Thứ Sáu, 28 tháng 5, 2021

Văn Cao: Một thiên tài bị lưu đầy

Trần Mạnh Hảo .

Văn hóa - nghệ thuật (Nguồn : dân luận )

Âm nhạc sang trọng bậc nhất nước Việt của ông còn sống mãi. Những bài hát rất hay, rất quý phái cao sang đầy chất thánh ca của ông vẫn hằng tụng ca con người, tụng ca Cái Đẹp, như một cứu cánh góp phần cứu chuộc dân tộc ta, đất nước ta đang có cơ bị diệt vong bởi chính sự băng hoại của những tà thuyết phi nhân. Xin được gọi ông bằng tên gọi thường nhật trìu mến nhất mà thế hệ đi sau ông vẫn hằng được gọi thầm tên ông: ANH VĂN; như ngày xưa thi thoảng được hầu rượu ông nơi quán rượu gần rạp xiếc. Vâng, anh Văn suốt một đời sống chết cũng chỉ vì hai chữ Nhân Văn thiêng liêng, cao cả này mà thôi...

*

“Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong những thân phận riêng tư...” - Trịnh Công Sơn.

Năm 2013 này là năm kỷ niệm 90 năm ngày sinh của thiên tài văn nghệ Văn Cao - người đã tự lưu đầy mình vào vĩnh cửu bằng ba tài năng lớn: hội họa, thi ca và âm nhạc. Văn Cao nhà cải cách tiền phong cả ba nghệ thuật: hội họa, âm nhạc và thi ca. Bài này chỉ nói về kiếp nhạc của Văn Cao.

Không đợi khi xuân đến, tết về như dịp này, chúng tôi mới nghe lại bản nhạc bất hủ: “Mùa xuân đầu tiên” Văn Cao khởi viết cuối tháng 12-1975, hoàn thành trong dịp tết Bính Thìn năm 1976.

Đây là bài hát có số phận đặc biệt nhất trong cuộc đời sáng tác của Văn Cao. Đây cũng là bài hát mang nhiều tâm trạng đối lập, hòa trộn nước với lửa: vui ít, buồn nhiều, mừng ít, tủi nhiều, hoan ca ít, bi ca nhiều, tha thiết ít, nghẹn ngào nhiều, bâng khuâng ít, đau đáu nhiều, tự sự ít, ai oán nhiều, mê say ít, thở than nhiều, cứng cỏi ít, run run nhiều, da diết ít, nỉ non nhiều, cười ít, khóc nhiều, sum họp ít, cô đơn nhiều, yêu thương ít, đau thương nhiều, gặp gỡ ít, bơ vơ nhiều...

Hầu như tất cả các trạng thái tình cảm trái ngược nhau của con người đều có trong bản nhạc kỳ lạ này: ai vui hát lên thì nghe vui, ai buồn hát lên thấy buồn não ruột, ai đau khổ hát lên thấy một trời đau khổ, ai sầu thảm hát lên thấy cả một thế giới sầu thảm đang đồng cảm cùng mình…

Nghe đi nghe lại bản nhạc này, ta thấy xuất hiện trong tâm trí mình rất nhiều tâm trạng không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt. Nếu bạn đã hoặc đang đi qua bể khổ trần gian, nghe bản nhạc “Mùa xuân đầu tiên” bạn sẽ cảm thương, nhờ nước mắt diễn đạt nỗi lòng mình.

Riêng lời bài hát đã là một bài thơ hay:

“Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường mùa vui nay đã về
mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng cho bao tâm hồn.
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh
Niềm vui phút giây như đang long lanh.
ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên.
ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm.
Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người.
Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường, mùa vui nay đã về.
Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu
với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.”

Rất nhiều chim én, nhiều nắng gió, có nước mắt vui gặp gỡ của đàn con nay đã về, có cuộc đời êm ấm... nhưng sao hình ảnh “khói bay trên sông, gà đang gáy trưa trên sông” lặp lại hai lần làm không gian của “Mùa xuân đầu tiên” xa xôi, bơ thờ thế, xao xác thế, hoang vắng thế, hiu quạnh thế, đơn độc có phần cô đơn thế? Chợt nhớ nỗi buồn thiếu quê hương của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu xưa, cũng một tiếng gà trưa Văn Cao nay, một khói sóng trên sông xa Văn Cao nay, u hoài khôn xiết: “một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông”:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!)

Chợt nhớ Lưu Trọng Lư “thời con nai vàng ngơ ngác” với câu thơ tiền chiến xưa sao rất đồng cảm với nỗi vui não nùng Văn Cao nay: “Tiếng gà trưa xao xác não nùng”.

Bài hát như một điệu valse bằng nước mắt; sự thướt tha, quý phái của một giai điệu bi thương; sự sang trọng của ngậm ngùi, day dứt; sự lãng mạn của một phiêu linh, xô dạt; sự mê đắm của một vu vơ; sự đoan trang của cái đẹp lỡ thì; sự liêu trai của ngơ ngác, đìu hiu; sự dịu dàng của nỗi thương đau, xót nhớ...

Chừng như đã mấy chục năm chiến tranh liên miên chưa từng có xuân về? Chừng như gần hết cả đời người bận chuyện đấu tranh giai cấp giành giật miếng ăn chưa từng thấy chim én báo xuân? Chừng như đã rất lâu rồi sự căm thù trùm lên xã hội không còn ai biết thương người? Chừng như đã lâu lắm rồi ta tha hương trên chính quê hương mình? Chừng như suốt mấy cuộc chém giết kinh hoàng mạo danh cách mạng, không còn ai biết yêu con người? Chừng như mấy mươi năm rồi con người đã quên mình còn nước mắt? Chừng như lâu rồi tâm hồn người không được sưởi nắng mùa xuân?

Và chừng như lâu lắm rồi Văn Cao quên không còn nhớ mình từng là nhạc sĩ lãng mạn đã có cả chục ca khúc vào hàng kiệt tác? Chừng như cây đàn piano cũ kỹ do Hội nhạc sĩ Việt Nam cho Văn Cao thuê mỗi tháng 07 đồng, (thuê căn gác chật hẹp cũ kỹ 108 Yết Kiêu 15 đồng) đã bị thời gian phủ bụi đầy rêu mốc? Chừng như đôi tai Văn Cao đã bị súng đạn thời cuộc, sự hò hét xướng ca hò vè phục vụ chính trị một thời làm ù đặc, khi tất cả các kiệt tác âm nhạc của ông đều bị chế độ Việt Nam dân chủ cộng hòa (Miền Bắc) cấm hát, trừ bài quốc ca (kể cả thơ Văn Cao cũng bị cấm)?

Và chừng như toàn bộ vết thương cuộc đời Văn Cao, vết thương cuộc đời dân tộc, bỗng mượn ngón tay ông mà nhỏ xuống cây đàn piano những giọt nước mắt giai điệu, khiến những vết thương chợt mở miệng ca hát: “Mùa xuân đầu tiên”

Chừng như nỗi niềm ngày 30 tháng tư năm 1975: “có một triệu người Việt Nam vui thì cũng có một triệu người Việt Nam buồn” (lời ông cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã hiện ra nơi bài hát: “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao? Trong bài hát ấy, kỳ lạ thay, tôi nghe có một nửa nước vui thắng trận trào nước mắt và một nửa nước buồn thua trận cũng trào nước mắt, chợt ôm chầm lấy nhau mà quằn quại, mà dằn vặt giằng xé nhau, cười khóc mếu máo bầm dập nhau, nên vui ấy sao buồn hiu hắt thế, lênh đênh phiêu bạt thế, nức nở nghẹn ngào thế?

Có lẽ, chính vì những điều trên mà kiệt tác “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao sau khi được báo “Sài Gòn giải phóng” in trước tết Bính Thìn: 01-01-1976, được hát trên Đài Tiếng nói Việt Nam mấy lần liền bị cấm suốt 24 năm (1976-2000). Sinh thời, Văn Cao không được nghe, được nhìn thấy đứa con tinh thần lớn lao này của mình được trình diễn. Sau khi ông mất (1995) 05 năm, “Mùa xuân đầu tiên” mới ra khỏi nhà tù kiểm duyệt của chế độ.

Xin quý bạn đọc hãy nghe nhà thơ, họa sĩ Văn Thao, con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao kể sơ qua về sự ra đời của bài hát này:

“Sau khi bài "Tiến về Hà Nội" ra đời cuối năm 1949, bố bị đưa ra kiểm điểm và bị phê phán khắp nơi. Từ đó bố đã thề, sẽ không sáng tác ca khúc chính trị nữa... Nhưng rồi những năm tháng sau này đôi lúc hứng khởi bố vẫn sáng tác. Vẫn biết có sáng tác ra cũng chẳng được dàn dựng...

Tôi còn lưu giữ được một số tác phẩm của ông sáng tác sau này nên tôi hiểu những điều ông nói. Giá như ông không bị rơi vào cái nạn “Nhân văn” và bị “vô hiệu hoá” mất 30 năm thì tôi chắc rằng ông sẽ còn sáng tác được thêm nhiều tác phẩm cho nền âm nhạc Việt Nam.

Những ngày tháng sau đó, căn gác nhỏ nhà Văn Cao không lúc nào ngớt khách. Những khuôn mặt bừng sáng. Những nụ cười rạng rỡ. Những giọt nước mắt sung sướng bên những ly rượu tràn đầy và có cả những khuôn mặt, một thời không dám bước chân đến căn gác nhỏ này vì sợ “bị vỗ vai”.

Văn Cao đã sáng tác xong ca khúc MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN vào đúng dịp tết Bính Thìn.” - Trích bài “Văn Cao với ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Thao in trên “Tạp chí Sông Hương” số 179-180

Văn Thao tiết lộ tiếp rằng, bài hát bị cấm ở Việt Nam nhưng bên nước Liên Xô người ta lại dịch sang tiếng Nga, phát trên Đài phát thanh Matxcova:

“Nhưng cũng thật bất ngờ (không hiểu bằng con đường nào), trong cái năm 1976 ấy MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN đã được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả 100 Rúp. Văn Cao phải viết giấy uỷ quyền qua sứ quán để con gái ông đang học bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: “Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu.””

Qua tiết lộ trên của anh Văn Thao, con trưởng nhạc sĩ thì nhà ông Văn Cao trên căn gác nhỏ 108 Yết Kiêu suốt một thời luôn luôn có công an ngầm canh gác, ai đến đều “bị vỗ vai” hỏi tên tuổi, xem đến nhà tên phản động “Nhân Văn” làm gì? Người viết bài này sau năm 1975 có lần đến thăm nhạc sĩ Văn Cao để cho ông mượn cuốn tiểu thuyết vĩ đại: “Giờ thứ 25” của văn hào Romania Constantin Virgil Gheorghiu (1916-1992) mang ra từ Sài Gòn như đã hứa, cũng đã từng bị công an mật “vỗ vai” hỏi đi đâu? Bèn bảo: đi phỏng vấn tác giả “Quốc ca” viết bài in báo cũng bị cấm à? Người “vỗ vai” hất đầu cộc lộc: “Vào đi”.

Người ta đã cầm giữ Văn Cao như một tù nhân lương tâm bị giam lỏng, một thứ nhà tù tại chỗ, nhà tù nhân dân kiểu xã hội chủ nghĩa. Rằng Văn Cao bị vô hiệu hóa suốt 30 năm vì tội Nhân Văn - Giai Phẩm. Rằng suốt 30 năm ấy, nhạc sĩ Văn Cao sống rất nghèo khổ, “bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu”.

Chúng ta lại được nghe người con trai thứ của nhạc sĩ Văn Cao, nhà thơ Nghiêm Bằng kể sơ qua về sự ra đời của “Mùa xuân đầu tiên”:

“Đó là một đêm vào giữa tháng 12-1975. Chúng tôi đang sống với cha mẹ trong ngôi nhà số 108 Yết Kiêu. Mùa đông Hà Nội rét tê tái. Cha tôi đã từ lâu rồi không đàn. Vậy mà trong đêm ấy, tôi nghe có tiếng chân nhè nhẹ lần từng bước từ phòng trong ra gần chiếc đàn piano - đối diện với chiếc đivăng tôi đang ngủ.

Một giai điệu khe khẽ vang lên, nó được đàn bởi một bàn tay phải. Cũng phải nói thêm là cha tôi đã đàn trên chiếc đàn vốn được Hội Nhạc sĩ VN cho thuê lại với giá 7 đồng rưỡi một tháng (lương tôi hồi đó là 63 đồng, còn tiền thuê nhà là 15 đồng); từ ngày kỷ niệm 30 năm Tiến quân ca (1974), chiếc đàn mới được tặng hẳn cho cha tôi thì cha lại rất ít có dịp dùng đến.

Bài hát đã được báo Sài Gòn Giải Phóng số năm mới 1-1-1976 in trang trọng ở bìa 4 và thu thanh ngay sau đó, được phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, nếu tôi không nhầm thì do ca sĩ Trần Khánh và đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam trình bày. Bài hát được phát khoảng mươi lần trong chừng một tháng (hồi ấy ca khúc được truyền bá chủ yếu qua sóng phát thanh), rồi không hiểu sao lặng lẽ chìm đi, như thể bị quên lãng.

Như mọi lần, trong suốt mấy chục năm, cha không tỏ ra bực bội gì, chỉ hơi buồn thôi. Cha tôi nói chắc chắn bài hát sẽ có ngày được hát lại và mọi người sẽ yêu nó. Và như mọi lần, cha tôi lại đúng. Chỉ có điều lúc đó cha tôi không còn nữa. Khi bài hát lần đầu tiên được phát trên sóng truyền hình Việt Nam năm 2000, cha tôi đã mất được năm năm.” - Nhà thơ NGHIÊM BẰNG - THU HÀ ghi

Nhà văn Vũ Thư Hiên, trong tác phẩm “Đêm giữa ban ngày”, kể lại lời Văn Cao nói với ông về Tố Hữu hay Trường Chính chủ trương đánh “Nhân Văn”, kể lại chuyện ông lãnh tụ Trường Chinh cho gọi Nguyễn Tuân và Văn Cao lên cảnh cáo sau vụ “Nhân Văn – Giai Phẩm” < *1 *> (xem thú thích dưới bài)

Xuân Diệu đấu tố Văn Cao là trùm phản động, là đầu sỏ chống cộng < *2*> (xem chú thích cuối bài)

Với tất cả tội trạng tày trời do Xuân Diệu đấu tố Văn Cao công khai trên báo chí, tội của Văn Cao có khi còn to hơn tội của bà nhà văn Thụy An và ông Nguyễn Hữu Đang (cùng bị án 15 năm tù giam, 05 năm quản thúc vì hai người này bị cho là đầu sỏ gây ra vụ án chống đảng “Nhân văn – giai phẩm”). Sở dĩ Văn Cao thoát tù mọt gông vì ông chính là tác giả Quốc ca.

Ngay sau vụ “Nhân Văn”, nhà nước cộng sản tính lấy một bài hát “Cách mạng tiến quân” của Đỗ Nhuận làm bài quốc ca, thay bài “Tiến quân ca” của Văn Cao nhưng việc không thành. Mấy năm sau, năm 1981 nhà nước mở cuộc thi quốc ca trong suốt hai năm, quyết thay bài hát của tên phản động đang bất đắc dĩ dùng làm quốc ca; nhưng mấy trăm bài dự thi thay đổi quốc ca, không bài nào được chọn (vì quá tẻ nhạt) để thay thế bài ca lịch sử của Văn Cao.

Nếu không có bài quốc ca che chắn, có lẽ Văn Cao có thể đã chết trong tù Cộng sản? Một Văn Cao mềm mỏng, nồng nàn, say đắm, lãng mạn tận cùng (với các ca khúc bất diệt: “Buồn tàn thu”, “Suối mơ”, “Bến xuân”, “Trương Chi”, “Thiên Thai”...) trong một Văn Cao tỉnh bơ, quyết liệt, lạnh băng, thần kinh thép, thậm chí dữ dằn, sắt máu: “thề ăn gan uống máu quân thù”... “đường ta đi xây xác quân thù”... đến cùng tận khi một mình một xe đạp, đến tiệm hút thuốc phiện ở Hải Phòng, dương khẩu súng lục số 7165 của tổ chức (do Nguyễn Đình Thi trao) nhắm thẳng vào đầu Đỗ Đức Phin (bị Việt Minh cho là tay sai của Nhật) tuyên án từng lời đanh thép: tao bắn mày vì mày là Việt gian tay sai giặc Nhật! Đoạn, Văn Cao bóp cò súng cái đoàng, đầu Đỗ Đức Phin nức toác, tóe máu; rồi ông thủng thẳng nhét súng vào thắt lưng, đủng đỉnh đạp xe đi như đang dạo mát...

Sau này, cả cuộc đời còn lại, Văn Cao vô cùng ân hận vì đã bắn chết một con người là Đỗ Đức Phin. Đến nỗi, sự sám hối quằn quại khôn xiết này đã khiến ông không còn dám gõ lên piano những giai điệu lãng mạn tuyệt đẹp thuở ban đầu kiểu “Suối mơ”, “Bến xuân”... nữa; vì ông có cảm giác tay mình còn nhuốm máu đồng loại. Thế mà, có những kẻ vô lương tâm, can dự vào việc giết chết hàng chục triệu đồng bào vô tội của mình mà vẫn vênh mặt tự hào, chẳng một chút ăn năn sám hối!

Nghe nói Văn Cao còn bắn sẩy (bắn hụt) hai mật thám Nhật tại Hà Nội là Cung Đình Vạn và Võ Văn Cẩm (không biết có phải vì ông căm thù quân Nhật từng giết bố vợ mình là cụ Nghiêm Xuân Huyến - một chủ báo, chủ xuất bản lớn Hà Nội từng bị Nhật thủ tiêu trong tù?). Một con người như thế không dễ gì thỏa hiệp, đầu hàng, thà chết cho điều mình tin yêu hơn là phải sống như một chiếc bóng trong suốt hơn ba mươi năm bị giam lỏng trong án tù thả rông: “Nhân văn - Giai phẩm”...

Có lần, Văn Cao kể cho người viết bài này (trong một bàn rượu đơn sơ “cuốc lủi”, lạc rang, đậu phụ mắm tôm, với bạn tâm giao: nhà văn Mạc Phi, nhà văn Sơn Tùng...) rằng: “Sau vụ Nhân Văn, anh em “chống đảng” chúng tôi, ngoài mấy người bị án tù 15 năm, tất cả đều bị đi cải tạo lao động trên Tây Bắc. Trong chặng đường đi đày trên tàu hỏa, dù tôi đang đau dạ dày nặng sắp chết vẫn bị điệu đi, mấy lần tôi đã toan nhảy xuống đường tự tử khi tàu chạy, nhưng hình bóng đàn con lóe lên trong đầu như ánh chớp, hình bóng bà Băng (bà Nghiêm Thúy Băng – phu nhân nhạc sĩ) còng lưng nuôi đàn con bơ vơ mất bố, tôi liền bỏ ý định tự sát để tiếp tục sống hèn mà trở về nuôi con...”

Có lẽ men “cuốc lủi” làm Văn Cao cảm động, tay ông run run, kể tiếp: “Thảm nhất là khi ở nơi cải tạo lao động, đến bữa ăn, cứ thấy mình ngồi bàn nào là anh em (cùng bị đi đày lao động) lại tìm sang bàn khác ngồi, không ai chịu ngồi cùng bàn ăn với kẻ đầu sỏ Nhân Văn, đến nỗi chị nuôi trại đi đày phải xẻ một suất cơm ôi cá thối cho tôi ngồi một mình một bóng mà ăn cho khỏi chết đói chứ nào có ngon lành gì...”

