Thứ Hai, 29 tháng 3, 2021

Cuộc chiến tranh kênh đào Suez

 

I: Ý nghĩa chiến lược của kênh đào Suez
Kênh đào Suez bắt đầu từ thành phố cảng Port Said bên bờ Địa Trung Hải và kết thúc ở thành phố Suez bên bờ Hồng Hải nên con kênh được mang tên Suez. Khoảng 500.000 người đã tới an cư tại các thành phố ven kênh kể từ khi kênh đào được xây dựng. Kênh đào Suez cũng là đường ranh giới giữa đất liền của Ai Cập và bán đảo Sinai, vì vậy cũng là ranh giới giữa châu Phi và châu Á.
Thật ra, từ 1400 năm trước Công Nguyên, các Pharaon Sethos I và Ramsis II đã bắt đầu với việc lên kế hoạch và xây dựng con kênh đào này. Do gặp nhiều khó khăn nên việc xây dựng kênh đào kéo dài tới năm 500 trước Công Nguyên vẫn chưa hoàn thành và bị bỏ dở. Vài trăm năm sau, con kênh dang dở bị cát phủ kín. Nhưng ý tưởng về con kênh nối hai biển này vẫn không mất đi và chỉ chờ dịp lại được đưa ra.
Ý nghĩa chiến lược lớn của một con đường thủy nhân tạo nối Địa Trung Hải với Hồng Hải đã được nhà ngoại giao và kỹ sư người Pháp Ferdinand de Lesseps khơi lại từ thế kỷ 19, vì con đường hàng hải từ châu Âu sang châu Á sẽ không phải đi vòng qua Mũi Hảo Vọng ở châu Phi nên có thể rút ngắn quãng đường tới 4.000 km.
Một công trình nghiên cứu được tiến hành năm 1846 cho thấy, mực nước giữa Địa Trung Hải và Hồng Hải không chênh nhau là bao nên đây là phương án khả thi. Sau khi Phó vương Muhammed Said lên nắm quyền, Lesseps đã hăng hái trình bày kế hoạch của mình và nhấn mạnh vai trò và ý nghĩa của Ai Cập, nếu kênh đào được xây dựng. Kỹ sư Lesseps quen biết gia đình Phó vương Said từ khi ông còn nhỏ và từng dạy ông cưỡi ngựa, nên hai người rất thân nhau. Vì vậy, năm 1856, Lesseps đã nhận được giấy phép xây dựng kênh đào. Dưới sự chủ trì của công ty Kênh đào Suez Pháp, việc xây dựng con kênh dài 163 km đã được tiến hành và vượt qua nhiều khó khăn trắc trở, để mở một con đường thủy đi qua sa mạc. Việc xây dựng kênh đào tốn phí 19 triệu bảng Anh với sự tham gia của 1,5 triệu người, trong đó 125.000 người đã bị chết trong quá trình xây dựng. Sau gần 10 năm xây dựng, kênh đào Suez được khai trương và mở cửa cho tàu bè qua lại vào ngày 16/11/1869.
Sau khi được đưa vào hoạt động, con đường thủy này được Companie Universelle du Canal Maritime de Suez quản lý và vận hành và trong Hiệp định năm 1888 trở thành một nhượng địa trong thời gian 99 năm. Thông qua Phó vương Muhammed Said, Ai Cập có cổ phần lớn trong công ty này, nhưng người kế nhiệm của ông là Ismail Pascha đã phải bán cổ phần của Ai Cập cho người Anh do món nợ khổng lồ của quốc gia, vì vậy trên thực tế, Ai Cập trở thành một nhà nước do Pháp bảo hộ. Kể cả sau khi giành lại được sự tự chủ, công ty này vẫn do người Pháp và người Anh chi phối và như vậy cả kênh đào với hai bên bờ kênh rộng đều nằm trong tay người nước ngoài. Vai trò chiến lược của nó đã tiếp tục gia tăng với việc dầu mỏ trên bán đảo Arập ngày càng có ý nghĩa sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai.
Đầu những năm 1950, người ta bắt đầu thảo luận về tương lai của kênh đào Suez sau khi thời gian tô nhượng kết thúc. Công ty này theo đuổi một giải pháp không có Ai Cập, vì cho rằng nước này không thể tự quản lý một công việc làm ăn như vậy. Đằng sau lập trường có tư tưởng đế quốc là nỗi lo tiếp tục mất đi ảnh hưởng trên thế giới. Sau năm 1945, người ta càng nhận thấy rõ rằng nước Anh không có đủ tài nguyên để củng cố đế chế của mình. Trước bối cảnh phong trào dân tộc chủ nghĩa đang phát triển trong "Thế giới thứ Ba", Ai Cập ngày càng trở nên có ý nghĩa, vì trong khu vực kênh đào Suez, người Anh có một căn cứ quân sự trên cơ sở một hiệp ước được thương lượng năm 1936 với khoảng 80.000 binh sĩ Anh đóng bên kênh đào Suez.
Khi chính phủ Ai Cập dưới triều Vua Faruk bị các sĩ quan đảo chính và lật đổ ngày 23/7/1952, mối quan hệ giữa Ai Cập và Anh ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Trong khi giới lãnh đạo cho tới nay duy trì mối quan hệ hợp tác với các cường quốc châu Âu, chính phủ mới của Ai Cập lại theo đuổi một đường lối dân tộc chủ nghĩa, liên Arập và chống Ixraen, xích lại gần hơn với khối các nước XHCN. Việc thay đổi đường lối này một mặt làm căng thẳng hơn những xung đột khu vực ở Trung Cận Đông, vì Ixraen cảm thấy bị thách thức thông qua một hiệp ước cung cấp vũ khí mà Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser ký với Tiệp Khắc.
Mặt khác, phương Tây lại cho rằng Ai Cập đang bị cộng sản hóa. Hơn nữa, một cuộc xung đột giữa Ai Cập với Anh và Pháp đang đe dọa, vì những nước này khăng khăng bám lấy quyền kiểm soát kênh đào Suez và bác bỏ đòi hỏi của Nasser muốn có một giải pháp quốc gia cho con đường thủy này, một điều mà nhà sử học nổi tiếng Georges - Henri Soutou ở trường Đại học Sorbonne, Pari (Pháp) giải thích: "Bên cạnh lợi ích kinh tế, kênh đào này là một biểu tượng cho sự diện diện của Anh và Pháp tại Trung Cận Đông và cho toàn bộ thời đại đế quốc". Những căng thẳng tạm thời được dẹp bỏ thông qua Hiệp định Suez ngày 19/10/1954, trong đó Anh cam kết rút lực lượng vũ trang của mình ra khỏi khu vực kênh đào trong vòng 20 tháng. Đổi lại, Ai Cập bảo đảm duy trì căn cứ quân sự và để cho người Anh sử dụng trong trường hợp xảy ra chiến tranh, đồng thời họ công nhận quy chế quốc tế của khu vực này. Tháng 6/1956, quân đội Anh rút khỏi khu vực kênh đào Suez, mọi việc xem chừng hướng tới một giải pháp hòa bình.
II: Con đường tới khủng hoảng
Ngày 26/7/1956, Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser bất ngờ tuyên bố quốc hữu hóa kênh đào Suez, với lý do lấy tiền chi phí cho việc xây dựng một đập nước ở Assuan, sau khi Mỹ từ chối cho vay tín dụng. Mặc dù tuyên bố bảo đảm cho việc tự do đi lại qua kênh đào và sẵn sàng bồi thường cho những cổ đông của công ty, mà trong đó Pháp nắm giữ đa số và các ngân hàng cũng như doanh nghiệp Anh nắm giữ 45%, nhưng với bài diễn văn của mình, Tổng thống Nasser đã gây ra một cuộc khủng hoảng nặng nề.
Các cường quốc thực dân cảm thấy bị thách thức, hơn thế nữa khi Pháp từ năm 1954 phải tiến hành cuộc chiến tranh chống phong trào đòi độc lập của Angiêri và đã buộc phải trao trả nền độc lập cho Tuynidi dưới sự lãnh đạo của Habib Bourguiba, sau khi đã phải trao trả độc lập cho Marốc. Mặc dù tại ba hội nghị quốc tế, Mỹ đã đồng ý với việc quốc hữu hóa kênh đào Suez, nhưng cả Anh và Pháp đều không chịu chấp nhận việc này. Thêm vào đó, cuộc xung đột giữa Arập và Ixraen lại trở nên căng thẳng; bởi vì một mặt Nasser, nhân vật biểu tượng của chủ nghĩa dân tộc Arập mới, từ khi lên nắm quyền không bao giờ che giấu sự thù địch của mình đối với Ixraen; mặt khác, nước này bị cắt đứt quan hệ với các đối tác thương mại châu Á và châu Phi do bị phong tỏa eo biển Tiran từ cửa ngõ của Vịnh Akaba tới Hồng Hải và việc đóng cửa kênh đào Suez đối với các tàu bè Ixraen và các tàu tới Ixraen. Thêm vào đó, các hoạt động khủng bố của người Palextin xuất phát từ Ai Cập gia tăng. Chính phủ Ixraen hy vọng, việc chiếm đóng bán đảo Sinai sẽ là bước cải thiện có tính chất quyết định đối với an ninh của nhà nước Do Thái này.
Chính sách của Pháp cũng nhằm vào chiến tranh. Pari vu cho Nasser ủng hộ phong trào đòi độc lập của Angiêri. Khác với ở Pháp, dư luận ở Anh chưa ủng hộ một cuộc phiêu lưu như vậy. Thủ tướng Anh Anthony Eden là người chống lại chính sách nhân nhượng của nguyên Thủ tướng Chamberlain trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh, nên ông muốn thuyết phục người Anh thay đổi thái độ thông qua việc gợi lại Hội nghị Munich năm 1938 giữa Đức và Liên Xô và so sánh Nasser với Hitler và Mussolini. Trong khi Nasser tỏ ra là một thủ lĩnh có uy tín, muốn thông qua những thành công trong chính sách đối ngoại để dẫn dắt đất nước nghèo nàn của mình tới tiến bộ theo màu sắc phương Tây, thì tư duy chính trị của Eden vẫn hoàn toàn bám lấy tư tưởng của Hội nghị Munich.
Ban đầu chỉ có Pháp và Anh tham gia vào kế hoạch bí mật cho một hành động quân sự. Trong những ý tưởng đầu tiên vào tháng 7/1956, hai bên thỏa thuận tiến hành một chiến dịch quân sự chung chống lại Ai Cập, nhưng lại giả vờ rêu rao là cuộc xung đột vũ trang này nhằm hòa giải cuộc xung đột giữa Ixraen và Ai Cập. Với mục đích này, một cuộc gặp gỡ bí mật giữa Pháp, Anh và Ixraen đã diễn ra từ ngày 22 tới 24/10/1956 tại Sevres, ngoại ô Pari. Tại đó, Thủ tướng Pháp Guy Mollet, Ngoại trưởng Pháp Christian Pineau, Thủ tướng Ixraen David Ben-Gurion, Quốc vụ khanh Bộ Quốc phòng Ixraen Simon Peres, Tổng tư lệnh quân đội Ixraen Mosche Dajan và Ngoại trưởng Anh Selwyn Lloyd đã phác thảo một kịch bản quỷ quyệt: Việc chuẩn bị chiến tranh giữa Ai Cập và Gioócđani sẽ tạo cớ cho Ixraen tấn công Ai Cập. Pari và Luân Đôn sẽ phản ứng với việc đưa ra một tối hậu thư cho các bên tham chiến, trong đó đòi rút quân khỏi khu vực kênh đào Suez. Việc Cairô chắc chắn bác bỏ tối hậu thư này sẽ tạo cớ cho giới quân sự Pháp và Anh tiến vào để "giải phóng" kênh đào, lật đổ Nasser và triển khai lực lượng vũ trang Anh - Pháp ở kênh đào xung quanh khu vực Port Said. Pháp và Anh đồng thời tuyên bố sẵn sàng cung cấp vũ khí cho Ixraen. Ngoài ra, Pari còn cam kết bảo vệ không phận và bờ biển của Ixraen và muốn dùng quyền phủ quyết của mình trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc để ngăn cản một nghị quyết chống lại Ixraen.
