Thứ Năm, 2 tháng 7, 2020

Trần Mộng Tú, thơ và, niềm hãnh diện thi ca Việt


Nhà thơ Trần Mộng Tú. (Hình: Diễn Đàn Thế Kỷ)

Mặc dù những năm giữa và cuối thập niên 1970s, phương tiện phổ biến báo chí gần như không có! Nó chỉ được chép tay hoặc chuyền tay giữa những người tị nạn -- Tựa những chiếc lá đột ngột lìa cành, bị rải đi khắp nơi trên nước Mỹ bát ngát bao la, theo chủ trương của chính phủ Hoa Kỳ ở thời điểm đó -- Những bài thơ, những vần thơ của Trần Mộng Tú, xuất hiện trên một tạp chí, có số lượng ấn bản đến tay người đọc không quá ba trăm người. (Hoàn toàn nhờ trung gian những tiệm thực phẩm Á Châu mà, chủ nhân đa số là người Tàu).

Nhưng những bài thơ, những vần thơ của chị đã được nhân rộng bằng phương tiện chép lại, chuyền tay, gửi qua bưu điện. Tính nhân rộng kia, không chỉ bởi những người yêu thơ mà, gồm cả những người vốn không quan tâm lắm tới thi ca.

Theo tôi, chúng ta chỉ có thể lý giải hiện tượng bất ngờ hiếm hoi này, vì, thơ Trần Mộng Tú hiện ra, như một sợi dây tinh thần, nối kết những trái tim Việt Nam tan tác, tận cùng đáy thẳm lạc lõng.

Thơ Trần Mộng Tú hiện ra, như chiếc cầu tâm linh hoặc những viên thuốc bổ, cho mọi người còn thấy mình gần gũi với quê cha, đất tổ, qua sợi dây thiêng liêng tiếng Việt.

Ở bậc thềm tị nạn thứ nhất, những năm giữa thập niên 1970s, nhiều người Việt tị nạn còn tập làm quen với với phương tiện liên lạc bằng điện thoại, nói chi tới phương tiện chuyển dịch bằng xe hơi. Phương tiện phổ thông nhất của lớp người này là thư từ. Là nhắn tin.
Trong bối cảnh đó, những rung động của Trần Mộng Tú, qua thơ của chị, là những rung động chân thành, những cảm thức đi ra từ trái tim, không thể gần gũi hơn, với người Việt trong hoàn cảnh thất thổ, bị cắt lìa hoàn toàn với quê hương!

Tuy nhiên, tôi nghĩ, ở thời điểm đó -- Thời điểm người tị nạn bên này biển Đông, không nhận được một tiếng vọng, không bắt được một tín hiệu nào gửi đi từ phần đất mà, gần 1 triệu người đã hốt hoảng bỏ chạy thì, dù cho thơ Trần Mộng Tú có là những tiếng nói không hạnh phúc -- Chí ít nó cũng là tiếng nói Việt Nam. Tiếng nói của con chim tìm đàn. Tiếng nói của một người Việt tị nạn, trong một chừng mực nào đó, vẫn cho thấy hồn tính Việt Nam dù giữa cảnh đời cô lập.

Một trong những bài thơ viết trên bậc thềm tị nạn thứ nhất của Trần Mộng Tú, được đám đông đón nhận và, mau chóng truyền tụng là bài thơ nhan đề “Lòng nào như suối cạn”:

Ngày xưa trong quán nhỏ
Đời không có mùa đông
Trên môi cà phê ngọt
Trong mắt giọt tình nồng
Hôm nay trong quán lạ
Hai đứa ngồi nhìn nhau
Trên môi cà phê đắng
Trong mắt giọt tình sầu
Một năm trời lận đận
Đời ngọt những vết thương
Một năm trời bôi bác
Đời vui những tấn tuồng
Anh bây giờ đã khác
Trán đã thêm nếp nhăn
Em bây giờ đã khác
Má đã phai sắc hồng
Mắt nào không lệ chảy
Môi nào thơm hương hoa
Lòng nào như suối cạn
Tình nào đã chia xa?
Một năm trời xứ lạ
Không còn gì cho nhau
Giọt tình cuồng trong mắt
Cũng tan theo nỗi sầu...
(Theo “Thơ chọn lọc Việt Nam” - Nguồn Wikipedia - Mở)


Bài thơ in ra, chỉ một tuần sau, đã được nhạc sĩ Nam Lộc tìm vào, phổ nhạc, với tựa đề mới “Giọt Tình Sầu.” (Nếu tôi không lầm thì đấy là ca khúc đầu tay của Nam Lộc?)