Ngày 30 tháng tư 1975, ngày kết thúc 30 năm chiến tranh, theo mấy người con và mấy người bạn thân của nhạc sĩ kể lại, Văn Cao im lặng không nói gì, không reo mừng hò hét vỗ tay vỗ chân rầm rập trong hàng nghìn ca khúc khẩu hiệu điếc tai như phần lớn đồng nghiệp đã hét. Có lẽ, ông nghĩ rằng, nhờ chiến thắng này mà có thể thân phận “tù tại ngoại” của ông cũng sẽ được giải phóng, thoát án giam lỏng nhân văn chăng?

Dồn nén khát vọng tự do mấy chục năm, dồn nén khát vọng hòa bình mấy chục năm, dồn nén khát vọng mùa xuân mấy chục năm, dồn nén khát vọng thoát khỏi “nhà giam tư nhân” mấy chục năm, dồn nén khổ đau buồn hận mấy chục năm, dồn nén oan ức bị chà đạp mấy chục năm, chợt một sáng cuối đông, đầu xuân năm 1976, vỡ òa cảm xúc, vỡ òa nước mắt nhỏ giọt yêu thương, nhỏ giọt mật đắng nghẹn ngào lên từng phím đàn thành giai điệu Văn Cao “Mùa xuân đầu tiên” chăng?

Thành ra, “Mùa xuân đầu tiên” chính là lời reo vui của đắng cay, niềm rưng rưng kiếp nạn giải thoát, nỗi hoan ca ngục tù gặp nắng gió mênh mông...?

Xin xem thêm tài liệu tổng kết vụ án “Nhân Văn - Giai Phẩm” (NVGP) của đại tá công an A 25 Thái Kế Toại đã in công khai trên rất nhiều trang mạng, để thấy thân phận của Văn Cao suốt ba mươi năm dưới chế độ “ưu việt gấp triệu lần tư bản” thê thảm là dường nào < *3 *> (xem chú thích cuối bài)

Qua lời tự thú của vị đại tá công an phụ trách theo dõi văn hóa văn nghệ trên, ta thấy số phận kẻ trọng tội NVGP bị lưu đày trong chính căn phòng mình, trên chính quê hương mình của Văn Cao và các bạn hữu NVGP của ông hầu như đã bị tước quyền công dân, tước hết quyền sáng tạo nghệ thuật, bị “giam tại nhà”, bị đấu tố, bị làm nhục, bị cải tạo lao động hà khắc; không khác mấy so với những kẻ thua trận Việt Nam cộng hòa bị tù tội trong danh phận học tập cải tạo sau năm 1975...

Không thấu hiểu hoàn cảnh sống bị chà đạp, bị lăng nhục, vùi dập, bị đói khổ, bị mất hết tự do nơi Văn Cao suốt ba mươi năm, chúng ta sẽ không cảm nhận được hết nỗi vui của người tù vừa tìm thấy một khe hở gió nắng, được vụt lóe với khói trên sông, với tiếng gà trưa hiu quạnh trong nỗi đau nghẹn ngào “Mùa xuân đầu tiên” này...

Chính nỗi đau buồn kia đã đẩy Văn Cao tới chân tường của cô đơn, lưu đày ông vào ly rượu và khói thuốc. Chứng nghiện rượu đã giúp Văn Cao phần nào quên đi thực tại thê thảm, giúp ông có nghị lực để sống qua thời thương khó. Nhiều đêm, không ngủ được, thức khuya để tìm ảo giác trong men rượu, thấy bóng mình in trên tường, Văn Cao chợt rùng mình hoảng sợ, ngỡ là công an mật nửa đêm xuyên tường đến hỏi cung ông, suýt nữa làm ông co cẳng ù té chạy...

Suốt một đời Văn Cao không chạy thoát khỏi bóng mình, không thoát khỏi kiếp lưu đầy thiên bẩm của một nghệ sĩ lớn mà thời đại dường như không đủ chỗ cho mình tỏa bóng. Đành thu bóng lại như con mèo nghệ thuật nằm cuộn tròn trong đống tro tàn cải tạo tại gia mà ăn năn hối cải về tội chống đảng của mình.

Đâu rồi chàng trai Văn Cao yêu đời, yêu người, tự do tự tại, thanh bình, phiêu lãng miền thiên giới, thần tiên sống lẫn con người, lãng mạn tới tận cùng chân trời góc bể trong những ca khúc tiền chiến tuyệt tác? Xin cùng nghe lại bản nhạc đầu tay tuyệt diệu của trang thiếu niên 16 tuổi, và xem lại lời của ca từ “Buồn tàn thu”:

Ai lướt đi ngoài sương gió,
Không dừng chân đến em bẽ bàng,
Ôi vừa thoáng nghe em mơ ngay bước chân chàng,
Từ từ xa đường vắng.
Đêm mùa thu chết, nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng.
Em ngồi đan áo lòng buồn vương vấn, em thương nhớ chàng.
Người ơi còn biết em nhớ mong,
Tình xưa còn đó xa xôi lòng.
Nhờ bóng chim uyên, nhờ gió đưa duyên
Chim với gió bay về, chàng quên hết lời thề.
Áo đan hết rồi, cố quên dáng người,
Chàng ngày nào tìm đến?
Còn nhớ đêm xưa kề má say sưa
Nhưng năm tháng qua dần, mùa thu chết bao lần.
Thôi tình em đấy, như mùa thu chết rơi theo lá vàng.

“Buồn tàn thu” một nỗi buồn đẹp, trong veo dù tình em tưởng “chết rơi theo lá vàng”. Cái buồn của tình yêu “em thương nhớ chàng” Văn Cao kết hợp hồn nhạc ngũ cung với chất khải huyền Thánh ca Thiên Chúa giáo rất cổ thi; như người chinh phụ nhớ chinh phu “Chinh phụ ngâm” Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm, như thần thiếp nhớ quân vương “Cung oán ngâm khúc” Nguyễn Gia Thiều, Kiều nhớ Thúc Sinh trong mùa thu chết “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” Nguyễn Du thuở lục bát “người lên ngựa, kẻ chia bào” của “bụi hồng dặm cuốn chinh an”...

Cái buồn của con người gặp cái buồn của trời đất, rất “mang mang thiên cổ sầu” Văn Cao. Chàng thiếu niên 16 tuổi đã ký thác đời mình trong vàng thu lá chết, lấy lá vàng mùa thu làm chiếc diều của của nghệ thuật muôn đời siêu thoát. Chàng tự lưu đày mình vào mùa thu một cách tự nguyện. Chàng chết đuối theo vàng thu chìm nghỉm để bất tử trong giai điệu du dương, sang trọng, như danh họa Nga gốc Do Thái Levitan phó linh hồn cho mùa thu Nga vĩnh cửu sơn dầu...

Ngay từ 16 tuổi, bằng sự lãng mạn tận cùng qua “Buồn tàn thu”, Văn Cao đã sung sướng được đắm chìm vào vương quốc Cái - Đẹp. Chàng dùng nỗi buồn làm rượu, làm lương thực hằng sống nuôi dưỡng những giai điệu du dương lãng mạn đẹp nhất của nền tân nhạc Việt Nam thuở ban đầu trong năm kiệt tác vô song: “Buồn tàn thu”, “Suối mơ”, “Bến xuân” (lời Phạm Duy) “Trương Chi” và “Thiên Thai”...

Dường như năm bản nhạc lãng mạn trên là năm bản thánh ca của tâm hồn con người, đưa ta thoát mọi phàm tục để được thánh hóa, được thăng hoa tới muôn vàn mê đắm, thoát khỏi hận thù mà bất tử với thương yêu? Bản tình ca của nỗi buồn, của Cái - Đẹp ban sơ được hát lên cùng thiên giới thiêng liêng niềm hoài niệm trần thế; nơi suối nguồn róc rách mê ly chảy ra từ năm dòng kẻ nhạc Văn Cao, theo giai điệu thiên thần réo rắt thanh tao kia mà rót vào hồn ta hơi thở đất trời, rót vào tai ta chất men say của niềm ham sống, của tin yêu và hoài vọng. Âm nhạc Văn Cao nâng cánh con người bay lên cõi đẹp, cõi mê, cõi thần tiên, cõi hằng sống là vì thế chăng?

Chừng như Văn Cao đã ngầm ký gửi thân phận mình vào hai ca khúc lãng mạn một cách siêu nhiên có phần kỳ bí, huyền nhiệm: “Thiên thai” và “Trương Chi”, vừa mang phong cách cao sang, nền nã, cổ điển của nghệ thuật Apollon - thần ánh sáng và thi ca, vừa mang phong cách ma mị, xuất thần, cuồng si của nghệ thuật Dionysos - thần rượu nho (theo quan niệm về bi kịch Hy Lạp của Nietzsche)?

Văn Cao, ngay từ độ đôi mươi, đã tự đày ải mình lên miền thiên giới trong đại kiệt tác “Thiên Thai”. Cuộc nhập “Thiên Thai” ấy không chỉ có hai chàng Lưu Nguyễn mà thực ra đã có ba chàng: người tham gia khí muộn vụ thiên hành lên cõi tiên ấy chính là Văn Cao:

Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên
Kià đường lên tiên, kìa nguồn hương duyên
theo gió tiếng đàn xao xuyến
Phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền
Mấy cung trìu mến như nước reo mạn thuyền

Âm ba thoáng rung cánh đào rơi
Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời
Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền nan
Quê hương dần xa lấp núi ngàn
Bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền
Ai hát trên bờ Đào Nguyên

Thiên Thai chốn đây Hoa Xuân chưa gặp Bướm trần gian
Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần
Thiên Tiên chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm
Khúc nghê thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn

Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quyên
đây đó nỗi lòng mong nhớ
Này khúc bồng lai
là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi
Đàn xui ai quên đời dương thế
Đàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên

Thiên Thai! Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian
Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần

Gió hắt trầm tiếng ca tiếng phách ròn lắng xa
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta

Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn quên trần hoàn
Cùng bầy tiên đàn ca bao năm
Nhớ quê chiều nào xa khơi Chắc không đường về
Tiên nữ ơi!
Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nao?
Những khi chiều tà trăng lên
Tiếng ca còn rền trên cõi tiên

Văn Cao và hai chàng Lưu Nguyễn đã nhập “Thiên Thai” nghệ thuật. Nơi đó, Cái Đẹp chính là tiên nữ, khởi nguồn mọi xúc cảm hồn người. Nghệ thuật, nói cho cùng KHÔNG VỊ BẤT CỨ ĐIỀU GÌ, vì nó là cái chân thiện mỹ đã được thánh hóa, được đóng dấu thiên giới cao sang. Tột cùng của nghệ thuật là sự thoát tục, sự thăng hoa con người lên những thế giới khác, tâm hồn khác, rung động khác, mê ly khác, ảo diệu khác... do con đò của tưởng tượng chở ta sang bờ bên kia của sự thật, bờ bên kia của thế giới.

Những giai điệu thần tiên mê ly hết mực Văn Cao đã đưa hồn ta du nhập cùng ba chàng lãng tử Lưu - Nguyễn - Văn vào cõi trời. Thiên Thai ấy, tiên nữ ấy, nghê thường ấy hóa ra không ở đâu xa, lại ở chính nơi hồn ta khi được âm nhạc thiên tài Văn Cao đánh thức...

Văn Cao hóa thân vào bi kịch nghệ thuật Trương Chi, hay chính hồn chàng Trương Chi đã ám lấy cuộc đời Văn Cao trong một ca khúc hay đến rợn người, hay đến ngờ có ma trong giai điệu du dương chìm lắng, thê lương, rờn rợn liêu trai, khuya khoắt ngồi nghe một mình có thể nổi da gà:

Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ
Trầm trầm không gian mới rung thành tơ
Vương vất heo may hoa yến mong chờ
Ôi, tiếng cầm ca thu tới bao giờ.

Lòng chiều bơ vơ lúc thu vừa sang,
Chập chùng đêm khuya thức ai phòng loan
Một cánh chim rơi trong khúc nhạc vàng
Đây đó từng song the hé đợi đàn.

Tây hiên Mỵ Nương khi nghe tiếng ngân
Hò khoan mơ bóng con đò trôi
Giai nhân cười nép trăng sáng lả lơi, lả lơi bên trời

Anh Trương Chi
Tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung,
Anh thương nhớ.
Oán trách cuộc từ ly não nùng.

Đò trăng cắm giữa sông vắng.
Gió đưa câu ca về đâu?
Nhìn xuống đáy nước sông sâu.
Thuyền anh đã chìm đâu!
Từng khúc nhạc xa vời
Trong đêm khuya dìu dặt tiếng tơ rơi.
Sương thu vừa buông xuống
Bóng cây ven bờ xa mờ xóa dòng sông

Ai qua bến giang đầu tha thiết,
Nghe sông than mối tình Trương Chi
Dâng úa trăng khi về khuya,
Bao tiếng ca ru mùa thu.

Ngoài song mưa rơi trên bao cung đàn
Còn nghe như ai nức nở và than,
Trầm vút tiếng gió mưa
Cùng với tiếng nước róc rách ai có buồn chăng?
Lòng bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn
Về phương xa ai nức nở và than,
Cùng với tiếng gió vương,
Nhìn thấy ngấn nước lấp lánh in bóng đò xưa.

Đò ơi! Đêm nay dòng sông Thương dâng cao
Mà ai hát dưới trăng ngà
Ngồi đây ta gõ ván thuyền,
Ta ca trái đất còn riêng ta.
Đàn đêm thâu
Trách ai khinh nghèo quên nhau,
Đôi lứa bên giang đầu.
Người ra đi với cuộc phân ly,
Đâu bóng thuyền Trương Chi?

Bi kịch Trương Chi chính là bi kịch của nghệ thuật, bi kịch cuộc đời, hơn nữa là bi kịch của thiên tài và thời đại, bi kịch của Văn Cao và chế độ… Hình như Văn Cao đã đổi vai cho chàng ca sĩ thiên tài Trương Chi trong câu chuyện cổ diễm tình, được kể lại bằng hồn Văn Cao với giai điệu bi ca, khốc ca, hú ca, Mỵ Nương ca?

Hồn Trương Chi u uẩn, u u trong gió sương vương vấn trên sông, đêm đêm đã lấy đi hết nước mắt nàng Mỵ nương ân hận nghìn đời. Nay hồn ấy, tình đơn phương yêu đến chết ấy lại nhập vào hồn Văn Cao với giai điệu sầu thương, nức nở, lấy đi bao giọt khóc của người nghe nhạc hôm nay.

Thương thay chàng Trương Chi Văn Cao đã dâng hiến cả tâm hồn và thân xác mình cho tình yêu con người, cho tình yêu thời đại, yêu đến nỗi cuồng điên kiểu Xuân Diệu: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” nhưng đã bị thời đại đáp lại bằng “cú đớp chính trị” Nhân Văn Giai Phẩm tàn mạt cả một đời.

Nàng Mỵ Nương cuộc đời, nàng Mỵ Nương thời đại không chấp nhận tình yêu đơn phương tận hiến ấy, yêu và ca hát như con ve tới chết cho nàng, vì nàng, một tình yêu phi điều kiện, phi chính trị. Cũng như Trương Chi, Văn Cao đã bị nàng Mỵ Nương - Thời đại phụ tình, hớp hết hồn chàng, rút hết gan ruột chàng trong các ca khúc kháng chiến bất hủ: “Trường ca Sông Lô”, trong “Tiến quân ca”, trong “Làng tôi”, trong “Tiến vế Hà Nội”, trong “Ngày mùa”… ăn ốc đổ vỏ, rồi nhốt chàng vào mật thất cô đơn như một huyệt mộ của tự do trá hình có tên là căn gác chật hẹp 108 Yết Kiêu, Hà Nội, thuê 15 đồng một tháng (ở tù tại gia mà phải thuê a?)...

Trương Chi đã yêu, đã chết cho mối tình lý tưởng đơn phương, thân xác tan vào sông nước và hồn hóa thành đá quý làm chén ngọc cho Mỵ Nương gieo nước mắt thương tình thành sông. Văn Cao không ném thân xác mình vào cát bụi để được chết vì yêu như Trương Chi; nhưng linh hồn ông, âm nhạc ông đã đang và mãi mãi sẽ được người đời yêu thương đón nhận. Hồn Văn Cao còn hát mãi tiếng tuyệt vời Trương Chi trên dòng sông âm nhạc, nơi sẽ có hàng nghìn Mỵ Nương xinh đẹp mong ước chàng sống lại để hậu thế được yêu chàng như lời thơ R. Tagore vẽ hộ tình yêu mai sau dành cho chàng Trương Chi - Văn Cao:

“Nàng ơi / tất nhiên là nàng sẽ ra đời / trong một thế kỷ nào đó / xin nàng tha thứ cho / nếu quả vì tôi kiêu hãnh / vẽ dáng nàng đang đọc thơ tôi / khi trăng rọi im lìm qua khe chữ / tôi biết đêm nay / dưới trăng mờ / nàng thắp đèn chờ / dù nàng biết chẳng bao giờ nhà thơ (nhạc sĩ - chua thêm TMH) đến nữa …” (bản dịch từ tiếng Anh của Cao Huy Đỉnh)

Tiền bối Văn Cao ơi!

Âm nhạc sang trọng bậc nhất nước Việt của ông còn sống mãi. Những bài hát rất hay, rất quý phái cao sang đầy chất thánh ca của ông vẫn hằng tụng ca con người, tụng ca Cái Đẹp, như một cứu cánh góp phần cứu chuộc dân tộc ta, đất nước ta đang có cơ bị diệt vong bởi chính sự băng hoại của những tà thuyết phi nhân. Xin được gọi ông bằng tên gọi thường nhật trìu mến nhất mà thế hệ đi sau ông vẫn hằng được gọi thầm tên ông: ANH VĂN; như ngày xưa thi thoảng được hầu rượu ông nơi quán rượu gần rạp xiếc. Vâng, anh Văn suốt một đời sống chết cũng chỉ vì hai chữ Nhân Văn thiêng liêng, cao cả này mà thôi...

Sài Gòn ngày 23-01-2013

Trần Mạnh Hảo

_________________________________
Phần chú thích:

Chú thích <*1*>:

“Tố Hữu ấy à? Không, không phải đâu. Cần phải công bằng. Tố Hữu có không ưa mình, có làm khổ mình thật, do lòng đố kỵ mà ra. Mình cũng ghét cái thằng bắng nhắng ấy lắm. Nhưng có thế nào nói thế ấy. Tố Hữu chỉ là kẻ thừa hành thôi. Nói gì thì nói, trong lòng Tố Hữu vẫn còn một chút gì của nhà thơ chứ. Bề ngoài thì thế đấy - Tố Hữu lãnh đạo cuộc đánh từ đầu chí cuối. Người ta tưởng vụ Nhân văn - Giai phẩm nổ ra là bởi báo Nhân văn đăng mấy bài phê bình thơ Tố Hữu, Tố Hữu tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết. Longue Marche (tiếng Pháp, có nghĩa là cuộc quân hành dài, ý nói Trường Chinh) mới là kẻ sáng tác ra vụ Nhân văn - Giai phẩm. Để chạy tội Cải cách ruộng đất. Để tạo ra cái hố rác mà trút mọi tội lỗi của Lúy[2] vào đấy. Chính Longue Marche chứ không ai khác. Đừng tước bản quyền của Lúy, tội nghiệp! Longue Marche còn cho mời mình và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy nói cả tiếng đồng hồ về đảng tính, về trách nhiệm đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn Tuân nghe, mặt hất lên, ngáp không cần che miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế - bất cần đời. Đôi lúc cũng có hèn một tí, hèn có mức độ thôi, trong đại đa số trường hợp là kẻ bất chấp. Mình nói với Longue Marche: "Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà bắt bằng tay, từng con một. Đổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả vườn hồng. Rồi anh sẽ thấy: qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt Nam mới ngóc đầu dậy được!" Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường Chinh là thế. Lúy gọi mình đến còn có ý này nữa: Lúy muốn mình phải hiểu - tôi đã chịu khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi dân chủ lắm rồi đấy nhá! Chứ còn cái nền văn nghệ của các anh, nó đáng giá mấy xu?.

http://vi.wikipedia.org/…/Phong_tr%C3%A0o_Nh%C3%A2n_V%C4%83…

Chú thích <*2*>:

"Những tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm luồn lách như chạch; không phải lúc nào nó cũng lộ liễu như trộn trấu, cát vào gạo cơm ta ăn, khiến ta biết ngay; mà có khi nó giấu tay rỏ thuốc độc vào những chai thuốc dán nhãn hiệu là “bổ”. Văn Cao vào hạng có bàn tay bọc nhung như thế. Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao, nên những cái lạc hậu, thoái hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ. (...)

