Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2017

Dịch Thuật Dù Hay Nhất Vẫn Là Một Tiếng Vọng

Tôi không phải họa sĩ. Tôi là thi sĩ.
Tại sao? Tôi muốn làm hoạ sĩ hơn, nhưng không được.
Thế này, chẳng hạn, Mike Goldberg (1) bắt đầu vẽ bức tranh. Tôi ghé ngang.
"Ngồi chơi, uống một ly nha" anh nói.
Tôi uống; hai đứa uống. Tôi nhìn lên.
" Anh vẽ cá mòi trong tranh."
" Ừ, cần có hình gì ở đó." " Hừm."
Tôi từ giã và tháng ngày trôi qua. Ghé ngang lần nữa. Tranh còn đang vẽ. Tôi đi và tháng ngày trôi qua. Ghé lại. Bức tranh hoàn tất.
" Bầy cá mòi đâu?" Chỉ thấy chữ.
" Nhiều hình quá" Mike trả lời. 
Còn tôi? một hôm nghĩ đến màu sắc:
Vàng cam. Tôi viết thử câu về màu vàng.
Chẳng mấy chốc, không chỉ vài câu, chữ đầy trang giấy.
Rồi thêm trang nữa. Có thể nhiều thật nhiều, không vì màu vàng, vì chữ, vì màu vàng thật dễ sợ và đời sống. Nhiều ngày qua, bài viết trở thành văn xuôi.
Tôi quả thật là thi sĩ.
Thơ viết xong vẫn chưa nhắc đến màu vàng.
Tất cả mười hai bài, đặt tên là Vàng Cam.
Rồi một ngày trong phòng triển lãm
Tôi thấy bức tranh của Mike, đề tựa "Cá Mòi"
(Vì Sao Tôi Không Phải Là Họa Sĩ. Why I Am Not a Painter. Frank O'Hara. Trích Modern Poems, an introduction to poetry, edit by Richard Ellmann and Robert O'clair, trang 410.)
GHI:
(1) Họa sĩ Hoa Kỳ (1924-2007), vẽ tranh Trừu Tượng Biểu Hiện.
Khi mới đọc bài này trong Anh ngữ, tôi rất thú vị. Thơ của Frank O'Hara vốn phức tạp, nhiều lớp và cưu mang sự suy tư của ông. Bài này, tương đối ít khó hiểu hơn. Nhưng khi chuyển sang tiếng Việt, dường như bài thơ mất đi cái không khí lạ lẫm của sự so sánh và liên tưởng giữa họa sĩ và thi sĩ, giữa họa và thơ. Mời đọc nguyên tác:

Why I Am Not a Painter
I am not a painter, I am a poet.
Why? I think I would rather be
a painter, but I am not. Well, 
for instance, Mike Goldberg (1)
is starting a painting. I drop in.
" Sit down and have a drink" he
says. I drink; we drink. I look up. "You have SARDINES in it."
"Yes, it needed something there."
"Oh." I go and the days go by
and I drop in again. The painting
is going on, and I go, and the days
go by. I drop in. The painting is
finished. "Where's SARDINES?"
All that's left is just
letters, "It was too much," Mike says. 
But me? One day I am thinking of
a color: orange. I write a line
about orange. Pretty soon it is a
whole page of words, not lines.
Then another page. There should be
so much more, not of orange, of
words, of how terrible orange is
and life. Days go by. It is even in
prose, I am a real poet. My poem
is finished and I haven't mentioned
orange yet. It's twelve poems, I call
it ORANGES. And one day in a gallery
I see Mike's painting, called SARDINES.
Vì sao tôi chọn bài thơ này? Vì tôi suy nghĩ về việc dịch thơ.

Theo sách vở, có hai chiều hướng khác nhau về dịch thơ: – Thơ không dịch được. – Dịch thơ là điều cần thiết cho thi ca hội nhập toàn cầu.

1.
Phe chống lại việc dịch thuật, có những tên tuổi lớn như Voltaire (Francois-Marie d'Arouet. 1694 - 1778). Ông viết:

Translations icrease the faults of a work and spoil its beauty. It is impossible to translate poetry. Can you translate music?

Dịch thuật làm gia tăng sai lầm của một tác phẩm và làm hỏng thẩm mỹ của nó. Thơ không thể dịch được. Có thể dịch nhạc được không?
Tục ngữ Ý quốc có câu: Dịch giả, người phản bội. Translator, traitor.

Umberto Eco viết:

Translation is the art of failure.

Dịch thuật là nghệ thuật của thất bại.

Nhà văn Anh Samuel Johnson, thế kỷ 18, viết:

Poetry cannot be translated; and, therefore, it is the poets that preserve the languages; for we would not be at the trouble to learn a language if we could have all that is written in it just as well in a translation. But as the beauties of poetry cannot be preserved in any language except that in which it was originally written....

Thơ không thể dịch; và vì vậy, chính thi sĩ là người bảo tồn ngôn ngữ; chúng ta sẽ không cần vượt trở ngại để học sinh ngữ nếu chúng ta có thể dùng các bản dịch đúng như các ngoại ngữ. Nhưng thẩm mỹ của thi ca không thể bảo tồn nguyên vẹn trong bất cứ ngôn ngữ nào ngoại trừ trong ngôn ngữ của nguyên tác.

Ngay cả trong cùng một ngôn ngữ, sau một thời gian dâu bể, ngôn ngữ tự bản thân sẽ thay đổi. Một số từ ngữ đã chết. Một số văn phạm sẽ không thường dùng hoặc đã bị lãng quên. Do đó, thế hệ sau giải thích cổ văn, thường khi cũng rơi vào tình trạng "dịch cổ ngữ".

Nhưng từ khi con người có khả năng tìm ra nhau qua những đại dương bao la, dịch thuật luôn luôn hữu ích. Dịch văn chương, dịch thơ, thời nào cũng có. Có lẽ, câu tục ngữ của người Nga, chí lý:

Translation is like a woman: if she is faithful, she is not beautiful; if she is beautiful, she is not faithful.

Dịch thuật như phụ nữ: Nếu nàng chung thủy, nàng sẽ không đẹp. Nếu nàng là mỹ nhân, sẽ không chung thủy.

