứ gì, lại còn mang chút dáng vẻ văn vật đất thần kinh. Từ những sản vật địa phương như bánh tráng, bánh ướt, tôm chua, cá chột nưa, vô số hải sản… vừa ngon vừa hấp dẫn, đến cả những sản phẩm văn hóa như chơi đu tiên, đua ghe, hội vật, hò giã gạo, hò mái nhì, mái đẩy. Cái gì cũng có, cũng không thua chi Huế cả…”
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c271/n10945/Mat-Tam-Giang.html

Hinh 10

Hinh 10 : Xe buýt ISOBLOC của hảng COSARA (1954) là loại mẫu DP 648 102 trang bị động cơ diesel Panhard, 4 xi-lanh 6.8 lít.
Isobloc là một thương hiệu xe buýt cổ điển do Joseph Besset thành lập năm 1930 tại vùng Ardèche, Pháp (8). Isobloc chuyên thiết kế thân xe với công nghệ cao thời bấy giờ thân không khung, áp dụng khí động học và vật liệu nhẹ –sàn xe phẳng, máy nằm phía sau, xe rộng thoáng bên trong.

Hinh 11
Hinh 11 : Lên xe buýt Hàng không Việt Nam ra phi trường 1965 . Hinh anh Bill Eppridge .

Hàng Không Việt Nam (Air Vietnam) được thành lập năm 1951 tại Saigon.Trước đó COSARA là một công ty hàng không và vận tải tư nhân được thành lập tháng 9 1947, bởi Maurice Loubière cùng với một người bạn Việt Nam COSARA (Comptoirs Saigonnais de Ravitaillements) có văn phòng đặt tại 5-13, đường Turc bây giờ Hồ Huấn Nghiệp Sài Gòn.
Mục đích lúc đầu của công ty là cung cấp vận chuyển hàng hoá cho các đơn vị quân trú đóng của Pháp nằm rải rác khắp nơi ở Việt Nam bằng cách sử dụng các sân bay được xây dựng bởi người Nhật trong Thế chiến II.
Sau Hiệp định Genève (20/7/1954) phân chia Nam Bắc, COSARA ngừng hoạt động năm 1955. Loại phi cơ Dakota (Douglass DC 3) chở hàng hoá và hành khách bán lại cho Hàng Không Việt Nam (Air Vietnam).
Cosara có một đội xe buýt dùng đưa đón hành khách từ văn phòng ở Saigon ra sân bay, tuy thế Cosara có tuyến đi Châu Đốc, những chỉ được vận hành 1,2 năm rồi ngưng. Đội xe buýt Cosara, trở thành xe buýt của Hàng Không Việt Nam với biểu hiện con Rồng nằm trên lá cờ vàng ba sọc đỏ. Maurice Loubière trở về Pháp sau khi công ty ngưng hoạt động.

Hinh 12
Hinh 12 : Xe đò Renault Goelette của hãng SITA đưa đón khách phi trường Tân Sơn Nhất, đậu trước trụ sở SITA, 5 Bến Chương Dương (Le Myre de Villers Quay) năm 1952.
Indochina Air Transport Company (Société Indochinoise để Transports Aériens) thành lập 1950 chuyển vận tải hàng hoá và hành khách.

Hinh 13
Hinh 13 : Dòng xe Toyota Coaster mẫu 1969 được dùng làm xe đò chuyên chở từ 15-25 khách trên tuyến đường Saigon Vũng Tàu đầu thập niên 1970s

Hinh 14

Hinh 14 : Xe đò “lỡ” Renault Goelette biến chế với thùng dài hơn của hảng Hiệp Hoà chạy đường Bình Dương Saigon 1959.

Hinh 15

Hinh 15 : Trong khoảng năm 1960, Renault Goelette được mang về Việt Nam, lmodel 1400 (được ra đời năm 1956) và được tận dụng để chở hành khách và hàng hóa. Trong bức ảnh trên là chiếc xe đò lỡ Renault Goelette thân dài u6 hãng Tân Mỹ chạy tuyến Tân An – Mỹ Tho.

Những chiếc Renault Goelette xuất hiện ở Việt Nam chủ yếu là phiên bản Renault Goelette 1400 (được ra đời năm 1956). Xe có dung tích động cơ 2.383cc sử dụng dầu hoặc xăng tùy loại. Kích thước của xe là 4.540 x 1.920 x 2.250m (dài x rộng x cao).
http://www.quehuongngaymai.com/forums/showthread.php?201785-Xe-%C4%90%C3%B2-X%C6%B0a

Hinh 16
Hinh 16 : Xe Renault Goelette trong thành phố Qui Nhơn 1966.