Chỉ rất ít người phía Pháp cũng như Anh biết được về kế hoạch bí mật này. Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower đang ở trong giai đoạn vận động tranh cử nóng bỏng cũng không hề được thông báo gì. Người Anh và người Pháp biết được lập trường phản đối của ông, vì Eisenhower không muốn làm hại tới khả năng tái đắc cử thông qua một cuộc chiến tranh và không muốn gây thêm căng thẳng mới với Mátxcơva. Nhưng trong khi người Anh và người Pháp đặt ý nghĩa của kênh đào Suez đối với châu Âu lên vị trí hàng đầu trong những suy nghĩ của mình thì sự xung đột Đông - Tây chi phối trong tư duy chính trị Mỹ. Trong những tùy tùng của Nasser có nhiều người thân cận với Cơ quan tình báo trung ương Mỹ (CIA) và chính quyền Eisenhower cũng duy trì quan hệ chặt chẽ với Nasser, không muốn đẩy ông vào vòng tay của Liên Xô.
Những nhận thức sai về nhau cũng như những vấn đề trao đổi thông tin trong các nước phương Tây cho thấy thiếu sự tin cậy trong quan hệ xuyên Đại Tây Dương mà trong những sự kiện xảy ra ở kênh đào Suez đã mở rộng thành một cuộc khủng hoảng thực sự.
3: Đỉnh cao của cuộc khủng hoảng
Cuộc chiến tranh kênh đào Suez được Pháp và Anh đặt tên là "Chiến dịch Ngự lâm quân", bắt đầu ngày 29/10/1956 với việc quân đội Ixraen tiến vào Dải Gaza và bán đảo Sinai. Quân đội Ixraen đã nhanh chóng tiến tới kênh đào Suez. Trước đó, Pháp đã tăng cường sức chiến đấu của Ixraen với việc cung cấp máy bay chiến đấu và xe tải. Ngày 30/10, theo kịch bản được soạn sẵn, Anh và Pháp đưa ra tối hậu thư đòi hai bên phải ngưng chiến sau 12 giờ đồng hồ và lui quân cách kênh đào 16 km về phía Đông và phía Tây.
Sự việc cũng diễn ra theo đúng kế hoạch với việc Nasser bác bỏ tối hậu thư, một quyết định được sự hậu thuẫn của nhân dân Ai Cập, những người đã hoan nghênh việc quốc hữu hóa kênh đào này. Sau đó, ngày 31/10/1956, máy bay Anh, Pháp bắt đầu oanh kích khu vực kênh đào và các sân bay Ai Cập. Ngày 5/11, khoảng 7.000 lính dù Anh và Pháp đã đổ bộ xuống sân bay Gamil. Ngày hôm sau, các đơn vị hải quân Hoàng gia Anh đổ bộ lên bờ biển Ai Cập. Thành phố Port Said hầu như bị cháy trụi. Ai Cập phong tỏa lối ra của kênh đào bằng việc đánh đắm ở đó 50 con tàu. Người Anh và người Pháp đã tới gần một chiến thắng quân sự, nhưng các chiến lược gia của họ không tính tới sự phản đối quyết liệt của Tổng thống Mỹ Eisenhower, người đã tỏ ra có khả năng hành động mạnh mẽ hơn dự kiến, bất chấp cuộc vận động tranh cử đang diễn ra gay gắt.
Ngày 2/11, chỉ 4 ngày trước ngày bầu cử tổng thống, phía Mỹ đã đệ trình lên Hội đồng Bảo an LHQ một dự thảo nghị quyết đòi chấm dứt chiến sự ngay lập tức. Trong những ngày sau đó, đồng bảng Anh bị chao đảo tới mức nguy hiểm trên thị trường tài chính New York và chính quyền Mỹ đã gia tăng áp lực đối với Thủ tướng Anh Eden. Ông ta không chỉ phớt lờ việc nước Anh bị phụ thuộc về tài chính vào nước Mỹ do hậu quả của Chiến tranh Thế giới thứ Hai, mà cũng đánh giá sai lập trường của Mỹ trong vấn đề phi thực dân hóa. Trong ngữ cảnh thù địch với Liên Xô, người Mỹ rất quan tâm tới mối quan hệ hữu hảo với các nước "Thế giới thứ ba", ngoài ra, đây còn là vì lợi ích kinh tế. Thảm bại hiển hiện đã phá hoại danh tiếng của Eden tới mức cuối năm 1956, ông đã bị Harold Macmillan thúc ép phải từ chức. Sau này, Eden nhớ lại đã bị Eisenhower la mắng thậm tệ qua điện thoại "như một đứa trẻ ngốc nghếch".
Người Anh và người Pháp cũng đánh giá quá thấp vai trò của Liên Xô. Ngày 6/11, Liên Xô đã đưa ra tối hậu thư, đe dọa sẽ có một sự tàn phá khủng khiếp, nếu cuộc chiến ở kênh đào Suez không bị đình chỉ. Cuối cùng, Pháp, Anh và Ixraen đã phải khuất phục trước sức ép của Mỹ, Liên Xô và LHQ. Ngày 6/11, lệnh ngừng bắn được đưa ra. Ngày 3/12, ba nước này tuyên bố sẵn sàng rút quân khỏi khu vực chiến sự để lính “Mũ nồi Xanh” của LHQ vào thay thế. Việc rút quân được tiến hành tới ngày 22/12 thì hoàn tất.
Cuộc chiến tranh đã để lại nhiều hậu quả. Việc đi lại qua kênh đào còn bị phong tỏa cho tới năm 1957 vì những con tàu bị Ai Cập đánh đắm. Vai trò của Mỹ và Liên Xô gia tăng tại Trung Cận Đông, thay thế vị trí trước đây của các cường quốc thực dân là Anh và Pháp. Eisenhower cam kết viện trợ tài chính và vật chất cho những nước quyết định chống lại mô hình xã hội XHCN. Mátxcơva ký kết một hiệp định với Nasser, trong đó cam kết viện trợ tài chính cho việc xây dựng đập nước Assuan. Với thỏa thuận này, Ai Cập đã trở thành đồng minh chính của Liên Xô trong thế giới Arập trong hơn 20 năm sau đó.
Đối với Anh và Pháp, hoạt động quân sự ở kênh đào Suez đã kết thúc với sự bẽ mặt về ngoại giao. Hai nước đau đớn nhận thấy rằng họ không còn là cường quốc thế giới nữa. Năm 1957, Anh đặt lực lượng vũ trang hạt nhân của họ dưới sự kiểm soát của Mỹ. Ngược lại, Pháp tăng cường thúc đẩy việc xây dựng một lực lượng vũ trang hạt nhân độc lập. Quyết định này được giải thích một mặt với nhận thức của Pháp sau năm 1945 là không muốn giới hạn lĩnh vực hoạt động chính trị của họ ở Tây Bán cầu nữa, mặt khác là tình huống khó khăn của quân đội sau khi phải rút khỏi Đông Dương hai năm trước đó và "cuộc chiến tranh bẩn thỉu" tiếp tục kéo dài ở Angiêri, khiến họ cần cấp thiết có một thành công. Lực lượng vũ trang được rút khỏi Angiêri đã phải quay về, trước khi tới được kênh đào Suez để tham chiến. Thất bại ở Đông Dương và cuộc chiến ở Angiêri đã cho người Pháp thấy tinh thần kháng chiến mạnh mẽ của các nước "Thế giới thứ ba" chống lại các cường quốc thực dân, kết cục của hoạt động quân sự tại kênh đào Suez cho thấy vai trò của Pháp với tư cách là cường quốc thực dân đã đến hồi kết. Với tinh thần này, cuộc khủng hoảng Suez đã kết thúc thời kỳ hoàng kim của chủ nghĩa thực dân từ thế kỷ 19.
4 . Cuộc khủng hoảng Suez và mầm mống của EU
Vậy đâu là lý do để Pháp suy tính và dám thực hiện cuộc phiêu lưu ở kênh đào Suez? Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Guy Mollet đã tin tưởng chắc chắn rằng các cuộc nổi dậy ở Angiêri được Ai Cập trực tiếp điều khiển, vì vậy một chiến thắng trước Nasser sẽ kéo theo chiến thắng trước phong trào độc lập của Angiêri.
Hai cường quốc thực dân Anh và Pháp đã chuyển sang thế phòng ngự. Sau năm 1958, Charles de Gaulle nhờ theo đuổi với một chính sách đối ngoại hướng tới độc lập dân tộc “Từ Đại Tây Dương tới dãy Ural” tạo ra một khoảng cách với Mỹ mới thoát ra được tình trạng này.
Những ai muốn hiểu được lập trường chống Mỹ của nền đệ Ngũ Cộng hòa Pháp và biểu hiện lỏng lẻo của liên minh phương Tây trong những năm 1960 mà Pháp phải chịu trách nhiệm, sẽ phải tìm kiếm nguồn gốc của nó từ cuộc khủng hoảng kênh đào Suez.
Từ khi bắt đầu Chiến tranh Lạnh, Mỹ và Liên Xô luôn tìm cách củng cố khu vực ảnh hưởng của mình. Tuy nhiên, đứng trước tiềm năng vũ khí hạt nhân và nguy cơ đe dọa đối với Trái đất, tại Hội nghị thượng đỉnh và Hội nghị Ngoại trưởng Xô - Mỹ tháng 10 và 11 năm 1955 tại Geneva, mặc dù không đạt được thỏa thuận giải trừ quân bị, nhưng hai bên cam kết sẵn sàng hợp tác và được các nhà quan sát gọi là “Tinh thần Geneva” trên cơ sở cùng tồn tại hòa bình giữa các chế độ xã hội khác nhau.
Ý chí hướng tới hòa dịu này có thể giải thích cho lập trường của Mỹ khi gây sức ép với Pháp và Anh, thông qua việc bỏ phiếu ở LHQ cũng như những biện pháp trừng phạt tài chính và thương mại để buộc hai nước này ngừng bắn. Việc gây áp lực của Mỹ đối với hai nước đồng minh đã nhận được sự ủng hộ của Liên Xô, nước đã gián tiếp đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân, nếu hai nước này không ngừng cuộc chiến chống Ai Cập. Trước bối cảnh như vậy, hai cường quốc thực dân châu Âu là Pháp và Anh không có sự lựa chọn nào khác là phải rút quân. Họ đã phải nhận ra rằng giới hạn trong trò chơi quyền lực giữa Đông và Tây đã trở nên eo hẹp như thế nào.
Trong khi chính phủ Pháp ngày 6/11/1956 thảo luận về tối hậu thư, thì Thủ tướng Đức Konrad Adenauer tới thăm Pari. Chuyến thăm đã được thỏa thuận từ tháng 9, nhưng đứng trước cuộc khủng hoảng kênh đào Suez, nhiều người ở Bonn đã khuyên Thủ tướng Adenauer nên hoãn cuộc gặp gỡ với Thủ tướng Pháp Guy Mollet. Bộ Ngoại giao cũng đề nghị Thủ tướng nên hoãn chuyến đi và nên có lập trường trung lập để tránh đẩy các nước Arập vào vòng tay của CHDC Đức. Nhưng Adenauer đã tỏ ra xa lánh Mỹ và chỉ trích nước này thỏa thuận với Liên Xô về việc chia thế giới thành hai khu vực ảnh hưởng của mình. Adenauer đặt cược vào quân bài châu Âu và sử dụng cuộc khủng hoảng kênh đào Suez để cùng với Pháp tăng cường sự hội nhập châu Âu.
Dư luận Pháp đánh giá rất cao Thủ tướng Đức Adenauer vì ông đã thể hiện tình đoàn kết và vai trò đồng minh đối với chính phủ Pháp khi họ rơi vào thế phòng ngự về ngoại giao. Trong các cuộc hội đàm, Mollet và Adenauer đã tỏ ra cay đắng vì sự bất lực của châu Âu và cam kết thúc đẩy sự hợp nhất cộng đồng châu Âu khi đó mới có 6 thành viên. Thêm vào đó, việc phong tỏa kênh đào Suez và việc vận chuyển dầu mỏ tới châu Âu gặp khó khăn đã thúc đẩy các chính khách ở châu Âu khuyến khích việc phát triển những nguồn năng lượng mới. Những sáng kiến này đã dẫn tới việc ký kết thành lập Cộng đồng nguyên tử châu Âu (EURATOM) ngày 25/3/1957.
Còn ngoạn mục hơn nữa là sự thống nhất giữa Pháp, CHLB Đức và Italia sau lưng Anh và Mỹ về việc xây dựng một tiềm năng vũ khí hạt nhân châu Âu, được suy tính không chỉ là một phương tiện gây áp lực đối với Mỹ, mà đối với nhiều chính khách trong ba quốc gia này còn vì mục đích tự thân. Điều đó cũng ám chỉ ý muốn của Adenauer có được sự tham gia vào vũ khí hạt nhân. Còn rõ hơn nữa, khi Mollet và Adenauer nhất trí được với nhau về một lộ trình đi tới một thị trường chung châu Âu. Vì vậy, cuộc khủng hoảng kênh đào Suez không chỉ có ý nghĩa là một chặng quan trọng trên con đường xích lại gần nhau giữa Đức và Pháp, mà còn là nỗ lực nhất thể hóa ở Tây Âu và dẫn tới việc ký Hiệp ước Rôma ngày 27/3/1957, một chặng đường quan trọng đi tới Liên minh châu Âu ngày nay.
------------
Vũ Long (Tổng hợp theo báo chí Đức)