Nói một cách khác, khó có sự toàn vẹn. Nhất là trong thi ca. Trọng thẩm mỹ của thơ nguyên tác, dịch thường ngây ngô, khó hiểu và khó cảm nhận. Trọng thẩm mỹ của thơ bên dịch, kết quả thường đi xa nguyên tác. Đó cũng có thể là lý do, càng về sau, thi sĩ Bùi Giáng càng dịch sách ngoại quốc một cách "bất cần" tác phẩm chính, mà ông là một người rất giỏi nhiều sinh ngữ.


Y Thuc Ve Dich Thuat Book CoverViệt Báo trân trọng giới thiệu sách “Ý Thức Về Dịch Thuật” của Ngu Yên, dày 578 trang, tóm lược ý kiến, quan điểm, quan niệm của các học giả trên thế giới về dịch thuật, và các phần nghiên cứu những phương pháp dịch hiện đại => phương pháp dịch tiếng ngoại quốc qua tiếng Việt và ngược lại. Riêng phần phương pháp "Thường - Thấu - Thấm" là từ kinh nghiệm của tác giả... Sách hiện có tại amazon.com.

2.
Phái ủng hộ việc dịch thuật cũng có những tài năng lớn đồng ý như nhà văn Bồ Đào Nha José Saramago, giải văn chương Nobel 1998, viết:

Writers make national literature, while translators make universal literature.

Nhà văn làm nên văn chương quốc gia. Dịch giả làm nên văn chương toàn cầu.

Có thể nói rằng dịch giả là người đọc cẩn thận nhất vì họ chú ý đến nhiều ý nghĩa, từ cụ thể đến bóng bẩy đến tượng trưng của chữ trong ngoại ngữ. Dù vậy, họ phải chấp nhận những xấu hổ, cảm giác bẽ bàng, khi đọc lại tác phẩm dịch sau nhiều năm qua và tìm thấy những lỗi lầm lớn nhỏ, đôi khi rất sơ bộ.

Có thể nói rằng dịch giả là độc giả tinh mắt. Theo dõi văn chương thế giới hoặc văn chương của sinh ngữ mà họ chuyên dùng. Họ thích thám hiểm và chọn sự thử thách bước vào chữ nghĩa của ngôn ngữ khác. Nữ văn thi sĩ Ba Lan Agata Tuszynska, trong khía cạnh này, bà viết:

I enormously respect the translators’ arduous, solitary and unrewarding work.

Tôi vô cùng ngưỡng mộ những nhiêu khê mà dịch giả gánh chịu, một việc làm cô độc và thiếu khích lệ.

Việc làm nhiêu khê này được văn thi sĩ Hoa Kỳ Paul Goodman giải thích:

To translate, one must have a style of his own, for otherwise the translation will have no rhythm or nuance, which come from the process of artistically thinking through and molding the sentences; they cannot be reconstituted by piecemeal imitation. The problem of translation is to retreat to a simpler tenor of one's own style and creatively adjust this to one's author.

Muốn dịch, một người phải có văn phong riêng của mình, nếu không bản dịch sẽ không có nhịp riêng hoặc sắc thái; điều này thể hiện từ tiến trình suy tư mỹ thuật xuyên suốt và xây dựng câu cú; không thể dịch lại bởi mô phỏng từng phần. Vấn nạn của dịch là rút mình vào tinh thần văn phong đơn thuần của dịch giả rồi điều chính sáng tác vào văn phong của tác giả.

Diễn tả phong cách nghệ thuật hơn, triết gia và nhà ngôn ngữ Pháp Roland Barthes viết:

Language is a skin: I rub my language against the other. It is as if I had words instead of fingers, or fingers at the tip of my words. My language trembles with desire.

Ngôn ngữ như làn da: Tôi cọ xát ngôn ngữ của tôi vào ngoại ngữ. Như thể, tôi có lời nói thay vì ngón tay hoặc ngón tay ở đầu lời nói. Ngôn ngữ tôi rung động vì khao khát.

Nhiều phong cách dịch khác nhau, nhiều phương pháp dịch mâu thuẫn với nhau nhưng những dịch giả uy tín có điểm tương đồng: Khả năng của ngôn ngữ.

Ngoài trừ ý nghĩa của chữ, mỗi chữ còn có khả năng tượng trưng, liên tưởng, và khai phá đến hình ảnh, ý nghĩa khác, không thông dụng, đôi khi không có trong tự điển hoặc khác nghĩa với tự điển. Vì vậy mỗi ngôn ngữ đều có khả năng vượt qua chính nó, nhất là trong thi ca. Hai câu nói tiếp theo sẽ cho thấy khả năng của ngôn ngữ. Nếu chỉ quan tâm đến ý của chữ và dụng của ngôn ngữ mà không lưu ý khả năng của chữ và năng lực của mỗi ngôn ngữ, thì khó đạt được điều muốn dịch, nhất là khi đối tượng của dịch thuật nằm trong dạng trừu tượng. Triết gia, khoa học gia, nhà ngôn ngữ học Hoa Kỳ Noam Chomsky viết:

Language is a process of free creation; its laws and principles are fixed, but the manner in which the principles of generation are used is free and infinitely varied.

Ngôn ngữ là một tiến trình sáng tạo tự do; nó có quy luật và nguyên tắc xác định, nhưng cách sử dụng những nguyên tắc phát sinh của nó sẽ tự do và biến đổi vô định.

Văn sĩ, nhạc sĩ Anh Anthony Burgess viết:

Translation is not a matter of words only: it is a matter of making intelligible a whole culture.

Dịch thuật không chỉ là vấn đề chữ nghĩa: Là vấn đề tạo ra nhận thức về một toàn thể văn hóa.

Cả hai phái ủng hộ và chống đối dịch thuật đều có lý do đúng đắn. Trong thực tế, càng về sau, người ta càng ủng hộ việc dịch thuật. Lý do lớn là vì sự hữu ích của dịch.

Dựa lên lý luận của hai phe mâu thuẫn, có thể nói rằng: Có thơ dịch được. Có thơ dịch không được.