Hinh 17

Hinh 17 : Xe đò Renault Goelette Cam Ranh-Nha Trang 1969-70
Hinh 18
Hinh 18 : Xe đò Renault Goelette Đà Nẳng Quảng Ngãi 1966-67?

Hinh 19
Hinh 19: Xe đò Dodge mẫu 1954 – Tuyến đường Sai Gon –Vũng Tàu hình chụp 1970 Vũng Tàu

Hinh 20

Hinh 20 : Xe đò Dodge 1970 tuyến đường Saigon Cần Thơ Rạch Giá.

hinh 21
Hinh 21 : Xe đò Dodge Vũng Tàu Saigon 1968

hinh 22
Hinh 22: Xe đò Mercedes tuyến đường Saigon Vũng Tàu, hình chụp 1968 Stan Middleton

Hinh 22a
Hinh 22a: Xe đò Ford tuyến đường Saigon – Ba Rịa, Phước Lể.Photo Bob Cogan 1967/68
Hinh 23
Hinh 23 : Xe đò Desoto trên đường Saigon Tây Ninh. Hình chụp 13/2/1967 Sully Francoise

Hinh 24

Hinh 24 : Xe đò Desoto Ngọc Minh tuyến Saigon Bình Định Quy Nhơn.
Hinh 25
Hinh 25 : Xe đò Desoto mẫu 1959 tuyến đường Saigon Tây Ninh– hình chụp 1967

Hinh 26

Hinh 26: Xe Dodge trên tuyến đường Saigon – Tây Ninh 1965 Photo John Hansen.

Hinh 27

Hinh 27 : Xe đò Desoto trên tuyến Saigon Bảo Lộc
Hinh 28

Hinh 28 : Xe đò Desoto tuyến đường Saigon Rạch Giá Hà Tiên 1968

Hinh 29
Hinh 29 : Xe đò Desoto Saigon Mỹ Tho hinh chup 1968
Hinh 30
Hinh 30 : Xe đò Chevrolet, Vỉnh Long 70-71. Hình Frank Effenberger

Hinh 31
Hinh 31 : Xe đò Hiệp Thuận-Chevrolet 1964

Hinh 32
Hinh 32 : Bến xe Cần Thơ 1970, xe Desoto tuyến Cà Mau – Cần Thơ. Hình Douglas Pike Photograph Collection

Hinh 33
Hinh 33 : Desoto 1970

Hinh 34

Hinh 34: Xe đò Hotchkiss PL25 –Qui Nhơn 1965-66 . Hình Dave Glenn

Hinh 35
Hinh 35 : Xe đò Huỳnh Long hiệu Hotchkiss biến chế, khoảng đầu năm 1950s chạy liên tỉnh. Hình chụp năm 1964 Chris Newlon Green

Hinh 36

Hinh 36 : Xe đò Hotchkiss còn gọi là “xe đò mỏ nhọn” 1968.

Hinh 37

Hinh 37 : Xe đò Hotchkiss (phía trái) và xe Renault Goelette cải biến (bên phải), bùng binh Cây Gỏ, Saigon 1969, tên chính là công trường Duy Linh và tượng Lê Lợi trên đường ra xa cảng miền Tây–photo by George Lane