Source https://www.facebook.com/231556540241622/posts/4020495968014308/?d=n


Thứ Hai, 8 tháng 3, 2021

Người con ngỗ ngược của vua Gia Long và Ngọc Bình

 Trong số các “bóng hồng” của Hoàng đế Gia Long Nguyễn Phúc Ánh (1761 – 1819), vị vua khai sáng vương triều Nguyễn thì cuộc tình của ông với công chúa Ngọc Bình đã đi vào ca dao như một trong những câu chuyện được coi là hi hữu và độc đáo nhất. Họ có tất cả 4 người con (hai trai, hai gái), một người trong số đó là Nguyễn Phúc Quân nổi tiếng bởi sự ngỗ ngược, tính tình trái nghịch đến nỗi thầy học và cả hoàng đế cũng không kiềm chế được.

 Hoàng đế Gia Long và Đức phi Ngọc Bình (Tranh minh họa)



Một mối tình kỳ lạ

Nguyễn Phúc Quân có tước phong là Quảng Oai Công (có sách chép là Quảng Uy Công), ông là con trai trưởng của công chúa nhà Hậu Lê là Ngọc Bình với hoàng đế Gia Long nhưng xét theo thứ bậc các người con trai thì ông là Hoàng tử thứ mười trong tổng số 13 Hoàng tử của vị hoàng đế đầu tiên triều Nguyễn.

Chuyện tình duyên của cha mẹ Quảng Oai Công là một câu chuyện rất đặc biệt mà khởi đầu của nó có thể coi bắt đầu từ những diễn biến chính trị mạnh mẽ diễn ra từ năm Tân Dậu (1801).

Lúc đó thực lực của vương triều Tây Sơn đang trên đà suy yếu nhanh chóng, nhất là sau thất bại nặng nề trong trận thủy chiến tại cửa biển Thị Nại (nay thuộc tỉnh Bình Định) mà sau này sử sách nhà Nguyễn đánh giá là trận thủy chiến dữ dội nhất, trận thư hùng quyết định, đáng được gọi là “Võ công đệ nhất” trong thời trung hưng quyền lực của mình trên cõi phương Nam.

Tàn quân Tây Sơn theo tướng Võ Văn Dũng rút chạy từ Thị Nại về hợp với quân của tướng Trần Quang Diệu đang vây hãm thành Quy Nhơn.

Nhận thấy quân Tây Sơn tập chung quá đông tại Quy Nhơn, mà kinh thành Phú Xuân gần như bỏ trống việc phòng thủ nên chúa Nguyễn Phúc Ánh dùng nước cờ “thí xe bắt tướng” hay còn gọi là "Tượng kỳ khí xa" của Nguyễn Văn Thành.

Ông không đem quân giải cứu thành Quy Nhơn mà bất ngờ theo đường biển cho quân đánh úp chiếm được Phú Xuân cuối tháng 4 năm Tân Dậu (1801), vua Tây Sơn là Nguyễn Quang Toản chống không nổi phải bỏ chạy ra Bắc, nhiều gia quyến không theo kịp bị kẹt lại, trong đó có người vợ trẻ Lê Thị Ngọc Bình và một số cung nữ.

Chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Phúc Ánh tiếp tục cho quân truy đuổi cuối cùng bắt và đem xử chém vua quan triều Tây Sơn vào tháng 10 năm Nhâm Tuất (1802), thế nhưng trước đó không lâu, vào tháng 5 ông đã chọn ngày đăng quang lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Gia Long.

Lại nói về công chúa Ngọc Bình, khi bị bắt mới 19 tuổi (tính theo tuổi ta),  Nguyễn Phúc Ánh thấy nàng là một người con gái trẻ đẹp cực kỳ diễm lệ, ăn nói dịu dàng, dáng điệu thướt tha nên rất ưng ý mới quyết định lấy làm vợ.

Mặc cho các cận thần đứng đầu là Lê Văn Duyệt kịch liệt phản đối vì cho rằng “thiên hạ thiếu gì đàn bà mà lại lấy thừa vợ của giặc”, thế nhưng rung động trước người đẹp, vua Gia Long vẫn bỏ ngoài tai tất cả, ông trả lời bề tôi của mình rằng: “Tất cả giang sơn này, cái gì mà ta không lấy từ trong tay giặc, cứ gì một người đàn bà?”.

Trong sách “Quốc sử di biên” của một cận thần triều Nguyễn là Phan Thúc Trực có đoạn chép về hoàn cảnh công chúa Ngọc Bình trở thành vợ Gia Long như sau:

“Tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802) loan giá đức Thế tổ (tức vua Gia Long- TG) đến kinh thành Thăng Long... nhân dân hào mục bắt được anh em "nguỵ quyền" Nguyễn Quang Toản và đem dâng lên nhà vua... Nguyên trước đó, Nguyễn Quang Thiệu và Nguyễn Quang Toản chạy về phủ Lạng Giang.

Lúc đi đến làng Phương Lan thì kẻ tuỳ tòng của Toản chỉ còn hơn trăm người mà thôi. Chánh tổng Yên Mẫu là Võ Thám và bọn Trần Huy Giao ở đất Kinh Than đốc suất các hào mục thuộc huyện Yên Lãng và huyện Lục Ngạn đến bao vây anh em Nguyễn Quang Toản, mãi về sau bọn Tổng Thám mới bắt được Quang Toản và Quang Thiệu đem dâng... Bọn Tổng Thám lại dâng nạp bà phi là Lê Thị Ngọc Bình vào trong nội cung nhà vua”.

Lê Thị Ngọc Bình được nạp làm phi và sau đó được Gia Long sắc phong làm Đệ tam cung Đức Phi, đứng thứ ba sau hai bà Thừa Thiên cao Hoàng hậu họ Tống (mẹ hoàng tử Cảnh) và Thuận Thiên cao Hoàng hậu họ Trần (mẹ hoàng tử Đảm, sau là vua Minh Mạng).

