Thứ Hai, 12 tháng 3, 2012

ĐỌC LẠI TRUYỆN KIỀU, NGHĨ VỀ KIẾP NGƯỜI

trần minh hiền , orlando ngày 10 tháng 3 năm 2012

Chương 1: A. Giới thiệu gia thế và tài sắc nàng Kiều http://www.youtube.com/watch?v=YoH48aTx88I&feature=related
Chương 1: B. Nàng Kiều gặp Kim Trọng http://www.youtube.com/watch?v=RNFhUYRKh00&feature=related
Chương 2: A. Nàng Kiều bán mình chuộc cha http://www.youtube.com/watch?v=UhgbYZYYWz4&feature=related
Chương 2: B1. Nàng Kiều gặp Mã Giám Sinh http://www.youtube.com/watch?v=EFSsQFDZsio&feature=related
Chương 2: B2. bị Sở Khanh lừa, C. gặp Thúc Loan, bị Hoạn Thư đày đọa http://www.youtube.com/watch?v=U4gijJtjqKk&feature=related
Chương 2: E (2) Nàng Kiều gặp Từ Hải http://www.youtube.com/watch?v=WZLw4SV2yi0&feature=related
Chương 2: G. Nàng Kiều nương nhờ cửa Phật http://www.youtube.com/watch?v=XFUD64GB908&feature=related
Chương 3: Tình chị duyên em ---- (hết) http://www.youtube.com/watch?v=WR5IqXlD314&feature=related

alt
alt
alt
alt
ĐỌC LẠI TRUYỆN KIỀU, NGHĨ VỀ KIẾP NGƯỜI
trần minh hiền , orlando ngày 10 tháng 3 năm 2012

Truyện Kiều của Nguyễn Du là 1 kiệt tác của văn chương Việt Nam và thế giới , không chỉ về nội dung về nghệ thuật mà còn về những ảnh hưởng của tác phẩm này lên văn chương , văn hóa của Việt Nam và thế giới . Tôi đã đọc Kiều không biết bao nhiêu lần và hôm nay đọc lại nghiền ngẫm suy nghĩ tôi vẫn ngộ ra nhiều ý mới, nhiều tư tưởng ẩn chứa trong đại tác phẩm này . Đại thi hào Nguyễn Du đã dùng 1 cốt truyện tầm thường Đoạn Trường Tân Thanh của Thanh Tâm Tài Nhân và viết lại bằng tiếng nôm trong thể thơ lục bát 3254 câu để làm thơ 1 tác phẩm độc đáo , xuất sắc sống mãi với thời gian, mặc dù lúc đầu khi tác phẩm ra đời và sau đó 1 thời gian dài mọi người không đánh giá đúng giá trị vĩ đại của tuyệt tác này .
Mở đầu tác phẩm , đại thi hào viết

Trăm năm trong cõi người ta 
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
và khi kết thúc cụ viết
Ngẫm hay muôn sự tại trời, 
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần, 
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Có đâu thiên vị người nào, 
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai, 
Có tài mà cậy chi tài, 
Chữ tài liền với chữ tai một vần. 
Đã mang lấy nghiệp vào thân, 
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa. 
Thiện căn ở tại lòng ta, 
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. 
Lời quê chắp nhặt dông dài, 
Mua vui cũng được một vài trống canh.