Hinh 38
Hinh 38 : Xe đò Citroen U-23 xưa chạy tuyến Phước Tuy – Bình Giã 1968

Xe buýt: Theo Tim Doling, một nhà nghiên cứu về Saigon gốc Anh, do sự tranh chấp giữa công ty CFTI (Compagnie des tramways de l’Indo-Chine ) và chính quyền Saigon từ năm 1955 thì đường xe điện tramway ở Saigon, kể cả đường Saigon-Gò Vấp ngưng hoạt động, bỏ hoàn toàn vào năm 1957 và được thay thế bằng hệ thống xe buýt.
(http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/he-thong-xe-lua-cong-cong-tramway-o-sai-gon-thoi-phap)
Xe buýt chạy trên các tuyến đường trong thành phố Sàigòn-Chợ lớn-Gia định, mà trước đó là lộ trình của xe lữa điện (electric tramway system) theo một lộ trình định sẵn, khách chỉ trả tiền vé khi lên xe.Các xe buýt của CFTI được nhượng lại cho công quản chuyên chở công cộng Đô thành Sàigòn 1957. Vào thời thịnh nhất 1960/61 công quản khai thác thêm các tuyến đường mới , tăng cường số xe buýt từ 119 với 12 tuyến lên 224 chiếc. Chi phí cao vận hành không hiệu quả, cộng với sự cạnh tranh khốc liệt của các xe lam ba bánh tư nhân, công quản xe buýt được nhường lại cho tư nhân khai thác qua sắc lệnh của Thủ Tướng Trần Văn Hương tháng 12 năm 1968 (9). Bến xe chính xe buýt Saigon, trước đó là ga Cuniac của tuyến đường xe điện chạy từ đầu đường De la Somme-Hàm Nghi giáp ranh với Bến Chương Dương đến đường Bonhour –Hải Thượng Lãn Ông –Chợ Lớn. Gọi là ga Cuniac vì ga này nằm đối diện với Place Cuniac-Công trường Diên Hồng-bây giờ Quách Thị Trang. Eugène Cuniac là Đô Trưởng Saigon ( Maire de Saigon) người xưa gọi là người Xã Tây, người có công san lấp vùng ao cạn đầm lầy (ao Bồ Rệt- Marais Boresse) để xây dựng chợ Bến Thành.
Hinh 39
Hinh 39 : Công quản xe Buýt góc đường Lê Lợi Pasteur

Xe buýt/xe chở khách xưa trong thành phố Saigon
Hinh 40

Hinh 40 : Trong hình có 2 chiếc Citroen Type A (10CV) tourer và một Citroen C4 (1928)
Xe Citroen mẫu đầu 1930s chạy ra từ Autohall garage và xe bus renault 1910s chạy về hướng nhà hát Thành Phố. Phòng trưng bày AutoHall nằm ở góc đường Bonard/ Lê Lợi và Charner/Nguyễn Huệ. Đây là địa điểm cũ của Autohall , trước khi được Emile Bainier chuyển qua lại tòa nhà Garage Bainier+ AutoHall xây cất mới, cùng nằm trên góc đường Lê Lợi /Nguyễn Huệ phía bên trái của tấm ảnh này.

Hinh 41
Hinh 41 : Xe buýt Citroen C4 biến chế trước “nhà dây thép Saigon”

Hinh 42

Hinh 42 : Xe buýt Renault 6C-2 1951 trên đường Bonard (Lê Lợi), Saigon cùng với Peugeot 203 ?
Trong ảnh này, phía sau xe buýt là nhà hát Tây –trước 1975 là Hạ Viện thời VNCH – là công trình xây cất của kiến trúc sư người Pháp Eugene Ferret năm 1897.
hinh 43
Hinh 43 : Xe buýt Renault chạy quanh công trường Diên Hồng (bên phải) cuối thập niên 1950s, bên trái là bến xe buýt bùng binh chợ Bến Thành –sau được đặt tên Công quản chuyên chở công cộng Đô thành.

Hinh 44

Hinh 44 : Xe buýt Latil type M 1B chuyên chở từ 12 đến 15 người, bến xe công trường Diên Hồng