Có lẽ vì bị cưỡng ép hôn nhân nên tâm trạng khó có thể vui vẻ được vì thế trong dân gian còn lưu truyền câu ca như nói lên tâm sự ở tình cảnh éo le của công chúa Ngọc Bình như sau:

"Mất chồng rồi lại lấy chồng,
Mặt nào còn sống ở trong cõi đời?”

Ðệ Tam cung Lê Thị Ngọc Bình sinh năm Qúy Mão (1783) là con gái thứ 29 và cũng là con gái út của vua Lê Hiển Tông và bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Điều.

Năm Ất Mão (1795), người chị cùng cha khác mẹ của bà là công chúa Ngọc Hân làm mối em gái của mình cho Nguyễn Quang Toản (tức vua Cảnh Thịnh, con trưởng của vua Quang Trung), năm đó Ngọc Bình mới 12 tuổi.

Trở thành vợ vua Tây Sơn, Ngọc Bình được phong làm Chính cung hoàng hậu, ở trong cung 6 năm trời nhưng chưa sinh con cho đến khi bị ép trở thành vợ vua Gia Long. Chính bởi số phận đặc biệt của công chúa Ngọc Bình mà dân gian từ đó đến nay vẫn lưu truyền câu ca:

“Số đâu có số lạ lùng!,
Con vua mà lấy hai chồng làm vua”

Trong thời gian sống với người chồng thứ hai là hoàng đế Gia Long, bà Ngọc Bình đã sinh hạ được bốn người con là An Nghĩa công chúa Ngọc Ngôn (1803), Mỹ Khê công chúa Ngọc Khuê (1807), hoàng tử là Nguyễn Phúc Quân (1809) và hoàng tử Nguyễn Phúc Cự (1810).

Theo sách “Nguyễn Phúc tộc thế phả” thì Đệ Tam cung Lê Thị Ngọc Bình qua đời ngày 12 tháng 9 năm Canh Ngọ (1810) sau khi sinh hoàng tử Phúc Cự, năm ấy bà mới 27 tuổi.

Chuyện về một ông hoàng ngang ngược

Hoàng đế Gia Long có tổng cộng 13 Hoàng tử và 18 công chúa, hoàng tử Nguyễn Phúc Quân là con trai thứ 10, có tên khác là Nguyễn Phúc Chuân, sinh ngày 20 tháng 5 năm Kỷ Tị (1809). Trong số những người con mà do Đệ tam cung Đức phi Lê Thị Ngọc Bình sinh ra, ông là yểu mệnh nhất nhưng lại là người lắm tai tiếng nhất.

Theo sách “Đại Nam chính biên liệt truyện” của Quốc Sử quán triều Nguyễn thì “Quảng Oai Công tên là Quân, con thứ mười của Thế Tổ, mẹ là Đức Phi họ Lê.

Năm Gia Long thứ 16 (1817) được phong là Quảng Oai Công... Năm Minh Mạng thứ 10 (1829) là năm Kỷ Sửu mùa hạ, ông bị bệnh đậu chết, mới 21 tuổi...., tên thụy là Công Trực…Ông không có con thừa tự”.

Cũng theo ghi chép trong “Đại Nam chính biên liệt truyện” thì so với các chị em ruột của mình, Quảng Oai Công là người phận bạc. Người chị lớn của ông là An Nghĩa công chúa Ngọc Ngôn, con gái thứ 10 của vua Gia Long vào “năm Minh Mạng thứ 4 (1823), gả cho Lê Văn Yên là con cả Lê Văn Phong làm con thừa tự Lê Văn Duyệt… Năm Tự Đức thứ 7 (1854), phong là An Nghĩa thái thái trưởng công chúa.

Năm Tự Đức thứ 9 (1856), công chúa mất thọ 53 tưổi, tên thụy là Trinh Lệ, có 3 con trai”. Mỹ Khê công chúa, người chị thứ hai của Quảng Oai Công là “con gái thứ 12 của Thế Tổ,… Năm Minh Mạng thứ 6 (1825), gả cho vệ úy Nguyễn Văn Thiện là con thứ của Kinh Môn quận công Nguyễn Văn Nhân. Năm Minh Mạng thứ 9 (1827), công chúa mất, thọ 21 tuổi, tên thụy là Trinh Ý…, có một con trai”.

Còn người em trai là hoàng tử Nguyễn Phúc Cự, “con thứ 11 của Thế Tổ... Năm Gia Long thứ 16 (1817) được phong là Thường Tín Công. Buổi đầu năm Minh Mạng, coi việc thờ tự Long Thành thái trưởng công chúa. Năm Tự Đức thứ hai (1849) mùa hạ ông mất, thọ 40 tuổi, tên thụy là Ôn Tĩnh. Ông có 7 con trai, 11 con gái”.

Cuộc đời của Quảng Oai Công Nguyễn Phúc Quân tuy ngắn ngủi nhưng ông đã gây ra không ít chuyện khiến bao người phải phiền lòng, tức giận. Sinh thời, Quảng Oai Công là người ngổ ngáo, xấc xược và rất lười biếng học hành.

Biết rõ con mình thuộc hàng khó dạy, vua Gia Long bèn sai vị quan nổi tiếng nghiêm khắc là Ngô Đình Giới đến làm Giáo đạo để lo việc chỉ bảo, giảng kinh sách, rèn luyện đức hạnh cho con mình.

Theo ghi chép của thư tịch thời Nguyễn, Ngô Đình Giới người ở huyện Phong Đăng (thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay), trước vốn là bề tôi triều Tây Sơn làm quan tới chức Đồng nghị, năm Tân Dậu (1801) ông theo về với chúa Nguyễn, năm Canh Thìn (1820) làm quan tới chức Cần chánh điện đại học sĩ, Hữu Tham tri bộ Hình, vua Minh Mạng rất kính trọng thường gọi là Ngô tiên sinh, khi ông mất vào năm Đinh Hợi (1827), được tặng hàm Thượng thư bộ Binh.

Một con người có tiếng tăm như vậy, thế mà theo các sách “Đại Nam thực lục”, “Đại Nam chính biên liệt truyện” cuối cùng cũng không thể nào dạy bảo được vị hoàng tử Nguyễn Phúc Quân, ngược lại còn bị cậu học trò đó phỉ báng. Sử sách triều Nguyễn lược thuật về chuyện này như sau:

“Quảng Oai Công Nguyễn Phúc Quân lúc nhỏ ham chơi, tính xấc xược và kiêu ngạo. Quan Giáo đạo là Ngô Đình Giới dạy bảo thường có phần nghiêm ngặt, bởi vậy, ông ghét lắm.

Một hôm, ông nảy ra một kế làm nhục thầy giáo bèn sai đầy tớ trong nhà đi bắt một con hà mô trói lại đem treo dưới gốc cây ở giữa sân. Chờ lúc Giáo đạo Ngô Đình Giới đi ngang qua, Quảng Oai Công vừa lấy roi đánh con hà mô vừa mắng rằng:

- Mày chớ có khinh ta! Mày biết ta là ai không? Đừng chọc giận ta mà có ngày chết nghe chưa!.

Con hà mô còn gọi là con giải, tức là loài ếch nhái; trong tiếng Hán thì ếch có âm gọi là giới, giống như tên của Giáo đạo Ngô Đình Giới. Biết học trò mượn chuyện đánh mắng con giải để tỏ ý phỉ báng, đe dọa mình,  Ngô Đình Giới bèn tâu với vua xin thôi không dạy Quảng Oai Công nữa.

Tháng 12 năm Kỷ Mão (1819), vua Gia Long mất, con trai thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mạng. Nhà vua thấy em mình ngổ ngáo quá, liền sai các quan là Trần Đại Nghĩa và Nguyễn Đăng Sĩ tới để lo việc dạy dỗ, vua Minh Mạng còn ban cho Trần Đại Nghĩa một cái roi và dụ rằng:

- Em nhỏ của trẫm, sinh trưởng trong chốn thâm cung, không dạy không thể nên người được. Ngươi nên hôm sớm cẩn trọng dạy bảo, hễ thấy có lỗi thì cho phép đánh, chớ nên để thói kiêu căng và lười biếng lâu ngày thành nết quen.

Được sự ủy thác của hoàng đế nhưng các vị quan này sau một thời gian cũng bất lực, bó tay trước các trò phá quấy của Quảng Oai Công. Vua Minh Mạng lại cử Nguyễn Công Vị làm Giảng quan công phủ, nhưng được mấy hôm thì ông tâu với vua rằng:

- Quảng Oai Công chỉ thích chơi đùa chứ không chịu học, thần sợ mình thần không thể làm cho nên được.

Vua mới hỏi rằng:

- Thế quan trưởng sử Nguyễn Khoa Đạo không ở đó cùng dạy à?

Nguyễn Công Vị đáp:

- Trưởng sử đối với hoàng đệ thấy thì lạy, gọi thì dạ, thế thì Quảng Oai Công còn sợ gì nữa.

Minh Mạng nói rằng:

- Về phận trên dưới thì như vậy, nhưng còn sự giúp đỡ, khuyên bảo thì các ngươi không thể làm hết chức trách của mình sao?

Nguyễn Công Vị cúi đầu xin chịu tội. Vua Minh Mạng không xử phạt ông nhưng vua cũng biết khó có thể làm em mình thay đổi được. Từ đó không ai dám đến dạy Quảng Oai Công, được rảnh rang tự do, ông tha hồ chơi bời săn bắn, đá gà, chọi chim lại còn sai bọn thủ hạ đi lùng sục trong dân gian, thấy nhà nào có chó săn tốt thì bắt đem về.

Người có chó săn, gà chọi tốt mà không chịu nộp thì bị đánh đập; dân chúng ca thán khắp nơi. Thế rồi chuyện cũng đến tai Minh Mạng, nhà vua vừa giận vừa đau buồn hết sức, Quảng Oai Công bị quở mắng và phạt lương bổng rất nặng.

Những người có liên quan cũng bị xử nghiêm, quan Trưởng sử và cai đội bị đánh roi vì không chu toàn trách nhiệm; thuộc hạ và người hầu của Quảng Oai Công, tùy theo mức độ đưa đường dẫn lối cho chủ làm bậy hay theo lệnh mà cưỡng bách dân chúng, kẻ thì bị đánh trăm trượng, kẻ phải sung làm lính trong quân Tam trực (Quảng Bình, Quảng Trị và Quảng Nam).

Năm Qúy Mùi (1823), vua Minh Mạng chọn lựa 20 chữ Hán để làm thành một bài thơ gọi là “Đế hệ thi” hay còn gọi là “Ngự chế mạng danh thi”, mỗi chữ sẽ được làm chữ lót tên cho mỗi thế hệ vua nối tiếp, tính từ đời ông trở về sau.