Nếu dịch, phải chấp nhận một số ưu điểm cũng như khuyết điểm của dịch. Trong các thứ dịch, khó nhất là dịch thơ, thứ tiếp là dịch triết. Sở dĩ thơ cho là khó nhất vì sự thẩm mỹ của ngôn ngữ. Hai vẻ đẹp khác nhau mà phải cố hòa nhập với nhau trong dịch thơ, trở thành thường xuyên nan giải. Giải quyết như thế nào là do sự chọn lựa của dịch giả.

3. Tiếng Vọng lại

Chuyện dịch đưa đến những kinh nghiệm:

– Những bài thơ mang chữ nghĩa không phức tạp, luận lý không quá tối tăm, ý tứ nhìn thấy được và người dịch cảm nhận được, bài thơ đó có thể dịch hoặc chuyển ngữ.

– Những bài thơ mà thi sĩ "chơi chữ", mang nhiều nghĩa có tính "đặc thù địa phương", "đặc thù dân tộc", hoặc vì "từ mới" được thi sĩ sáng tạo, không có trong tự điển, phải đoán mò, ví như thơ của thi sĩ Bùi Giáng, không thể nào dịch, cho dù chuyển ngữ.

– Những bài thơ mang ngôn ngữ bóng bẩy, chải chuốt, e rằng cũng không dịch nổi vì khó diễn đạt phong thái của nét đẹp đó.

Tôi mãi băn khoăn về sự khác biệt giữa hai cụm chữ, Dịch thuật và Chuyển ngữ. Tôi nghĩ, Chuyển ngữ, có bản chất tìm sự tương đương ý nghĩa giữa ngôn ngữ chính bản và ngôn ngữ chuyển. Dịch thuật đòi hỏi sáng tạo nhiều hơn. Về phương diện thơ, tôi nghĩ, Dịch thuật có lẽ chính xác hơn Chuyển ngữ.

Băn khoăn khác, khi dịch từng bài thơ, người dịch có thể chọn bài mình thích, chọn bài mình cảm nhận, bài mà mình có thể dịch thông suốt. Khi giới thiệu một thi sĩ, thường phải dịch khá nhiều bài để trình bày nhiều giai đoạn hoặc sự thay đổi của thi sĩ. Người dịch phải đối diện nhiều bài thơ phức tạp, nhiều bài thơ vượt ngoài tầm tay. Người dịch phải làm những chọn lựa nguy hiểm và liều lĩnh. Giải quyết như thế nào là do sự chọn lựa của dịch giả.

Dịch bao gồm dịch chữ, dịch văn phạm, dịch câu, dịch văn phong, dịch sự đồng dạng và khác biệt. Nhất là sự khác biệt. Cùng một ngôn ngữ mà đôi khi không giải quyết được sự khác biệt, huống chi là hai ngôn ngữ khác nhau. Hai ngôn ngữ, hai dân tộc, hai văn hóa, hai lịch sử, hai phong tục... cái gì cũng là hai ngả, lúc song song, lúc rẽ xa... nên sự khác biệt thường xuyên xảy ra. Giải quyết sự khác biệt này trong phong cách thi ca là điều khó nhất của dịch thơ. Có lúc thông có lúc bí, có lúc hoàn toàn chịu trách nhiệm về con đường phải chọn. Chọn dịch cho người đọc có thể hiểu được, phải chăng là một chọn lựa tốt?

Dịch cho người đọc dễ hiểu, thường khi gặp trở ngại "mất tính thơ". Đọc như đọc văn xuôi thì mất tính thơ. Đọc không thấy thi vị, mất tính thơ. Lại là một sự lựa chọn mà người dịch phải đối diện một cách nghiêm chỉnh.

Trong tiếng Việt, thơ Việt, đôi lúc phải mượn vần điệp, nhịp và âm sắc để tạo tính thơ khi dịch thơ. Mặc dù chúng ta đều biết vần điệu, nhịp phách, âm sắc không phải là thơ.

Chọn thể thơ để dịch cũng là điều cần quan tâm. Mỗi thể thơ cưu mang nhạc điệu, vần điệu và cá tính đặc thù vì vậy mỗi bài thơ nguyên bản sẽ có một thể thơ dịch đồng dạng hoặc thích hợp hơn thể thơ khác. Ví dụ, Lục Bát là một thể thơ giới hạn trong 6 và 8 chữ và giới hạn trong yêu vận, cước vận; lại giới hạn bởi âm bằng trắc; mang bản chất hiền hòa, dịu dàng, dễ cảm động lòng người. Nếu dùng thể thơ này để dịch bài thơ có chiến tranh hoặc mang tính náo động, thường sẽ ít có cơ hội thành công.

Dịch đương đầu với chuyện vô cùng khó, đó là thẩm mỹ tương đối. Thẩm mỹ tuyệt đối chỉ có một nhưng thẩm mỹ tương đối của mỗi ngôn ngữ thì khác nhau, có khi cách biệt rất xa. Công việc lớn nhất của dịch là mang vẻ đẹp của bài thơ nguyên bản vào một vẻ đẹp khác của bài thơ dịch. Làm thế nào để phẫu thuật cho mỹ nhân này gần giống mỹ nhân kia? bản lãnh của người dịch được chứng minh trong lãnh vực này.

Sau cùng, lời nói của nhà văn Anh, George Borrow có vẻ rất gần gũi:

Translation is at best an echo.

Dịch thuật dù hay nhất vẫn là một tiếng vọng.

Ông không nói là tiếng thâu lại, 'copy', phát lại mà là vọng lại. Ra bờ biển, la lớn vào đại dương, tiếng la biến mất vào bao la. Đứng trong khe núi, đứng giữa thung lũng, thò đầu xuống giếng, la to, tiếng ta vọng lại ầm ù. Trước khi vọng, tiếng chính phải chạm vào một vật gì để dội. Tiếng vọng khác với tiếng chính vì trong tiếng vọng có những thứ tiếng khác: như tiếng gió, tiếng rì rào của cây lá, tiếng mưa, chim hót, vượn kêu... v.v. ở mỗi vị trí, vị thế, tiếng vọng mang theo nhiều tiếng động, nhiều âm thanh khác... cho dù tai người không bắt được. Sự khác biệt lớn nữa là nhạc điệu. Tiếng vọng và tiếng chính rất khác nhau về nhạc điệu. Tiếng vọng có âm vang, hòa âm chính. Tiếng vọng có âm nhái làm khác nhịp âm chính.