Hinh 45

Hinh 45 : Xe buýt Renault-Saurer
hinh 46

Hinh 46: Bến xe buýt Sài Gòn đối diện Công trường Diên Hồng thời đệ nhất Cộng Hòa (thời Pháp, Place Eugène Cuniac) phía bên phải.
Xe buýt trong ảnh là những dòng xe Renault 215 D hay Renault Saviem. Tên công trường Quách Thị Trang chỉ xuất hiện sau 1964.
Trước 1954, xe buýt của hãng CFTI (Compagnie Francaise Tramwayélectric Indochine) chạy tuyến Sài Gòn – Gò Vấp qua Dakao, Bà Chiểu Lăng Ông, Bình Hòa, Xóm Gà, chợ Gò Vấp ; tuyến Sài Gòn – Chợ Lớn (dọc theo đường Galliéni, nay là đường Trần Hưng Đạo), Sài Gòn – Chương Dương (quai de Belgique), Sài Gòn – Hóc Môn – Bà Điểm.
Tuyến đường Saigon- Phú nhuận qua đường Lê Lợi (Bonard) Hai Bà Trưng qua cầu Kiệu chấm dứt ở chợ Phú Nhuận
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai, sản xuất xe buýt lại tiếp tục với dòng 215 D. Hầu hết các thân (body) xe được sản xuất bởi Scemia, một công ty mà Renault đã họp tác trước chiến tranh. Sự cạnh tranh ráo riết trên đưa đến chuyện Renault bị truất ngôi từ vị trí đứng của mình bởi Chausson. Renault chuyễn theo xu hướng mới đặt động cơ ở phía sau và cửa sau cho hành khách lên xuống. Trong tháng 11 năm 1955, Renault tổ chức lại việc sản xuất xe buýt, phân chia chức năng công nghệ bằng cách hợp hợp nhất với Latil và Somua, tạo thành công ty mới SAVIEM LRS (Society Anonymous của công nghiệp xe và Cơ học Thiết bị). Năm 1957, SACA (Hợp nhất giữa hai công ty Floriat và Isobloc) gia nhập Saviem. Năm 1959, Saviem tóm thâu luôn Chausson. Từ tháng 12 năm 1961, thương hiệu Floriat ngừng sản xuất và biến mất. Qua sự liên kết Chausson -Saviem thừa hưởng một nhà máy xe buýt hiện đại ở vùng Annonay. Nhanh chóng, thương hiệu mới Saviem trở nên quen thuộc trên thị trường dành cho xe buýt và xe chở khách. Tên Renault biến mất trên những dòng xe hạng nặng (xe tải và xe buýt) nhưng vẫn còn hiện diện trên xe thương mại hạng nhẹ, như Renault Goelette. Dòng xe khách nhỏ phổ biến, chẳng hạn như Saviem SG2 và Super Goelette và sau đó là l’Alouette, được giao cho các thuộc địa cũ của Pháp. Năm 1978 Saviem hợp nhất với công ty đối thủ Berliet trở thành Renault Véhicules Industriels.(10,11)

Hinh 47

Hinh 47 : Xe buýt Saigon Gò vấp chạy trước Hạ Viện đầu thập niên 1960s

Hinh 48
Hinh 48 : Hành khách trên tuyến Saigon Binh Tây Chợ Lớn lên xuống bến xe buýt Saigon

Hinh 49
Hinh 49 : Xe Buýt Renault trên đường Lê Lợi- Công trường Lam Sơn 1967
Hinh 50
Hinh 50 : Saurer buýt trên đường Paul Blanchy –Hai Bà Trưng- Hình chụp tháng 7 1949 (http://www.panoramio.com/photo/16497279)
Tuyến đường Saigon- Phú nhuận qua đường Lê Lợi (Bonard) Hai Bà Trưng qua cầu Kiệu chấm dứt ở chợ Phú Nhuận.

Hinh 51
Hinh 51 : Renault Bus 1960-61 SAIGON 1961 – by John Dominis

Hinh 52

Hinh 52: Bến xe buýt Công Quản Chuyên Chở Công Cộng bùng binh Công trường Diên Hồng.

Hinh 53

Hinh 53 : Xe buýt Renault chết máy ngang bồn phun nước trên giao lộ Lê Lợi-Nguyễn Huệ, trước tòa Đô Chánh cuối thập niên 1960s

 

xe buyt xanh cam 1965-CTDH

Hinh 53a : Xe buýt Renault màu xanh và IH màu cam -công trường Diên Hồng 1965
Hinh 54
Hinh 54: Xe buýt Hàng Không Việt Nam đưa đón khách đến sân bay Tân Sơn Nhất 1965.

Hinh 55
Hinh 55 : IH (International Harvester) buýt phía sau bến xe buýt Sài Gòn, hướng về đường Hàm Nghi.

Hinh 56

Hinh 56: Xe buýt Dodge Mỹ trên đường Hai Bà Trưng đi phi trường Tân Sơn Nhất
Hinh 57
Hinh 57: IH( Internatiọnal Harves̀ter) Loadstar , phi trường Phú Bài Huế,1960s
http://www.vnafmamn.com/AirVN_Photo/pages/AirVN-Bus2.htm

IHinh 58
Hinh 58 : Xe đò Renault-Saviem của Hàng Không Việt Nam chở khách ra phi trường
http://www.vnafmamn.com/AirVN_Photo/index.htm

hinh 58a

Hinh 58a: Xe đò Mercedes của Hàng Không Việt Nam đưa/rước khách phi trường Tân Sơn Nhất 1968.