Như vậy chữ lót của mỗi đời dùng một chữ trong bài thơ, nhưng tên ở mỗi đời thì phải dùng một bộ trong ngũ hành theo thứ tự: thổ, kim, thủy, mộc, hỏa và trở lại, vì thế tên của tất cả đời thứ nhất dùng bộ thổ.

Vua Minh Mạng còn làm 10 bài “Phiên hệ thi” cũng để quy định các chữ lót đặt tên cho con cháu của 10 anh em trai mình. Bài “Phiên hệ thi” dành cho Quảng Oai Công gọi là “Quảng Oai hệ” gồm có các chữ sau:

Phụng Phù Trưng Khải Quảng
Kim Ngọc Trác Tiêu Kỳ
Điển Học Kỳ Gia Chí
Đôn Di Khắc Tự Trì.

Tới mùa hạ năm Minh Mạng thứ 10 (Kỉ Sửu, 1829), Quảng Oai Công Nguyễn Phúc Quân chẳng may bị bệnh đậu mà mất, kết thúc cuộc đời ngỗ ngược của mình ở tuổi 21. Vì chết trẻ, lại chưa có con nên bài “Phiên hệ thi” mà người anh hoàng đế dành cho con cháu của ông không bao giờ được dùng đến.

Mặc dù là người có nhiều nhược điểm nhưng một số tài liệu cho biết Quảng Oai Công cơ bản là người bản tính “pha trộn” giữa cái xấu và cái tốt; còn vua Minh Mạng tuy nghiêm khắc với em nhưng không hề ghét bỏ mà rất thương mến.

Sách “Quốc sử di biên” của Phan Thúc Trực ghi chép những vấn đề mà các sách sử chính thống của nhà Nguyễn như “Đại Nam liệt truyện”, “Đại Nam thực lục”… bỏ sót không chép, ghi chép không đầy đủ có đề cập đến việc này trong đoạn viết về Quảng Oai Công như sau:

“Năm ấy, tháng 4, ngày 22, Hoàng đệ Quảng Oai Công chết. Công do đệ tam cung Lê Ngọc Bình sinh ra, là người hào phóng, yêu người, hay bố thí, nếu ai làm thất ý thì cầm roi sắt đánh hoặc xẻo tai, hoặc chặt ngón tay.

Mỗi khi thấy những kẻ võ biền bàn tán, phân biệt nhân phẩm người Đàng Trong, Đàng Ngoài, Công liền mắng rằng: “Lũ mày không biết người Đàng Ngoài tức là ông cha người Đàng Trong à?”

Công có sức khỏe, thích võ, tay không dám đánh mãnh hổ, thường nuôi con trâu “như ý”, cho phục sức như voi, lại đem trâu trắng vẽ màu xanh đỏ, cho đánh nhau với voi để mua vui. Công dùng một kẻ gia đồng làm ghế ngồi, làm gối dựa, làm bàn để ngồi khiến cho tên gia đồng ấy bị liệt không thể đứng lên được.

Những chó săn, gà chọi con nào chết thì lấy gấm lụa khâm niệm mà chôn. Lương một năm được 4000 quan tiền, chi dùng có thừa thì gửi vào kho Nhà nước. Vua thường răn chớ có kiêu xa, Công khóc mà nói rằng: “Cha mẹ mất cả, không còn lấy gì làm vui cho nên phải như thế!”. Vua bèn không nói về điều đó nữa.

Năm ấy, 21 tuổi mới lên đậu mùa, vua sai đặt giường màu vàng và cho những người hầu đều dùng đồ màu đỏ, màu tía. Y viện dâng thuốc bao giờ cũng tâu cho vua coi biết.

Vua thường khuyên giải để cho vui, hỏi Công muốn gì, Công nói muốn chóng khỏi bệnh đậu để càng được phá gia sản thôi; vua cười to cho Công thích chí. Sau đó, bệnh đậu không chữa được, Công chết.

Vợ và nàng hầu hơn 30 người, chưa có con. Vua rất thương, phát của kho 40.000 quan tiền làm lễ mai táng. Gia sản giao cho em ruột là Thường Tín Công, 18 tuổi coi giữ”.


Source: Người con ngỗ ngược của vua Gia Long và Ngọc Bình (xaluan.com)

Thứ Tư, 3 tháng 3, 2021

Sự cải cách lớn lao sức mạnh quân sự Đại Việt sau thắng lợi của triều Hậu Lê từ 1424

main-qimg-e13fad88545319d8da5d0fbf1846aaca

Súng đại Việt thế kỷ 15 tại bảo tàng quốc gia ở Hà Nội

James Potratz

Hà Khánh dịch

Đại Việt sử dụng hoả khí cầm tay đối đầu quân đội nhà Minh

Sự cải tiến đáng kể sức mạnh quân sự Đại Việt với việc sử dụng hoả khí cầm tay bắt đầu với chiến dịch thành công năm 1424-1427 để trục xuất quân Minh, giành lại quyền kiểm soát Đại Việt [hay còn gọi là Giao Chỉ, An Nam, Đại Ngu]. Sự cải tiến chưa từng xảy ra này có thể dễ dàng được hiểu bằng cách kiểm tra số lượng của lực lượng quân đội đế chế nhà Minh hiện diện tại Đại Việt trong thời kỳ này. Vào cuối năm 1426, khi mối đe dọa của cuộc nổi dậy “Hậu Lê” ở miền nam Đại Việt trở nên rõ ràng hơn, nhà Minh gửi thêm 10.000 lính từ Vân Nam và 50.000 binh sĩ từ Quảng Tây. Số quân này được bổ sung thêm vào lực lượng khoảng 60.000 đến 80.000 lính trong các đơn vị đồn trú khác nhau (bao gồm cả một số lính tuyển dụng tại địa phương) trải rộng khắp Đại Việt. Dẫu vậy, các lực lượng bổ sung này cùng với quân đồn trú đã bị đưa vào một loạt các cuộc phục kích kéo dài dẫn đến một thất bại lớn của nhà Minh (30.000 đến 50.000 người bị giết tùy thuộc vào bên thống kê) và tổng số tổng thất đè nặng lên các lực lượng quân sự Trung Quốc còn lại.  Vào cuối năm 1427, thêm 50.000 lính nhà Minh đến từ Vân Nam bị đánh chặn buộc phải rút lui về Trung Quốc (khoảng 10.000 thương vong) trong khi 100.000 lính nhà Minh (kể cả khuân vác) đến từ Quảng Tây bị phục kích, tàn sát, những người sống sót bị bắt làm tù binh.

Tổng cộng, khoảng 240.000 binh lính nhà Minh (không tính nhóm khởi hành từ Vân Nam) đã có mặt tại Đại Việt năm 1426 và 1427 nhưng chỉ có 86.340 binh lính và quan chức Minh (kể cả những người bị bắt trước kia) được trả lại Trung Quốc vào đầu năm 1428 (theo yêu cầu Hoàng đế Minh, không có binh lính hay viên chức Minh nào được phép ở lại Đại Việt). Quân đội Minh mất hai trên ba tổng số quân lính được phái vào Đại Việt.

Các sử gia Việt Nam đã rất bối rối để giải thích bằng cách nào, vào năm 1426, không quá 3.000 chiến binh Hậu Lê có thể phục kích đội hình “100.000” lính nhà Minh hành quân kéo dài 8 km trên một con đường lầy lội bao quanh bởi những cánh đồng lúa ngập nước. Sự khác biệt là súng và chiến thuật được sử dụng bởi quân Hậu Lê so với súng được sử dụng bởi các lực lượng quân đội đế quốc nhà Minh phía nam Bắc Kinh.

Trong tác phẩm ‘Công nghệ quân sự Trung Quốc và Đại Việt: c. 1390-1497’, tác giả Sun Laichen bình luận về cuộc phục kích năm 1426:

“3.000 binh sĩ tinh nhuệ Đại Việt  … Quân Minh mất hết vũ khí của họ. Do đó sau khi rút lui về Đông Quan họ phải chế tạo súng và đạn dược bằng cách phá hủy chiếc chuông khổng lồ Quy Điền nổi tiếng và Vạc ở đền Phổ Minh. … vũ khí của quân đội Việt Nam phải được nâng cấp lên một mức độ chưa từng có.”

 Súng nhà Minh được sử dụng trên khắp Trung Quốc từ 1370 – 1425

Ghi chú :”Phần này chủ yếu dựa vào tài liệu danh sách các súng thời Minh thế kỷ 14 và 15 được khai quật ở Trung Quốc và được liệt kê trong tác phẩm “Nghiên cứu sơ bộ về súng nhà Minh “明代前期有铭火铳初探” của tác giả Chéng Dōng 成东 in trong tạp chí Di tích Văn Hoá số 5, xuất bản 1988 

Súng nhà Minh vào cuối thế kỷ 14 và đầu thế kỷ 15 có thể được chia thành ba loại. Những khẩu súng này được cung cấp cho quân đội Minh thông qua các đơn vị của Cục Quân sự (军器局 – Quân Khí Cục) ở các cấp đơn vị trung ương, khu vực, tỉnh và lực lượng biên phòng. Những khẩu súng này, tất cả được bắn bởi ngòi nổ, dường như là vũ khí chính được sử dụng bởi Lực lượng quân Minh tại Đại Việt.

A. Súng cầm tay: nặng hơn hai kg. Đây là vũ khí chính cho lực lượng bộ binh Minh. Có hai mẫu: một loại dài 36cm, cỡ nòng khoảng 24mm. Loại thứ hai dài 44cm, cỡ nòng khoảng 20mm

Lưu ý: cỡ nòng 24mm tương đương với một khẩu Shotgun đạn 6-gauge  trong khi nòng 20mm tương tự súng Shotgun 10-gauge. Có lẽ những người lính độc lập có thể xử lý độ giật của những khẩu súng này trong khi những khẩu súng cỡ trung thì không thể dùng cầm tay vì độ giật lớn.

B. Súng cỡ trung: súng quân sự tầm trung của nhà Minh có một cái bát kim loại ở cuối nòng. Những khẩu súng này được cố định vào bục hoặc neo xuống đất trước khi bắn. Có một số mẫu thay đổi tuỳ theo kích thước và trọng lượng. Loại đầu tiên dài 31,5cm, nặng 8,35 kg, đường kính nòng 10cm (lỗ nòng khoảng 5cm). Loại thứ hai dài 36,5cm, nặng 15,75 kg, đường kính nòng 11,9cm (lỗ nòng khoảng 7cm). Loại thứ ba dài 52cm, nặng 26,5 kg, đường kính nòng 10,8cm (~ 7cm).  Bảng kê thiết bị quân đội thời Minh cho biết một đơn vị cảnh vệ (Wei) khoảng 5000 lính bao gồm một số đơn vị pháo binh khoảng 400 lính vận hành 120 súng bát cỡ trung bình.