Dịch thơ có thể thấy trong ẩn dụ này. Thơ dịch chạm vào hồn người dịch, vang dội lại. Rồi tiếng dội này, dội lại một lần nữa từ hồn người đọc. Và thơ Dịch như tiếng vọng, cho dù bắt chước, đồng dạng hay mô phỏng tiếng chính, sẽ mang theo một số "thứ" mà tiếng chính không có. Còn nhịp điệu, tất nhiên, tiếng vọng sẽ nghiêng về phía nhịp điệu của ngôn ngữ dịch, nhịp điệu quê hương, nhịp điệu dân tộc, nhịp điệu của thơ trong ngôn ngữ dịch.

Tôi chọn bài thơ Vì Sao Tôi Không Phải Là Họa Sĩ của thi sĩ Frank O'Hara để mở đầu vì tôi yêu thích điều ông diễn đạt: Bức tranh định vẽ cá mòi rồi không vẽ cá mòi nhưng đặt tên Cá Mòi. Bài thơ muốn viết màu vàng cam mà viết xong mười hai bài vẫn không có chữ vàng cam. Cuối cùng đặt tựa đề: Vàng Cam. Tôi rất thích dịch thơ mà dịch không tới nên chọn cho mình một chữ khác: Chuyển Thơ.

Ngu Yên

Trích từ “Đọc Thơ Trước Nửa Đêm.”

Source: https://vietbao.com/p263835a265318/dich-thuat-du-hay-nhat-van-la-mot-tieng-vong

Chuyện kể về tấm thẻ bài quân nhân của nữ bác sĩ Vivian Le

Có những chuyện thuộc về tâm linh không thể nào giải thích được nhưng phải tin!

***

Câu chuyện được bắt đầu vào sáng ngày 23-3-1975

Sau khi chồng và con trai bị chết vì đạn pháo kích của VC đồng thời bị thất lạc đứa con gái trong ngày di tản tại tại bãi biển Chu Lai, chị Buôn quấn quýt chạy khắp nơi để hỏi thăm về đứa con gái của mình…chị đã được một người chạy nạn cho biết:
“Con bé khoảng 9 hay 10 tuổi mặc cái áo xanh, quần đen, cổ có đeo cái thẻ bài của lính là con chị sao? Nó được một người trên ca-nô nhào xuống nước bơi vào vớt nó đưa lên ca-nô ra tầu lớn rồi. Thật là may mắn cho nó!”…

Lệ, đứa con thất lạc của chị Buôn được đưa lên tầu Hải quân với chiếc thẻ bài đeo toòng teng nơi ngực. Người ta thấy có khắc tên: Lê văn Buôn Số quân: ….. Họ hỏi Lệ. Lệ nói đó là tên ba nó, ba Buôn của nó, bị lọt lại với má và ba đứa em tại bãi biển Chu Lai. Mới đầu Lệ sụt sùi khóc nhưng có người đàn bà ngồi gần bảo nó khóc không ích gì. Nó cắn răng nghe lời bà này, làm theo những gì người ta chỉ bảo. Tiếng nổ làm cho nó ù tai nhưng cái sợ làm nó quên cả. Kể từ lúc quả lựu đạn nổ, nó gần như mê đi cho đến khi có người vớt nó đưa lên ca-nô rồi lên tầu.

Người vớt nó lên ca-nô và đưa nó lên tầu, nhận nó là con nuôi là một Thiếu Uý Hải quân mới ra trường. Sau thời gian huấn luyện dài đằng đẵng, tim anh còn đầy ắp tình người dành cho đồng hương và cả nhân loại. Ước mơ của anh là những chuyến hải hành xa, đi đến chân trời góc biển, đi đến những đô thị lớn hoa lệ, nguy nga, ngợp ánh đèn về đêm và nườm nượp xe cộ, người đi bộ trên hè phố ban ngày.

Anh tên Lê trọng Nghĩa, 28 tuổi, quê quán ở miệt Thủ dầu Một, ra trường với hạng cao trong số hơn 60 sinh viên tốt nghiệp trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang và hiện là một sĩ quan ưu tú của Giang đoàn 240 đóng ở miền Trung. Chiếc tầu Nghĩa và đứa con nuôi là Lệ về đến bến Bạch đằng Sàigòn vào tuần đầu tháng 4-1975, đang lúc Sàigòn lên cơn sốt y như miền Trung mấy tuần trước. Nghĩa đưa Lệ đến gửi vợ một người bạn trong trại Sĩ quan bến Bạch đằng, lại gửi tiền và nhờ Xuân Hà, tên vợ người bạn, đi mua sắm quần áo và những thứ cần thiết hàng ngày cho Lệ. Xuân Hà nhìn Nghĩa rồi nhìn Lệ và hỏi nhỏ Nghĩa:
“Con bé xin được ở đâu mà xinh quá vậy? Tốn vài tạ gạo nữa là đã ra dáng tiểu thư rồi. Anh lựa hay lắm.”
Nghĩa nghiêm nét mặt bảo Xuân Hà:
“Chị đừng nghĩ vậy. Ba má nó và ba đứa em còn kẹt lại Chu Lai. Chỉ có mình nó được tôi cứu lên tầu. Tôi nhận nó làm con nuôi.”
Xuân Hà tính đùa thêm một câu nhưng thấy mặt Nghĩa lạnh như tiền nên không dám cợt nhả nữa.