Xe Taxi
Đây là một nét văn hóa đặc trưng của miền Nam – thành phố Saigon Chợ Lớn –Gia Định. Taxi chạy khắp mọi nẻo đường, hành khách muốn đi phải vẫy xe ngừng lại vì thời ấy taxi không có tổng đài để giao dịch, khách vào là bẻ cờ cho đồng hồ tính tiền chay. Bến xe taxi là những nơi các bác tài kinh nghiệm có nhiều khách vãng lai như Bến Bạch Đằng, công trường Mê Linh, chợ Bến Thành, vùng Lăng Ông Bà Chiểu…Ban đêm thì các rạp hát bóng (cinema), nhất là rạp hát cải lương hay đại nhạc hội.
Những chiếc Renault 4CV đầu tiên được nhập cảng vào Việt Nam vào cuối thập niên 1940, sau đó xe được dùng thành xe taxi vì giá rẻ, dể bảo trì đáp ứng nhu cầu vận chuyển cho khách vùng Saigon , Chợ lớn, Gia định.
Đến cuối năm 1968, đô thành Sài Gòn – Gia Định 7.400 taxi, 2.440 xích lô máy (nguồn: Đoàn Thêm – 1969 Việc từng ngày). Đến năm 1971, xe Lam là phương tiện vận chuyển quan trọng nhất Sài Gòn cũng như các tỉnh miền Nam vì hệ thống xe buýt đã ngưng hoạt động và chưa phục hồi. Theo báo chí lúc đó thì toàn miền Nam có 30.668 chiếc, số xe Lam lưu hành gấp 7 lần xe taxi.

Hinh 59
Hinh 59 : Renault Juvaquatre 4CV- Berline trên đường Saigon 1968. Juvaquate sản xuất lần đầu tiên 1939 và chấm dứt 1955.

Hinh 60

Hinh 60 : Taxi mẫu 1952, lúc này taxi chưa phải sơn hai màu.
http://saigon-vietnam.fr/gendarmerie-indochina.php

Hinh 61
Hinh 61: Taxi 1956 sơn màu xanh dương và ngà.
http://kienthuc.net.vn/ta-tay/anh-mau-hiem-va-dep-ve-sai-gon-nam-1956-230636.html

Hinh 62
Hinh 62: Taxi Saigon 1958 đường Trần Hưng Đạo

Hinh 63
Hinh 63: Taxi 1968 dừng cho người đi bộ góc đường Lê Lợi và Pasteur.

Hinh 64
Hinh 64: Taxi trên đường Hồng Thập Tự Saigon 1971

Hinh 65
Hinh 65 : Taxi trên đường phố khoảng 1960.
http://hid0141.blogspot.com.au/2013/10/taxis-em-saigon-vietna-1960.html
Hinh 66
Hinh 66 : Taxi Dauphine 1965 trên đường Nguyễn Huệ, công trường Lam Sơn.
http://cj3b.info/Military/VietnamStreets2.html
Dauphine sản xuất từ năm 1956 đến 1967 , loại xe thông dụng máy đặt phía sau , thân khung liền vỏ , hộp số tự động có ba số, không tự động có 3 hoặc 4 số , 4 cửa, động cơ 845 phân khối. Dauphine được đưa ra thị trường nhằm thay thế cho dòng xe rất thành công trước đó 4CV
Một số lớn Dauphine được nhập cảng vào VNCH qua chương trình hữu sản hoá 1968 làm taxi. Cùng thời với Volkswagen Beetle, Morris Minor, Mini and Fiat 500, đây là những dòng xe đi đầu trong chiến lược sản xuất xe thông dụng, giá phải chăng ở Âu Châu thời bấy giờ
Xem thêm chương trình hữu sản hoá
https://www.facebook.com/notes/nam-r%C3%B2m/h%E1%BB%AFu-s%E1%BA%A3n-h%C3%B3a-tr%C6%B0%E1%BB%9Bc-75-v%C3%A0-qu%E1%BB%91c-h%E1%BB%AFu-h%C3%B3a-sau-75-/483065861887422/

Hinh 67
Hinh 67 : Xe Peugeot 203 được dùng làm Taxi trên đường phố Saigon

Hinh 68

Hinh 68 : Một loại đồng hồ taxi Pháp BB được sửa thành đồng hồ cho taxi VNCH (phía trái) . Một loại nữa, đồng hồ có “cây cờ”, khi có khách vào thi cờ được quay để khởi động đồng hồ tính tiền.