C. Súng lớn: Một khẩu pháo được chế tạo vào năm 1377 dài 100cm với nòng 21cm (lọt lòng 5-9cm), trọng lượng không rõ. Khó khăn trong việc di chuyển các khẩu súng lớn do  trọng lượng nên những vũ khí này chỉ được phối trí ở các vị trí phòng thủ tĩnh và tương đối ít về số lượng.

ming guns

Thần Pháo nhà Minh sử dụng chống lại quân Mông Cổ (1410-1426). Lưu ý: Những khẩu súng này cũng được tìm thấy trong “Nghiên cứu sơ bộ về súng nhà Minh”

Năm 1407, hoàng tử Đại Việt và cũng là tướng quân Hồ Nguyên Trừng bị bắt và được bổ nhiệm là người đứng đầu Cục chế tạo súng pháo (兵仗局 – MAB -Binh Trượng Cục ) trong Bộ Công triều nhà Minh để kết hợp kỹ thuật Đại Việt vào súng pháo quân Minh. Những nâng cấp của Đại Việt bao gồm chảo châm hoả đầu tiên trên thế giới để khai hoả súng pháo và chiếc nêm đầu tiên trên thế giới để chặn nòng. Những khẩu súng này được dán nhãn “Thần Cơ” và có tầm bắn lên đến sáu lần so với súng thường của quân đội Minh. Các thợ thủ công chính trong MAB đến từ Đại Việt. MAB đã sản xuất 24.000 khẩu súng “Thần Cơ” và hơn 16.000 khẩu pháo cỡ trung “Thần Cơ” vào năm 1409 trong chiến dịch năm 1410 chống lại quân Mông Cổ. Những khẩu “Thần Cơ” này không được phép sử dụng ở phía nam Bắc Kinh trước năm 1425 và ban đầu chỉ được sử dụng bởi lính đóng ở Trại Shenji. Các loại Súng Thần Cơ là:

a. Súng cầm tay: MAB  sản xuất hàng loạt một loại súng cầm tay cá nhân sử dụng rộng rãi để chống lại quân Mông Cổ. Nó dài 355mm, nặng 2 kí lô, cỡ nòng 15mm và được xác định là Thiên Tự. Những súng này thay thế cho loại súng dài 44cm, cỡ nòng 20mm của nhà Minh.

Lứu ý : hoả pháo cầm tay cỡ nòng 15mm tương đương với một khẩu shotgun 22 gauge. Mặc dù việc giảm cỡ nòng 15mm nhằm tạo thuận lợi cho việc bắn thiết bị phóng Thần Tiễn của Đại Việt, nó cũng làm giảm đáng kể độ giật của súng

than tienThiên Tu

b. Súng cỡ trung : MAB sản xuất hàng loạt hai loại súng cỡ trung loại bỏ bát gắn vào thân và thêm các vòng gia cố vào nòng, thân, buồng thuốc súng và phần neo vào báng súng.

  1. súng cỡ nòng 52mm, dài 435mm, 8 kg.
  2. súng cỡ nòng 70mm, dài 550mm, 21 kg.

mis size than co gun

Súng pháo Đại Việt

Sung Laichen trong tác phẩm “Hoả khí cầm tay kiểu Trung Quốc ở Đại Việt” xác định những khẩu súng sau đây với những chiếc chảo châm hoả được sử dụng bởi quân đội Hậu Lê vào thế kỷ 15. Trong khi súng kiểu 1 và 3 có kích thước tương đương với súng ở Trung Quốc trước năm 1407, loại thứ 2 dường như là một bản sao của khẩu cầm tay Thần Cơ của MAB sản xuất cho bộ binh. Sự cải tiến các loại súng có sẵn cho các lực lượng kháng chiến Hậu Lê được đề cập bởi Sun rõ ràng là nêm bằng gỗ và chảo châm hoả có nắp là những phần chính của súng “Thần Cơ” của MAB.

  1. Súng cỡ nòng 24mm,  dài 31cm, trọng lượng 3,4 kg.
  2. Súng cỡ nòng 14mm, dài 36cm, trọng lượng 2,3 kg. Chú thích: Hình ảnh của những khẩu súng này được trích từ “Hoả khí cầm tay kiểu Trung Quốc ở Đại Việt” cho thấy sự trùng hợp vị trí của vòng gia cố trên buồng đựng thuốc súng và  vị trí của chảo châm hoả giống như  súng cầm tay cỡ nòng 15mm của MAB. Việc giảm cỡ nòng từ 20mm xuống 15mm cho thấy những khẩu súng này được sử dụng nêm gỗ để chèn nòng
  3. Súng hạng trung cỡ nòng 50mm, dài 38cm, trọng lượng 6,8 kg. Chú thích: loại súng này cũng được loại bỏ bát ở nòng như súng cỡ trung của MAB.

thien tu.png

 Chiến lược của Đại Việt

Đại Việt có một di sản lâu dài về học tập và sử dụng học thuyết và lý thuyết quân sự của Trung Quốc. Các chiến lược và chiến thuật quân sự của Hậu Lê được giải thích bởi anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi được dựa trên các học thuyết quân sự của Trung Quốc. Các điểm sau xuất hiện trong nhiều tài liệu tiếng Việt khác nhau của Nhóm kháng chiến Lam Sơn.

1. Chiến lược đầu tiên của Nguyễn Trãi là Bảo tồn Lực lượng. Các đơn vị kháng chiến không tấn công các vị trí phòng thủ cố định của quân Minh hoặc tấn công các đơn vị quân đội Minh đang trong đội hình chiến đấu. Một cuộc tấn công giả vờ được tung ra nhằm kéo lực lượng Minh vào một cuộc phục kích. Lực lượng kháng chiến không bảo vệ các địa điểm cố định.

Ghi chú: Trong số năm mươi lãnh đạo trọng yếu của quân đội Đại Việt được ghi nhận trong sử sách, chỉ có hai người bị quân Minh giết chết trong những cuộc giao tranh nhỏ tại các vị trí cố định quanh thành Đông Quan (Hà Nội). Hai người bị bắt giữ trong đó một người đã trốn thoát ngay trong đêm, người còn lại được thả vào năm 1428. Một ngoại lệ xảy ra trong chiến lược hạn chế công đồn đã xảy ra vào cuối năm 1427 với cuộc tấn công quân Minh ở pháo đài Xương Giang, nhằm phá chốt chặn cuối cùng để chuẩn bị chống lại 100.000 quân tiếp viện

2. Chiến lược thứ hai của Nguyễn Trãi nhắm vào mục tiêu là cô lập và bao vây lực lượng quân Minh trong các pháo đài phòng thủ, từ từ bị bỏ đói, và buộc phải đầu hàng mà không có bất kỳ cuộc tấn công thực sự nào diễn ra.

3. Chiến lược thứ ba của Nguyễn Trãi là tập trung tấn công [phục kích] lực lượng quân Minh di chuyển dọc theo các con đường đất vào các khu phục kích được chọn trước. Địa điểm phục kích có thể kéo dài vài kilômét dọc theo con đường. Địa hình xung quanh các khu vực phục kích đã được chọn để không cho phép lực lượng quân Minh phản kích lại các lực lượng phục kích. Ví dụ: khu vực phục kích năm 1426 nằm giữa các cánh đồng lúa lầy lội, bao gồm những ngọn đồi/mỏm đất đá nhỏ [che giấu lực lượng phục kích]

4. Chiến lược thứ tư của Nguyễn Trãi là cắt đứt tuyến hỗ trợ cho binh lính đang chiến đấu. Thiếu nguồn lương thảo, lực lượng quân Minh sẽ phải dừng lại để chết tại chỗ hoặc rút lui. Lực lượng kháng chiến sẽ chiếm dụng và sử dụng luôn chính phần lương thảo này của quân Minh

Lưu ý: Quân đội Minh khi tiến quân thường sẽ có tuyến hỗ trợ mang theo khẩu phần vài tháng. Những người khuân vác đôi khi chiếm 40% lực lượng quân Minh trong đội hình hành quân

5. Chiến lược thứ năm của Nguyễn Trãi là giết các tướng lãnh cao cấp của quân Minh hiện diện trên chiến trường. Trong trận chiến lớn năm 1426 (phục kích), tổng binh quân Minh và tổng tư lệnh dân sự tại Giao Chỉ (Đại Việt) bị giết trong khi Vương Thông, tổng tư lệnh quân đội Minh ở Giao Chỉ cũng bị thương bởi một mũi tên. Trong trận chiến lớn năm 1427 (phục kích), Liễu Thăng, tổng tư lệnh quân đội mới được phái đến, bị cuốn vào một cuộc phục kích và bị giết chết bởi tính tự phụ. Ngày hôm sau, phó tướng của ông này cũng bị giết. Một tổng binh được chỉ định làm cố vấn cũng đã chết trong cuộc hành quân này. Tướng chỉ huy cuối cùng của cánh quân tiếp viện này bị giết nốt trong ngày cuối cùng, sau khi bị cô lập, cắt đứt lương thảo suốt 14 ngày. Cuối cùng, chỉ còn 10.000 lính sót lại buộc phải đầu hàng.

Lưu ý: Các quan chức dân sự và quân sự của nhà Minh mang y phục với các biểu tượng lớn ở trước và sau lưng để xác định các cấp bậc dân sự hoặc quân sự cụ thể (dựa trên chín cấp bậc của Trung Quốc. Ví dụ, biểu tượng của tước quan cấp một, cấp 2 mang hình ảnh sư tử. )

6. Chiến lược thứ sáu của Nguyễn Trãi là gây ra thương vong tối đa.
7. Chiến lược cuối cùng của Nguyễn Trãi là buộc hoàng đế nhà Minh chính thức chấp nhận Đại Việt như một quốc gia riêng biệt không phải là một phần của Trung Quốc. Điều này bao gồm sự công nhận chính thức người cai trị Đại Việt và phong tục triều cống ba năm một lần, được thực hiện bởi tất cả các nước ở Đông Á ngoại trừ Nhật Bản.

Sự tổ chức lại quân đội Đại Việt

Ghi chú: thông tin lấy từ K Nhà Lê – Quyn X   Đi Vit S Ký Bn K Toàn Thư

Vào mùa hè năm 1428, nhà Hậu Lê đưa ra các chỉ thị quy định quân số là năm mươi người cho mỗi tàu chiến trong các đơn vị Hải quân. Năm người lo đóng trại, năm người lo tiếp tế và năm người làm các nhiệm vụ khác. Số quân chiến đấu trên tàu có lẽ là ba mươi lăm lính.