Vào đời giữa thời phát-xít Nhật đổ bộ vào Đông Dương, lúc lớn lên nhạy cảm nhất lại là lúc chủ nghĩa đế quốc Pháp Nhật toát ra cái chất cuối mùa đồi trụy nhất, phản động nhất, Văn Cao đã ngộ độc rất nặng. (...)

Trong bài hát Trương Chi, Văn Cao gán cho người đánh cá cái khinh bạc tột độ của mình, không coi nhân quần ra cái gì hết, chỉ có một mình mình trên trái đất; hơi lạnh của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối toát ra như một âm khí nặng nề:

Ngồi đây ta gõ mạn thuyền
Ta ca trái đất còn riêng ta! (...)

Những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, những ý nghĩ phiêu lưu, tìm thi vị xa vời, mới lạ trong cách mạng, là một chặng đường tất yếu của tư tưởng nhiều người; mơ ước “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” lúc đó cũng là một trạng thái của lòng yêu nước.

Nhưng ta phải giật mình khi nhớ lại những lời hát:

Ta là đàn chim bay trên mây xanh
Mắt nhìn trong khói những kinh thành tan...
...Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng

Ta không trách trình độ chính trị của ta và của tác giả khi đó còn thấp. Chúng ta giật mình vì cái lối bay để mà bay, tự say lấy mình đó là tiền thân của cái lối “Hãy đi mãi” của Trần Dần; chúng ta giật mình hơn nữa là cái máu anh hùng chủ nghĩa làm cho Văn Cao sảng khoái nhìn thấy “những kinh thành tan” dưới bom đạn mà không chút xót thương, và “chiến công ngang trời” kia lại là của “không quân Việt Nam”, mà không nói là chiến tranh tự vệ!

Mấy bài thơ năm 1946, 1948 của Văn Cao, có dụng ý tốt, nhưng cũng bộc lộ cái tính chất nghệ thuật của Văn Cao, thích khúc mắc, khó hiểu, thích loè lên lấp lánh, pha với sự lập dị, chộ người, toát ra một màu vị tan rã, như bài "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc", hay như bài "Ngoại ô mùa đông 46" (Văn nghệ số 2, tháng 4-5/1948):

Ta đi trong nhà đổ
Nghe thời gian đã nhạt khúc ân tình
Tuy phòng the chiếc áo trẻ sơ sinh
Còn xiêm hài dành hương phấn cũ…
...
Chữ Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp
Gió lạnh khi qua viện tàng thư
Cháy cong queo, bìa giữ chút di từ
Kierkegaard, Heiddeger và Nietzsche… (...)

Giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám, bài thơ Anh có nghe thấy không? lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì. Văn Cao gọi ai là “chúng nó”? Đối lập với ai là “chúng ta”?

Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả (...)

Trên đất nước ta, “chúng nó” là Mỹ-Diệm ở miền Nam, là tay chân Mỹ-Diệm ở miền Bắc, là bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm; chúng nó là thế đấy (...)

Những con người của chúng ta, từ Cách mạng tháng Tám đến nay, xuất hiện, trưởng thành dần dần và mãnh liệt, để đi tới “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, dù chúng ta có còn khuyết điểm, nhược điểm gì, cả Trái đất cũng biết chúng ta vĩ đại!" (Xuân Diệu, Dao có mài mới sắc Nxb Văn học, Hà Nội 1963, tr. 101-114. Bản điện tử do Lại Nguyên Ân cung cấp, tài liệu Talawas)
http://www.viet.rfi.fr/…/20100411-nhan-van-giai-pham-phan-x…

Ảnh : nhạc sĩ Văn Cao thời trẻ

May be an image of 1 person

Source: https://www.facebook.com/tran.manhhao.376/posts/1732952113643652




Thứ Bảy, 15 tháng 5, 2021

Hỏa Ngục Đỏ - Mối Tình Tôi

  Hỏa Ngục Đỏ - Mối Tình Tôi


        Lời Nói Đầu

        Buồn nào hơn khi mất đi một người bạn, không phải ai cũng có được một người bạn. Và càng buồn hơn nữa khi phải mất cả đất nước quê hương, vì chúng ta bây giờ chỉ còn là những kẻ tha hương, những người không tổ quốc.

        Quyển sách nầy không phải là một chuyện tiểu thuyết, mà đây là sự thật, và nếu như có đôi khi diễn biến không được thứ tự lắm, đó cũng là vì tôi sợ quên đi. Tôi phải làm nhân chứng, mặc dầu có thể không đạt được kết quả mong muốn . Tôi không ghi lại hồi ký này để thoả mãn sự căm hờn, vì sau bao nhiêu thử thách, bây giờ chỉ còn lại tiếc nuối mà thôi.

        Cầu xin những người chết, những người còn sống thoi thóp trong hoả ngục đỏ, mối tình của tôi, hãy giúp tôi hoàn thành quyển sách này.



        _____________________________________________



        1. Cũng như biết bao thanh niên cùng lứa tuổi, tôi sinh ra trong cảnh điêu tàn đổ nát của quê hương. Trận chiến Đông Dương lần thứ nhứt đã nổ ra vài tháng trước, sau trận oanh tạc Hải Phòng và sau cuộc nổi dậy ở Hà Nội của Hồ Chí Minh.

        Cha tôi vào lúc đó đang làm việc tại một hãng xe hơi của người Pháp ở Sài Gòn. Mặc dù chỉ là thường dân, nhưng vì có dính líu với người Pháp nên chúng tôi sợ bị Việt Minh trả thù. Mẹ tôi bèn thu xếp về Bến Tre, nơi quê ngoại tôi cùng với chi và anh tôi lúc ấy mới lên năm và ba tuổi. Mẹ tôi đang mang thai tôi gần ngày sanh. Mang chức Huyện, ông ngoại tôi là một đại điền chủ giàu có, nhưng rất quảng đại và rất được tá điền thương mến. Ông có nhiều vợ, và gia quyến rất đông đảo đó sống an nhàn trong một căn nhà rộng rãi và âm u với những cột to chạm trổ rất tinh vi.

        Thế nhưng giặc giả cũng tràn lần tới Bến Tre và ngày mà nhà ông ngoại tôi bị đốt cháy, trên đường chạy loạn, mẹ tôi sanh tôi ra trong hầm trú ẩn, một cái hố bên đường giữa tiếng đạn bom và khói lửa ngập trời. Mẹ tôi định tìm cách về Sài Gòn , nhưng lúc đó đường sá bị phá hoại rất nhiều, cầu cống sập đổ, lưu thông bị tắt nghẻn, nên chúng tôi bị kẹt tại Mỹ Tho, với hai bàn tay trắng và mấy bao bố tời để đắp cho đỡ lạnh. Rất may lúc ấy có hai người con gái của tá điền, chị Đồng và chị Cúc, theo má tôi vì hai chị rất thương má tôi đã giúp đỡ nhiều cho gia đình hai chị. Vì sanh non ngày nên tôi là một đứa bé ốm yếu, nhăn nhúm và bịnh hoạn. Hai chị phải đi gánh nước mướn và bán dừa để nuôi chúng tôi vì má tôi cứ ốm đau sau khi sanh ra tôi.

        Một tối nọ, tôi làm kinh và nóng sốt liên miên, mẹ tôi lo sợ ẵm tôi đi thầy thuốc cùng với chị Đồng mặc dù đã giới nghiêm. Khi tới trạm kiểm sóat của lính Lê Dương, chúng tôi bị chận lại. Mặc dầu mẹ tôi và chị Đồng đã giả trang cho xấu xí, quần áo xốc xếch và mặt mũi lem luốc bùn sình, bọn lính vẫn đoán thấy vẻ đẹp mặn mà của chị Đồng nên chận giữ chị lại. Mẹ tôi nhờ nét xanh xao và đứa con nhỏ trên tay nên được cho đi thong thả. Tình trạng của tôi rất nguy ngập nên chị Đồng vẫn bình tĩnh khuyên mẹ tôi hãy tiếp tục đi, chị sẽ tùy cơ ứng biến. Mẹ tôi đành để chị lại với bọn lính Lê Dương. Sáng hôm sau chị trở về nhà và liệt giường liệt chiếu, mẹ tôi phải bán chiếc áo dài lụa đen cuối cùng để thuốc thang cho chị.

        Sau đó chị sanh ra một đứa con lai. Khi gởi con cho má chị nuôi dưỡng, chị ở lại săn sóc tôi cho đến ngày thời cuộc đưa đẩy, chị lập gia đình nhưng sau khi gẫy đổ, chị đi bán bar và sau đó theo chồng về Mỹ.

        Lúc bấy giờ ai cũng tưởng tôi sẽ đi đời nhà ma, nhưng ngược lại, tôi vẫn sống và chính anh tôi bấy giờ lên 3 tuổi, lại mất đi sau một cơn bệnh chỉ vài ngày. Lúc ấy làng xã bị thiêu rụi, ai còn lo tới chuyện làm giấy tờ, nên từ đó tôi mang khai sanh của anh tôi, và tôi được hưởng luôn cái tên ba má đã đặt cho anh là Trọng, có vẽ như quan trọng và quá trang nghiêm không hợp tí nào với bản tánh của tôi. Vì tôi cứ bị đau bệnh luôn, mẹ tôi đặt cho một cái tên xấu xí cho dễ nuôi: “Nhường” hay là nhường nhịn, khiêm nhường. Tôi thấy cái tên này hợp với tôi hơn. Lạ thay sau đó tôi hết bệnh hoạn và lại mập mạp, sổ sữa ra.

        Một năm sau đó, tình hình lắng dịu và chúng tôi trở về cuộc sống tương đối nhàn nhã ở Sài Gòn .

        Sau trận chiến Điện Biên Phủ vào năm 1954, nước Pháp thua trận nhường chỗ cho người Mỹ và giặc giả vẫn tiếp diễn mà còn ác liệt hơn .Lúc đó tôi được 7 tuổi , và giữa cảnh điêu tàn của quê hương, tôi còn cô đơn hơn nữa. Mặc dầu gia đình tôi theo đạo Phật, nhưng tôi được theo học trường Dòng và từ đó tôi lại mang thêm tên thánh Lucien, biểu tượng của “ánh sáng”: tôi lại chui rút thêm vào bóng tối của cái vỏ ốc mà tôi đã tự tạo ra.

        Sau khi thi xong bằng Tú Tài, tôi được sang Pháp tiếp tục học về Thủy Lâm, và sau một thời gian tu nghiệp ở Hoa Kỳ, tôi trở về quê hương để phục vụ; trái với một số bạn bè vẫn muốn ở lại xứ người để lập nghiệp, vì tôi biết rằng không một nơi nào đẹp bằng quê hương tôi.

        Tôi được tuyển làm giảng viên tại trường Đại Học Nông Lâm Súc ở Sài Gòn . Song song với chức quản thủ thư viện, tôi giữ luôn chức vụ Trưởng Phòng Sinh Viên Vụ trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng ở Sài Gòn vào năm 1973-1975.

        Tôi thấy cần phải nói đôi câu về tư thế chánh trị của tôi, không phải để biện minh điều gì mà chỉ tỏ rằng tôi là một nhân chứng tầm thường như bao nhiêu người Việt Nam khác, sanh ra trong thời loạn, không biết phải theo bên nào, vì bên nào cũng có những cái hay, nhưng cũng có những cái dở. Tôi không phải là một nhà văn, nên lời tôi nói rất giản dị, rất chân thành, tôi chỉ muốn bày tỏ nỗi uất nghẹn của một người dân mất nước .

        Tôi không phải là một chánh trị gia, nên nhận xét về phương diện này của tôi kém phần sâu sắc, vả lại bản tánh nghê sĩ của tôi khiến tôi ghét những gì thuộc về chánh trị. Tôi ưa âm nhạc, hội hoạ và điện ảnh hơn.

        Sau một thời gian nhập ngũ, tôi được biệt phái trở về dạy học. Tôi không thích chế độ của Nguyễn Văn Thiệu vì sự tham nhũng đầy dẫy và vì có quá nhiều bất công trong xã hội. Với sự hiện diện của lính Mỹ, dĩ nhiên cảnh đĩ điếm lan tràn và các tệ đoan xã hội khác phải hiện lên. Nhưng dầu sao đó cũng là một chế độ tự do, nhưng dân được tư do tư tưởng, tín ngưỡng, đi laị, được tự do buôn bán, tự do sống theo ý mình.

        Mặc dầu có những hạn chế do tình trạng chiến tranh, mặc dầu có những phần tử tham nhũng trong thành phần chánh phủ, nhưng người dân vẫn sống tự do và vì vậy nên người dân Miền Nam không bao giờ chấp nhận chế độ Cộng Sản, dầu phải đánh đổi sinh mạng mình để vượt biển tìm tự do.

        Khi tôi du học trở về Việt Nam , năm đó tôi vừa 24 tuổi. Tôi rất thích hội hoạ, tôi vẽ rất nhiều tranh sơn dầu và tổ chức nhiều cuộc triển lãm, phần đông để giúp đồng bào chiến nạn. Đó cũng là một cách cho tôi giải toả những ước mơ thầm kính và cố quên đi “nỗi cô độc của con tim và sự vô nghĩa của cuộc sống”.

        Khi tôi hồi hương, phản ứng đầu tiên của tôi khi thấy Sài Gòn đầy lính Mỹ và bar, ổ điếm trá hình, cùng nhà tắm hơi, dancing, là sự khó chịu và uất ức. Thế nhưng sau khi biết được sự bành trướng mau lẹ của Việt Cộng và những thủ đoạn của chúng thì tôi đành chấp nhận thế chẳng đặng đừng. Tuy nhiên cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đối với tôi, tôi vẫn cho là một sự mất mát lớn, mặc dầu chính gia đình ông đã đưa đến thảm hoạ cho ông .

        Sài Gòn đầy dẫy ngựa xe, lụa là, máy móc, tủ lạnh, ti-vi. Sài Gòn nhộn nhịp xa hoa. Sài Gòn muôn màu muôn mặt. Đằng sau những khu nhà nhiều tầng là những khu bàn cờ, những khu ổ chuột với những căn nhà ọp ẹp bằng lá, bằng tôle, bằng cây, bằng giấy cứng, bằng giẻ rách.

        Có ai đã ví Sài Gòn như một cô gái đẹp diêm dúa, sống hưởng thụ vội vàng và không nghĩ đến ngày mai.. Tham nhũng lan tràn, vì đó là một tệ trạng luôn luôn đi đôi với một chế độ độc tài. Thế nhưng người dân vẫn vui sống, dầu cuộc sống có chật vật, dầu ngày mai có bấp bênh, dầu cuộc chiến vẫn tiếp diễn ác liệt sau khi người Mỹ ra đi.

        Ngày ở trường Đại Học Nông Nghiệp, lúc bấy giờ được gọi là Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp, những cuộc biểu tình của sinh viên tổ chức vẫn thường được diễn ra. Nhờ địa điểm khá thuận tiện, nằm trên đường Cường Để, giữa Đại Học Văn Khoa và Dược Khoa, không xa mấy Trường Luật, nên trong nhiều cuộc biểu tình, tồi đều có mặt, dầu vì lý do gì, tôi vẫn đứng theo hàng ngũ của sinh viên, có lẽ vì tuổi trẻ, có lẽ vì tôi luôn luôn chống lại những gì hiện hữu . Ông Khoa Trưởng bấy giờ rất trẻ và là bạn của tôi, thường rầy rà:
        – Trời ơi, anh làm Trưởng ban Sinh Viên Vụ, lẽ ra anh phải trông chừng cho sinh viên đừng lộn xộn, anh lại theo tụi nó biểu tình thì chết rồi. Anh coi chừng, trong đám sinh viên có tụi VC trá hình trà trộn để gây rối loạn đó.

        Và ông rất có lý. Trong các phiên họp Hội đồng Giáo Sư, tôi vẫn tìm mọi cách để xin can thiệp cho sinh viên bị bắt trong những cuộc biểu tình. Hình như Công An có theo dõi tôi, và đã có lần gọi tôi đến để dằn mặt vu vơ, nhưng lúc bấy giờ anh rể tôi có chức vụ quan trọng trong quân đội, có thể là một bảo đảm cho hành vi chánh trị của tôi, nên tôi chưa hề bị bắt.

        Ngày 30-4-1975, Miền Nam yêu thương, Miền Nam dịu hiền nào ngờ lại phải rơi vào tay Cộng Sản quá hấp tấp, quá vội vàng, sau cuột “Tổng nổi dậy” hụt của năm 1968. Trong khi Cộng Sản lấn chiếm miền Trung và các thành phố lần lượt rơi vào tay chúng, thì tôi đang dự một cuộc hội thảo về Nông Nghiệp tại Manille với các nước của A.S.E.A.N.

        Các đồng nhiệp Phi Luật Tân của tôi đều khuyên tôi nên nán lại chờ đợi thời cuộc và nếu cần thì xin tỵ nạn chánh trị, nhưng tôi một phần vì nóng ruột muốn có mặt bên gia đình khi hữu sự, một mặt nữa tôi lại nghĩ mặc dầu Miền Nam có thể rơi vào tay Cộng Sản, nhưng nếu chịu khó hoà mình, thì cũng có thể sống tại quê hương yêu dấu. Nghĩ vậy nên tôi quyết định về Sài Gòn sau khi cuộc hội thảo chấm dứt.

        Ngày 5-4-1975, tôi trở về Sài Gòn trong một bầu không khí ngột ngạt và kinh hoàng. Đồng bào đổ xô tản cư từ Miền Trung vào Sài Gòn có lẻ vì “quá thương” Bác và Đảng nên phải chạy bán sống bán chết để tránh xa. Các tỉnh lần lượt rơi như sung chín và rốt cuộc Sài Gòn bị bao vây tứ phía.

        Những ngày cuối cùng của tháng Tư, những quang cảnh hỗn độn khiếp đảm diễn ra tại Sài Gòn với sự hấp tấp ra đi của những người Mỹ còn sót lại, những cảnh hôi của chung quanh các cư xá Mỹ, những cảnh chen lấn tại Tân Sơn Nhất và khu bến tàu. Tiếng súng không ngừng nổ và những đêm sau cùng, Sài Gòn hấp hối trong sự kinh hoàng. Có lẽ nếu tướng Dương Văn Minh không đầu hàng thì Sài Gòn sẽ chỉ còn là đống gạch vụn vì bị pháo kích liên miên.

        Sau khi lệnh ngưng bắn được tung ra thì một quang cảnh lạ lùng được tiếp nối: tiếng súng nổ dòn tan để chào mừng sự chấm dứt của một cuộc chiến tương tàn. Người dân Miền Nam thành thật hân hoan đón mừng tin ngừng bắn, nhưng chánh quyền Hà Nội lại tưởng lầm rằng sự vui mừng đó dành riêng cho họ.

        Binh sĩ liệng bỏ vũ khí, quân phục Người dân sống trong sự hồi hộp để đó chờ sự chuyển tiếp với sự dè dặt và lo sợ , vì gia đình nào cũng có chồng con đi lính cho chính quyền cũ.