Và, không lâu sau, người thứ hai, ở tiểu bang khác, cũng chọn bài thơ trên của Trần Mộng Tú để soạn thành ca khúc, là nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo, với tựa đề “Quán lạ.”

Thơ Trần Mộng Tú ở một góc độ nào đó là một thứ tự sự kể. Chị không chủ trương làm văn chương hay thi ca hóa một sự kiện, một kỷ niệm mà, chị rất trung thực, rất thiết tha chân tình khi ghi lại những cảm nhận thốn tâm, như:

“Anh bây giờ đã khác
Trán đã thêm nếp nhăn
Em bây giờ đã khác
Má đã phai sắc hồng.”


Hay:

“Một năm trời xứ lạ
Không còn gì cho nhau
Giọt tình cuồng trong mắt
Cũng tan theo nỗi sầu”


Đó là hiện thực, một hiện thực không thể đau xót hơn, của những cảnh đời tị nạn đầu tiên, nơi xứ người.

Hoặc nữa:

Hãy tưởng tượng ra em
ở một căn nhà lạ
mình em một ngôn ngữ
mình em một màu da
mình em một màu mắt
mình em một lệ nhòa
 
Hãy tưởng tượng ra em
ở nơi không định tới
em tủi như chim khuyên
khóc trong lồng son mới
 
Hãy tưởng tượng ra em
ở một thành phố khác
em buồn như nước sông
khóc chia dòng tan tác.
(Nguồn Wikipedia - Mở)


Với những câu thơ như những tiếng kêu tuyệt vọng, từ “ghét-tô,” như:

Hãy tưởng tượng ra em
ở một căn nhà lạ
mình em một ngôn ngữ
mình em một màu da
mình em một màu mắt
mình em một lệ nhòa”


Hay:

Hãy tưởng tượng ra em
ở một thành phố khác
em buồn như nước sông
khóc chia dòng tan tác.


Tôi tin, sẽ không một ai ngạc nhiên để phải tự hỏi, tại sao thơ Trần Mộng Tú ngay tự những ngày đầu tị nạn đã là tiếng thơ đầu tiên, trở thành tiếng nói chung của tất cả mọi người.

Sự nổi tiếng lập tức của tiếng thơ họ Trần, cũng khiến chị trở thành nhà thơ tị nạn đầu tiên ở Hoa Kỳ, có thơ được chuyển thành ca khúc.

Dõi theo hành trình thi ca rực rỡ chân-cảm của Trần Mộng Tú, tôi không chút ngạc nhiên khi thấy, về sau, càng lúc, càng có thêm nhiều nhạc sĩ đã tìm đến với thơ của chị -- Như tìm tới một Việt-Nam-thi-ca tiêu biểu. Khiến chị trở thành một trong số ít nhà thơ nữ, có nhiều thơ phổ nhạc nhất ở xứ người.

Tuy nhiên, vẫn theo tôi thì, thành tựu thi ca mang tên Trần Mộng Tú không dừng ở đó. Tự thân tiếng thơ của chị, bằng cách riêng của nó, đã đi vào và, trở thành đề tài học tập, nghiên cứu của học sinh Hoa Kỳ.

Tôi nghĩ, nếu có nói tiếng thơ Trần Mộng Tú đã vượt khỏi bầu-khí-quyển-ngôn-ngữ-Việt, thì cũng không phải là lời nói quá – Nếu chúng ta biết, một bài thơ của chị đã được chọn in trong một cuốn sách giáo khoa dạy văn chương “Glencoe Literature” do nhà McGraw Hill ấn hành.


Nhà thơ Trần Mộng Tú. (Photo Courtesy of Blog NguyenXuanHoang)
Ghi nhận về sự kiện đáng hãnh diện này, trong một bài viết nhan đề “Trần Mộng Tú, thi sĩ Việt Nam đầu tiên vào sách giáo khoa trung học Mỹ,” trang mạng Caothoaichau.blogs có những đoạn nguyên văn như sau:

“Nếu quý vị mở cuốn sách giáo khoa dạy văn chương ‘Glencoe Literature’ do nhà xuất bản McGraw Hill ấn hành, quý vị sẽ thấy một bài thơ của một thi sĩ Việt Nam dịch sang tiếng Anh đi song song với bài diễn văn nổi tiếng của Tổng Thống Abraham Lincoln trong thời Nội chiến Mỹ, tại bãi chiến trường Gettysburg. Ðó là bài thơ của Trần Mộng Tú, The Gift in Wartime, nhan đề tiếng Việt là ‘Quà Tặng Trong Chiến Tranh.’