Vài tuần sau, các quy định được ban hành tổ chức và trang bị cho hai nhóm hải quân vũ trang được gọi là Thần Sấm và Thần Sét. Mỗi nhóm phải có mười thuyền chiến và hai  thuyền trinh sát nhỏ. Mỗi nhóm bố trí một giám quân, mỗi tàu bố trí giám đội. Một nhóm có một pháo “Đại tướng quân”. Mỗi chiến thuyền được vũ trang các loại vũ khí sau:

1 súng cỡ lớn,
1 súng cỡ trung,
8 súng cỡ nhỏ,
5 chiếc nỏ cứng,
5 câu liêm, 5 giáo dài,
4 phi liêm
mỗi người lính trang bị 1 đại đaovới khiên (phiêu), 1 câu liêm,  4 thủ tiễn hạng nhất, 3 thủ tiễn hạng nhì

Lưu ý: súng cỡ nhỏ có lẽ là súng cầm tay cỡ 15mm. Súng trung bình là súng cỡ 50mm và súng cỡ lớn  là súng 70mm. 14 lính trang bị với giáo và câu liêm sẽ là lực lượng đổ bộ trong khi lực lượng pháo thủ sẽ có mỗi lính một súng cầm tay, hai lính phụ trách súng cỡ trung, khoảng hai lính cho súng cỡ lớn cùng với hai lính phụ trách cung cấp thuốc súng và đạn, cơ số tổng cộng 14 người. Cộng với năm lính bắn nỏ, một giám quân, thuyền trưởng thì tổng khoảng 35 lính. Tỷ lệ hai trên một của súng pháo so với cung nỏ (14 lính vs 5 lính) có thể phản ánh một tỷ lệ tương tự lực lượng chiến đấu trên bộ của Đại Việt trong thời gian này.

Tổng kết

Cuộc đột phá năm 1424-1425 của quân khởi nghĩa Hậu Lê vào miền nam Đại Việt mang lại kinh nghiệm trận mạc dày dạn cho đội quân chủ lực, việc tuyển dụng và huấn luyện các tân binh địa phương, việc phối trí lại hàng binh không phải lính Trung Quốc và thiết lập các cấu trúc cai trị đối với các khu dân sự từ đó thành lập một lực lượng bán quân sự ở miền Nam Đại Việt. Tình thế cuối năm 1426 chuyển sang toàn bộ phần còn lại của Đại Việt tiếp tục bao vây cô lập các pháo đài/thành quách còn lại của quân Minh, thiết lập bộ máy cai trị và các lực lượng quân dân địa phương của nhà Hậu Lê,  tạo ra một đội quân to lớn để bảo vệ Đại Việt. Các đơn vị chủ lực của Hậu Lê vẫn là lực lượng quân sự nòng cốt cho đợt phục kích và bao vây cuối cùng đạo quân Minh tiếp viện.

Kết luận

Chìa khóa cho những chiến thuật mang lại chiến thắng của Nguyễn Trãi là việc ứng dụng các cải tiến súng cầm tay của Hồ Nguyên Trừng để áp đảo đội hình quân Minh bằng hỏa lực liên tục trong một suốt một khoảng thời gian – không phải chỉ là vài phút. Khi các binh sĩ Minh đào thoát khỏi con đường chạy vào các cánh đồng lúa, họ dễ dàng trở thành mục tiêu cho cung nỏ, câu liêm cùng với hoả pháo của phục binh bố trí trên những ngọn đồi nhỏ ở giữa cánh đồng lúa. Các ổ kháng cự sẽ trở thành mục tiêu cho cuộc tấn công tập trung bởi hỏa lực vượt trội của quân Hậu Lê. Những người khuân vác và dân địa phương sau đó sẽ thu thập những gì có giá trị trong đống xác chết bỏ lại. Điểm mấu chốt cho thành công của chiến lược này của quân Hậu Lê là sự khó khăn của quân Minh trong việc chuyển từ trạng thái hành quân sang trạng thái chiến đấu. Điểm yếu này có thể được quan sát trực tiếp trong các chiến dịch của nhà Minh chống lại người Mông Cổ vào năm 1410, 1414 và 1422. Hồ Nguyên Trừng cùng với hai người Việt khác đã tham gia chiến dịch vào năm 1410 khi họ đóng vai trò cố vấn chính cho đơn vị vũ trang đầu tiên của Trung Quốc, trại Shenji ying ( Thần cơ Doanh). Điều này đã mang lại cho Trừng khoảng thời gian phục vụ Hoàng đế Minh cùng các tướng lãnh cao cấp, cùng với rất nhiều thời gian quan sát quân Minh di chuyển trên chiến trường. Địa hình Đại Việt cũng đem lại sự khó khăn đối với đội hình hành quân của quân Minh trên những con đường đất ở những vùng trồng lúa hoặc vùng núi non. Trừng và Nguyễn Trãi đều từng được xem là những ngôi sao tri thức ở triều đình Tây Đô. Trãi từ lâu đã bị nghi ngờ trong thời gian ở Trung Quốc từ năm 1407 cho đến khoảng 1423-24. Trong bài thơ “Quan Hải” Trãi đề cập đến các chướng ngại vật chống lại Hải quân nhà Minh do Trừng tạo ra trong hai dòng thơ đầu tiên, rồi nhận xét của Trừng về sự ủng hộ của người dân được hàm ý ở dòng thứ ba và hình ảnh vị anh hùng được nhắc tới ở dòng sau kế. Có lẽ Trừng là vị anh hùng trong mắt của Trãi, vì những đóng góp của Trừng cho các chiến thắng năm 1426 và 1427. Dẫu thế nào thì, sự cải tiến súng pháo cầm tay của Trừng là cơ sở để nhà Hậu Lê vươn lên nắm quyền tại Đại Việt và xây dựng một lực lượng quân sự mạnh mẽ vào cuối thế kỷ 15.


Tác giả gởi trực tiếp bản tiếng Anh cho Nghiên Cứu Lịch Sử

The significant improvement of Dai Viet military strength began with the Later Le successful 1424

Dai Viet Use of Firearms against the Ming Chinese

The significant improvement of Dai Viet military strength via firearms began with the Later Le successful 1424-1427 campaign to expel Ming Chinese from Dai Viet [aka Jioaozhi/Giao Chi, Annan, Dai Ngu] and reclaim Dai Viet by military force.  This unprecedented improvement is easily understood by examining the numbers of Ming Imperial forces in Dai Viet during this period.  By late 1426, as the threat posed by the “Later Le” uprising in southern Dai Viet became clearer, an additional 10,000 Ming soldiers were sent in from Yunnan and 50,000 Ming soldiers arrived from Guangxi.  These numbers were added to an approximate 60,000 to 80,000 soldiers in various Guards units (including some locally recruited soldiers) spread throughout Dai Viet.  In any case, the newly arrived plus local Ming Guards units were lured into an elongated ambush resulting in a major Ming defeat (30,000 to 50,000 killed depending on who was counting) and total immobility imposed on the remaining Chinese military forces.  In late 1427, an additional 50,000 Ming soldiers coming from Yunnan were blocked and forced to retreat back to China (possibly losing 10,000 casualties) while 100,000 Ming soldiers (including porters) arriving from Guangxi were ambushed, over-run and those still alive taken prisoner.

In sum, some 240,000 Ming soldiers (not counting the most recent group from Yunnan) were present in Dai Viet in 1426 and 1427 but only 86,340 Ming soldiers and officials (including those previously captured) were returned to China by early 1428 (per request of the Ming Emperor, no Ming soldier or official was allowed to remain in Dai Viet).  The Ming Army lost two out of every three men dispatched into Dai Viet.

Vietnamese historians were long puzzled on how, in 1426, no more than 3,000 Later Le resistance fighters could ambush an eight kilometer line of “100,000” Ming soldiers marching on a muddy road surrounded by flooded rice fields.  The difference was guns and tactics used by the Later Le compared to the guns used by Imperial Chinese military forces south of Beijing.

*In Chinese Military Technology and Dai Viet: c. 1390-1497, Sun Laichen commented on the 1426 ambush: “3,000 Dai Viet crack soldiers  … Ming troops lost almost all of their weapons.  Hence after retreating to Dong-quan they had to manufacture firearms and ammunitions using bronze from destroying the famous giant bell Quy-dien and urns at the Pho-minh temple.  … the weaponry of the Vietnamese troops must have been enhanced to an unprecedented degree.”

Ming Military Guns Used throughout China 1370 – 1425

*”This section is primarily based upon listings of 14 & 15th century Ming guns unearthed in China and listed in  “A Preliminary Study of Ming Dynasty Firearms” 明代前期有铭火铳初探 by Chéng Dōng 成东 in Cultural Relics, 1988 Issue 5, 文物 1988 5 http://ishare.iask.sina.com.cn/f/7802355.html 

Ming guns in the late 14th century and early 15th century can be divided into three categories.   These guns were provided to the Ming military through the Army Ordnance Bureau (军器局 – Quân Khí Cục) elements located at central, regional, provincial, and Guard unit levels.  These guns, all fired by fuse, appear to be the principal firearms used by Ming Forces in Dai Viet.

  1.   Hand-held guns: weighing just over two kilograms.  These were the primary firearms for Ming infantry forces.  There were two models:  one gun was 36cm long, caliber around 24mm.  The second was 44cm long, caliber around 20mm.

Note: the 24mm is roughly equivalent to a 6-gauge shotgun while a 20mm is close to a 10-gauge shotgun.  Presumably individual soldiers could handle the recoil of these guns while mid-size guns could not be hand-held because of the recoil.

  1. Mid-size guns.  The Ming mid-size military gun had a metal bowl at the end of the muzzle.   These guns were fixed to a platform or anchored to the ground before firing.  There were several models varied by bore size and weight.    The first gun was 31.5cm long, 8.35 kilograms, and bowl muzzle internal measurement at 10cm.+ The second gun was 36.5cm long, 15.75 kilograms, and a muzzle internal measurement at 11.9cm.++  The third gun as 52cm long, weighed 26.5 kilograms, and a muzzle internal measurement at 10.8cm.*  Ming Table of Equipment for a typical 5000 man Guard Unit (Wei) suggests the internal artillery unit of 400 men were issued 120 mid-size bowl guns.

+This measurement probably is the cup and not the bore, which should be around 5cm.

++Again, this is probably the cup and not the bore, which should be around 7cm.

*This is probably the cup measurement and not the bore, which should be close to 7cm.