Dong ho taxi 1
Hinh 68a : Đồng hồ Taxi có “cây cờ” thịnh hành thập niên 1960-70.(12)

Xe khách xưa

Xe do di tay ninh 1906

Hinh 69: Xe chở thư và chở khách Sài Gòn Tây Ninh  1906

Hinh 69
Hinh 69a : Xe khách Nha Trang 1904-1907 – loại chế biến của dòng xe Peugeot 33 -1901
Mes trois ans d'Annam - Gabrielle-M. Vassal - préface de M. Le Dr Roux.
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/albums/7215766195
0864426

Hinh 70
Hinh 70: Xe chở khách đến tháp Đồng hồ trường đua Phú Thọ-1905-1912 , phu xe pousse-puosse đứng trên bệ tháp nhìn vào trường đua.

Hinh 71
Hinh 71 : Xe chở khách trước sở Thuế bến Chương Dương-phiá sau dáng hình cầu Mống và Nhà Rồng thập niên 1940s

Hinh 72

Hinh 72: Xe chở khách Citroen Rue Schroder, nay là đường Phan Châu Trinh phía bên trái chợ Bến Thành.

Hinh 73

Hinh 73 : Bến xe khách Taxi Renault 1920s, Berliet 1920s and Hotchkiss 1930s trước sở Hỏa Xa Đông Dương, đối diện bùng binh chợ Bến Thành Dãy nhà nhiều tầng phía trái nằm trên đường Bonard (Lê Lợi). Con đường phía sau sở Hỏa Xa (đường Hàm Nghi) và cũng là đường phía sau nhà Thương Saigon (nằm trên đường Lê Lợi, gần bót Lê Văn Ken) mang tên đường Hamlin thời Pháp-sau đổi là Đỗ Hữu Vị và bây giờ là Huỳnh Thúc Kháng

Hinh 74
Hinh 74 : Bến xe khách ở đường Lê Lai (Boudonnet) bên hông tường ga xe lửa Saigon khoảng 1950 (bây giờ là khu khách sạn New World), nằm đối diện rạp hát xưa Aristo.
Xe lô ca xông -Traction Avant 11.
Phần đông sơn màu đen , Loại xe traction avant-Front wheel drive-xe kéo bằng hai bánh trước một đột phá trong công nghệ xe hơi thời bấy giờ-đầu thập kỷ 1930s- được nhập càng vào Miền Nam từ khoảng 1936/37 qua một số đại lý xe hơi ở Saigon (xem phần 1 , xe cổ điển Pháp trước 1975).
Dòng xe này rất thông dụng ở Miền Nam. Về sau khoảng thập niên 1960s , nhiều chiếc traction được biến cải để chạy xe khách trong thành phố, hay những vùng gần như Biên Hòa, Thủ dầu Một, nhất là loại traction 11 familial bên trong rộng hơn loại Legere Berline. Bên trong những chiếc xe Lộ cả xong nầy, vị trí hàng ghế ngồi được thay đổi , có khi có cả 1 hàng ghế giua, không có lưng dựa, phần đông khách đi phải đợi cho đủ số người , sau đó xe sẽ chạy suốt đến địa điểm mà ít ngừng ở dọc đường.

Hinh 75
Hinh 75 : Citroen đậu tại bến xe lô-ca-xông đường Phạm Ngũ Lăo gần Chợ Bến Thành năm 1969.

Phụ Lục

Xe buýt/xe đò Hà Nội xưa

Có lẽ xe đò là từ dụng trong Nam để phân biệt với xe buýt, còn ở Bắc ít nhất trước năm 1975 ? chỉ dùng từ thông dụng là xe Buýt- người Pháp gọi xe chở hành khách là autobus, autocar hay nói chung là voitures des voyaguers thời xưa . Taxi là tiếng chỉ dùng sau này du nhập từ Âu Mỹ khoảng đầu thập kỷ 1900, từ khi taximeter (taximetre) đượ xữ dụng trên xe chở khách.

Hinh 76
Hinh 76 : Xe buýt/Xe đò Latil của hãng M.M.Chapelon & Cie ở bến Clemenceau 1928

Hinh 77
Hinh 77 : Cammionette Latil ltype B, năng xuât 14CV, hộp số có 4 số và số de, tốc độ tối đa là 44km/giờ. Sản xuất giữa khoảng 1923-1930.

