Mặc Lâm, biên tập viên RFA
Trong chương trình Văn hóa Nghệ thuật hôm nay Mặc Lâm xin giới thiệu nhà thơ Phạm Cao Hoàng và bài thơ Hành Phương Đông của ông.
Nhà thơ Phạm Cao Hoàng trước năm 75 đã cộng tác với rất nhiều tạp chí văn học của Sài Gòn cho tới khi những tờ báo một thời ấy vĩnh viễn đóng cửa. Nhà thơ, giống như mọi người con dân khác trôi nổi trên dòng chảy nghiệt ngã của lịch sử cho tới gần hai mươi lăm năm sau ông may mắn qua được bến bờ bên kia đại dương, nơi hàng triệu người như ông hướng tới để tìm một mảnh đất tự do trong cả hai lĩnh vực vật chất và tinh thần.
Trong hầu hết quảng thời gian Phạm Cao Hoàng sáng tác, ông chú ý đến thơ nhiều hơn các thể loại khác. Có lẽ thơ chảy trong con người nghệ sĩ ấy bừng bừng như nham thạch và từ sức nóng của hoàn cảnh chính trị trong thập niên 70 khiến nhà thơ quẫy đạp trong thinh lặng của thi ca như tín đồ cung hiến lên thượng đế những bài kinh nhật tụng, khi thành khẩn, lúc mỏi mê nhưng bao giờ cũng một lòng kính cẩn.
“Thật ra thì trước 75 tôi tham gia cộng tác với một số các tạp chí văn học tại Sài Gòn như Văn, Bách khoa, Thời tập, Khởi hành, Vấn đề… được khoảng 6 năm tức từ năm 1969 tới năm 75 sau đó thì ngưng viết, giai đoạn đó chủ yếu tôi làm thơ không viết truyện. Tôi sang Mỹ năm 1999 khi sang bên này thì tôi có tham gia sinh hoạt với nhóm anh em tạp chí Thư Quán Bản Thảo và anh em nhà xuất bản Thư Ấn Quán của anh Trần Hoài Thư và thỉnh thoảng tôi có cộng tác với tạp chí Tân Văn ở California.”
Thật ra thì trước 75 tôi tham gia cộng tác với một số các tạp chí văn học tại Sài Gòn như Văn, Bách khoa, Thời tập, Khởi hành, Vấn đề… được khoảng 6 năm tức từ năm 1969 tới năm 75 sau đó thì ngưng viết.
-Phạm Cao Hoàng
Hình ảnh người yêu là chủ đề muôn thuở đối với bất cứ nhà thơ lớn hay nhỏ nào. Hình như thiếu dáng dấp của môi cười hay hơi thở của phía còn lại sẽ khiến cho thơ chết mất và nếu không chết thơ cũng nhợt nhạt một màu.
Riêng Phạm Cao Hoàng có một không khí khác trong thơ của ông, không khí của tráng sĩ, của kẻ bôn ba trên chiến trường, một hôm nào đó gặp lại bạn xưa trên con đường sương gió. Túi rượu chưa tuôn mà lời thơ như không dằn được. Thơ chảy trào lênh láng, thơ bùng bục sôi trong ngôn ngữ thi ca mang đậm chất giang hồ hơn một lần mỏi mệt.