Một triết lý sống rất sâu sắc và ý nghĩa , quan trọng và hàm chứa tất cả triết học và tôn giáo . Đọc hết Truyện Kiều chúng ta thấy kiếp người được Nguyễn Du miêu tả đặc sắc, lột tả hết tâm lý nhân vật, trong những mối tương quan của đời sống và xã hội . Kiều đẹp như thế nhưng cả cuộc đời của nàng long đong lận đận và trong cái cuộc đời chìm nổi đó của nàng , nàng đã gặp rất nhiều người , tốt có xấu có và đó là bức tranh tổng thể của xã hội , xã hội của thời Nguyễn Du nhưng vẫn thấp thoáng bóng dáng của thời đại của chúng ta . Nghệ thuật khắc họa nhân vật thì tài tình, còn từ ngữ, điển tích thì xuất sắc  và tuyệt cú nhất là ông đã dùng thể thơ lục bát để viết truyện . Lục bát là thể thơ dễ làm, dễ hiểu dễ đọc và dường như thông dụng nhất trong tất cả các thể thơ của Việt Nam , nhưng làm thơ lục bát không dễ vì rất dễ biến thành vè cũng như dễ dễ bị ép từ , ép vận, khiên cưỡng đọc lên ngô nghê , hời hợt . Nhưng 3254 câu thơ sáu tám của truyện Kiều đọc lên mới thánh thót mới tuyệt mỹ làm sao , phải nói là đỉnh cao của nghệ thuật thi ca dùng thể thơ lục bát . Các điển tích được sử dụng nhuần nhuyễn, tinh tế , nhân vật sâu sắc còn ý tứ thì tế nhị , sâu xa . Ý tại ngôn ngoại , từng câu từng chữ từng từ , từng vận ,uyển chuyển, sinh động, linh động và thấm đượm tình người cũng như là tâm huyết của tác giả . Kể chuyện bằng văn chương đã khó mà kể chuyện bằng thơ càng khó khắn gấp bội vì sự hạn chế, giới hạn của khuôn thước của thi ca nhưng Thanh Hiên Tiên Điền Nguyễn Du đã vượt qua tất cả những trở ngại đó và để lại 1 áng thi ca trác tuyệt mà muôn đời sau hậu thế cũng khó có ai sánh bằng . Kiếp người trong thi ca của Nguyễn Du của Kiều được khắc họa rất thực và rất độc đáo , 1 hiện thực mà ngày nay ở vào thế kỷ 21, thiên niên kỷ thứ ba với nhiều thách thức chưa từng có, chúng ta đọc lại thấy rùng mình vì sự hiểu biết, cảm thông sâu xa của đại thi hào với nhân vật và đời sống . Kiều là 1 mỹ nhân nhưng cả cuộc đời nàng chỉ gặp toàn những gian truân , trắc trở , vì đâu ? Vì nàng hy sinh cho cha, cho gia đình và nàng rơi vào những cạm bẫy của cuộc đời ác nghiệt . Dường như chúng ta vẫn đang gặp ngàn vạn nàng Kiều trong cuộc đời của chúng ta hôm nay . Nhưng Nguyễn Du không chỉ viết cho riêng 1 nàng Kiều, 1 mỹ nhân mà có lẽ ông ẩn dụ nói về , viết về tất cả nhân loại của chúng ta , những người yêu chân thiện mỹ, những người phải chịu những thân phận mà chúng ta đôi khi thấy vô lý . Nguyễn Du khuyên chúng ta " Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài " Quả là 1 lời khuyên chí lý và sâu xa tột bực nhưng mấy ai hiểu thấu thâm ý của nhà thơ . Kiều là 1 câu chuyện độc đáo vì nó như là 1 tấm gương soi thần diệu, khi chúng ta đọc chúng ta soi mình vào nó chúng ta thấy chính khuôn mặt của chúng ta . Con người của chúng ta như thế nào thì mức độ đồng cảm với Kiều sẽ đến mức độ đó. Điều đó giải thích vì sao chúng ta có bói kiều , chúng ta có vịnh Kiều, lẩy Kiều , vì sao có người mê Kiều nhưng có người chê bai Kiều và thậm chí cho là tầm thường 1 tác phẩm . Từng câu chữ của tác phẩm là 1 thế giới của sự thách thức với độc giả , từng nhân vật là 1 vũ trụ thách đố sự khám phá của người đọc .
Hãy đọc lại 1 đoạn ( Tú Bà dạy Kiều) mà nhiều người đã cho Kiều là 1 " dâm thư"
Này con thuộc lấy nằm lòng 
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề 
Chơi cho liễu chán hoa chê 
Cho lăn lóc đá cho mê mẫn đời...
Khi khóe hạnh, lúc nét ngài
Khi ngâm ngợi nguyệt,khi cười cợt hoa
Đều là nghệ – nghiệp trong nhà
Đủ ngần ấy nết mới là làng chơi