Hinh 78

Hinh 78 : Bến xe buýt gần cột đồng hồ- bến Clemenceau 1920s

Hinh 79
Hinh 79 : Một điểm đón trả khách của xe buýt ở phố Clemenceau (nay là đường Trần Nhật Duật) Hà Nội năm 1928.
http://belleindochine.free.fr/Automobile.htm
MM CHAPELON & Cie, doanh nghiệp vận tải, cư trú tại tỉnh Bắc Ninh, được phép đưa vào lưu thông xe được mô tả dưới đây, đăng ký ngày 13 Tháng 1 năm 1926 theo số 2386 T và thực hiện vận chuyển hành khách công cộng 1 °) Hà Nội-Đáp Cầu, 2) Hà Nội 7 chùa .
Latil thương hiệu xe tải cơ thể.
Mặt bánh lốp 955 x 155 bánh sau lốp 955 x 155.
Tổng số tare 2.050 kg. : Trục trước 880 kg, trục sau 1170 kgs
Việc ủy quyền này là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây:
Trọng lượng của chiếc xe trong toàn bộ chi phí sẽ không vượt quá 2.950 kg, chia ra như sau:
Tare Trọng lượng: 2,050 kg.
Mọi người: 18 x 50 = 900 kg kg. Hành lý: 0 kg. Mặt hàng: 0 kg.
Phân phối của các tải trọng trục tối đa: 1.180 kg trước. phía sau 1,770 kg.
Số lượng tối đa của người vận chuyển, bao gồm cả nhân viên của nhà thầu là cố định tại mười tám (18)
Các tuyến đường có sự cho phép được cấp là:
1) Hà Nội đến Đáp Cầu với điểm dừng cố định tại Rive Gauche, Gia Lâm, Yên Viên, Phú Từ Sơn, chùa Lim, Bắc Ninh.
2) Hà NộiTừ tháng chín ngôi chùa Hà Nội với các điểm dừng cố định ở Bắc Ninh, Đại Tràng, Cầu Ngã (Tư Sở], Phương Mao, Chai-Lai, Quế Dương, Đồng Du…

Ngoài công ty Chapelon một số doanh nghiệp khắp mọi miền cũng dùng loại xe này để đi xe khách, hay chở hàng hoá như Thanh Hoá, Vinh, Đà Lạt, Phan Rang, Sài Gòn.
http://www.avant-train-latil.com/hanoi.php
http://www.avant-train-latil.com/camionnette_B.php

Hinh 80

Hinh 80 : Renault buýt ở Hà Nội 1940 đổ xăng gần cầu Doumer –Long Biên

Hinh 81

Hinh 81 : Renault autocar khoảng 1934 trước đại lý Renault (STAI) ở Hà Nội.

Hinh 82
Hinh 82: Xe chở khách Delhorme Bernard Six Reybier 1930s

Hinh 83
Hinh 83: Khu vực cột đồng hồ, nơi đặt bến xe buýt đầu tiên của Hà Nội (điểm giao nhau của đường Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Hàng Muối, Nguyễn Hữu Huân) hiện nay nằm dưới đường dẫn của cầu Chương Dương.

Tham khảo :

Ghi nhận: Hinh ảnh sưu tầm từ các trang Blogs,albums manhai , flickr.com, Tommy Japan
1-http://www.historicvietnam.com/tim-doling/
2-http://saigoneer.com/
3-http://bellindochine.free.fr
4-http://yeudoi.net/2011/08/xe-cho-khach-mot-thoi-truoc-75.html
5-http://mytour.vn/location/6801-hoai-niem-mot-sai-gon-xua-hon-ngoc-vien-dong-cua-chau-a-ky-i.html
6-http://saigon-vietnam.fr/cosara_fr.php.
7-http://thaolqd.blogspot.com.au/2014/10/mot-vai-con-uong-cua-ky-uc-uong-tran.html
https://fr.wikipedia.org/wiki/Isobloc
http://thanhnien.vn/van-hoa/xe-lam-chieu-690300.html
10 http://www.renaultoloog.nl/bussen-francais.htm
11 http://www.entreprises-coloniales.fr/inde-indochine/STACA.pdf
12 http://hoangkimviet.blogspot.com.au/2014/02/renault-4cv-xe-taxi-sai-gon.html- Bài khảo cứu về Renault 4CV.

Y Nguyen Mai Tran

Source: https://maivantran.com/2016/05/28/xe-xua-tren-loi-cu%CC%83-xe-cho%CC%89-khach-mien-nam-truoc-1975/