Hành Phương Đông
Bạn ta, áo ngươi sao bạc thếch
Chiều nay còn một ngươi với ta
Ngươi nhớ gì dưới trời mây trắng
Ta nhớ màu hoàng hôn năm xưa
Ngươi phong trần ta cũng giang hồ
Vó ngựa qua nhịp khua lóc cóc
Buổi ra đi đâu mơ ngày về
Nhưng chiều nay ngươi ơi ta muốn khóc
Ngươi ba mươi ta cũng ba mươi
Kể cũng đã mười năm rồi, xa lắc
Thì vui đi cho hết một đời
Rằng ta kẻ trời cho sống sót
Đôi khi ta mơ một căn nhà trống
Dù thu sang hay lồng lộng buổi mưa về
Gõ trên quãng đời xưa mà hát
Rằng ngàn năm mây trắng đời ta
Bạn ta, còn đây lưng chén rượu
Ta mời ngươi cạn nốt cùng ta
Dẫu lòng ta bạc hay ngươi bạc
Cũng cầm bằng như bóng mây qua
Cũng như là những giọt máu hồng
Đã nhỏ xuống trong mùa xương máu
Bên trời kia, ngươi nghe gì không
Tiếng ai vọng đau mấy chiều cố xứ
Trong lòng ta có một dòng sông
Dòng sông xưa đục mù bến nước
Lau lách khuya sương lạnh hàng hàng
Bạn ta hỡi, làm sao quên được
Sống cùng với nhân vật
Tráng sĩ dù có rút gươm ra hay không thì lưng cũng đã mòn vì sương gió. Chất hào khí ấy làm bài thơ Hành Phương Đông của ông có một sức sống khó cưỡng và từ đó hình ảnh vừa thật vừa ảo như trong truyện xưa làm người nghe cảm hứng như mình đang sống cùng với nhân vật.
“Thật ra cảm xúc lúc đó của tuổi trẻ lớn lên trong bối cảnh chiến tranh, năm tôi viết bài thơ đó là năm tôi 21 tuổi cho nên bài thơ nó cũng giống như một nỗi buồn chiến tranh, cũng là nhân chứng của thời kỳ đó. Sau này tiếp nối cái bài đó khi chiến tranh kết thúc thì tôi có bài: Một bông hồng nở giữa tim anh” nói về cảm xúc, niềm vui khi mà mình thấy hòa bình lập lại tại Việt Nam.”
Ta chợt thấy trong đôi mắt ngươi
Có điều gì ngươi chưa thể nói
Mây vẫn còn giăng trắng một trời
Hồn ta cũng giăng đầy sương khói
Có nỗi buồn nào đang len trong từng mạch máu
Có mũi nhọn nào đâm trong tim ta từng cơn
Cạn chén rượu thấy trời đất sụp
Ta cũng như ngươi, có vui gì hơn
Bạn ta, ngươi sống có bao năm
Mà sương gió đầy trên mái tóc
Ta cùng ngươi đi giữa phương đông
Đất rộng quá nên ngàn năm còn cô độc
Mây trắng quá và chiều tê tái lắm
Biết về đâu giữa lúc hoàng hôn phai
Ta cùng ngươi những bóng đời lếch thếch
Chiều tan mau rồi vẫn bóng đêm dài
Sống nửa đời chẳng có một quê nhà
Buổi lận đận thân gửi nhờ đất khách
Chẳng lẽ ta ôm lòng mà chờ
Chờ một thuở huy hoàng trên mặt đất
Chẳng lẽ ta bắt chước người xưa
Ôm chí lớn đi cùng trời đất
Trăm năm rồi như bóng mây qua
Chí đã cùn nên thiên thu đành chôn chặt
Hình ảnh những người lính
Thật ra cảm xúc lúc đó của tuổi trẻ lớn lên trong bối cảnh chiến tranh, năm tôi viết bài thơ đó là năm tôi 21 tuổi cho nên bài thơ nó cũng giống như một nỗi buồn chiến tranh.
-Phạm Cao Hoàng
Bài thơ Hành Phương Đông được đăng trong tạp chí Khởi Hành vào năm 1971, khi ấy hình ảnh những người lính trên mọi nẻo đường Việt Nam đã trở nên quen thuộc. Phạm Cao Hoàng nhà thơ ngồi xuống vệ đường nói chuyện với Phạm Cao Hoàng người lính. Hai trong một ấy khiến bài thơ nóng dần lên theo mạch chuyện để rồi không có lời kết nào cho thân phận của họ trong mịt mùng chiến tranh, mịt mùng phía trước.