Theo truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc): Tú bà hỏi Kiều:
- Tiếp khách thế nào mới lưu được khách?.
Kiều trả lời:
- Ngủ với ngươì ta chớ gì?;
Tú bà giẫy nẫy:
- Con này mới ngu làm sao ! Nếu con gái nhà thổ cũng như con gái nhà lương gia thì ai buồn chơi. Nghề chơi ở trong còn lắm điều hay, khi khách lên giường, thì mày nhường khách nằm trong, mày nằm ngoài, ngoảnh mặt lại chầu khách; tay khách tất sờ vào mình mày, mày phải sờ hạ thể khách..
Bảy chữ vành ngoài là:
1. Khốc: khóc lóc giả bộ thương yêu, khách quyến luyến không rời được
2. Tiễn: cắt tóc mày và tóc khách, se vào nhau; mỗi người buộc vào cánh tay như thề nguyện kết tóc se tợ
3. Thích : khi đã thỏa thê tình dục rồi, lấy kim chích tên của khách lên cánh tay hay đùi mày, lấy mực xoa vào. Khách sẽ trút hết tiền vì nghĩ rằng mày đã chết mê chết mệt nó, mới xăm tên nó lên thân thể mày như vậy. Khách sau đến, trông thấy ắt phải nghĩ rằng: không biết người đi trước đãi mày thế nào mà mày yêu đến thế. Tất nhiên sau đó sẽ hậu đãi mày để được lòng mày, yêu hơn người trước. Nhân thể phải biết chau mày, nói: khách đi trước đã tiêu phí không biết bao nhiêu tiền mới được lạc thú tuyệt đỉnh, do đó mới xăm tên, nay muốn được thích thú hơn, tất nhiên phải quăng tiền cho mày.
4. Thiêu: là khổ nhục kế, hai đứa đều chích máu trong người ra để thề, phỏng gặp thằng ngu, mày cùng nó đốt huơng thề, như thế thì nó táng gia bại sản cũng đáng đời.
5. Giá: dùng mẹo để lừa, cứ như mong được làm vợ, suốt ngày chỉ nói chuyện mơ ươc về nhà chồng và các điều thề thốt. Hễ nó đã mê, tự nhiên bỏ của ra; tiền đã hết rồi, nó muốn cưới, mày giả đau không dậy, thế thì chẳng phải đợi mày đuổi, nó tự động cũng cút xéo.
6. Tẩu: khách chơi đã hết của, mày phải đuổi nó ra khỏi cửa. Nếu nó vẫn đeo, thì vờ hẹn nó đến một nơi nào đó, rồi nắm áo lại, dọa sẽ tri hô lên cho quan đến bắt kẻ lưu manh có ý cưỡng bức mày. Tự khắc nó phải bỏ mày.
7. Tử: dẫu biết nó có vợ có hầu, mày vẫn thế thốt sống chết nếu không được sống chung thì tự vẫn; vậy nó có tiêu pha hết của cho mày thì cũng phải.
Bảy chữ mới chỉ là mánh khóe bên ngoài để dụ dỗ khách.
Còn khi hành lạc, thì vành trong phải đủ tám nghề:
1. Với khách có hạ thân nhỏ thì dùng phép “đánh trống giục hoa” (kích cổ thôi hoa).
2. Với khách có hạ thân lớn thì dùng phép “sen vàng khóa xiết” (kim liên song tỏa).
3. Nếu khách hối hả, lụp chụp thì dùng phép “mở cờ đánh trống” (đại chiến kỳ cổ)
4. Nếu khách khoan thai thìdùng phép “đánh chậm gõ sẽ” (mạn đả khinh sao)
5. Với người mới ” vỡ lòng “thì dùng phép “ba bậc đổi thế” (khẩn thuyên tam trật).
6. Gặp khách sành sỏi thì dùng phép “tỏa tâm truy hồn“
7. Gặp khách tay ngang tì dùng phép “tả chi hữu chì“
8. Đối với khách đam mê nhan sắc thì dùng phép “dềnh dàng hớp vía” (nhiếp thần phiến tỏa).