Ngày 28-4-1975, Nghĩa lại mang Lệ lên một chiếc tầu Hải Quân HQ thực lớn để chạy sang Guam. Nghĩa con một, cha mẹ Nghĩa đã lớn tuổi muốn sống và chết ở Thủ dầu Một nên không đi mặc dầu trong thời gian ở Sàigòn, Nghĩa đã cải trang về thăm và mời ông bà đi.
Sau 5 tháng ở trong trại tạm cư ở Guam, Nghĩa và Lệ được một nhà thờ bảo trợ đi South Carolina. Từ đây, Nghĩa xin Basic Grant của tiểu bang để vào Đại học học Kỹ sư cơ khí. Ngoài giờ học, Nghĩa đi làm part time cho tiệm Sears ở downtown để lấy tiền chi phí ăn ở cho hai cha con. Nghĩa xin cho Lệ vào học ở trường tiểu học địa phương, có xe bus nhà trường đưa đón mỗi ngày và ăn sáng, ăn trưa miễn phí vì hai cha con Nghĩa chưa có lợi tức. Nghĩa chỉ thêm bài vở cho Lệ mỗi buổi tối sau khi cơm xong. Lệ thông minh nên học rất nhanh. Để giúp ba Nghĩa, nó biết đặt nồi cơm điện, luộc rau, luộc trứng, làm những món giản dị rồi chờ ba Nghĩa về ăn cơm.
Mặc dầu vào ngang thiếu căn bản 4 lớp đầu (học trình Hoa Kỳ), nhưng Lệ đã học xong lớp 5 Việt Nam, Lệ học lại với ba Nghĩa và một cô giáo Mỹ dạy kèm (tutor) tất cả những gì cần thiết chưa được học ở các lớp dưới, nhất là Anh ngữ, vì vậy Lệ tốt nghiệp Trung học lúc mới 17 tuổi với điểm trung bình 4.0, một thành tích vượt mức ngay với học sinh bản xứ.
Nhiều lúc Lệ nhớ ba má, nhớ các em day dứt nhưng nghe ba Nghĩa khuyên, Lệ phải cố quên. Lệ cũng nghĩ và tự nhủ lòng, có khóc, có nhớ ba má và các em cũng không làm được gì, chỉ cản trở việc học. Đã từng ở trong cảnh nghèo của cha mẹ ở Việt Nam, Lệ biết được đi học thế này là một diễm phúc vì vậy Lệ cố gắng và chăm chỉ hết mức. Ba Nghĩa cũng khuyên Lệ, sau này có thể có bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, khi ấy Nghĩa sẽ tìm cách hỏi thăm tìm ra tung tích ba má và các em Lệ. Lệ nghe thế lại tạm yên lòng và hy vọng.

Mùa Thu năm đó, Lệ vào trường Đại học Y khoa South Carolina. Sau 3 năm, Lệ lấy Cử nhân Sinh Vật học với lời khen của Hội đồng Giám Khảo. Lệ chuyển qua học ngành Nhãn Khoa (Opthalmology). Năm 1990, Lệ đậu bằng Bác sĩ Nhãn Khoa hạng tối Ưu với lời ngợi khen của Ban Giám Khảo. Lệ được mời dạy môn Nhãn Khoa cho Sinh viên cùng trường. Lệ hỏi ý kiến ba Nghĩa, sau đó Lệ xin khất cho đến khi trở về từ Việt Nam.

Tốt nghiệp xong, Lệ bàn với ba Nghĩa, lúc này đã có vợ và một đứa con trai 2 tuổi, ba Nghĩa đồng ý, Lệ đi mua vé máy bay về Việt Nam tìm cha mẹ và các em. Sau hơn 10 năm bế quan toả cảng cả nước sắp chết đói, lúc này (từ 1985) chế độ bắt buộc phải mở cửa cho kinh tế thị trường nên cũng dễ dàng cho Lệ đi lại.