Chẳng lẽ ta học người thất thế
Mượn dăm chén rượu lãng quên đời
Hay ngửa mặt ngâm câu khí khái
Giữa chợ đời lê gót rong chơi
Bạn ta, vui chi mà cười ngất
Buồn chi đập chén vỡ tan tành
Mây phương nam có khi mù phương bắc
Có khi là mây chia cắt ngàn năm
Ta có khi đứng bên tuyệt lộ
Thấy một màu nắng úa dưới nhân gian
Lớp lớp những mồ xanh bóng cỏ
Huyệt sâu kia ta đã có phần
Thời xuân thu chẳng thấy ngọn ngô đồng
Chim phượng bay dưới trời tan tác
Thời hoàng kim của mưa đổ máu hồng
Kẻ thất chí nhìn trời rơi nước mắt
Ta với ngươi đứng giữa vực tử sinh
Vẫn thấy bay một trời mây trắng
Nghe quanh đây trời đất quá điêu tàn
Không còn ai giữa chiều thoi thóp nắng
Trong mắt ngươi có bóng đời ta tan vỡ
Có mùa đông quê cũ rét mưa phùn
Có đầu thu rụng đầy bông khế
Có bông cúc vàng nở rộ chớm sang xuân
Có chuyến tàu đi trong chiều sương lạnh
Nhả khói buồn tan với hoàng hôn
Có chiếc khăn tay vẫy ngang mắt lệ
Bánh sắt lăn như nghiến nát cả lòng
Chiều nay đèn nhà ai thắp sáng
Nghe rộn ràng bên lớp khói đùn quanh
Mười năm, ta hay ngươi người viễn khách
Rét về chưa mà hồn lạnh căm căm
Phạm Cao Hoàng tự vỗ vai mình, cúi nhìn đôi giày đã bạc màu sương gió và tự than như một lưu khách không biết bụi đường còn nặng bao xa. Người tráng sĩ ấy không đau dài nỗi tả tơi như Tô Thùy Yên trong Trường Sa Hành:
“Ta ngồi bên đống lửa man rợ, / Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi,
/ Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp / Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.”
Và cũng không ngồi giữa chợ mà gọi thế nhân như Nguyễn Bính trong Hành Phương Nam, một bài thơ đưa người lữ hành vào thẳng trong tim người đọc.
“Ta đi nhưng biết về đâu chứ? / Đã đẩy phong yên lộng bốn trời / Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ / Uống say mà gọi thế nhân ơi!”
Trang sách thơm mùi hoa phượng
Ta cùng ngươi đi giữa phương đông
Giày đã rách nhưng chân chưa thấy mỏi
Vỗ trên lưng ngày tháng mà ca rằng
Giữa trần gian ta như hạt bụi
Bụi dẫu có ngàn năm chờ đợi
Cũng ngậm ngùi tan với hư không
Ngươi dẫu cạn bao nhiêu hồ rựou
Cũng dễ chi đã ấm được lòng
Cũng không bằng một sớm mùa đông
Quàng khăn rét ngồi bên cửa sổ
Hay co ro bên bếp lửa hồng
Ấm đời nhau dăm câu chuyện kể
Thời bây giờ ta như chim bị đạn
Kêu đau thương nay đã suốt bao chiều
Bay lảo đảo dưới trời hiu quạnh
Đợi tan tành cùng mặt đất buồn thiu
Thời bây giờ, của những giọt nước mắt
Ứớt đẫm khăn hồng người con gái năm xưa
Thời của những khăn tang chít vội
Thời ruột đau như cắt nỗi chia lìa
Thời huy hoàng của những bầy quạ đen
Bay phơi phới giữa phương đông hực lửa
Thời của những người đã đánh mất trái tim
Chỉ còn bóng hận thù vây mọi phía
Cắn trong răng một trái bồ hòn
Không thể nói những điều muốn nói
Ta cùng ngươi những bóng đời thầm
Nhìn mây trắng lòng đau vời vợi
Đã bao năm dòng máu ta sắp cạn
Mà nơi đây không một bóng ai về
Rụng tan tác những mùa hoa rụng
Mà mây thì mây trắng lê thê
Ta cùng ngươi vẽ bóng mà chờ