Thực sự ra nếu chúng ta nhìn 1 khía cạnh đạo đức bình thường thì có vẻ hơi quá đáng , thô thiển nhưng nếu nhìn 1 khía cạnh khác của đời sống thì Kiều đã sa chân vào thế giới của lầu xanh cho nên nàng phải chịu mà thôi .
Nói tóm lại , đọc lại Truyện Kiều dù cả ngàn lần chúng ta vần cảm thấy mới vì vẫn khám phá thêm những điều thú vị , tâm đắc và dường như ẩn hiện thấp thoáng trong đời sống chúng ta hôm nay . Từng nhân vật, từng câu chữ, từng ý tứ , từng ẩn dụ từng ý tại ngôn ngoại đều chan chứa tình người và sự thông cảm , am hiểu kiếp người cũng như hệ lụy và phiền toái của kiếp nhân sinh . Nguyễn Du vĩ đại ở chỗ đó, truyện Kiều vĩ đại ở chỗ đó . Truyện Kiều là 1 tấm gương soi thần kỳ mà khi chúng ta soi vào ta thấy chính ta .
trần minh hiền , orlando ngày 10 tháng 3 năm 2012

*****
Quý vị có thể đọc trọn Kiều ở trang sau http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/kieu/
Truyện Kiều: 5 kỷ lục thế giới và 7 kỷ lục Việt Nam - 


Hơn 200 năm trước, khi cụ Tố Như hoàn thành Truyện Kiều với 3.254 câu thơ chắc chắn cụ đã rất tâm đắc với tác phẩm này. Thế nhưng, có lẽ cụ không bao giờ nghĩ rằng đám hậu bối lại bày ra "đủ thứ chuyện" chung quanh tác phẩm của cụ. Nào là tập Kiều, bói Kiều, lẩy Kiều, bình Kiều, vịnh Kiều, đố Kiều, viết tiếp Truyện Kiều, Truyện Kiều đọc ngược, giai thoại Truyện Kiều... và cả Những kỷ lục của Truyện Kiều do Phạm Đan Quế nêu ra.

Nếu trong phần kỷ lục thế giới 1 (xem số báo trước) Phạm Đan Quế đã chứng minh một cách rõ nét sức thu hút mạnh mẽ của Truyện Kiều đối với các văn nhân thi sĩ qua bao thế kỷ bằng hiện tượng tập Kiều, thì những kỷ lục được giới thiệu trong phần cuối này sẽ một lần nữa cho thấy những giá trị và ảnh hưởng của tác phẩm Truyện Kiều đối với nền văn học và văn hóa Việt Nam.

Kỷ lục thế giới

Kỷ lục thế giới 2: Tác phẩm có nhiều bản dịch (10 bản) ra cùng một ngoại ngữ (tiếng Pháp) với nhiều thể loại khác nhau.