“Hai tác phẩm trên được đem ra để dạy học sinh môn văn chương Hoa Kỳ. Trong phần thứ ba của cuốn sách giáo khoa, viết về văn chương thời kỳ nội chiến Nam Bắc ở Mỹ và sau cuộc nội chiến, các nhà soạn sách giáo khoa của công ty Glencoe-McGraw Hill, rất thông dụng trong các trường trung học ở Mỹ đã có sáng kiến đem bài thơ Trần Mộng Tú, qua bản dịch Anh ngữ cho học sinh nghiên cứu song song với bài diễn văn trầm hùng của Abraham Lincoln, so sánh cách dùng chữ, cách chọn hình ảnh, những ý tưởng trong mỗi bài của hai tác giả. Ðây là một kinh nghiệm văn chương quý báu mà các học sinh Mỹ được hưởng khi tiếp xúc với một thi sĩ ngoại quốc để thấy hậu quả của chiến tranh trên tâm hồn một phụ nữ Việt Nam cũng mang những tính chất nhân bản và sâu sắc không khác gì vị tổng thống mà tất cả mọi người Mỹ đều quen thuộc. Có lẽ sau này học sinh Việt Nam khi học về văn chương thời nội chiến Nam Bắc ở thế kỷ 20 cũng sẽ có cơ hội nghiên cứu bài thơ của Trần Mộng Tú (…)

“…Bài thơ ‘Quà Tặng Trong Chiến Tranh’ được viết ở Việt Nam, khi thi sĩ còn rất trẻ, từ những xúc động trước cái chết của một chiến sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa, người yêu đầu của cô, sau đó đã được đăng trên các tạp chí khắp nơi ở hải ngoại.

“Lần đầu tiên hai bài thơ về chiến tranh của Trần Mộng Tú xuất hiện trong thế giới văn chương quốc tế vào năm 1990, đăng trong ‘Vision of War, Dream of Peace,’ (Viễn Ảnh Chiến Tranh, Giấc Mơ Hòa Bình.) Ðó là ‘The Gift in Wartime’ (Quà Tặng Trong Chiến Tranh) và ‘Dream of Peace’ (Giấc Mơ Hòa Bình) cả hai được dịch sang Anh Ngữ do Vann Phan, một ký giả cũng cộng tác với nhật báo Người Việt.

“’Vision of War, Dream of Peace’ là một tuyển tập thơ của các nữ quân nhân và y tá phục vụ trong quân đội Mỹ vào thời kỳ chiến tranh Nam-Bắc Việt Nam. Cuốn sách ra mắt tại Washington DC vào ngày Cựu Chiến Binh, Veteran’s 11 tháng 11 năm 1990.

“Bản dịch bài thơ ‘The Gift in Wartime’ được in vào American Literature textbook do nhà xuất bản sách giáo khoa lớn nhất ở Mỹ, Glencoe-Mc.Graw-Hill phát hành năm 1999, trong các chương về văn học Mỹ trong thời Nội Chiến Nam Bắc Mỹ. Thơ Trần Mộng Tú được giới thiệu cho các học sinh so sánh với bài diễn văn nổi tiếng The Gettysburg Address của Tổng Thống Abraham Lincoln.

“Bài diễn văn do Tổng Thống Lincoln đọc ngày 19 tháng 11 năm 1863 trong dịp khánh thành một nghĩa trang cho các tử sĩ tại chiến trường Gettysburg, tiểu bang Pennsylvania. Trước ông, một chính trị gia và nhà hùng biện nổi tiếng đã nói suốt 2 giờ; đến lượt Lincoln ông chỉ nói trong vòng 2 phút. Sau buổi lễ, các nhà báo tường thuật không ai nhắc đến những lời Lincoln nói, nhưng dần dần dân tộc Mỹ đã nhận ra đó là một tác phẩm văn chương bất hủ, xuất phát từ tấm lòng của một nhà lãnh đạo vốn rất ghét chiến tranh nhưng phải dẫn đầu nước Mỹ trong một cuộc chiến bất đắc dĩ và đã thành công trong việc bảo vệ một quốc gia thống nhất với những lý tưởng tự do, bình đẳng. Câu nói được cả thế giới ngày nay nhắc lại nhiều lần kết thúc bài diễn văn ca ngợi các chiến sĩ đã hy sinh để một ‘chính phủ của dân, do dân, và vì dân sẽ không bị hủy diệt trên trái đất.’