Cùng mặt đất quay theo thời chiến quốc
Chiều nay còn một ngươi với ta
Bước khập khiểng dưới trời cô độc
Có tiếng tù và vang vang trong gió
Âm thanh buồn xé vỡ không gian
Cũng là lúc nụ cười ta héo hắt
Chiều thê lương trời đất quá điêu tàn
Có tiếng ai vọng từ muôn kiếp trước
Bông hồng nào vừa rụng giữa lòng ta
Trong mắt ngươi có chút gì u uất
Soi long lanh bóng dáng một quê nhà
Kể cũng đã mười năm rồi ngươi hỡi
Ngửa nghiêng cùng lịch sử thăng trầm
Vui có khi cười ra nước mắt
Có khi là rượu say khướt hoàng hôn
Ruột có khi tưởng lìa chín khúc
Máu có khi ứ giữa buồng tim
Cũng đành sống cho qua thời mạt kiếp
Dù tháng ngày chụp xuống những oan khiên
Bạn ta, bên kia sông là núi
Núi của ngàn năm đá vọng bóng người đi
Núi tiếp sông và sông tiếp biển
Sông tiễn người qua bến phân ly
Sông ngậm ngùi vỗ sóng thiên thu
Mùa bão tới gầm lên hồi bi thiết
Gờn gợn trên sóng bạc những căm thù
Bởi máu đã nhuộm hồng sông nước
Bấc đã lụn nên đèn leo lét
Gót ai qua rờm rợp khắp non sông
Trên mặt đất người người rơi nước mắt
Và nơi đây ta ngậm nỗi căm hờn
Ta cùng ngươi đi giữa phương đông
Thương vườn ai đìu hiu dăm xác lá
Mái rêu phong cửa khép im lìm
Nhà ai đó giống quê nhà ta quá
Giậu ai đó đỏ hàng dâm bụt
Ngỡ như màu mực tím thuở mười ba
Nghe thoang thoảng mùi hương sách mới
Có chút gì nghèn nghẹn giữa tim ta
Bóng chim nào lạc cánh cuối trời xa
Đất rộng quá biết đâu là cố lý
Và nơi đây hiu hắt những đời người
Dài râu tóc ngồi mơ thời thịnh trị
Lúc tuổi trẻ đã tan rồi chí khí
Sống nửa đời ta chẳng thấy quê hương
Nhìn lên cao mây còn bay lớp lớp
Ta cùng ngươi quay với bóng tang thương.
Với 164 câu thơ Phạm Cao Hoàng đưa người đọc thơ ông trở về với một thời mà văn học còn đậm đặc nét lãng mạn của trào lưu Thơ Mới. Hành Phương Đông phần nào giúp những người từng yêu phong trào này quay lại với trang sách thơm mùi hoa phượng hay rổn rảng tiếng binh đao.
Hai người trong Hành Phương Đông của Phạm Cao Hoàng tuy trầm tư, cách điệu, đôi khi bất cần với những biến động chung quanh nhưng người đọc cũng nhận ra một điều sự trầm tư ấy chẳng qua là động tác giả, động tác che lấy nỗi đau của mình bằng một nỗi đau khác mà trong đó sự hoang mang đã trở thành thói quen không thể che dấu.
Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, Hành Phương Nam của Nguyễn Bính và rồi Tô Thùy Yên bùng nổ với Trường Sa Hành mang một dấu ấn cho văn học Việt Nam và sau đó trở thành bất hủ. Thể loại “Hành” có lẽ thích hợp với tự sự, vừa đi vừa kể chuyện mình, chuyện người trong đó lấy mình ra vừa làm người kể lẫn người nghe, đơn độc và nhuốm màu ly tán.
Hành Phương Đông của Phạm Cao Hoàng mặc dù chẳng nổi tiếng như những tác phẩm vừa nói nhưng khi đọc lên người ta không thấy chút gì ngượng ngập, mang cung cách trình diễn hay bất cứ sự gượng ép nào, có lẽ đó là điều thành công của Hành Phương Đông mà tác giả của nó đã một lần rồi thôi, mang vào dòng chảy văn học Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.