        Để mong mỏi chính quyền mới khỏi “để ý” đến gia đình mình, mọi người đua nhau đi mua cờ đỏ về treo và xoá bỏ hấp tấp các cờ vàng ba sọc đỏ sơn trước nhà. Có sống trong quang cảnh khó tả của Sài Gòn trong những ngày đó thì mới thấy được rằng: mặc dù chánh quyền cũ có tham nhũng, có khắt khe đến thế nào cũng không bằng sự khó thở, ngột ngạt của chánh quyền Hà Nội chỉ được đứng vững nhờ sự man trá và khủng bố.

        Trong những cuộc biểu tình khổng lồ, chỉ có một thiểu số dân thật tình tham dự một cách tích cực, còn lại một số lớn bị ép buộc có mặt với lòng lo âu và cay đắng. Ta không thể nào trách được một số người Miền Nam vì sự sinh tồn phải tham gia vào chế độ mới, vì sự sống của gia đình và của chính họ. Lính “bộ đội” lan tràn vào Sài Gòn và các tỉnh Miền Nam. Cũng có những cảnh thân mật và cảm động được diễn ra vì “ba mươi năm mới có ngày nầy”. Có những cảnh sum họp đầy nước mắt , nhưng ai có ngờ đâu nước mắt sẽ không ngừng chảy sau ngày hội ngộ.

        Sài Gòn không có cảnh máu chảy qúa lộ liễu như ở Nam Vang, và vì dân chúng biểu lộ sự vui mừng bởi “hoà bình” đã được vãn hồi nên quốc tế xem đó là biểu tượng của một sự “nổi dậy” đòi tự do. Những ai còn ảo tưởng sẽ mau lẹ nhận thấy rằng chế độ Cộng Sản đã hoàn toàn làm chủ Miền Nam, và những danh từ “lấy tình thương xoá bỏ hận thù” đều là một sự bịp bợm dối trá. Các cửa tiệm đều hàng loạt bị đóng cửa, bảng hiệu hạ xuống để chỗ trống rổng chơi vơi. Thay vào đó là những biểu ngữ đỏ, những chân dung cụ Hồ to, cụ Hồ nhỏ, cụ đang đưa tay chào, cụ đang mỉm cười, cụ có mặt ở khắp mọi nhà, leo lên luôn cả trên bàn thờ tổ tiên. Biểu ngữ thường là chỉ có mấy câu lập đi lập lại “không có gì quý hơn Độc Lập Tự Do”, màu đỏ ở khắp mọi nơi, màu đỏ khiêu chiến, màu đỏ của máu tươi.

        Hàng loạt người bị bắt âm thầm trong đêm tối, hàng loạt sĩ quan và công chức bị gọi đi học tập cải tạo “trong một tháng”. Loa phóng thanh chát chúa giọng đanh đá của các xướng ngôn viên bẻ miệng bẻ mồm chửi rủa Mỹ Ngụy.

        Sài Gòn ngộp thở, Sài Gòn bị kềm kẹp lần lần trong hai gọng sắt.

        Tất cả các tờ báo đều bị đóng cửa, chỉ còn hai tờ “Sài Gòn Giải Phóng” và tờ “Nhân Dân” từ Bắc mang vào.

        Đường xe lửa Xuyên Việt được vội vàng tái lập để đưa các cán bộ từ Bắc vào Nam, và vơ vét của cải Miền Nam chở ngược ra Bắc. Nếu không có lý do hoặc không thuộc “gia đình cách mạng” thì đừng hòng leo lên “đường tàu Thống Nhất” nầy . Các trò chơi xưa, các thú tiêu khiển cũ đều bị cấm đoán, thay vào đó là họp hành để tố cáo lẫn nhau, hoặc những trò tủn mủn như “thiếu nhi đi lượm rác” hoặc “đi vét mương Xã Hội Chủ Nghĩa”.

        Người dân phải làm mọi thứ đó với sự câm nín. Một cử chỉ phản đối sẽ bị cho là phản động và đưa thẳng vào nhà giam. Tôi đã quyết định ra đi. Không dám cho gia đình hay vì sợ bị cản trở, tôi âm thầm tìm đường vượt biển. Lúc đó đang có chiến dịch đốt sách báo “nhảm nhí” và nhạc “ru ngủ”, và một cuộc đổi tiền đang rục rịch tiến hành.

        Tôi bán chiếc xe Daihatsu nhỏ với giá 3 triệu đồng thời bấy giờ và với số tiền đó, ngày 10-6-1975, một tháng sau khi Cộng Sản đặt nền móng cai trị tại Miền Nam, tôi ra đi với một bộ đồ cũ, bằng một tâm sự lo âu và rã rời.

        Chiếc tàu đánh cá nhỏ chưa kịp rời Vàm Láng thì tên tài công đã mật báo với công an. Trong khi chờ đợi các hành khách lần lượt xuống tàu thì công an đã bao vây bằng nhiều tàu Hải Quân cũ. Lúc đó tôi đang ở trong khoang tàu. Tôi nhất quyết không thể sống chung với Cộng Sản, nên đã mang theo bột thạch tín hoà với ít nước trong một chai thuốc nhỏ mắt và hai ống thuốc ngủ. Trời ơi, trong khi di chuyển chai thuốc đã bể . Không còn suy nghĩ nữa, tôi nuốt trọn hai ống thuốc ngủ valium..

        Ngoài kia mặt trời lên cao, những hàng dừa rũ ngọn trên mặt nước lấp lánh bạc. Đất nước thân yêu thôi xin vĩnh biệt. Trong thoáng chốc mơ hồ, tôi như rơi vào khoảng không mù mịt…

        Ba má ơi, con đi đây …

        2. Hai ống thuốc ngủ, dầu là của Mỹ, chắc cũng đủ để đưa một gã thanh niên 28 tuổi đi đời nhà ma. Tôi tỉnh dậy với một cơn nhức đầu kinh khủng, trí nhớ như bị tê liệt, không thể nào biết được tôi đang ở đâu và tại sao. Sau một phút định thần tôi chống tay để ngồi dậy . Tôi nhận ra rằng tôi đang nằm trong một căn nhà rộng lớn tối tăm và hôi hám. Một bóng đèn nhỏ vàng vọt treo trên trần nhà đầy kẻm gai không đủ sức soi sáng một đám người lố nhố, ngồi la liệt trên nền xi măng ẩm ướt. Ở phía trái, tôi nhận thấy một cánh cửa sắt và một ô vuông nhỏ có chấn song; ở phía phải là một bức tường dơ dáy. Ánh sáng được lọt vào từ bức tường này bằng những ô vuông nhỏ cao quá đầu người . Hình như bên ngoài đang mưa vì tôi nghe tiếng hạt mưa rơi nặng trên mái ngói. Căn phòng bay mùi nước tiểu và rác rến. Những con gián và những con chuột cống còm cỏi, ghẻ lỡ đang sục sạo trong đống rác và chạy trên thân thể các người đang nằm. Tôi lợm giọng vì chợt nhận ra rằng mình đang nằm tựa vào một bức tường nhỏ ngăn cách với hố vệ sinh. Một tiếng động ở bên trái làm tôi kinh hoàng nhỏm dậy mặc dầu đầu óc còn nặng như chì. Một ông già bé nhỏ, đầu bạc phơ, móm mém nói rằng:
        – A, tỉnh rồi hả ? Tao tưởng mầy chết rồi chứ ! Tối hôm qua mầy lạnh ngắt, tụi nó tưởng mầy “đi” rồi nên quăng mầy ở đây. Tao không ưa nằm cạnh một thây ma đâu !

        Đưa tay sờ trán tôi, ông ta gật gù:
        – Nằm nghỉ đi. Mày còn đang sốt nặng đó !

        Tôi há hốc mồm nhìn ông lão, không tưởng tượng ra chuyện gì đã xảy đến cho mình. Nhìn nét mặt ngu ngơ của tôi, ông ta nhếch môi cười với vẻ châm biếm và thoả thích.
        – Ông giáo sư của tôi ơi, ông đang ở trong tù, ông nghe chưa? . Đây là nhà giam của tỉnh Gò Công.

        Tôi còn nhớ ông ta đã dùng chữ “PRISON” bằng tiếng Pháp, như để nhấn mạnh thực tế quanh tôi. Trời ơi! Chuyện mà tôi lo sợ nhất đã đến rồi.! Đầu óc tôi như chợt rơi vào khoảng không.

        Vài giờ sau khi tôi tỉnh lại, ông Sáu, tên của ông già, kể cho tôi nghe những gì đã xảy ra. Một đám bộ đội đã liệng tôi vào phòng giam hai ngày trước đây, hai tay trói sau lưng, mặt sưng bầm tím. Người ta bỏ tôi vào một xó nơi gần cầu tiêu và đống rác . Cũng may, ông Sáu, một người có chức phận trong làng đã bị bắt nhốt từ đầu, cũng biết lai rai chút đông y, đã tìm cách rửa ruột cho tôi với những phương tiện eo hẹp của phòng giam. Ông nói với tôi rằng, mặc dầu với bộ quần áo rách rưới và gương mặt đẫm máu, ông cũng đoán được tôi là một người trí thức và tôi gợi nhớ đến hình ảnh con ông khi đi lính Cộng Hoà.

        Sáng hôm sau, khi điểm danh, cán bộ chợt thấy tôi còn sống nên cho đưa tôi lên bệnh xá. Sau khi rửa ruột, vô nước biển, họ lại đưa tôi trở về phòng giam như cũ.

        Trong một tuần lễ kế tiếp, tôi như nửa mơ nửa tỉnh. Nếu không nhờ ông Sáu ép tôi ưống nước và ráng nuốt chút cơm nguội chan nước mắm thì có lẽ tôi cũng đã đi theo ông bà mất rồi.

        Ông Sáu tìm cho tôi được một chiếc chiếu rách bươm để cho tôi đỡ lạnh. Tôi ở trong một tình trạng nửa mê nửa tỉnh , chiếc áo mưa trùm kín mặt và hai tay để tránh đàn muỗi quái ác. Mỗi lần có người đi tiểu tiện cách tôi một bức tường nhỏ, tôi cảm thấy nhân phẩm của mình bị chà đạp thêm xuống vũng bùn.

        Văn phòng cán bộ trưởng trại có cho gọi tôi lên để lấy lý lịch, nhưng tôi cũng không nhớ mình đã nói những gì.

        Mười lăm ngày sau khi tôi tới trại giam, người ta tuyển chọn khoảng vài trăm tù nhân để chuyển đi nông trường. Tôi có tên trong danh sách đó. Trong khi chờ đợi di chuyển, tôi viết vội vài hàng cho ba má tôi và nhờ ông Sáu bồ bịch với tên gác cửa, tìm cách chuyển về cho gia đình tôi.

        Một buổi sáng, mặt trời chưa ló dạng, chúng tôi bị đưa lên những chiếc xe đò cửa nẻo đóng kín .Chúng tôi bị cột vào thành ghế bằng giây điện, cứ sáu người một hàng. Tụi cán bộ hình như hả hê thoả thích khi siết vòng giây vào cổ tay chúng tôi . Chắc chắn họ đang thầm nghĩ:”Cho đáng đời tụi Ngụy!”.

        Sau những giờ dài vô tận, chúng tôi không biết họ đưa mình đến đâu, với lòng lo âu và tâm trạng rã rời, cộng thêm vòng giây điện ngày càng siết chặt làm tê cả hai cánh tay, chúng tôi rốt cuộc cũng đến nơi quy định.

        Trại Mỹ Phước Tây nằm trong một diện tích khoảng hai mẫu ruộng, giữa một hàng rào dây kẽm gai chằng chịt. Những bãi mìn đầy cỏ hoang, và dưới sự kiểm soát chặt chẻ của 4 chòi canh cao nghệu. Xung quang trại là ruộng lúa, một bên là vườn rau, và một con sông nước chảy đục lờ, nhưng đó cũng là nước uống, tắm giặt và nấu nướng. Điểm đáng lưu ý nhất là bãi mìn đầy cỏ hoang rậm rạp và hai hàng kẽm gai bao quanh trại, làm chán nản những ai có ý định muốn vượt trại tìm tự do.

        Giữ trại, một cột cờ cao có treo cờ đỏ sao vàng, luôn nhắc nhở cho tù nhân số phận không may của mình. Ba dãy nhà lá thấp lè tè và mục nát làm thành hình móng ngựa bao quanh một sân vuông: đó là hai mươi phòng giam tội nhân. Giữa sân là một văn phòng xây bằng gạch, lợp tôle; một dãy nhà cho cán bộ ở và hơi xa xa, phía chuồng heo và một dãy thùng “conex” là một căn nhà lá khá rộng dùng để giam giữ nữ tội nhân.

        Mỗi phòng giam được rào kín lại bằng kẽm gai, và cái sân nhỏ xíu phía trước cửa là một ưu đãi đặc biệt cho bọn tù nhân. Phía sau trại là một vườn rau lớn, một cái ao nuôi cá Vồ và cũng để làm cầu tiêu. Còn chung quanh là mênh mông ruộng lúa, xa xa thấp thoáng vài cá nhà tranh, và bắc ngang con sông là một chiếc cầu sắt cũ kỹ gập ghềnh.

        Tụi chúng tôi khoảng một ngàn người , được phân phối ra từng nhóm 50 người, dưới sự kiểm soát trực tiếp của một trưởng phòng, thường là dân “chiêu hồi” hoặc cán bộ bị lỗi lầm, cùng vài “antennes” để theo dõi chúng tôi. Trưởng phòng và “antennes” tranh nhau lập công bằng cách tố cáo bọn tù để mong được “khoan hồng”. Cán bộ trưởng trại lúc bấy giờ là một con người khắc khổ luôn mang kiếng đen, hiện thân một hung thần của trại. Qua các trưởng phòng và các tên điềm chỉ, họ không cần vào các phòng mà vẫn biết chuyện gì đang xảy ra.

        Mỗi tối chúng tôi phải “học tập” ba mươi sáu điều cấm lệnh và tự kiểm điểm các lầm mỗi để xin được cứu xét. Tội lớn nhất là toan vượt trại và có ý định phản động. Không làm sao thoát được số phận lưu đày, chỉ còn lối cuối cùng để tránh cảnh cầm giam là ngã bịnh nặng để được đưa ra vườn mì nằm dưới ba tấc đất và cuốn lại bằng manh chiếu rách và hai thước dây ny-lông.

        Thật ra, trại cũng có một phòng y tế và chị Tư y tá cũng có vẻ tử tế và hết lòng với bệnh nhân, nhưng khổ nỗi là thuốc men rất ít, vì hoàn cảnh ở thành phố cũng vậy thôi, nên nếu ai ngã bệnh thì đó là một sự may mắn để mong được giải thoát khỏi địa ngục trần gian này. Chúng tôi phải đi làm ruộng, đào mương nhưng dụng cụ thì không có, nên phải cưa các ống đạn và mài lại để làm xẻng, cuốc, lưỡi liềm, lưỡi hái.

        Giữa khu đất bùn sình và tối tăm, giữa sự đói khát, nỗi dằn vặt tinh thần và sự ngược đãi của cán bộ, tôi đã phải cố sống lây lất trong suốt ba năm rưỡi trời dài dằng dặc.

        Các bạn tù của tôi thuộc mọi thành phần và thuộc nhiều loại tội khác nhau.: Các tư chức nhỏ, sĩ quan, công chức, các viên chức xã ấp, thưòng dân bị bắt khi di chuyển hay bị tố cáo vu vơ về các tội lặt vặt như ăn cắp gà, uống rượu, đánh bài, nói xấu chế độ và cả những người không có tội gì cả mà văn phòng trại cũng không biết phải ghép họ vào tội gì, ngoài cách dán cho họ nhãn hiệu CIA của Mỹ.

        Tôi có dịp được gặp những vị cố đạo, những nhà sư, các vị tổng thư ký của giáo hội Cao Đài, Hoà Hảo, luôn cả những thường dân dốt nát, luôn cả những phần tử chống đối, đặt bom, rãi truyền đơn chống chính quyền Hà Nội. Tất cả chúng tôi đều sẽ bị giam giữ trong một thời gian không nhất định, mốc meo và chết lần chết mòn trong khuôn viên nhỏ bé này. Gia đình chúng tôi có thảo bao nhiêu tờ đơn khiếu nại cũng bị quẳng vào sọt rác hoặc dùng làm giấy cuốn thuốc lá cho bọn cán bộ. Một cách duy nhất để được thả ra là nhờ sự can thiệp của một cán bộ cao cấp hoặc của mấy lượng vàng. Trong khi chờ đợi ngày được tự do quá xa vời, chúng tôi đành phải chấp nhận số phận hẩm hiu. Thật ra so với trại giam ở Gò Công thì “trại cải tạo” Mỹ Phước Tây cũng tương đối dễ thở hơn, có lẽ nhờ sự hiện diện của cái sân nhỏ, mặc dầu bị rào kín nhưng cũng cho chúng tôi một chút khí trời để thở.

        Vừa tới trại thì chúng tôi phải xếp hàng và chờ đơị cán bộ xét từng người . Giữa sân trại, dưới ánh mặt trời nóng bỏng, bọn tù cởi quần áo bày các món đồ lỉnh kỉnh dưới đất giống như chợ trời. Cán bộ bắt đầu tịch thu tiền bạc và những gì có thể là vũ khí, luôn cả hình ảnh giấy viết. Từ đây chúng tôi chỉ còn là những con số. Tôi được chỉ định vào phòng số 9 và tôi được biết mặt trưởng phòng là tên Năm Sơn – một cán bộ chiêu hồi với nét mặt đần độn ti tiện và dễ gây ác cảm…Hắn chỉ định cho tôi chỗ nằm trong một góc phòng. Tôi trải chiếc chiếu rách nát của ông Sáu cho, sau khi san bằng những chỗ lồi lõm bằng một cục đá. Tôi đặt gói quần áo xếp trong chiếc áo mưa bằng ny-lông ở đầu chiếu để thay gối, sắp xếp mấy chiếc lon Guigoz ở đầu nằm và chọc thủng một lổ nhỏ trên tấm phên bằng lá để có được một tia nắng lọt vào chỗ nằm. Mặc dù mệt mỏi và đói khát, tôi cũng cảm thấy vui vui vì được may mắn có một chỗ nằm trong góc, có thể cho tôi thu hình trong xó tối để tránh sự ồn ào bực bội luôn xảy ra chung quanh tôi. Mấy lon sữa Guigoz rất quý cho chúng tôi vì loại lin này không sét, có thể đựng nước và thức ăn. Ở đây mọi thứ đều được lượm lặt và giữ cẩn thận để dùng trong mọi thứ: một khúc giây để thay giây nịt, một mảnh giẻ rách để vá quần áo, một miếng ny-lông để lót lưng nằm (một số tù nhân bị bệnh tê thấp vì nằm trên nền đất ẩm ướt). Cái chết không quyến rũ được tôi nữa, vì tôi nghĩ rằng mình chưa tới số, có lẽ còn nặng nợ, nên tôi cương quyết sống để nhìn đời mặc dù trong hoàn cảnh nào.

        Sau khi dọn chỗ nằm xong, niềm vui cũng bay đi và trong phút chốc, tôi chợt nhận ra rằng mình đang đói lả. Khổ nỗi chung quanh tôi, một số tù nhân được gia đình tiếp tế từ Gò Công đang bày biện các thức ăn và đang nhai ngấu nghiến một cách ngon lành. Cách tôi khoảng hai chiếu, tôi chợt thấy một người đang ăn một đòn bánh tét vừa liếc nhìn tôi. Quá xấu hổ vì mình đang nhìn miệng người khác nên tôi vội quay đi mà trong lòng như muốn khóc. Gã thanh niên đoán là tôi nhìn đòn bánh tét của hắn nên đứng dậy và đến bên tôi. Sau một giây do dự, hắn ngồi bệt xuống chiếu, và dùng sợi giây lạt cắt đòn bánh tét làm đôi:
        – Nè, ăn bánh này thử coi. Nhưn chuối đó. Bồ tên gì?