“Cuốn sách giáo khoa tiếp theo đã giới thiệu thi sĩ Trần Mộng Tú, sinh ở tỉnh Hà Ðông, Việt Nam, người phụ nữ có kinh nghiệm chính mình sống với những hậu quả của cuộc chiến tranh trong đó hai triệu người Việt Nam thiệt mạng cũng như 57,000 người Mỹ. Sau khi đọc bài thơ Trần Mộng Tú, học sinh được hướng dẫn với những câu hỏi để khám phá những cảm xúc mà tác giả gợi cho người đọc cũng như tìm hiểu nội dung bài thơ. Cuốn sách giáo khoa cũng gợi ý cho học sinh tìm hiểu về kỹ thuật, học sinh tự hỏi tại sao thi sĩ đã dùng các điệp ngữ và nhắc lại các hình ảnh để gây ấn tượng nơi người đọc.

“Sau đó, các học sinh được mời so sánh hai áng văn chương cùng viết trong thời nội chiến ở hai quốc gia, hai thế kỷ khác nhau. Abraham Lincoln đọc bài diễn văn của ông trước một đám đông, và ông nhắm vào công chúng. Còn Trần Mộng Tú viết một mình, cho mình.

“Nhưng học sinh có thể tìm thấy những mục đích và cảm xúc giống nhau trong hai tác phẩm ngắn này. Học sinh cũng được dịp tìm hiểu khai phá sự khác biệt giữa hai nền văn hóa của hai tác giả, và thử hỏi một người Mỹ thời nay nếu viết về chiến tranh thì sẽ viết giống tác phẩm nào…” (2)

Dưới đây, chúng tôi xin đăng lại nguyên văn bài thơ nổi tiếng thế giới “Quà Tặng Trong Chiến Tranh” của nhà thơ Trần Mộng Tú:

Em tặng anh hoa hồng
Chôn trong lòng huyệt mới
Em tặng anh áo cưới
Phủ trên nấm mồ xanh
Anh tặng em bội tinh
Kèm với ngôi sao bạc
Chiếc hoa mai mầu vàng
Chưa đeo còn sáng bóng
Em tặng anh tuổi ngọc
Của những ngày yêu nhau
Ðã chết ngay từ lúc
Em nhận được tin sầu
Anh tặng em mùi máu
Trên áo trận sa trường
Máu anh và máu địch
Xin em cùng xót thương
Em tặng anh mây vương
Mắt em ngày tháng hạ
Em tặng anh đông giá
Giữa tuổi xuân cuộc đời
Anh tặng môi không cười
Anh tặng tay không nắm
Anh tặng mắt không nhìn
Một hình hài bất động
Anh muôn vàn tạ lỗi
Xin hẹn em kiếp sau
Mảnh đạn này em giữ
Làm di vật tìm nhau.

(Tháng 7, 1969) (3)

Qua ngày tháng ghi dưới bài thơ, nhiều độc giả mới biết một cách chính xác rằng, họ Trần đã làm thơ từ khi chị còn rất trẻ. Và, theo Wikipedia thì tiểu sử của Trần Mộng Tú cũng được ghi nhận như sau:

“Trần Mộng Tú sinh năm 1943 tại tỉnh Hà Ðông, miền Bắc Việt Nam. Di cư vào Nam năm 1954. Sang Mỹ tháng 4 năm 1975 (thư ký cho hãng thông tấn The Associated Press ở Sài Gòn (1968-1975). Thường xuyên cộng tác với các tạp chí văn học ở Mỹ và các nước khác. Viết truyện nhi đồng cho báo Los Angeles Times từ năm 2000. Có thơ Anh ngữ trong sách giáo khoa Mỹ cho chương trình trung học (American Literature – Glencoe-1999). Ðoạt giải về bình luận (Commentary) của The New California Media (NCM) “Ethnic Pulitzers” năm 2003.

Trần Mộng Tú đã xuất bản trên dưới 10 tác phẩm đủ thể loại…” (4)

Trần Mộng Tú, nhìn từ góc độ nào, theo tôi cũng đều là niềm hãnh diện Việt vậy.

(Tháng 1, 2015)




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.