  1.   Large guns:   A cannon made in 1377 was 100cm long with a muzzle of 21cm+ (weight was not provided).  Difficulty in moving larger guns because of weight relegated these weapons to static defensive positions and few in number.

+Again this was probably the cup measurement and the actual caliber between 5 and 9CM.

The Ming Divine Guns used against the Mongols (1410-1426)

Note:  These guns were also found in “A Preliminary Study of Ming Dynasty Firearms”

In 1407, Dai Viet royal prince and general Ho Nguyen Trung was captured and placed as the Chief of the Military Arsenal Bureau (兵仗局 – MAB  -Binh Trượng Cục) within the Ming Ministry of Works to incorporate Dai Viet techniques into Ming guns. The Dai Viet modifications included the world’s first flash pan to ignite the gun and the world’s first wad/wedge to fully occlude the barrel.  These guns were labeled “Divine” guns and had a range up to six times that of the regular Ming army guns.  Key craftsmen in the MAB were from Dai Viet.  The MAB produced 24,000 ” Divine” handguns and over 16,000 “Divine” mid-size guns in 1409 in time for the 1410 campaign against the Mongols.  These “Divine” guns were not allowed for use south of Beijing prior to 1425 and initially were used only by the Shenji Camp.  The Divine guns were:

  1. Handgun: The MAB mass-produced only one size handgun for general use by the individual soldier against Mongols.  It was 355mm long, weighed 2 plus kilograms, and 15mm caliber and identified as the Thiên Tự.  This gun replaced the  Ming 44cm long, 20mm caliber handgun.

Note:  The 15mm caliber handgun is equivalent to a 22-gauge shotgun.  Although the reduction to a 15mm caliber facilitated the firing of the Dai Viet Divine Arrow explosive device, it also dramatically reduced the recoil.

  1. Mid-size guns:  The MAB mass-produced two sizes of mid-size guns which eliminated the bowl attachment to the barrel  and added reinforcing rings to the muzzle, barrel, powder chamber and stock receptacle.

1]  the 52mm caliber, 435mm long, 8 kilogram gun.

2]  The 70mm caliber, 550mm long, 21 kilogram gun.

The Dai Viet Guns 

Sun’s “Chinese-Style Firearms in Dai Viet” identifies the following guns with flash pans used by the Later Le military in the 15th century.  While guns 1 and 3 are similar in size to those in China before 1407,  gun 2 seems to be a copy of the MAB Divine handgun for the infantry.   The enhancement of the guns available to the Later Le resistance forces mentioned by Sun was apparently the wooden wad/wedge and the lidded flash pan which were the key parts of the MAB “Divine” guns.

  1. The 31cm long 24mm caliber, 3.4 kilogram  handgun.
  2. The 36cm long, 15mm caliber, weight 2.3 kilograms handgun. Comment:  Photos of these guns from Sun’s Chinese Style Firearms in Dai Viet show the same positioning of rings around the powder chamber and the same positioning of the flash pan as in the MAB Divine 15mm caliber handgun.  The reduction from 20mm caliber to 15mm implies this gun was using wooden wedges to fully occlude the barrel.
  3. The 38cm long, 50mm caliber, weight 6.8 kilograms mid-size gun.

Comment:  This gun is also minus the “cup/bowl” on the muzzle a la the MAB mid-size guns. 

 Dai Viet Stratagems

Dai Viet had a long heritage of studying and using Chinese military doctrine and theories.  The Later Le military strategies and tactics as expounded by national hero Nguyễn Trãi were based on these Chinese military doctrines.  The following points emerged from various Vietnamese language documents on the Lam Son Resistance Group.

  1. Trai’s first strategy was Force Preservation.  Resistance units were not to attack fixed Ming defensive positions or attack Ming military units in battle formation.  A feigned attack was allowed to draw Ming forces into a chase scenario ambush.  Resistance forces did not defend fixed locations.

Note:  Of the fifty some key Dai Viet military leaders mentioned in historical records, only two were killed by the Ming in small skirmishes while in fixed positions around Dong Quan (Hanoi).  Two were captured with one escaping the same night and the second released in 1428.  One exception to restrictions against attacking an enemy fortress occurred in late 1427with an assault on the Ming fortress of Xuong Giang, which was required to become the final blocking force against the incoming 100,000 Ming reinforcements.

  1. The goal of Trai’s second strategy was to isolate Ming forces into defensive fortresses that would be surrounded, slowly starved, and obliged to surrender without any actual attack on the fortress.
  2. Trai’s third strategy was to only attack [ambush] Ming military forces moving along dirt roads into pre-selected ambush sites.  The ambush site could stretch for several kilometers along the road.  The terrain surrounding the ambush sites was selected so as to not allow Ming forces to counter-attack the resistance ambush forces.   For example:  the muddy rice fields surrounding the 1426 ambush site which included small hills/mounds [hiding the ambush force] in the middle of the fields made from clearing the rice fields of rock, etc.
  3. Trai’s fourth strategy was to cut off the support train from the combat troops.  Without supplies, the Ming forces could stop to die in place or withdraw.   The Resistance force would acquire all the supplies and live off the Ming rations.

Note:  Ming troops on the march normally would have a support/supply train carrying several months’ rations.  Porters sometimes were 40% of the Ming force in march formation.

  1. Trai’s fifth strategy was to kill senior Ming military leaders present on the battlefield.  In the 1426 major battle (ambush), the Ming Minister of War and overall civilian chief in Giao Chi (Dai Viet) was killed while Wang Tong, the Ming overall military commander in Giao Chi, was wounded by an arrow.  In the 1427 major battle (ambush), the incoming overall military commander, Liu Sheng, was lured into and killed in an ambush tailored to his characteristics.  The next day his deputy was killed.  A Minister of War assigned as a counselor also died during this march.   The last military commander of these reinforcements died the final day, after being cut off from their provisions for 14 days.   Ultimately 10,000 soldiers remained and surrendered.

Note:  Ming civilian and military officials had robes carrying large icons on the front and back which identified the specific civilian or military ranks (based on the Chinese nine rank levels.  For example, the Ming icon for level one and two generals was a lion.)

  1. Trai’s sixth strategy was to inflict maximum casualties.
  2. Trai’s ultimate strategy was to have the Ming emperor formally accept Dai Viet as a separate country and not part of China.  This was to include a formal recognition of a Dai Viet ruler and the customary sending of tribute every three years, as was done by all countries in East Asia except Japan.

Subsequent Dai Viet Military Reorganization

Note: from K Nhà Lê – Quyn X   Đi Vit S Ký Bn K Toàn Thư 

            In the summer of 1428, the Later Le issued instructions assigning a total of fifty men to each combat vessel within the Naval Guards units.   Five men of this number were to be assigned to camp duties, five assigned to transport of provisions, and five to other duties.  The number remaining for duty on board a ship presumably is thirty-five men.

Several weeks later, instructions were issued giving the organization and equipment for two armed naval groups known as Divine Thunder and Divine Lightning.  Each group was to have ten armed naval combat boats and two small reconnaissance boats.  One scribe was located at the Group location and one scribe assigned to each armed combat boat.  Group was authorized one “Great General Cannon”.   Each armed boat was authorized the following weapons:

One large caliber gun

One medium caliber gun

Eight small caliber guns

Five crossbows,

Five long hand sickles (câu liêm)

Five long handle spears

Four small sickles (phi liêm)

Each individual has a sword and shield plus four 1st class hand arrows and three 2d class hand arrows.

Note:  The small caliber gun should be a 15mm caliber handgun.  The medium gun should be a 50mm gun and the large caliber gun should be a 70mm gun.  The 14 men with spears and sickles would seem to be a boarding party while the guns element would be one man per each handgun plus roughly two men each medium and large caliber gun plus another two men supplying gunpowder and projectiles for a total of perhaps 14 men.  Plus the five men on crossbows, the one scribe, and the boat captain would bring the number to approximately 35.  The two to one ratio of guns to crossbows (and 14 men to 5 men) possibly reflects a similar ratio in Dai Viet’s armed ground forces during this period.

Summary

The Later Le Group’s 1424-1425 foray into southern Dai Viet allowed them to battle harden their key troops, recruit and train local recruits plus rank & file non-Chinese soldiers recruited from surrendered Ming forces, and set up ruling structures for the civilian areas plus a semi-military force in Southern Dai Viet.  The late 1426 move into the rest of Dai Viet further isolated remaining Ming controlled fortresses/urban areas, established a Later Le ruling structure and semi-military home defense organization, and created a large Army for the defense of Dai Viet.  The Later Le Group’s key armed Guards units remained the essential military force ambushing and ultimately surrounding the Ming reinforcements. 

Conclusion

The key to Nguyen Trai’s winning tactics was the use of Ho Nguyen Trung’s modifications to firearms to thoroughly overwhelm marching Ming soldiers through sustained firepower over a period of hours — not minutes.   As Ming soldiers jumped off the road into rice paddies, they became targets for crossbows and spears hiding with the guns on the small hills in the middle of the rice fields.  Pockets of resistance would become the target for focused attack by the Later Le superior firepower.  Porters and local populations could then go through the dead and dying to recover anything of value.

The key to the Later Le strategies was the Ming difficulty to transform marching soldiers into battle formations.  This weakness was probably directly observed during the Ming campaigns against the Mongols in 1410, 1414, and 1422.   Ho Nguyen Trung plus two other Vietnamese were on the 1410 campaign as they had played a major role in devising firearm tactics for China’s first Armed Unit, the Shenji ying (Divine Weapons Camp- Thần cơ Doanh).  This would have given Trung et al sustained time with the Ming Emperor and senior Ming commanders in the field plus plenty of time observing Ming troops moving in the field.  Dai Viet terrain also constricted marching Ming troops to dirt roads in rice growing areas or in the mountains.  Trung and Nguyen Trai were at the royal court in Tay-do and assumedly their bright intellectual stars.  Trai has long been suspected of being in China from 1407 until circa 1423-24.   In his poem “Quan Hai” Trai mentions obstructions against the Ming Navy created by Trung in his first two lines, Trung’s comment on support of the people was implied in the third line and that this individual is a hero in a later line.  Perhaps Trung was this hero, in Trai’s eyes, for what Trung contributed to the victories of 1426 and 1427.   In any case, it was Trung’s modifications to firearms, which were the basis for the Later Le to assume power in Dai Viet and build the strong military force of the late 15th century.

 Source: Sự cải tiến to lớn sức mạnh quân sự Đại Việt sau thắng lợi của triều Hậu Lê từ 1424 | Nghiên Cứu Lịch Sử (nghiencuulichsu.com)