        – Tên Trọng. Cám ơn, bánh ngon quá.

        – Tại sao bồ bị bắt vậy?

        – Tôi à? Tôi đang đi du lịch bằng tàu đánh cá và tàu lại đi lạc ra biển nên được tụi tuần hải đưa về đây nghỉ mát.

        Hắn cười khanh khách, để lộ hàm răng trắng và sau khi ăn xong, hắn thu dọn lá chuối. Trước khi đứng dậy về chỗ năm, hắn lại nói:
        – Tui tên Bùi Thanh Lý. Nếu bồ có cần chi thì cứ nói.

        Hắn vừa nói vừa nhếch miệng cười. Một nụ cười méo mó. Góc trái của miệng hơi xệch lên cao làm cho hắn có vẻ ranh mãnh và chán chưòng mặc dầu hắn chỉ khoảng 20 tuổi.

        Lý rất cao, khoảng bằng tôi và mảnh mai tuy thân thể rất rắn chắc. Mắt sáng , mũi thẳng, tóc dài và rậm che vầng trán hơi vồ có vẻ cứng đầu. Đôi môi dầy, ít nói. Khi Lý nói chuyện thì hắn có vẻ như con nít, nhưng khi nhìn từ xa thì hắn có vẻ chán đời và mệt mỏi.

        Thật ra lúc đầu tôi không ưa cái nụ cười thách thức đó, dáng đi ngỗ ngáo và cách ăn mặc xốc xếch lôi thôi của hắn: một cái nón vải nhỏ rách rưới chụp nghiêng nghiêng trên đầu, một cái áo blouson vải kaki rách nát và hư cả dây kéo đưa ngực trần. Biết bao nhiêu điều mà tôi không thích. Thế nhưng sau này, chính những điều này lại trở thành thân thiết khiến tôi không bao giờ quên được Lý.

        Vì Lý đã đến trại này trước tôi vài ngày nên biết rõ chương trình sinh hoạt của trại và giải thích sơ lược cho tôi biết:
        – Thức dậy lúc 4 giờ sáng, sau tiếng kẻng đầu tiên (tiếng bù lon gõ vào niềng bánh xe cam nhông cũ)

        – Thể dục tập thể và độ 15 phút sau đó, chúng tôi phải chạy đi lãnh phần ăn: một chén cơm và một vá canh lỏng bỏng nước muối và vài cọng rau. Ở trại phát cơm 2 lần mỗi ngày, buổi sáng và buổi chiều. Thường thì buổi sáng chúng tôi chỉ ăn nửa chén cơm, còn nửa chén kia để dành buổi trưa. Chỉ vào những dịp lễ lớn chúng tôi mới được một tí thịt. Lý cho tôi biết rằng cứ theo “régime” này thì chắc chắn sẽ “mảnh mai”. Nếu muốn thay đổi thực đơn thì phải tìm cách hái rau muống, hái ngó sen hay lượm chuối ở dọc đường dẫn đến nông trường hoặc bắt cóc, nhái, rắn, lươn , luôn cả chuột, thằn lằn, rắn mối. Tuy nhiên không được chạm đến các chú khuyển, nay được dành riêng đặc biệt cho các cán bộ.

        Lý nói với tôi:
        – Nếu bồ không thích những món này thì chỉ còn cách ăn muối và uống nước lạnh cho đỡ đói !

        Khoảng 4 giờ rưỡi sáng, tiếng kẻng thứ nhì tập họp, chúng tôi đi nông trường, xa trại từ 5 đến 10 cây số. Nội chuyện đi bộ đến nông trường cũng đã làm chúng tôi mệt rã rời, vì phải lội sông, băng đồng với cái giá đội trên đầu lúc qua sông. Lỡ bị mất thì sẽ bị ghép vào tội “phá hoại của cải nhà nước” hoặc tội “phản động” có thể đưa chúng tôi vào ngồi conex.


        Conex là những thùng sắt bí mật mà chúng tôi thấy nằm sau dãy nhà lá. Đó là những thùng sắt vuông vức hai thước mỗi cạnh, lúc xưa người Mỹ dùng để chứa khí giới cho quân đội Mỹ. Bây giờ trưởng trại dùng để nhốt những tội nhân (được goị là người học tập cải tạo) cứng đầu hay phản động .

        Cái thùng vuông không cửa sổ mà chỉ có một cánh cửa duy nhất. Cũng may mà các thùng này cũ kỷ nên khi đóng cửa lại, các tội nhân còn thở được bằng các khe hoặc các lỗ sét. Thế nhưng dưới sức nắng thiêu đốt của mặt trời và tình trạng bị đói, với nửa phần ăn thường ngày, thường thường các tội phạm bị vào conex chỉ vài tháng là …đi đời nhà ma.

        Chẳng thà ở ngoài chết sướng hơn, mặc dầu chúng tôi phải làm việc như những con vật. Thật ra từ khi vào trại thì tội nhân chỉ còn là một con vật, vì số trâu bò giảm bớt quá nhanh (các người “xấu miệng” nói là nhà nước đã “xuất khẩu” qua Liên Xô), nên chúng tôi phải kéo cày thay cho trâu bò. Đây là bằng chứng cụ thể nhất của “mức tiến bộ vượt bực” của Xã Hội Chủ Nghĩa.

        Khoảng 4-5 giờ chiều thì chúng tôi được lệnh quay về trại. Cũng con đường dài hun hút, lại thêm sự mệt nhọc của cả ngày làm việc và cái bụng trống không. Khoảng 6 giờ thì tiếng kẻng báo hiệu giờ cơm. Chúng tôi lãnh phần ăn trong các muỗng vùa hoặc lon sữa và chúng tôi ăn thầm trong bóng tối như những con vật. Nói thật ra thì cũng không phải hoàn toàn như những con vật vì khoảng 7 giờ tối, chúng tôi được phép “học tập”. Ngồi chung quanh tên trưởng phòng, các tội nhân phải nghe nhai đi nhai lại những lời tuyên truyền của tên trưởng phòng ngu dốt, tựu trung để ca ngợi sự giải phóng của Đảng (mà chúng tôi đã có dịp thưởng thức suốt cả ngày) và tội ác của “đế quốc Mỹ” và quân đội “Ngụy”. Các tội nhân đều mệt mỏi nhưng cũng phải rán ngồi nghe và giả vờ phấn khởi, hồ hởi , tán dương nếu không sẽ bị ghép vào tội phản động. Vì tên trưởng phòng được miễn lao động nên hắn ta mặc tình mà nói thao thao không lộ vẻ gì mệt mỏi. Thế nhưng khi tiếng kẻng chót vào lúc 10 giờ báo hiệu đi ngủ, thì hắn ta cụt hứng và kết thúc buổi “học” sau một tràng pháo tay (chúng tôi vỗ tay vì mừng rỡ buổi họp được kết thúc, thế nhưng hắn ta hớn hở tưởng rằng được tán dương).

        Tôi đã thấy tận mắt, nghe tận tai và sự thực còn ghê gớm hơn lời của Lý đã tả cho tôi biết, nhất là đối với những người không quen làm lụng tay chân như tôi. Dụng cụ thì thô sơ, đất cứ dính dẻo nhẹo vào giá xẻng . Tay tôi lần hồi bị nổi mọng nước và khi bể ra đau thấu xương. Thế nhưng mặc dầu tay rỉ máu vẫn phải tiếp tục làm việc để cố cho xong phần của mình. Vài tuần sau đó thì trong lòng bàn tay đã nổi lên những cục chai và tôi
        đã có thể làm kịp các bạn.

        Tôi nghĩ rằng “lao động” rất tốt vì các bắp thịt có cơ hội được dịp vận động. Có điều tôi không đồng ý với câu “lao động là vinh quang” vì chánh quyền đã sử dụng chiêu bài nầy để trả thù nhóm người công chức và quân đội Việt Nam Cộng Hoà bằng cách hạ nhục họ, bắt họ làm việc quá sức lực mà không cho ăn uống đầy đủ trong khi nhân phẩm họ bị chà đạp và sức khoẻ họ ngày càng giảm sút. Trên những con đường đê trơn ướt, chúng tôi đi chân không , không guốc, không giầy, kể cả đôi dép “râu”. Quần áo chúng tôi lần hồi bị rách mướp. Vì thể diện cũng như vì sự cần thiết, chúng tôi tìm cách vá víu lại.

        Vì buổi sáng ở đâu, gió thổi khá lạnh, nên chúng tôi vá áo bằng nhiều mảnh giẻ rách đủ màu sắc. Ai dè hiện nay kiểu quần áo này lại đang thịnh hành ở Âu Mỹ…. Ở giữa đồng không, trong buổi trưa nắng thật gắt, da chúng tôi bị cháy nám đen nên chúng tôi phải tìm cách làm nón bằng mọi thứ: giẻ rách, giấy bìa, lá chuối, luôn cả giỏ tre rách.

        Có người đã tố cáo rằng chính quyền Hà Nội cho hành quyết những người học tập hoặc đầu độc họ. Tôi chưa được nhìn thấy điều này, ít ra trong trại tôi ở. Thật ra họ đâu cần dùng biện pháp đó, mà chỉ cần nhốt chúng tôi và bắt làm việc quá sức, trong khi đầu óc bị nhồi sọ ray rứt, thì cũng đủ làm chúng tôi chết lần hồi, chết một cách tự nhiên mà không tốn đạn cũng không gây tiếng vang quốc tế. Thường thì bệnh tật hoành hoành trong các trại nhất là bệnh phù thủng, ho lao, kiết lỵ và bệnh sốt rét. Hầu như không có thuốc men gì cả. Thường thì một số tội phạm buông xuôi để chết lần mòn trong tuyệt vọng và nhục nhã. Các bạn cùng phòng sau khi báo cáo cho trưởng trại, để những xác chết đó được cuốn lại trong manh chiếu rách hay mấy thước ny lông rồi chôn sau vườn mì, không một nén nhang. Chỉ có niềm hy vọng là giúp cho các người “học tập cải tạo” cố gắng bám víu lấy sự sống. Hy vọng được sống để một ngày nào đó còn gặp lại gia đình. Chúng tôi – tôi hay dùng chữ “tội phạm” để nhắc nhở hoàn cảnh của chúng tôi dưới mắt của bọn cán bộ – sẵn sàng chờ đợi nhiều tuần, nhiều tháng. Đảng và nhà nước đã chẳng rêu rao câu “tình thương xoá bỏ hận thù” đó sao ? Có ngảy rồi chúng tôi cũng sẽ được “khoan hồng” ! Thế nhưng sau khi đợi 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm, 3 năm….một số tội nhân buông tay nhắm mắt vì không còn chịu đựng được nữa.

        Một vài tội phạm cố tìm vui trong những cuộc “tình câm” với các nữ tội nhân. Cũng có một số cô còn trẻ chỉ vào khoảng 15, 16 tuổi và rất đẹp. Khoảng độ 300 nữ tù nhân bị nhốt trong một dãy nhà tôn lợp lá nằm phía sau văn phòng và nơi cư ngụ của cán bộ. Dãy nhà được rào bằng kẽm gai, nằm ngay giữa sân giống như một hòn đảo huyền hoặc mà ánh mắt của các nam tội nhân thường hướng về đó. Nơi đây thường xảy ra những cuộc đánh lộn và cãi nhau. Đây là một trong các trại “phục hồi nhân phẩm” để dạy họ một nghề. Ý định thì hay nhưng sự thật rất đau lòng. Họ bị nhốt như những tội phạm và được học một nghề duy nhất là đan đệm. Sau một thời gian “học tập tốt” họ được thả ra, nhưng chưa chắc nhân phẩm của họ đã được phục hồi. Thường vì các nữ tù vì tự ái, không liên lạc với gia đình, hoặc vì gia đình quá nghèo hay ở quá xa nên đa số không được thăm nuôi. Ngoài sự mất tự do họ còn thiếu thốn về vật chất nên dễ sanh ra cau có gắt gỏng rồi gây gổ đưa đến ẩu đả. Tụi tôi đứng xem , từ trong vòng rào kẽm gai của dãy trại nam và vỗ tay cổ võ , vui cười. Đó là những dịp duy nhất để chúng tôi giải trí.

        Các nữ tù được đặt dưới sự kiểm soát của nữ cán bộ và sự trực tiếp trông nom của bà Tám mập, một mụ tú bà đang trên đưòng hoàn lương. Bà Tám ngự trị trên đám con dân một cách nghiêm khắc, đi đâu cũng có cây roi mây trên tay. Thế nhưng các nữ tù rất mến bà và gọi bà là Má Tám. Bà ta khoảng 50 tuổi và còn khá đẹp mặc dầu hơi “sổ sữa”. Bà ta đặc biệt có dáng đi đủng đỉnh như con vịt bầu và cái miệng không ngừng hoạt động. Nhiệm vụ của bà ta là dàn xếp những cuộc cãi nhau và rình rập để ngăn chặn hoặc báo cáo những sự liên lạc có thể xảy ra giữa các nam, nữ tù nhân. Có đôi lần, không chúng tôi đi lao động cũng có dịp được đi gần một số các cô đi gánh nước, nhưng chúng tôi không dám nói chuyện vì điều lệ của trại cấm các nam, nữ tù nhân nói chuyện với nhau. Chúng tôi chỉ còn biết nói chuyện bằng mắt . Cũng may điều lệ của trại không có dự trù khoản này. Nói nghe thì thật thơ mộng, nhưng vì quá lo nghĩ nên tôi cũng không thiết đến việc này, tôi chỉ cần một người bạn để tâm sự.

        Sau vài lần nói chuyện với Lý, chúng tôi chỉ trao đổi vài câu với nhau trong mấy tuần lễ sau đó. Tôi thấy Lý chuyện trò với mấy người nằm gần và tôi cũng có lần nói chuyện qua loa với người nằm chiếu kế bên tôi. Chúng tôi chơi trò cút bắt như vậy, mặc dầu trong lòng tôi cảm thấy trống trải và rất cần một người bạn để tâm sự. Có lẽ Lý cũng nghĩ như tôi, vì đôi lần tôi nhìn lén qua bên kia chợt bắt gặp Lý đang nhìn lại, tôi tảng lờ, rồi quay mặt vào vách mà thở dài. Kinh nghiệm trong tù cho tôi biết rằng con người có thể chấp nhận sự thiếu thốn về vật chất nhưng khó mà chấp nhận được sự thiếu thốn tình cảm và sinh lý.

        Lần hồi, sống chung đụng trong một khoảnh đất nhỏ hẹp, trong tình trạng tuyệt vọng này, chúng tôi trở thành những con người bủn xỉn, bần tiện, dữ tợn và hay gây gổ. Chúng tôi thay đổi tánh tình và gây nhau vì những chuyện nhỏ nhặt. Có người trước đây rất kín đáo, nay trở thành người tò mò, nhiều chuyện và độc ác. Lúc đầu, mỗi lần có người chết hay bị tai nạn vì đạp phải mìn, chúng tôi than thở, xót xa và buồn bã. Sau đó chúng tôi dửng dưng như thấy một việc tầm thường . Rồi với tháng năm qua, khi có người chết đi, chúng tôi lại cho rằng họ có phước vì chết đi là rảnh nợ….

        Những mối tình bạn thường được nẩy nở quanh một giỏ đồ ăn thăm nuôi và tình cảm cũng phai lạt dần khi đồ ăn trong giỏ vơi đi. Trong trại, để khỏi bị phạm 1 trong 36 điều cấm lệnh, bọn tù chỉ còn cách nói chuyện về ăn uống. Họ bàn tán về những món ăn xưa hoặc những bữa tiệc thịnh soạn mà họ sẽ thưởng thức một khi đã ra trại. Nhóm khác thì lại bàn về chuyện đàn bà, chuyện tiếu lâm và kể nhau nghe những mẩu chuyện mà ai nghe qua cũng phải đỏ mặt. Sau những lúc đó có lẽ họ lại trở về với nỗi cô đơn càng thấm thía hơn nữa . Tôi cảm thấy tội nghiệp cho họ và cho cả tôi nữa.

        Ở đây, sự thiếu thốn lại có khi giúp một số người tỏ rõ tình người . Ông Sáu đã cứu tôi ở trong tù Gò Công, giúp cho tôi lấy lại sức, cho tôi manh chiếu đáp, cho tôi mấy cái lon cũ để đựng thức ăn. Trong tù, vì thiếu thốn về thuốc men, chúng tôi săn sóc cho nhau bằng cây, bằng lá, bằng rễ, bằng cách cạo gió hoặc giác hơi. Trong phòng tôi, lại có thêm một bác sĩ: bác sĩ Thất, nhưng cũng đành bó tay vì thiếu phương tiện máy móc và thuốc men. Nhà sư Thiện Tâm, khá rành về môn châm cứu, đã cưú cũng khác nhiều người trong trại, hơn cả ông bác sĩ kia nữa.

        Riêng tôi, từ khi bị bắt đền giờ, tôi không được tin tức gì của gia đình dầu tôi tin rằng ba má tôi đã nhận được tờ nhắn tin mà tôi đã nhờ ông Sáu tìm cách gởi từ Gò Công. Gia đình tôi có lẽ đã biết rằng tôi còn sống và đã bị bắt, nhưng không biết tôi đã bị chuyển đi đâu.

        Không biết gia đình tôi hiện sinh sống ra sao, gia sản đã bị tịch biên chưa? Anh rể tôi đã đi trình diện “học tập cải tạo” chưa ? Không hiểu chánh quyền địa phương có làm khó dễ gì gia đình tôi không? Hiện giờ ở trường Đại Học Nông Nghiệp có lẽ người ta đã thấy sự chống đối tiêu cực của tôi bằng bỏ trường, bỏ nước ra đi, không hiểu những đồng nghiệp của tôi nghĩ gì ? Những câu hỏi cứ tiếp tục quay cuồng trong đầu óc tôi, trong khi thân xác tôi càng ngày càng kiệt quện. Ngay lúc đó, trưởng trại lại tiếp tục gọi tôi lên thẩm vấn.

        Họ trói tôi hay tay ra sau lưng và dẫn tôi lên văn phòng trưởng trại – một căn phòng trống rỗng với một bàn và hai chiếc ghế. Trên tường là hình “bác Hồ” và một biểu ngữ to tướng “Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do” cạnh một cây cờ đỏ sao vàng.

        Có người đã ví von rằng:”Cộng sản quả thật là hay. Cụ Hồ đã làm đúng lời cam kết trên biểu ngữ. Tiếc thay cụ chỉ có làm xong việc phân nửa rồi bỏ dở vì hiện nay đảng và nhà nước đã thực hiện xong phần đầu của kế hoạch : nghĩa là hiện nay Miền Nam “KHÔNG CÓ GÌ” hoặc “KHÔNG CÒN GÌ ” cũng được !”

        Nói về sự dí dỏm của dân Miền Nam, xin mở dấu ngoặc để kể vài mẩu chuyện con con, chứng tỏ sự bất mãn của dân chúng đối với chế độ Cộng sản. Trẻ em hay sửa bài hát hoặc câu biểu ngữ của chính quyền mới. Các bà các cô khi gặp các công an mặc áo vàng thì nói nhỏ với nhau là “bò vàng”. “Xã Hội Chủ Nghĩa” được biến thành “Xếp Hàng Cả Ngày” và các danh từ quái dị của họ cũng bị méo mó đi để chế diễu.

        Tôi đang mỉm cười vì những chuyện đó thì giọng the thé của tên cán bộ lôi tôi trở về với thực tại.

        – Tại sao anh định rời bỏ Việt Nam?

        – Đồng đảng của anh mấy người ?

        – Anh cho biết chiếc tàu Mỹ nào đang đợi các anh ngoài khơi ?