Lệ và một người bạn thân về đến Chu Lai vào một buổi chiều mùa Hạ năm 1990 sau khi đã lặn lội đi bằng đủ thứ xe từ Sàigòn ra miền Trung. Sau 15 năm, quang cảnh cũ đã thay đổi nhiều. Có những căn nhà mới mọc lên nhưng cũng có nhiều căn trại cũ biến mất. Chỉ có bãi biển, trông vẫn như trước mặc dù có nhiều hàng quán mọc lên bán thức ăn, thức uống cho du khách. Trại Gia binh ngày nào không còn. Lệ muốn được gặp lại những người hàng xóm của ba má Lệ ngày xưa như vợ chồng bác Sáu, vợ chồng chú Đàm, vợ chồng cô Bé
để hỏi thăm về cha mẹ và các em nhưng đi quanh quanh làng xóm, Lệ không kiếm ra một người quen cũ.
Lệ đeo cái thẻ bài vào cổ như ngày 23-3-1975 ra bãi biển Chu Lai, nhà nào Lệ cũng vào hỏi thăm và cho con cái họ quà bánh Lệ đem từ Hoa Kỳ về, giơ chiếc thẻ bài cho họ coi và hỏi thăm xem có ai biết ba má và các em Lệ không? Nhưng tuyệt nhiên không ai biết. Vốn đã có định kiến, Lệ xin phép chính quyền sở tại, không quên quà cáp cho họ, để mở phòng mạch khám mắt miễn phí cho mọi người. Một Nữ bác sĩ Hoa Kỳ, cô Ruthie O’Brien, bác sĩ gia đình, vốn là bạn thân và cùng ra trường một ngày với Lệ, cùng đi với Lệ về chơi thăm miền Trung Việt Nam, nhân dịp cũng bỏ đồ nghề ra khám bệnh và cho thuốc cùng những lời khuyên hữu ích để phòng ngừa bệnh tật. Các gia đình đến khám mắt và khám tổng quát, nhất là những ông già bà cả đều được hỏi về Trung sĩ Lê văn Buôn, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1, Sư đoàn 2 Bộ binh vào tháng 3 năm 1975 nhưng không một ai biết. Mỗi buổi chiều khi khám bệnh xong, Lệ và Ruthie thường ra bãi biển Chu Lai ngồi ngắm sóng và ngắm hoàng hôn trên biển, nghe những tiếng rì rào của sóng biển chạy vào bờ rồi lại trườn ra xa. Thấy bạn buồn vì không tìm ra gia đình, Ruthie lựa lời khuyên nhủ và hỏi Lệ có còn muốn đến nơi nào khác để kiếm không? Lệ nghĩ chỉ có hai nơi khác ba má Lệ có thể ở là Nha Trang, quê của ba và Trà Vinh, quê của má. Lệ nói cho Ruthie nghe những nơi Lệ hi vọng nhiều nhất, sau đó Ruthie khuyên Lệ nên đi Nha Trang.
Nha Trang không hứa hẹn nhiều cho việc tìm kiếm vì Lệ đã đến đây gần một tuần, đi khắp nơi hỏi nhưng không ai biết cựu Trung sĩ Lê văn Buôn và vợ con.
Lệ thất vọng hoàn toàn, thầm nghĩ chỉ còn một nơi nữa là Trà Vinh. Nếu tại Trà Vinh cũng không có tung tích thì coi như gia đình Lệ đã bị tiêu tán trong hoặc sau ngày 23-3-1975. Nghĩ đến đó, Lệ cảm thấy buồn muốn khóc. Ba má và các em đi hết chỉ để lại mình con thôi sao, thế thì con có sống cũng mang mối u hoài đau khổ ấy suốt đời! Thà con ở lại nhà chia sẻ những đau khổ với ba má và các em rồi chết chung một huyệt cũng là xong một kiếp người. Lệ buồn khôn tả và khóc mỗi đêm về nhưng không dám cho Ruthie biết.
Một buổi sáng, Lệ cùng Ruthie mướn một chiếc xe hơi với tài xế để đi thăm Hòn Chồng, nơi thắng cảnh đẹp có tiếng của Nha Trang. Thật ra Lệ không còn tâm trí đâu ngoạn cảnh vì “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nhưng để chiều Ruthie, Lệ cho Ruthie đi nơi này nơi kia chụp hình lưu niệm và dọc đường có thể tìm vào các quán ăn ngon, các khách sạn sang trọng mướn phòng ngủ qua đêm. Lẽ ra trong chuyến đi này, Lệ mang theo vị hôn phu là bác sĩ Vĩnh quang Dũng, chuyên khoa bệnh tiêu hoá, tốt nghiệp trước Lệ 3 năm và hai người quen nhau khi cùng làm việc trong một bệnh viện nhưng Dũng phải đi Á căn Đình dự một Đại Hội Y Khoa toàn cầu về bệnh tiêu hóa, đại diện cho Bộ Y Tế Hoa Kỳ.
Còn vị hôn phu của Ruthie có cha già đang nằm bệnh viện chữa trị bệnh tiểu đường nên anh cũng không thể theo Ruthie đi du lịch Việt Nam được.
Sau khi đã dạo chơi bãi biển hơn hai tiếng đồng hồ, Lệ đề nghị tài xế chở vòng qua con đường phía sau, nơi đây lưa thưa có dăm cái nhà trên bãi cỏ hoang. Phong cảnh quá tiêu sơ và u buồn, không có bóng một đứa trẻ. Lệ và Ruthie bàn với nhau đi xuống cuối con đường rồi trở lại, trở về thành phố Nha Trang.
Mới đi thêm một khoảng ngắn, đột nhiên chiếc xe bốc khói ở máy. Tài xế vội cho xe ngừng lại và kiểm soát máy thấy máy cạn khô không còn một giọt nước. Anh ta hoảng hồn tắt máy và ngơ ngáo đi tìm xung quanh để kiếm nước châm vào máy. Đó đây, ngoài con lộ đắp bằng đất đỏ thì toàn là gò đống và bụi cây mọc lưa thưa, tít tắp xa mới thấy vài mái tranh hiện trên nền trời xanh lơ. Lệ và Ruthie phải ngồi chờ dưới gốc cây cho bớt nắng trong khi bác tài lội bộ đi tìm nước.
Chợt Lệ trông thấy một đám người lố nhố trên một cái gò, cách xa Lệ khoảng 400 mét. Lệ chợt nghĩ hay là họ đào huyệt chôn người chết như hồi còn bé Lệ đã thấy ở Chu Lai nhưng sao không nghe tiếng khóc cũng không thấy quan tài.Trí tò mò thúc đẩy Lệ vào đó coi xem sao. Lệ cũng có ý nghĩ giúp đỡ công việc họ đang làm, nếu họ quá nghèo, cần đến một, vài chục đô-la của Lệ.
Lệ nói cho Ruthie nghe ý nghĩ của mình, bảo Ruthie ngồi đó chờ mình nhưng Ruthie không chịu, đứng lên cùng đi với Lệ. Hai cô gái cứ tưởng gần và ruộng khô, nào ngờ coi vậy nhưng khoảng cách khá xa và có những chỗ nước ngập mắt cá, hai cô phải tháo giầy cầm trên tay để đi.
Khoảng sáu, bảy người vừa đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ cắm cúi nhìn vào một cái lỗ huyệt đang đào do 4 thanh niên khoẻ mạnh, người cầm xẻng xúc đất đổ vào mê tre, kẻ bê đất đổ lên bờ, để dần dần hiện ra tấm nắp thiên bằng gỗ đen sì một cái quan tài.
Từ xa lội tới, hai cô gái đã bị những cặp mắt tò mò của đám người trên gò nhìn thấy và theo dõi. Khi hai cô tới gần, tất cả đều ngừng tay nhìn chằm chằm như nhìn một hiện tượng lạ.
Họ quá lạ lùng bởi từ xưa đến nay chưa có người ngoại quốc nào ăn mặc đẹp đẽ thế kia – đám người cho rằng cả hai cô là gái Mỹ, Pháp, Anh, Úc chi đó, lại lội ruộng vào cái gò này để coi cải mả.