Trên thế giới, hiếm có trường hợp một tác phẩm được nhiều người dịch ra cùng một thứ tiếng như Truyện Kiều với 10 bản dịch tiếng Pháp khác nhau, gồm các thể loại văn xuôi, thơ - thơ tự do hoặc thơ 12 chữ (En alexandrins): 1) Bản Abel des Michels (2 tập-Paris 1884-1885, Ernest Leroux). 2) Bản Thu Giang (Paris 1915, Challamel): Bản này hiện Phạm Đan Quế chưa tìm được, chỉ căn cứ theo phần "Danh mục" trong cuốn Tập Văn họa kỷ niệm Nguyễn Du (Hội Quảng Trị - Huế, 1942) do Đào Duy Anh chủ trương. 3) Bản René Crayssac (Kim Vân Kiều - bài thơ An Nam nổi tiếng của Nguyễn Du do René Crayssac dịch sang thơ Pháp - NXB Lê Văn Tân 1926) dịch hơn 100 trang thơ Kiều thành 384 trang thơ tiếng Pháp 12 chữ. 4) Bản L.Masse ("Kim, Ven, Kièou" do L.Masse dịch từ tiếng An Nam, NXB Bossard, 140 Paris, 1926). Đây chỉ là bản lược dịch thành văn xuôi (không theo sát nguyên văn) với 140 trang sách. 5) Bản M.R: Kim Vân Kiều, bản dịch sang tiếng Pháp mới, 2 NXB Hà Nội - NXB Alexandre de Rhodes 1944: Không rõ lần xuất bản thứ nhất vào năm nào, bìa sách in lần hai không ghi tên người dịch mà chỉ ghi cuối phần lời nói đầu: M.R. Trong "Danh mục" sách của Tập Văn họa kỷ niệm Nguyễn Du (1942) không đề cập đến bản dịch này. 6) Bản Nguyễn Văn Vĩnh: Kim Vân Kiều - do Nguyễn Văn Vĩnh dịch sang tiếng Pháp, NXB Alexandre de Rhodes ấn hành các năm 1942 (tập I), 1943 (tập II): Đây là bản dịch được đầu tư công sức và thời gian nhiều nhất (gần 30 năm, từ 1908 đến 1936 - với 3 lần dịch). Bảy năm sau khi Nguyễn Văn Vĩnh mất, bản dịch cuối cùng của ông mới được xuất bản, được đánh giá là bản dịch văn xuôi tỉ mỉ và tinh tế nhất. Bởi giá trị như thế nên bản dịch này còn được tái bản 4 lần nữa (Vĩnh Bảo 1951, Khai Trí 1970, NXB Văn học 1994 và NXB Văn nghệ TP.HCM 2002). 7) Bản Nguyễn Khắc Viện: Nguyễn Du - Kiều, NXB Văn học 1970, NXB Ngoại văn Hà Nội tái bản 1974... Từ năm 1979 sách được in lại nhiều lần bằng song ngữ Việt-Pháp (thể thơ tự do). 8) Bản Xuân Phúc - Xuân Việt: Kim Vân Kiêu, Xuân Phúc và Xuân Việt dịch từ tiếng Việt sang tiếng Pháp gồm 192 trang do Gallimart xuất bản trong tủ sách Connaissances de l'Orient, Paris 1961. Đây là bản dịch theo thể văn xuôi. 9) Bản Lê Cao Phan: Truyện Kiều - Histoire de Kiều, dịch từ tiếng Việt sang thể thơ 12 chữ với phần chú và bình của Lê Cao Phan. NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1994. Ưu điểm lớn của bản dịch này là dịch giả đã bỏ ra nhiều công sức để dịch mỗi câu thơ tiếng Việt ra một câu thơ tiếng Pháp (đồng thời ông còn thực hiện một bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh). 10) Bản Lưu Hòa: (thơ tự do) - NXB Hà Nội 1999. Bản này dùng văn bản Truyện Kiều và chú thích của bản Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim (NXB Tân Việt).

Kỷ lục thế giới 3: Tác phẩm có 7 cuốn "hậu"


Ở đây là "hậu Truyện Kiều". Xin lược sơ: Đào Hoa Mộng Ký 1) của tác giả Mộng Liên Đình, với khoảng 3.000 câu thơ lục bát và Đào Hoa Mộng Ký diễn ca (2) chưa rõ bản gốc, ông Phạm văn Phương dịch ra quốc ngữ (Nhà Mạc Đình Tư xuất bản năm 1917) gồm 1.910 câu thơ lục bát. Đây là 2 cuốn hậu Truyện Kiều được viết vào thế kỷ thứ 19, tuy cùng một câu chuyện về giấc mộng hoa đào nhưng nội dung lại khác. 3) Kiều Tân thời (Hài văn) gồm 304 câu lục bát của Bạch Diện (Nhà in Trung Bắc, Hà Nội 1935) mang tính châm biếm hài hước, đả phá các thói xấu của xã hội ở thập kỷ ba mươi của thế kỷ trước. 4) Kiều-Bình dân học vụ (2.050 câu lục bát, tác giả Nguyễn Văn Trinh, Sở Giáo dục Hà Nội 1985) nhằm phục vụ cho phong trào xóa nạn mù chữ. 5) Đoạn Trường Vô Thanh gồm 3.296 câu lục bát (Truyện Kiều dài 3.254 câu) của  Phạm Thiên Thư là cuốn hậu Truyện Kiều đúng nghĩa và thành công hơn cả, tác phẩm này đã được trao giải nhất văn chương tại miền Nam năm 1973. 6) Đoạn Trường Nhất Thanh với 1.028 câu lục bát của Trần Thanh Vân (NXB Kiên Giang): Từ Hải xây dựng triều đình riêng, Kiều là hoàng hậu. Kim Trọng thi đỗ Trạng võ, được triều đình nhà Minh cử đi đánh dẹp Từ Hải... 7) Truyện Kiều đọc ngược gồm toàn bộ 3.254 câu Kiều xếp dần ngược lại do Phạm Đan Quế thực hiện (NXB Thanh Niên 2002).
Kỷ lục thế giới thứ 4: Cuốn sách duy nhất trên thế giới có thể đọc ngược từ cuối đến đầu để câu chuyện về nàng Kiều diễn ra theo chiều thời gian ngược lại, như đang xem một cuốn phim tua ngược chiều (đúng với nội dung trong tác phẩm của Nguyễn Du).