        Những câu hỏi như những nhát búa bổ vào đầu tôi . Tên cán bộ đi vòng quanh chiếc bàn khiến tôi phải nhìn theo hắn khi trả lời, đầu óc tôi bị quay cuồng đảo lộn và trong ánh nắng chói loà từ cửa sổ, tôi chợt mất thăng bằng và không còn nghe, không còn hiểu những gì hắn nói nữa.

        Tôi mơ màng thấy hắn dằn một khẩu súng lục trên bàn. Tôi mường tượng thấy mình đang tuột rơi vào một hố sâu xoay tít và không còn biết gì nữa cả.

        Cũng nhờ tôi bất tỉnh vào lúc ấy nên họ mới khiêng tôi liệng trở lại phòng giam. Các bạn cùng phòng cho tôi biết là thường khi hắn ta bắt đầu dằn súng lên bàn là sắp tới màn tra khảo. Có người bị đánh bằng cây hoặc bằng báng súng đến đổ máu. Sau đó , có lẽ vì số người bị bắt quá đông, họ chỉ phát cho chúng tôi giấy và bút đề là “Phiếu lý lịch và tự kiểm”. Chúng tôi phải “thành thực” kể lại gốc tích từ hồi còn đi học, kể tên họ chức vụ, địa chỉ của các bạn bè, anh em, cô bác, ông bà nội ngoại luôn cả ông sơ, bà cố. Chúng tôi phải tìm xem những hành vi của mình có “phản động” và “chống lại nhân dân” không và phải tố cáo những gì mình biết về các bạn đồng trại, hoặc các người còn bên ngoài để chúng tìm bắt.

        Chúng rêu rao rằng nếu “thành thật hối cải” và khai đúng sự thật thì sẽ được khoan hồng và được trả tự do nếu “học tập tốt”, “lao động tốt” và “tự kiểm tốt”.


        Thật là một trò hề, thật là một sự gạt gẫm vô nhân đạo. Chúng tôi bị giam tại đây cũng chỉ vì lỡ sanh ra dưới chế độ cũ, không làm lính thì cũng làm công chức . Như vậy là có tội với “nhân dân”. Chúng tôi bị giam tại đây cũng vì không cùng một tư tưởng với chủ nghĩa cộng sản. Vả lại, chủ nghĩa này không cần người dân có tư tưởng, mà chỉ cần những con múa rối mà thôi. Tôi ghét nhất là những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của chủ nghĩa này. Họ luôn luôn đề cao tự do độc lập nhưng lại cúi đầu trước quan thầy Liên Xô vĩ đại cùng với “đồng chí anh em Bắc Kinh” vì họ nói là hễ “môi hở thì răng lạnh.”

        Quả thật vậy, sau khi xích mích với đồng chí anh em Bắc Kinh, chỉ “hở môi” là đồng chí “tay sai” lại lạnh run ngay.

        Đời sống tại trại Mỹ Phước Tây cứ tiếp tục như một cái máy. Ngày tháng trôi qua như cơn ác mộng hãi hùng.. Ngày dài vô tận, đêm cứ không thôi. Trong sự chết chóc, tù đày và đói khổ, trong sự uất hận, căm tức, con người lần hồi đi đến sự tự hủy diệt, từ thân xác đến tâm hồn. Tôi không còn muốn chết nữa mà muốn sống một cách mãnh liệt, để xem trò đời sẽ đi tới đâu. Và lúc ấy, tình bạn đã đến với tôi.

        3. Ngày hôm đó, chúng tôi được chỉ định để vét một con kinh bị đất lỡ và cây cỏ mọc gần bít kín. Nói về các “con kinh ta đào” của chính quyền Hà Nội bày ra để đày đoạ dân miền Nam, tôi nhận xét rằng có một số kinh cần thiết để cho sự di chuyển của thuyền ghe, và một số kinh dùng cho sự canh tác. Thế nhưng , có một số kinh mà bọn tù cải tạo chúng tôi phải đào lại không có mục đích gì ngoài sự đày đoạ chúng tôi. Các kinh đó nằm trong những vùng đất đầy phèn chua, nơi mà không có gì mọc được ngoài những ruộng đưng. Đưng là một thứ cỏ lác mọc hoang nơi các đầm lầy, được dùng để lợp nhà hoặc đan đệm.

        Đào đất sình là một công tác giản dị nhưng ôi thôi khổ sở vì dụng cụ thô sơ, cuốc xuổng thì mòn lẳng, cán cây lại cứng đơ nên đất sình dính vào dá, liệng không đi.

        Hôm đó tôi được chỉ định công tác trên một khoảng độ mười thước kinh. “Đực Râu”, tên “antenne” hướng dẫn chúng tôi dùng một que cây để đo phần đất của mỗi người . Hắn đi lại trên đê, tay cầm cây que như thống chế đi duyệt binh, thấy thật dễ giận. Trong khi đó, chúng tôi lội bì bõm trong bùn, cố moi sình để đắp lên bờ. Leo lên gần bờ thì mớ đất đã tan đi đâu mất. Tôi muốn chảy nước mắt và thẫn thờ nhìn phần công tác của mình, tự hỏi biết chừng nào mới xong. Thật ra từ hồi còn là sinh viên, tôi cũng hay đi bơi lội và thích thể thao nên đối với tôi, mặc dầu “lao động” quá sức tôi vẫn cố gắng hoàn thành. Nhưng tôi căm hận vì việc đào kinh này chẳng đem lại lợi ích gì cho “nhân dân” cả. Đây chỉ là một trong những sự ngu xuẩn của bọn cầm quyền mới này mà thôi.

        Lúc ấy, Lý làm việc bên cạnh tôi nên hắn thấy tôi tiu nghỉu như vậy bèn tội nghiệp:

        – Thôi bồ, ráng lên đi! Tôi làm xong sẽ giúp cho bồ!

        Các bạn đồng đội khác cũng hì hụp lặn nhào trong bùn sình, trong khi tên Đực Râu ngồi hút thuốc lào. Ở xa xa mấy cán bộ võ trang đang nói chuyện trên bờ đê.

        Tôi bì bõm lội trong sình và làm xong một phần tư phần được chỉ định trong khi Lý đã làm hơn nửa phần của hắn.

        Tôi thấy Lý leo lên bờ để nghỉ xã hơi. Thấy Lý ngồi xuống bờ đê, tôi định kêu hắn trở xuống thì đã nghe giọng hách dịch của Đực Râu:

        – Ê, thằng kia ! Ai cho mày nghỉ mà mày ngồi đó ?

        Hắn ta làm một du kích, sau theo chiêu hồi và được trưởng trại tin dùng nên hắn rất lên mặt.

        Tôi định ra hiệu cho Lý xuống làm tiếp, vì thật ra chúng tôi cũng được phép nghỉ mệt chốc lát, nhưng phải nghỉ tại chỗ, nghĩa là đứng dưới kinh. Chỉ khi nào có phép mới được lên bờ để ngồi nghỉ. Lý vẫn ngồi và thản nhiên trả lời:

        – Tôi đã gần xong phần công tác, nghỉ mệt một chút không được sao ? Lội dưới nước mệt lắm chớ phải như ngồi trên bờ đâu.

        Một sự im lặng bỗng nhiên bao trùm lên chỗ chúng tôi làm việc. Những cặp mắt lờ đờ mệt mỏi bỗng sáng lên, chúng tôi thoả mãn vì có người đã nói lên ý nghĩ của chúng tôi.

        Đực Râu giật mình, hắn ta ngạc nhiên vì có người dám trả lời lại hắn.

        – Ê, thằng kia, lại đây tao biểu!

        Hắn hách dịch gọi Lý, hai tay bẻ cong cong cây que. Tụi chúng tôi ngưng móc đất, buông vội dá xẻng để theo dõi. Lý điềm nhiên đứng dậy, và khi đến gần Đực Râu khoảng một thước, Lý đứng lại chờ đợi.

        Mấy tháng lao động đã làm cho Lý hơi gầy, song thân thể vẫn còn khoẻ mạnh. Tôi thoáng thấy nụ cười xênh xếch trên khoé môi Lý và chợt mong rằng Lý sẽ tặng cho Đực Râu một quả đấm vào bộ mặt khả ố của hắn, nhưng tôi lại sợ cho những hậu quả mà Lý sẽ gánh chịu. Đực Râu đang hoang mang không biết xử trí ra sao, vì khi nhìn lại thân thể gầy còm của hắn, bề cao thì thua hẳn Lý, hắn sợ sẽ bị Lý đánh trả lại, vì cán bộ lúc đó ở khá xa. Khi họ can thiệp thì hắn đã tơi bời hoa lá. Chắc hắn nghĩ vậy nên dùng kế hoãn binh:
        – Đồ làm biếng, đi tiếp tục làm xong phần công tác của mày, khi về trại sẽ tính sau.

        Lời hăm doạ làm cho hắn lấy lại phong độ. Hắn quay qua đám tù tiu nghỉu đang tiềc rẻ vì không xem được một màn thoả đáng, nói:
        – Tụi bay làm gì đứng đó? đi làm tiếp tục. Đồ phản động.

        Tôi thấy mến Lý từ đó. Sau trận cãi vã đó, chúng tôi lặng lẽ làm việc và sau khi xong công tác, Lý âm thầm sang làm tiếp phần của tôi còn dang dở.

        Trên con đường về trại, tôi âm thầm lo sợ cho buổi kiểm thảo chiều nay. Thật vậy, đêm hôm đó, trong buổi học tập sau phần sơ khởi thường xuyên, Năm Sơn, gã trưởng phòng với khuôn mặt phì nộn và nhiều đa nghi, đã được báo cáo liền sau khi chúng tôi đi công tác về, vội đề nghị với Đực Râu báo cáo về công tác trong ngày.

        Chúng tôi mỏi mệt sau một ngày làm việc nên gần kiệt sức, nhưng vẫn không dám dựa vào vách lá. Phần tôi thì đã dự bị sẵn một cái gối rơm để chèn sau lưng, nên không lấy gì khổ sở lắm. Tuy nhiên trống ngực tôi đánh liên hồi khi Đực Râu kể lại mẩu chuyện ban sáng và thêm thắt:
        – Anh Lý đã cãi lệnh công tác và định hành hung người hướng dẫn. Anh Lý khinh khi “lao động” trong khi cụ Hồ đã bảo “lao động là vinh quang”. Anh Lý đã đi ngược lại đường hướng của nhân dân. Đề nghị tập thể báo cáo lên cán bộ trưởng trại để làm gương.

        Báo cáo lên trưởng trại đồng nghĩa với đi vào conex vài tháng sau là theo ông bà. Năm Sơn cũng không ưa gì Đực Râu, nên hỏi lại tập thể:
        – Anh Lý có gì để bào chữa không? Xin tập thể cho ý kiến.

        Lý lấp vấp trả lời. Đực Râu khôn khéo gài cho Lý nổi giận. Tập thể mệt mỏi không có ý kiến gì. Năm Sơn liền hỏi:
        – Nếu tập thể không có ý kiến, thì tôi lấy quyết định. Có ai còn gì để nói nữa không?

        Tôi ngạc nhiên nghe tôi nói, giọng lạc hẳn vì quá xúc động. Tập thể im lặng quay nhìn tôi. Lần hồi tôi lấy lại bình tĩnh:
        – Thưa trưởng phòng, thưa tập thể. Trưa nay tôi làm việc gần anh Lý, nên xin làm nhân chứng. Quả thật anh Lý có lên bờ ngồi nghỉ, nhưng khi bị quở trách thì anh Lý tiếp tục làm việc và đã xong phần công tác. Có lẽ vì quá mệt mỏi nên anh Lý có trả lời lại với trưởng nhóm, nhưng tôi không nghe anh Lý có lời lẽ khi khi lao động. Xin tập thể xét lại.

        Căn phòng im phăng phắc. Bỗng nhiên, anh trưởng nhóm Hai Lung từ nãy giờ chưa có ý kiến, lên tiếng làm tập thể nín thở để theo dõi. Hai Lung khi xưa là thư ký ở xã, nay cũng là một “antenne” nhưng rất được cảm tình của anh em.

        Hai Lung đưa tay về phía trước:
        – Xin có ý kiến. Để tập thể có chút thời giờ sửa soạn đi ngủ vì đã gần giờ giới nghiêm, tôi xin vắn tắt: anh Lý thuộc nhóm của tôi, nhưng hôm nay vì có công tác ở văn phòng nên tôi không có mặt tại Kinh Một. Nhưng tôi xác nhận rằng anh Lý lao động tốt. Nếu lần này anh Lý có vi phạm kỷ luật thì tôi xin đề nghị tập thể phạt cảnh cáo anh Lý, bằng cách làm “tự kiểm” và nộp cho trưởng phòng, đồng thời hứa với tập thể không tái phạm nữa. Xin tập thể cho ý kiến.

        Căn phòng nhộn nhịp lại. Kẻ nói tới, người nói lui. Bị nhốt lâu ngày không có gì để nói, người ta thèm nói; chuyện gì cũng bàn từ chuyện mua một cây chổi đến chuyện lỗi lầm nhò nhặt của nhau. Sau cùng Năm Sơn lên tiếng:
        – Tôi kết luận: tập thể cảnh cáo anh Lý, nhưng không báo cáo lên trưởng trại. Đề nghị bế mạc họp.

        Lý đã thoát khỏi conex trong đường tơ kẽ tóc. Chiều hôm sau, Lý nhận một tờ giấy và một cây viết Bic để làm “tự kiểm”…

        Tôi thấy Lý tần ngần một lúc lâu hình như suy nghĩ lắm và sau cùng đến chỗ tôi nằm để nhờ viết dùm:
        – Bồ viết dùm tôi đi, Biết gì mà viết bây giờ? Thiệt là rắc rối. – Hắn đỏ mặt nói.

        Vỡ lẽ ra thì hắn ta viết chữ Việt cũng chưa thạo, nói gì đến “tự kiểm”. Và cũng nhờ dịp đó mà tôi hiểu rõ gia cảnh của Lý hơn, dễ thông cảm với Lý hơn nữa.

        Gia đình Lý sinh sống ở Nam Vang từ lâu đời rồi, và làm ăn buôn bán rất phát đạt, cho đến năm 1970 khi có chuyện hiềm khích giữa hai chính phủ Miên-Việt, Việt Kiều hồi hương đổ xô về Việt Nam để tránh sự giết chóc và từ đó bắt đầu một cuộc đời trôi nổi cho Lý.

        Má Lý vội vã mang mớ hành lý và 3 đứa con trở về Việt Nam trước để tránh nạn, còn ba Lý ở lại để thu xếp và cố gắng cứu vớt chút vốn liếng, hẹn sẽ sang Việt Nam sau. Ba Lý biệt tích luôn từ đó.

        Má Lý chờ đợi tuyệt vọng và một năm sau đó lập gia đình để cố gắng nuôi con. Lý là con lớn, năm đó đã 14, 15 tuổi. Ở Nam Vang Lý học chữ Miên và khi qua Việt Nam, không thích đi học tiếp, vì miếng cơm manh áo và vì hai đứa em gái còn nhỏ dại. Má Lý định cư tại Mỹ Tho, nơi còn vài người thân thuộc. Khi người cha ghẻ bước chân vào nhà, thì Lý bắt đầu cuộc sống lưu lạc vì không hợp với người chồng sau của mẹ, vả lại Lý không nghĩ rằng cha mình đã chết. Nó bỏ nhà đi rong với đám bạn bụi đời, và làm tất cả các nghề, bán báo, đánh giày, khuân vác ở bến tàu, đạp xích-lô và sau cùng khi “giải phóng” về thì hắn ta đang làm nghề dẫn mối và bảo vệ các cô gái ăn sương.

        Lẽ dĩ nhiên trong cuộc đời gian truân ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, Lý dã có dịp vào tù ra khám với những tội lặt vặt như đánh lộn hay bài bạc. Chưa đầy hai mươi tuổi mà Lý đã nhìn đời với cặp mắt chán chường, đời đã dạy cho Lý những bài học chua cay. Hắn ta thù đời vì đời nhiều bất công, nhưng khi Miền Nam bị chiếm đóng, thì Lý lại đâm ra ghét bọn người mới đến cầm quyền. Trong một buổi say sưa, Lý đánh lại một tên bộ đội khi tên này định lên mặt trong một quán rượu. Và Lý bị bắt nhốt tại trại giam Mỹ Tho một tháng sau ngày 30 tháng 4. Lý được đưa tới trại Mỹ Phước Tây chỉ vài ngày trước khi tôi đến.

        Sau này tôi được biết rằng Lý gợi chuyện với tôi và chia bánh tét cho tôi vì hôm đó tôi ăn mặc bộ đồ cũ mèm để khỏi bị để ý khi vượt biên. Khi biết được rõ chuyện tôi là giảng viên đại học, Lý ngỡ ngàng, nhưng có lẽ đã rõ tính tình tôi nên hắn đâm ra mến tôi và từ đó chúng tôi thân thiết với nhau hơn nữa.

        “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, thời gian dài lê thê. Chúng tôi ăn uống cực khổ, làm việc như những con vật và bị bạc đãi, đánh đập khi vi phạm kỷ luật., nhưng sao vẫn sống. Con người sinh ra để ham sống, dầu hoàn cảnh nào đi chăng nữa. Nhưng sự cô đơn làm cho con người mau bi quan và chán nản. Từ khi có bạn, cuộc đời tôi như bớt phần tủi cực. Trên con đường dài hun hút, dầu miệng đắng lưỡi khô, chúng tôi kể nhau nghe những mẩu chuyện vui và cười lên như trẻ con. Nỗi nhớ nhà cũng phôi pha và cuộc đời có ý nghĩa hơn. Thời gian sau nầy, khẩu phần chúng tôi từ 12 kí gạo một tháng bị giảm xuống còn có 9 kí, và phần canh cũng chỉ còn có ít cọng rau hay một chút bí rợ với nước muối. Lý rất lanh lợi và trên đường đi công tác, luôn luôn tìm ra rau muống hoặc rau mồng tơi về nấu ăn dậm cho đỡ đói. Lý cũng khá khoẻ, nên hay tìm vác củi khô về để nấu nước uống, vì nước ở đây rất độc, uống nước sống dễ bị thổ tã. Từ hồi vào trại tôi đã thấy nhiều người bệnh bị đưa ra nằm ngoài “vườn mì” nghĩa là nghĩa địa gần chỗ trồng mì.

        Lý lo phần ăn uống, tôi thì dở nên đành chịu lép, cũng may có tài vá quần áo nên cũng được nhờ. Khi nào rảnh tôi hay vá quần áo cho tôi và lL, chả lẽ mình không xài vào được việc gì sao. Nghĩ lại cũng vui vui.

        "Đội" chúng tôi được 50 người, hôm nọ được chỉ định đi cắt lúa. Ở đây trồng lúa xạ, vì nước ngập rẩt cao. chỉ có loại lúa này theo nước nên mọc được . Lúa xạ thưa và ít hột, nên cắt lúa rất mệt mà khó đạt chỉ tiêu, nghĩa là phần công tác được giao, khoảng một ôm lớn chừng một thước rưỡi bề vòng. Cắt lúa hay bị đứt tay vì lá lúa bén mà tôi không quen, nên Lý hay giúp đỡ tôi. Trong những dịp đó, tôi lại thấy quê hương mình đẹp làm sao, trên đồng lúa vàng lố nhố vài chiếc nón lá thật hữu duyên.

        Thật ra lúc sau này, chúng tôi làm công tác cho cán bộ, vì họ đề cao chế độ vô sản, nhưng họ lại muốn có gia sản riêng, xe cộ hoặc đất đai, ruộng vườn.

        Chánh quyền Hà Nội chủ xướng việc đấu tranh giai cấp, nhưng chính giới lãnh đạo lại làm nảy sinh ra một giai cấp thống trị chuyên chế, sống phè phởn trên đa số dân vô sản. Chính tôi cũng đã phản đối sự bất công trong xã hội cũ, những tưởng chánh quyền Cộng Sản sẽ đem lại cho dân chúng sự no ấm. Nếu như giới lãnh đạo đòi hỏi dân chúng “hy sinh” thì lẽ ra chính họ phải làm gương bằng cách tự nghiêm khắc với họ. Đằng này sự tham nhũng càng lan tràn, càng lộ liễu, và càng sâu rộng hơn. “Đừng nghe những gì họ nói mà phải nhìn những gì họ làm”, thật đúng thay.