Phải, họ đang cải mả. Họ đào cốt người thân chết đã lâu năm, bỏ sang một cái tiểu sành, kiếm chỗ thuận tiên, gần gũi hơn đặt xuống.
Lệ mở lời khi nhìn một người đàn bà lam lũ, già yếu, mặt mày nhăn nheo:
“Chào các bác, các chú, các anh, các chị. Cháu là người Việt sống tại Hoa Kỳ về thăm quê hương. Các bác, các chú đang cải táng cho thân nhân, phải không ạ?”
Nghe cô con gái nói tiếng Việt, cả đám người thật ngạc nhiên. Sao cô gái trông như Mỹ này, chỉ khác mớ tóc đen, lại là người Việt, nói tiếng Việt thạo quá. Họ bỏ xẻng cuốc đứng vây xung quanh hai cô gái. Người đàn bà lớn tuổi trả lời:
“Phải, người ở dưới huyệt là chồng tôi, chết từ năm 1975.”
Lệ nghe giọng nói người đàn bà có điều ngờ ngợ nhưng chưa dám tin là mình có thể đúng. Nhân tiện, cứ hỏi thăm xem có ai biết được ba mình không? Lệ chìa tấm thẻ bài đeo trong ngực áo ra cho họ coi, nói:
“Tấm thẻ bài này của ba tôi. Tôi không biết gia đình ông còn sống không và nay ở đâu. Ông tên là Trung sĩ Lê văn Buôn.”
Người đàn bà trân trối nhìn Lệ xong ngập ngừng nói:
“Thế này thực không phải. Xin lỗi…Có phải tấm thẻ bài này của lính Việt Nam Cộng hoà và cô là …Lệ phải không?”
Điều Lệ nghi ngờ đã đúng. Giọng nói người đàn bà và nhìn kỹ từ đầu đến chân, Lệ thấy đúng là má Lệ, không còn sai vào đâu được. Lệ ôm chầm lấy bà khóc rưng rức:
“Má ơi! Con đây, Lệ của má đây. Má còn nhận ra con không?”
Bà Buôn, phải, vì người đàn bà đó chính là vợ goá của Trung sĩ Lê văn Buôn, càng ôm chặt Lệ hơn. Bà rên rỉ:
“Lệ ơi, má đâu có ngờ Trời Phật còn cho gia đình mình ngày hôm nay. Người nằm dưới huyệt kia chính là ba con đó. Quả lựu đạn ngày 23-3 đã giết ba và thằng Chưởng. Còn lại hai đứa đứng kia, thằng Tung, con Bi giờ đã lớn từng đó.”
Lệ quay ra ôm hôn đứa em gái và thằng em trai. Chúng cũng xúc động nhưng không xúc động bằng má Lệ và Lệ vì khi xẩy ra biến cố tan nát gia đình, chúng còn quá nhỏ.
Bà Buôn hỏi Lệ:
“Con đeo tấm thẻ bài này 15 năm nay để đi tìm ba má và các em phải không?”
“Dạ, đúng thế má. Con đi tìm ba má và các em vì con đâu biết ba đã hi sinh ngày hôm đó.”
Ruthie đứng ngó mấy mẹ con ôm nhau cũng xúc động nhưng trong ánh mắt cô đọc thấy những tia sáng hân hoan vô bờ của bạn và của mẹ của bạn. Chuyến đi hoàn toàn thành công quá sức mong mỏi, cô lẩm bẩm.
Bốn thanh niên lại tiếp tục đào. Họ cậy tấm nắp thiên. Bộ xương người đen sì lõng bõng nước. Ruthie nhìn thấy sợ quá phải đứng tránh ra xa. Cô đã quen với xác chết trong các bệnh viện nhưng không phải là bộ xương đã rữa mục này. Lần đầu tiên Lệ nhìn thấy bộ xương cải táng nhưng Lệ không sợ mà Lệ muốn đứng thật gần để nhìn cho rõ hình hài của người cha đã sinh ra mình.
Khi má Lệ hỏi Lệ vì sao biết mà vào đây. Lệ thuật lại từ đầu tới cuối, vì sao xe phải ngưng lại, bác tài xế phải đi kiếm nước đổ vào máy xe để đi tiếp v.v…
Bà Buôn thắp lên mấy cây nhang và hai ngọn nến trong khi mấy người đàn ông đổ rượu trắng ra cái chậu sành và rửa từng khúc xương cho sạch, lấy giấy bản lau khô xong xếp vào một cái tiểu sành mầu đất nung đỏ quạch. Trong số người lo chuyện cải táng, có chú Năm thợ hồ có nhiều kinh nghiệm. Chú vừa làm vừa chỉ dẫn cho mấy anh thanh niên làm. Chú nói:
“Tôi học nghề cải táng từ năm mới 16 tuổi mà năm nay đã 55, coi như 39 năm trong nghề mà tôi chưa thấy một vụ nào lại linh thiêng như Trung sĩ Buôn đây. Nghe cháu Lệ vừa nói thì cháu đã để tâm tìm ba má cháu nhiều năm nhưng không ra tung tích; đến bữa nay hồn thiêng Trung sĩ dun dủi làm cho chiếc xe hơi đang chạy ngon lành bỗng hết nước ở ngay khúc đường này, xe bốc khói xuýt cháy máy và từ đó cháu Lệ mới có cơ hội lặn lội vào cái gò này vì tính tò mò và cũng vì tính thương người, muốn giúp đỡ người nghèo. Vì thế mà Trời Phật không bỏ cháu.”
Bác tài xế đã lặn lội đi xin được một bình nước đổ vào xe. Thay vì hai thanh niên phải khiêng chiếc tiểu sành, giờ này chiếc tiểu sành được bỏ lên xe, mọi người về nghĩa trang gần nơi cư ngụ của gia đình bà Buôn.
Nghe Lệ kể sơ lược từ lúc được ba Nghĩa nuôi vớt lên tầu và được học hành ở Hoa Kỳ, hiện đã là một bác sĩ Nhãn khoa Hoa Kỳ, tiền bạc dư dả, tương lai sáng lạn, bà Buôn quá sung sướng lại khóc. Bà chạnh lòng nghĩ đến người chồng bạc phước đã chẳng được sống thêm để nhìn thấy sự thành công của đứa con gái ông yêu quý nhất đời.
Huyệt mộ cho cái tiểu sành đựng nắm xương của người cha bạc số của bác sĩ Vivian Le đã đào xong, nhỏ và nông nên đào rất nhanh. Lần này nó không nằm trên gò đất chung quanh là sa mạc sỏi đá, cây cỏ hoang vu mà ở trong một nghĩa trang đẹp đẽ bên ngoài thành phố Nha Trang.
Khoảng 4 giờ chiều, mọi việc hoàn tất, bà Buôn, Lệ và hai đứa em của Lệ thắp hương, sụp quỳ, vái lậy, khấn khứa. Lệ cố hết sức giữ cho khỏi quá xúc động nhưng khung ảnh trắng đen của cha Lệ trước mặt lúc nào cũng như đang nhìn Lệ âu yếm làm Lệ tràn nước mắt và cái ngày độc địa 23-3-1975, tại bãi biển Chu Lai, lại hiện rõ mồn một như Lệ đang đứng sát bên cha Lệ, bám vào tay ông cho khỏi sóng đánh ra xa.
Nỗi buồn năm xưa dù chưa quên được nhưng hiện tại vẫn là đáng sống. Mẹ con bà Buôn đành phải khép lại trang sử đẫm máu của gia đình và của xóm giềng, thân thuộc để xây dựng ngày mai tươi sáng hơn.
Lệ đã đưa tiền cho má và em đi chợ mua các thức ăn về làm một bữa cơm đãi đằng chòm xóm và những người thân thuộc, trả công hậu hĩ cho những người cải táng hôm đó. Ai cũng tấm tắc khen sao lại có cái thần giao cách cảm đó để mà đến đúng chỗ, đúng lúc, gặp lại mẹ và em và nhìn được hài cốt của cha. Chuyện thực mà khó tin, xẩy ra như trong một giấc mơ.

Nhờ có nghề nghiệp cao và lợi tức vững vàng lại công dân Mỹ của Lệ, hơn hai năm sau bà Buôn và Tung, Bi đã đoàn tụ với Lệ ở Hoa Kỳ.
Bà Buôn lập một ban thờ, một bên để tấm ảnh cuối cùng của thằng Chưởng khi nó 3 tuổi, một bên treo tấm thẻ bài, ở giữa ban thờ là bát hương, có bài vị và khung ảnh đen trắng của Trung sĩ Lê văn Buôn, người Chiến sĩ kiêu dũng VNCH đã hi sinh vì Tổ quốc, người chồng, người cha thân yêu vẫn luôn luôn như đang mỉm cười với vợ và các con!

Đây là câu chuyện thật mà người viết đã lấy từ bài viết “Tấm Thẻ Bài” của Bút Xuân Trần Đình Ngọc đăng trong website: http://www.tinvasong.com/?arti cleId=373001, người viết có cắt xén để bài viết được gọn lại.

Full version: http://langnam2.blogspot.com.au/2012/08/tam-bai.html

From: Manh Trinh <manhtrinh48@hotmail.com>
Date: 2017-03-27 5:00 GMT-07:00
Subject:  Chuyện kể về tấm thẻ bài quân nhân của nữ bác sĩ Vivian Le 
To: HUONG THIEN <
999huongthien@gmail.com>

Source: http://suutamphobien.blogspot.com.au/2017/03/subject-chuyen-ke-ve-tam-bai-quan-nhan.html


Thứ Năm, 30 tháng 3, 2017

Nỗi Oán Đêm Đông



Gió rét mưa phùn đêm lạnh căm
Bốn mùa chỉ thấy một mùa Đông
Buồn ngước nhìn trăng năm tháng cũ
Mây đen che lấp khoảng trời không ...

Làng Nam 

3/2017

**********



Dạo:
     Đông dài, đêm lạnh buốt tim,
Bóng trăng quê cũ biết tìm chốn nao.



     冬  
夜 寒 風 冷 雨 噥 噥,
四 季 爲 何 只 見 冬.
懣 懣 仰 頭 追 舊 月,
黑 雲 朵 朵 蓋 長 空.
                陳 文 良


Âm Hán Việt:

           Đông Dạ Oán
Dạ hàn, phong lãnh, vũ nông nông,
Tứ quý vị hà chỉ kiến đông.
Muộn muộn ngưỡng đầu truy cựu nguyệt,
Hắc vân đóa đóa cái trường không.
              Trần Văn Lương


Dịch nghĩa:

          Nỗi Oán Đêm Đông
Đêm lạnh, gió rét, mưa thì thào,
(Có) bốn mùa mà sao chỉ thấy có mùa đông.
Buồn bã ngửng đầu đuổi tìm trăng cũ,
Mây đen từng mảng che lấp kín trời không.

Phỏng dịch thơ:

       Lời Oán Đêm Đông
Đêm dài, mưa lạnh náo bên song,
Quanh quẩn bốn mùa chỉ thấy Đông. 
Ngước mắt vời trông trăng chốn cũ,
Mây đen vần vũ lấp trời không.
                Trần Văn Lương
                   Cali, 3/2017

************

Lời than của Phi Dã Thiền Sư:
      Ánh trăng ngày tháng cũ giờ ở nơi nao?      
      Ngước mắt nhìn trời chỉ thấy mây đen vần vũ.
      Và đêm đông kia vẫn kéo dài bất tận.
      Biết nói gì đây, hỡi ơi!


LỜI OÁN HẬN ĐÊM ĐÔNG DÀI 

Dạo : 

Đêm đông dằng dặc buốt tim 
Trăng  quê cũ, khó mà  tìm 

OÁN HẬN ĐÔNG DÀI 

Đêm đông mưa lạnh ngòai song 
Bốn mùa chỉ thấy mùa đông ,
Ngửa mặt tìm trời quê cũ 
Mây đen lấp kín khoảng không 

Xin  nhuận sắc cho , trân trọng cám ơn 

LTĐQB

**********

Rancor toward Winter Night

Frigid rain falling in windy, cold winter night 
All four seasons are but one winter in sight
Looking for the old moon in the sky 
But all I saw were layers of black clouds up high

Wissai
3/26/2017

**************



Dạo:
Giữa xuân, sao lạnh buốt tim!
Tình xưa, trăng cũ biết tìm nơi nao?!

            Không Oán
Không hồn, xác lạnh nhốt trong song.
Không ấm tình người tim giá đông.
Trời mới khác xưa trời chốn cũ!
Không trăng sao sáng, thấy đen không!
YS.









Source Internet.