        Nói về chuyện ăn uống mà không nói về chuyện cầu xí thì thật là thiếu sót. Mà nói thì lại kỳ quá. Nhưng sự thật là trong trại chúng tôi có một ao cá tra thật lớn, trên làm cầu và dưới thả bèo nuôi cá, thật là nhất cử lưỡng tiện. Đi tiểu tiện cũng có giờ giấc, bởi vì bọn tù chỉ được phép đi ra áo cá tra buổi sáng từ 4 giờ tới 5 giờ, và buổi chiều từ 6 giờ. Ngoài giờ đó, cửa cầu đóng kín: ao cá được rào kẽm gai cẩn thận. Họ sợ bọn tù lén bắt cá để ăn.

        Thật ra, “đi” cách này rất thích thú khi có gió mát nhưng khi mùa mưa tới, nước ngập tràn lan và nước trong ao bắt đầu mặn thì công việc nuôi cá phải đình chỉ lại. Bọn chúng tôi phải lặn hụp trong đầm lục bình dơ bẩn để lưới tất cả đám cá tra ở trong ao. Tôi thực hành công tác một cách thản nhiên. Nghĩ rằng tới bước đường cùng này, còn gì mà giữ gìn nữa. Với tâm trí thảnh thơi như vậy, mà khi đối diện với…thực tế tôi phải rùng mình. Nhớ lại có lúc phải gánh phân đi tưới cải, tôi cảm thấy mắt mình hơi cay cay. Từ đó tôi sợ phải ăn cá và sợ luôn cả ăn cải. Thế nhưng không ăn lấy gì mà sống.

        Hết mùa nuôi cá, nhưng vì vấn đề vệ sinh vẫn tiếp tục nên trưởng trại ra lệnh chúng tôi đào những hố thật to, bắt ngang đó những miếng ván gập ghềnh. Vậy là xong những hầm cầu dã chiến. Từ đây, mỗi lần đi vệ sinh là một cực hình đối với tôi. Đây là cách nhắc nhở bọn tù chúng tôi là nhân phẩm chúng tôi không còn gì nữa cả.

        Nếu họ đánh đập và chưởi mắng chúng tôi thì chúng tôi cũng buồn có một, mà bắt buộc chúng tôi sống như những con thú vật, thì chúng tôi buồn cho thân phận chúng tôi gấp mười. gâp trăm lần. Thêm vào đó sự tủi nhục được tái diễn hằng ngày qua những giờ điểm danh. Nếu điểm danh ngoài sân cỏ thì còn đỡ vì chúng tôi đứng có hàng có lối như quân đội, có đội trưởng báo cáo số hiện diện và cán bộ đếm lại kiểm soát. Còn điểm danh trong phòng khi trời mưa thì phải ngồi lom khom như con chó. Gặp phải cán bộ dữ dằn thì phải nhận thêm vài cây gậy khi ngồi không ngay hàng thẳng lối. Lạ thay, lúc ấy mọi việc đối với tôi rất thường: một khi mình chấp nhận thì mọi sự phũ phàng không có chỗ bám víu: tôi vẫn là tôi và họ không làm gì được tôi. Lý và tôi thường kể nhau nghe về chuyện gia đình, vì chúng tôi xa gia đình quá lâu mà không tin tức, không gặp mặt, không một hy vọng được một ngày thả tự do. Chúng tôi bị làm “giấy lý lịch” năm, bảy lần, nhưng tội trạng thì không thấy đem ra xét xử. Thật ra có ngườ bị bắt mà không có tội rõ rệt, nếu họ phải đem ra toà án nhân dân mà không có tội gỉ để gán thì cũng khó xử họ.

        Rồi ngày qua ngày, Tết lại gần đến. Ngoài con số các bạn bị bệnh thổ tả, tiêu chảy hay sốt rét lần hồi đi ra nằm ngoài vườn mì, một số khác bị đạp mìn trên nông trường, có người cụt giò, có người bỏ mạng. Còn chúng tôi vẫn lây lất sống trong nạn đói thường xuyên. Có người bắt chuột để ăn, hoặc luộc rong rêu làm canh ăn đỡ đói. Đa số chúng tôi xanh như tàu lá, có người bị bệnh thủng, xem tướng tá thì tưởng là mập, mà khi đụng ngón tay sờ vào người thì dấu tay in rõ ràng trên da thịt

        Chúng tôi thèm một miêng mắm ruổc xào thịt, chúng tôi thèm một miếng bánh bông lan. Đối với tôi hạnh phúc đó đã quá tầm tay chúng tôi rồi. Phải thâý một đám tù gầy còm bươi móc trong đống rác để tìm một củ mì thúi, một chút khoai sùng, mới thấy thấm thía câu «lấy tình thương xoá bỏ hận thù”của Phạm Văn Đồng và Tôn Đức Thắng. Theo thiển ý của tôi thì cụ Hồ là người nhân ái, trót lỡ theo chủ nghĩa vô thần, nhưng chắc cũng là người thương dân. Nếu cụ còn sống thì “có lẽ” không có cảnh này. Hay là rốt cuộc bọn họ cũng như nhau: chủ nghĩa và nguyên lý của đảng bắt buộc họ phải hành động như vậy?

        Bỗng dưng vài tuần trước Tết, chúng tôi được thông báo rằng “thể theo chánh sách khoan hồng của nhà nước” năm nay chúng tôi được biên thư về cho gia đình để báo rằng ngày 30 Tết chúng tôi được gặp mặt người nhà, và có thể mỗi người được nhận một gói quà. Tin tức chuyền nhanh trong trại. Lần đầu tiên một niềm vui đến vói chúng tôi.

        Chúng tôi được nhận mỗi người một tờ giấy và một cây viết Bic được đưa chuyền nhau để viết thư. Phải làm thật nhanh vì cả đội mà chỉ có 2 cây viết. Từ khi “giải phóng” xong thì giấy và viết trở thành “tư liệu” của Bộ Quốc Phòng nhà nước, nên họ “quản lý” chặt chẽ, kẻo bọn phản động chúng tôi có thể dùng đó để để “liên lạc phản cách mạng”. Thật buồn cười cho bọn ngu dốt mà lại thích dùng chữ hay. Dân Miền Nam ghét nhất cách họ dùng chữ thật kêu để chỉ định những gì tầm thường nhất. Tóm lại, chúng tôi “tranh thủ” để “hoàn thành công tác”… viết thư trong buổi sáng.

        Tôi nhắn má tôi lên thăm, nói rằng “chúng tôi vẫn mạnh khoẻ” và đang ở đây rất “thoải mái” và “đang học tập tốt để sớm trở về đoàn tụ gia đình”. Tôi xin má tôi đem cho tôi một bộ bà ba đen, một hũ mắm ruốc và ít cục kẹp vì nghe thèm ngọt.

        Lý định trả giấy viết, vì không muốn biên thư cho gia đình để xin xỏ. Tánh nó là như vậy, không ưa nịnh hót hay xin xỏ ai , cả gia đình hắn mà hắn đã bỏ từ lâu. Tôi dằng lấy giấy viết và cằn nhằn Lý:

        – Sao bồ kỳ quá vậy ? Nghe lời tôi dùm một lần coi. Hay là để tôi biên cho. Thiệt là cứng đầu. Bồ biết không, tôi nghĩ rằng thế nào gia đình bồ cũng mừng khi được tin bồ vẫn mạnh khoẻ. Sẵn đó xin luôn ít cái quần mà bận, riết rồi coi như ăn mày, mang chài mang lưới vậy mà chịu sao? Với lại, bồ hứa sẽ giới thiệu em gái bồ cho tui mà. Bồ cứ hẹn giờ thăm cùng lúc với má và chị tôi thì tôi sẽ chỉ má tôi và chị tôi cho bồ xem. Không nghe lời thì đừng thèm nói chuyện với tôi nữa.

        Sau khi làm trận làm thượng với Lý, nói qua nói lại, nói trả nói treo, nói bóng nói gió, rốt cuộc Lý bực mình quá bèn chịu thua và biên ít hàng về cho má hắn.

        Tôi cảm thấy vui vui vì đã làm cho Lý nghe lời tôi. Đây là bằng chứng của mối cảm tình nó dành cho tôi. Tên bụi-đời-không-thuốc-chữa như nó, chưa biết nghe ai, chưa biết sợ ai, nay rất nghe lời tôi, và rất sợ tôi giận. Vì tôi giận dai lắm.

        4. Một cái Tết nữa sắp trở về trên quê hương tôi. Chúng tôi vẫn còn bị giam giữ. Cứ mỗi khi có lễ lạc, thì văn phòng trại lại rộn rịp và chúng tôi đâm ra hy vọng được trả tự do. Nhưng vì số người ít ỏi được thả “tượng trưng” (đa số do cán bộ can thiệp nhờ gia đình “có chân trong cách mạng” hoặc nhờ mấy lượng vàng) lần hồi chúng tôi không còn ảo tưởng nữa. Thế nhưng trại chúng tôi năm nay mang một bộ mặt khác nhờ thay đổi trưởng trại. Tân trưởng trại gốc người lục tỉnh nên ưa thích cải lương. “Anh Hai” cho phép chúng tôi gọi anh như vậy , ra lệnh cho chú Tám, một bầu gánh hát cũ hạng B hay C gì đó, phải thành lập một gánh hát cải lương để giúp vui nhân dịp Tết và để cho gia đình anh tới xem. Ngoài ra, anh Hai còn ra lệnh cho thành lập một đội bóng tròn để gây chút sinh khí trong trại.

        Có lẽ anh Hai tượng trưng cho một số cán bộ, mặc dầu theo chế độ này, nhưng vẫn còn giữ được tình người. Và Tết năm đó, trại chúng tôi nhộn nhịp hẳn lên.

        Chú Tám khi xưa là bầu gánh kiêm luôn nhạc trưởng nên chú đàn guitare rất hay và đương nhiên là rành tất cả bài bản cả Ba Nam, Sáu Bắc và đương nhiên có cả vọng cổ. Chú xin phép được “tuyển lựa ca sĩ” trong mỗi đội. Tôi rất mê thích cải lương từ nhỏ, từ lúc má tôi dẫn đi coi hát bội ở đình hoặc coi các vở tuồng “lâm ly bi đát” có bà hoàng hậu gần ngày sanh mà bị cảnh ly loạn làm cho khán giả rơi lệ dầm dề…. Tôi mê thích cải lương vì tính chất đơn sơ và hồn nhiên rất gần gũi với tính tình chất phác đôn hậu của ngưòi miền Nam. Tôi cũng bập bẹ hát cổ nhạc, nhờ khi xưa có đi học đàn vọng cổ, nên cũng “đăng ký” làm nghệ sĩ. Sau buổi tuyển lựa ca sĩ, số anh em được giữ lại cho “gánh hát bầu Tèo” khoảng 10 ngưòi. Một số được chỉ định nhắc tuồng, đổi cảnh, ánh sáng và âm thanh. Nghe qua cũng xôm tụ như một gánh hát thật.

        Chúng tôi bối rối khi gặp phải một tình trạng nan giải: Trong trại có điều lệnh cấm tù nam nữ tiếp xúc với nhau. Các nữ can phạm sẽ trình diễn “riêng” các màn văn nghệ của họ, như ca hoặc vũ. Còn chính ban văn nghệ của nam can phạm phải tự tìm lấy mấy “cô đào” trong đám “nghệ sĩ” của mình.

        Chú Tám đã có cách giải quyết: chọn trong số tụi tôi vài đứa mảnh mai để làm đào hát. Ba cô đào được chỉ định là … tôi, Bùi Dân và Hữu Hà, ba đứa “tương đối” kha khá, tuy tướng điệu thì cứng ngắc và tiếng nói thì ồ ồ nhưng chú Tám cho rằng với hoá trang và ánh đèn mờ, tụi này cũng cho ảo tưởng là “đào hát” mặc dầu làm sao sánh được với Thanh Nga, Lệ Thủy!

        Sống trong tủi nhục âm thầm đã lâu, chúng tôi như những con vật chỉ còn chờ ngày đem ra làm thịt. Nay có dịp đem lại cho mình chút hứng khởi nhờ văn nghệ, và mang lại cho anh em cùng trại niềm an ủi nho nhỏ nhân ngày Tết đến, nên chúng tôi ra công dựng sân khấu, lợp nóc, may màn bằng bao cát. Phông và cánh gà bằng phên đệm được tôi vẽ vào đỏ đỏ xanh xanh bằng mấy lon sơn loại xấu.

        Chỉ còn mấy tuần nữa là tới Tết, sợ không kịp chuẩn bị nên anh Hai cho phép các nghệ sĩ được miễn lao động vài giờ mỗi ngày, và chúng tôi được về trại sớm hơn các anh em. Anh Hai cho chúng tôi một mớ áo quần tịch thu của các người vượt biên. Chú Ba thợ may giúp tôi thực hiện một mớ áo quần Tàu, bằng cách sửa lại chút ít rồi may thêm ni-lông màu, đính vào đấy giấy bạc bao thuốc lá, bông hoa giả, tóc giả làm bằng dây ni-lông đen, ngực giả bằng giẻ rách, đao kiếm bằng cọng đu đủ, vương miện bằng lon sữa bò chế biến, đồ hoá trang bằng phấn thoa sẩy của em bé. Bột màu là lọ nồi cạo từ đít nồi. Thời bấy giờ chúng tôi được lãnh mỗi tháng một đồng để mua kem đánh răng. Chúng tôi góp lại và nhờ đó, Anh Hai tậu được một máy phát điện cũ mèm, một micro và hai ống đèn néon xanh và đỏ.

        Chúng tôi chép các vai vào giấy xi-măng và tập tuồng ráo riết. Chú Tám tuyển thêm được vài nhạc sĩ: anh Năm đàn guitare, chú Bảy đàn cò, thằng Hiếu đánh trống và thằng Tí chuột đánh phèn la … bằng hai nắp nồi. Cái micro duy nhất được treo tòn teng và di chuyển bằng dây kéo.

        Tập bài bản thì không sao, mà hễ tới lúc ráp tuồng và ra điệu bộ thì thật là khó cho tụi “đào lộn hột” chúng tôi.

        Ăn mặc thì như ăn mày, quần cụt áo rách bươm, mà mở miệng ra thì nào là tâu phụ vương và mẫu hậu, đã vậy có những cảnh mùi mẫn nữa mới chết cho ba đứa tụi tui. Mấy anh kép thì hát hay thật. Kim Luông cao ráo nên đóng với tôi rất xứng. Anh ta ca hay như Tấn Tài vậy. Còn Hồng Châu thì có làn hơi thật dài, xưa là du đãng có xâm hình con ó trước ngực nên biệt danh là Châu Ó. Hề nuôi cố gắng bắt chước giọng của Văn Hường. Còn chú Ba Đủ mập mạp đóng các vai nịnh là ăn tiền. Tôi hát dở hơn các “cô kia” nhưng nhờ vững nhịp nên được làm “đào chính”, học vai mệt luôn. Đã vậy tôi còn phải thực hiện một đầu lân bằng giấy bồi để mấy anh em người Việt gốc Hoa biểu diễn.

        Đội banh đã thành lập xong, Lý được tuyển vào hội và anh em luyện tập trên ruộng lúa (sân trong nay được san bằng và bồi lại).

        Lật bật đã đến đêm Ba Mươi.

        Con người không chỉ nhờ ăn mà sống. Phần tinh thần còn quan trọng hơn nhiều. Từ lúc có hoạt động thể thao và văn nghệ, chúng tôi như có chút an ủi tinh thần nên sự thiếu thốn vật chất như bớt quan trọng hơn. Cả trại như một đám cây khô vừa được tưới cho chút nước.

        Sáng ngày 30 Tết, các đội bóng ra tài thi đua. Buổi trưa có múa lân và chúng tôi nhận được mỗi đứa vài miếng thịt heo bằng ngón tay cái. Nhưng ôi thôi sao mà sung sướng lạ. Buổi chiều vừa xuống thì anh Hai cho chạy máy điện và đám nghệ sĩ rộn rịp sắm tuồng. Trong khi các anh em được hướng dẫn ra sân và ngồi chồm hổm trước sân khấu thì chúng tôi đứng sau cánh gà để hoá trang.

        Các nữ can phạm được bà Tám mập hướng dẫn ngồi phía sau anh em, với một khoảng cách độ hai thước để bà ta dễ kiểm soát. Cán bộ võ trang đứng bao quan để xem hát và để canh chừng mọi sự đào thoát. Anh Hai và gia đình, chị Tư y tá và một số cán bộ thì được ngồi trên ghế sắp dài theo vách nhà bếp. Khung cảnh rộn rịp vui vui.

        Chúng tôi hoá trang gần xong. Các vai nam coi cũng xôm tụ với quần áo, mão gươm. Còn ba “cô đào” thì coi lạ hoắc với lóp hoá trang và tóc giả, ngực giả. Tôi mặc bộ đồ Tàu màu đỏ chói, nhìn vào cái kiếng nhỏ không nhìn ra tôi nữa. Tôi chợt nghĩ đến các đoàn hát Kbuki Nhật Bản, các vai đào do kép đóng, có lẽ cũng cùng tâm trạng với chúng tôi.

        Khi các cô đào hoá trang xong thì các anh em bu lại chọc ghẹo. Kẻ kéo tóc, người sờ ngực, làm các “cô” kêu là cầu cứu đến nỗi chú Tám phải can thiệp mới tạm yên. Ánh đèn mờ ảo làm cho sân khấu nổi bật trong bóng đêm như một hòn đảo huyền hoặc.

        Màn văn nghệ bắt đầu bằng lời cảm ơn của chú Tám, xong tới màn vũ của các nữ can phạm, tụi tôi đứng trong cánh gà nhìn ra xem cũng thấy hay hay. Xong lại có vài bài ca cách mạng, loại vô duyên như “Thành Phố Mang Tên Người” “Cô Gái Vót Chông” và ..”Tiếng Chày Trên Sóc Bombo”.

        Lật bật đến phiên chúng tôi. Thấy tên “đào Trọng” nghe không hay nên chú Tám giới thiệu thành phần các vai bằng tên mới : “Cô đào Kiều Mỹ” khiến cả trại nhốn nháo hẳn lên.

        Màn kéo lên, cô đào ngượng ngập cầm cây quạt bằng lông vịt chưa biết phải làm gì thì tiếng vỗ tay nổi lên xen lẫn tiếng xầm xì:
        – Ê tụi bay, cô đào nào vậy?

        – Con nhỏ nào coi được quá vậy hén?

        – Chắc con nhỏ nào mới vào đội nữ.

        – Bây, gánh hát thiệt đó mầy ôi!

        – Ôi, tao biết rồi, cái thằng cao cao ở đội 9 đó mà. Hôm kia gánh nước cho nhà bếp tao thấy tụi nó tập tuồng.

        Anh Hai coi bộ thích thú lắm, đi tới đi lui, bước chân cà xích có lẽ do bị thương trong một trận đụng độ nào đó.

        “Rạp hát” ồn ào đến nổi Anh Hai phải lên tiếng để chúng tôi tiếp tục hát. Tiếng đàn guitare, đàn cò nổi lên nghe thật hay. Dưới ánh đèn mờ ảo, với một vở hát xưa, anh em có dịp tưởng tượng là trong một phút giây nào đó, được thoát khỏi trại giam và sống lại một khoảng kỷ niệm ngày xưa. Tôi cảm thấy có bổn phận tiếp tục đóng tròn vai trò của mình, không có quyền làm anh em thất vọng. Tự nhiên tôi thấy mình trở thành nhân vật mình đóng, tôi hoàn toàn không còn là tôi nữa, mà cử chỉ lời ca đều là nhân vật trong tuồng.

        Vở tuồng tiếp diễn trong sự chú ý và mê thích của anh em. Đến màn cuối, đến đoạn ai bi, tôi chợt nghĩ đến thân phận tù đày của tôi, nghĩ đến Lý, đến thân phận lầm than của dân tộc, tự nhiên mắt tôi mờ đi, nước mắt chảy dài khi ca xong bản chót. Tấm “màn nhung” bằng bao cát khép lại trong tràng vỗ tay nồng nhiệt, khép kín tâm sự đời tôi.

        Từ đó gánh hát chúng tôi tiếp tục trình bày nhiều vở tuồng khác, cứ một hoặc hai tuần là có trình diễn, tính lại có hơn ba mươi vở tuồng xưa. Sau đó lại thêm các tuồng mới loại cách mạng như là “Tìm lại cuộc đời” và “Ánh lửa rừng khuya”. Nhưng có lẽ anh em đều nhớ vở tuồng đầu tiên nên đi đâu tôi cũng được gọi là “công chúa” khiến công chúa xấu hổ vì đang bận quần cụt tay cầm xẻng và mặt mũi lem luốc như con ma. Tôi nghĩ rằng gánh hát chúng tôi đã giúp chúng chúng tôi và anh em phần nào niềm vui để tiếp tục sống trong âm thầm chờ đợi. Nhờ được vài ưu đãi do vai trò tôi đóng nên được miễn đi nông trường và còn sống sót đến ngày nay.

        Số người vượt biên càng nhiều, số bị bắt càng tăng thì trại chúng tôi lại đâm ra chật chội và thức ăn càng thêm thiếu thốn. Trưởng trại nhận lệnh chia một số anh em về nông trường mới, thật ra chỉ là vài mái nhà lá được cất vội trên một khoảng đất sinh được bồi lên bằng đất của mấy con kinh mới đào. Vùng này đầy muỗi mòng và đỉa, nước mặn đầy phèn nên không có gì mọc được ngoài loại cỏ lác xác xơ, không vật gì sống được ngoài muỗi và đỉa.

        “Được đi” nông trường có nghĩa là được đi lãnh án tử hình. Chúng tôi lo sợ nhưng việc phải đến đã đến.

        Một buổi sáng chúng tôi được miễn công tác. Đây là điềm xấu. Anh Hai mang loa ra gọi danh sách thành phần “được” chuyển đi nông trại. Tôi lắng nghe thấy gọi tên Lý. Như vậy thì từ nay không những cách đội mà còn xa cách cả trại, và không biết Lý có thể sống như những con bò, để “thí nghiệm” xem con người có thể sống nơi đầm lấy hay không . Trong số chuyển trại lần này cũng có Lý . Vậy là từ nay chúng tôi đã xa hẳn nhau rồi.

        Số còn lại ở trại cũng tiếp tục sống, sinh hoạt cũng lai rai và chúng tôi cũng tiếp tục trình diễn vài vở tuồng mới. Cuộc đời “đi hát” của tôi mang lại cho tôi lắm vui mà cũng nhiều buồn.

        Buồn là vì đêm đầu tiên sau khi trình diễn, tôi có hẹn với Lý sẽ lén lại đội thăm nó. Sau khi xem xong vở hát, Lý tìm cớ đau bụng và xin về đội. Trưởng phòng cho người đưa nó về. Đêm ấy trời tối đen vì là đêm giao thừa, nhưng sao lấp lánh và trời mát mẻ, gió hiu hiu làm tôi quên đi là mình đang ở trong trại. Đêm văn nghệ tiếp tục bằng những bản nhạc “giải phóng”.

        Tôi xin chú Tám cho về đội để rửa mặt, nhưng thay vì về đội 9 của tôi, tôi lại bẻ quẹo đường về và trực chỉ hướng đội 12, nằm cách đó vài chục thước. Vướng víu trong cái áo dài lết bết và tay áo rộng, tôi bị cán bộ võ trang bắt gặp và họ gán cho tôi tội đào thoát. Tên cán bộ này lầm lì và trông ánh mắt đầy căm thù của hắn, tôi thấy cô đọng laị hận thù của bao nhiêu năm tương tàn cũng vì một ý chí mù quáng. Chỉ trong đường tơ kẽ tóc hắn sẵn sàng nã đạn vào tôi. Các cán bộ khác thì trái lại, rất mê cải lương và họ cười khi thấy chúng tôi hoá trang. Trong điệu nhạc của bài “Hồ chí minh đẹp nhất tên người”, tên cán bộ đưa tôi lên văn phòng. Nếu không nhờ tôi lanh trí và không nhờ sự mến mộ cải lưong của anh Hai, tôi đã nằm lại connex.

        Niềm vui pha lẫn nỗi buồn của tôi khi một cô trong đội nữ lại thầm yêu “cô đào khả ái” và trong một đêm văn nghệ lén trao cho tôi một bức thư. Rủi thay bà Tám mập laị chụp được bức thư và đưa lên văn phòng. Cô gái giang hồ ngày nào, tưởng đâu con tim đã chai đá, nay lại đi yêu một chàng trai qua lớp áo của một cô đào hát. Nguyệt bị bắt và bị còng tại đội, một chân mang xích dính vào cây cột giữa phòng giam. Theo lời thư thì tôi chưa tiếp xúc lần nào với cô ta, nếu không thì có lẽ tôi cũng bì còng như cô ta vậy. Cả trại xầm xì bàn tán và người ta lại càng để ý thêm đến cô đào được gái si mê.

        Một tuần sau đó, một đêm nọ sau buổi hát, anh Hai cho gọi tôi cấp tốc lên văn phòng trại. Nguyệt vừa bất tỉnh sau mấy ngày không ăn uống. Cô ta vẫn theo dõi vở hát từ cửa sổ phòng bằng cách leo lên một cái ghế đẩu, nhờ sơị dây xích dài khoảng một thuớc nên Nguyệt có thể xê dịch được. Đêm ấy có lẽ vì quá yếu sức, Nguyệt té ngã từ chiếc ghế và bất tỉnh luôn mà không cách nào làm cô ta tỉnh dậy. Chính bà Tám mập đã vấn kế để anh Hai gọi tôi lên. Tôi thầm lo sợ vì hễ bị gọi lên văn phòng không bị xích thì cũng bị còng.

        Anh Hai đưa tôi xuống trại giam nữ và ra lệnh tôi phải chữa bệnh cho cô ta. Bà Tám mập đỡ Nguyệt dậy. Trong căn phòng tồi tàn và ẩm ướt, Nguyệt nằm trên chiếc chiếu rách, mái tóc rối tung. Khi Nguyệt vừa được đỡ lên thì một búng máu lại trào ra miệng. Bà Tám hốt hoảng. Các cô khác thét lên kinh dị. Tuy bối rối, nhưng tôi cũng biết rằng có lẽ Nguyệt đã cắn nhằm phải lưỡi khi té và bị xốc dậy nên máu trào ra. Tôi cảm thấy thương hại Nguyệt như một cô em gái. Trong khung cảnh điêu tàn này, trong hoàn cảnh tuyệt vọng của một kiếp đoạ đày, chúng tôi cùng đáng thương như nhau.

        Tôi vội chụp lấy một miếng giẻ rách để lau vội mấy giòng máu.. xong bảo bà Tám để Nguyệt nằm lên gối cho cao. Xong tôi cởi áo để đắp cho Nguyệt và xin chút dầu Nhị Thiên Đường.

        Bà Tám tay thì giựt tóc mai của cô gái, miệng thì léo nhéo:
        – Trời ơi, cậu làm ơn kêu tên cổ dùm tôi đi. Cổ mà có bề nào là cậu mang tiếng ác đó!

        Anh Hai tiếp lời:
        – Anh hát hò làm sao mà người ta cảm anh, cổ mà chết là anh ra nằm conex đó.

        Tôi gọi tên cô ta mà trong bụng rủa thầm mụ Tám ranh mảnh. Nếu Nguyệt có bề nào thì chính mụ ta và trưởng trại trực tiếp chịu trách nhiệm. Nguyệt vẫn không nhúc nhích. Chán nản, anh Hai ra lệnh tôi trở về đội. Vừa ra khỏi cửa, tôi nghe các cô la lên:
        – Kìa, nó đã tỉnh dậy rồi!

        Từ đó tôi mang thêm biệt danh “Bác sĩ hào hoa”

        5. Một năm nữa lại trôi qua, tin tức của Lý ngày càng bặt từ khi nông trường thành lập.

        Một sáng tinh sương, có tin là một ghe máy chở tù nhân từ nông trường được đưa trở về trại. Tôi vội xin trưởng phòng cho đi gánh nước để biết rõ hơn. Thì ra nông trường cho đưa những can phạm bị bịnh quá nặng trở về trại vì con số chết chóc quá nhiều. Trong số bệnh nhân đó tôi tìm gặp Tí chuột, hiện chỉ còn là bộ xương cách trí. Nó nói vội với tôi:
        – Nè, có thư của Lý gởi cho bồ. Nó đau nặng lắm nhưng Đực Râu không cho nó về, bảo nó làm biếng. Tui bị thổ huyết, tụi nó cho về chắc là gần ngày theo ông bà rồi chớ dễ gì.

        Nhìn cặp mắt thâm quầng của nó, tôi đâm ra ân hận vì mình thiếu hẳn tình cảm với nó khi nó còn ở chung trại. Tôi nắm bàn tay xương xẩu của nó và nói:
        – Mai mầy ghé đội, tao cho đường.

        Đọc xong thư Lý, tôi quyết lên thăm nó để an ủi vì nó tuyệt vọng quá.

        Từ khi tôi đi hát, tên Năm Sơn trưởng phòng thường pha trò "Cô đào khả ái bữa nào đi hát xong, để nguyên đồ lại đây nói chuyện coi nào" làm anh em cười rộ lên. Tôi thấy ghét bản mặt của hắn nhưng ngộ biến phải tùng quyền. Tôi quyết định lợi dụng hắn để xin đi thăm Lý ở nông trường.

        Và tôi được phép tháp tùng ghe chở gạo lên nông trường. Sau cuộc hành trình qua những đồng hoang hiu quạnh, chúng tôi tới một bãi sinh vừa được đắp cao, trên đó là một dẫy nhà thấp lè tè, nối liền bằng mấy cây cầu khỉ. Một đám muỗi bay vù vù ra đón chúng tôi. Qua lớp dây kẽm gai, các tù nhân đang đào kinh, vét mương. Những con kinh vô nghĩa, những cái mương không xài vào đâu. Tôi bắt gặp những bộ xương khô mang những bao cát rách, và những cặp mắt lờ đờ trên những gương mặt xanh mét. Tôi gặp lại Lý đang nằm bất động trên chiếc chiếu nát, cái đầu cạo trọc, đôi mắt thất thần quá to vì gương mặt đã hóp hẳn lại.

        Trời ơi! Chúa ơi! những người này có tội gì mà hành hạ họ như vâỵ. Những kẻ có tội với nhân dân, đã vơ vét của cải nhân dân, họ đã bỏ trốn từ lâu. Nếu các người có giỏi, cứ đi tìm họ về, còng họ lại, nhốt họ lại. Hãy tha cho những người này,. Họ quá nghèo, quá vô tội nên không bỏ trốn. Họ là nạn nhân của tất cả mọi chế độ. Cải tạo họ, bằng cách này chứng tỏ sự yếu kém của chính quyền các người. Hãy tha họ ra, và họ sẽ quên đi hận thù mà cùng nhau xây dựng đất nước.

        Lý chảy nước mắt khi tôi mang cho nó hộp sữa và bắt nó hứa phải gượng sống mà còn chờ ngày gặp lại.

        Trên con đường trở về trại, tôi cảm thấy mệt mỏi, chán chường, tự hỏi tại sao cùng một màu da, cùng một dòng máu mà họ có thể tàn nhẫn với nhau được như vậy.

        Sau đó, được tin Lý bình phục tôi rất mừng và nó có gửi tặng tôi một cặp gà tre nhỏ xíu.

        Thời gian lặng lẽ trôi qua cho cới khi một trận lụt lớn nhất từ mười mấy năm qua làm ngập cả mấy vùng miền lục tỉnh. Chúng tôi phải đắp bờ đê quanh trại để chặn nước, vậy mà bên trong vẫn ngập và chúng tôi phải cất sập cao để ngủ.

        Chúng tôi không được ăn gạo từ lâu, mà chỉ có bột và bo bo. Ăn bo bo vài thì gà hết đẻ. Ăn bo bo mỗi ngày thì chúng tôi sinh ra kiết lỵ và đau bao tử. Tôi ngã bệnh nặng và liệt giường cả tuần, nằm co quắp trong chiếc mền lính của Lý cho. Lúc đó thì Tí chuột bị thổ huyết cũng chết. Hai con gà của tôi, niềm an ủi cuối cùng của tôi cũng bị bệnh toi mà chết đi.

        Từ khi ngập lụt, thăm nuôi cũng bị đình chỉ. Không biết nông trường có sao không . Tôi đã kiệt lực rồi, tôi đã hết sức chịu đựng rồi. Ba năm sáu tháng đã qua. Nghĩ mà tức, sống thoi thóp tới nay thì phải đành buông tay. Tôi chỉ tiếc là mình sẽ ra đi vĩnh viễn mà không gặp lại mẹ cha, không gặp lại Lý.

        Thế nhưng, trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó thì tôi được tha ra. Lúc ấy vào cuối năm 1978, có chiến dịch cho phép người Hoa được ra đi bán chính thức. Một số người Hoa được tha từ các trại, nếu họ đóng cho chính phủ một số vàng. Gia đình tôi nhờ chạy chọt đúng chỗ nên tôi được tha cùng với một số bạn tù người Việt gốc Hoa.

        Tôi không ngờ tôi lại có thể bước đi trên con đường nhựa, có thể leo lên xe đò: ước mơ bé nhỏ của tôi trong mấy năm qua. Các bạn đỡ tôi lên ghe vì tôi quá yếu. Chợ Cai Lậy bị ngập lấp xấp, xe đò bị ngập nước phân nửa bánh xe. Tôi nhắn lại ít lời cho Lý, rồi xin giã từ nơi chốn tù đầy đã lưu lại một phần của đời tôi.

        Bước chân vào nhà sau hơn ba năm cách biệt, tôi thấy như người về từ một cõi xa xăm nào. Căn nhà rộng rãi và xinh xắn trở nên tiêu điều và xơ xác. Người miền Nam tự động biến họ thành những con người xốc xếch, biến nhà của họ thành nghèo nàn dơ dấy, để “phù hợp” với chế độ này.

        Thành phố nay chỉ còn có xe đạp. Chợ búa trống trải và “sạch sẽ” vì không còn gì để bán. Tôi bị tước quyền công dân và có thể bị bắt lại để giam giữ mà không cần có lý do, vì giấy tờ của tôi đã bị tịch thu, chỉ còn tờ “giấy tạm tha”.

        Dân chúng nghèo xác xơ ra và họ đã mất hẳn tính vui vẻ hồn nhiên. Anh rể tôi đã chết trong trại tù ở Nghệ Tĩnh. Chị tôi mang khăn tang mà làm lễ siêu thoát cho anh. Nghe lời kinh của nhà sư trong buổi lễ tổ chức lén lút tại nhà, tôi muốn rơi nước mắt. Đã có bao nhiêu đồng đội của tôi đã ra đi một cách tức tưởi mà không nghe được câu tụng niệm:”Người đã qua được biển trầm luân, nay hãy đời đời yên nghỉ”.

        Sàigòn thay đổi hẳn từ khi mang tên Hồ chí minh. Dân chúng sống trong sự kềm kẹp, sự lo âu, sự đói khát và ai cũng muốn ra đi.

        Tham nhũng đầy dẫy, bất công lan tràn, có người đã nói: “Nếu cây cột đèn có chân thì nó cũng đã bỏ đi lâu rồi!”

        Kế hoạch kinh tế mới bị thất bại một cách thảm hại. Chính quyền mới đi từ thất bại này tới thất bại khác, mà cứ đổ tội cho “đế quốc Mỹ” và “chánh quyền Ngụy”. Thật buồn cười thay. Từ khi chánh quyền tuyên chiến với người anh em “Trung quốc vĩ đại” thì có tin là họ đang tìm bắt lại các anh em binh sĩ và công chức được thả ra từ các trại cải tạo. Không thể ở lại được trong tình trạng này, tôi quyết định ra đi.

        Từ Rạch Giá, ra Tắc Cậu nằm chờ ghe một thời gian, một hôm kia chúng tôi được tin sắp ra khơi. Mọi người mang vỏn vẹn ít bộ quần áo mặc chồng vào nhau, hấp tấp xuống ghe. Chiếc ghe cá của tôi đi mang số VNKG.0711 rời khỏi hải phận ngày 5-5-1979. Xin vĩnh biệt Việt Nam, vĩnh biệt mọi người thân yêu, xin vĩnh biệt “Hoả ngục đỏ, mối tình tôi”: Mối tình bạn đậm đà, mối tình yêu câm nín, mối tình gia đình thâm sâu, mối tình người muôn thuở.

        Chiếc ghe chở nặng suýt bị đắm trong hai trận bão lớn. Nằm trong khoang chật ních, tôi tự hỏi tại sao mình lại còn đây, và tại sao chiếc ghe nhỏ như quả trứng lại chưa bể ra tan tành dưới giông tố tơi bời. Ghe chúng tôi bị hải tặc Thái Lan cướp và lột hết vòng vàng tiền bạc, lần sau thì vì chúng tôi tỏ vẻ kháng cự nên tụi hải tặc bỏ chạy luôn mà không chận chúng tôi lại.

        Ba ngày sau tới hải phận Mã Lai thì bị lính tuần cảnh kéo đem ra bỏ ngoài khơi. Tầu cạn dầu, hư máy, trôi dạt trên biển cho đến ngày thứ sáu. Chúng tôi đói lả và kiệt sức. Trên tàu đã có người chết.

        Trong hoàn cảnh bi đát đo, tàu chúng tô may mắn cập vào một hòn đảo hoang “Pulau Tioman”. Tụi tôi phá tàu để khỏi bị tống ra biển.

        Sống đùm bọc nhau trong một thời gian thì hội Hồng Thập Tự và U.N.H.C.R cho trực thăng đi tìm chúng tôi và cho ghe đưa chúng tôi về trại Cherating, trại này lớn thứ nhì sau Pulau Bidong.

        Trong suốt cuộc hành trình, tôi vẫn mang theo trong người hình Đức Mẹ, đã che chở cho tôi trong những giây phút tuyệt vọng nhất.

        Nhờ tôi nói thông thạo Anh và Pháp ngữ nên được chỉ định làm thông ngôn cho văn phòng trại. Tôi may mắn nhờ một phóng viên RTL cho gia đình bảo đảm của tôi bên Pháp hay nên ngày 1-8-1979, thành phố Paris hiện ra trong tầm mắt tôi. Sau thành phố Sàigòn yêu dấu, thành phố Paris có vẻ đẹp lạ lùng. Có lẽ vỉ đây là vùng đất Tự Do.

        Tôi đã bặt tin của Lý. Tôi đã mất hẳn quê hương. Ngày nay tôi còn lại gì ngoài niềm hy vọng sẽ có ngày về thăm lại quê hương, và ngày đó “mối tình tôi” sẽ không còn là “hoả ngục đỏ” mà sẽ là nơi sum họp mọi nhà, nơi trăm hoa đua nở và sẽ không còn trại tập trung, sẽ không còn nghèo đói, sẽ không còn hận thù. Ngày đó, xin hãy đến với dân tộc chúng tôi.


        Lucien Trọng 


Source: https://www.tvvn.org/hoa-nguc-do-moi-tinh-toi-lucien-trong/