Kỷ lục thế giới 5: Tác phẩm tạo ra quanh nó một loạt những nhiều loại hình văn hóa nhất: bình Kiều, vịnh Kiều, bói Kiều, tập Kiều, đố Kiều, câu đối Kiều, hát nói tập Kiều, phú-văn tế Kiều, án Kim Vân Kiều, những cuốn hậu Truyện Kiều, giai thoại về Truyện Kiều… Kiều trên điện ảnh, sân khấu, trong âm nhạc, hội họa…

Và kỷ lục Việt Nam:

1) Truyện Kiều là một tác phẩm văn học đã đưa nhà thơ Nguyễn Du lên hàng danh nhân văn hóa thế giới (do Unesco công nhận).
2) Là cuốn sách duy nhất không viết ra để... bói nhưng người dân vẫn thường xuyên dùng để bói.
3) Cuốn sách có hiện tượng vịnh Kiều với hàng ngàn bài thơ vịnh Kiều đã từng được đăng báo hoặc in sách. Từ các vị vua say mê Truyện Kiều như Minh Mạng, Tự Đức đến các nhà Nho như Phạm Quý Thích, Hà Tôn Quyền, Nguyễn Công Trứ, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, Tản Đà...
4) Bộ phim đầu tiên của Việt Nam ra đời năm 1924 tại Hà Nội với cốt truyện và tựa đề Kim Vân Kiều (phim câm).
5) Thi phẩm có sách viết về nó nhiều nhất Việt Nam với hàng trăm cuốn.
6) Cuốn sách tạo ra nhiều giai thoại nhất Việt Nam vượt qua con số hàng trăm. Chỉ trong cuốn Kho tàng giai thoại Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh (NXB Văn Hóa 1994), đã có tới 53 giai thoại về Truyện Kiều và trong cuốn Đố vui tìm hiểu Truyện Kiều của Nguyễn Thiện Văn (NXB Thanh Niên 2000) đã có 101 câu đố (và đáp án).
7) Cuốn sách nặng nhất Việt Nam (tính đến thời điểm hiện nay) có lẽ là Truyện Kiều độc bản do nhà thư pháp Nguyệt Đình viết chữ quốc ngữ trên 300 trang giấy cossin 120 khổ 1m x 1,6m. Sách nặng 50 kg. Cuốn sách này hiện đặt tại Khu di tích Nguyễn Du (xã Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh).

***
Truyện Kiều
Đoạn trường tân thanh.png

Bản Đoạn trường tân thanh in năm 1902 và Kim Vân Kiều tân tập khắc in năm 1906.
Truyện Kiều là tên gọi phổ biến của tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh của đại thi hào Nguyễn Du. Tác phẩm này đã đưa Nguyễn Du lên hàng danh nhân văn hoá thế giới. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, truyện được viết ra sau khi ông đi sứ nhà Thanh về và theo lời truyền thì Phạm Quý Thích đã cho khắc in vào khoảng từ năm 1820 đến năm 1825, thường được gọi là "bản Kinh". Bản khắc in đó nay không còn nữa nhưng còn lưu lại những phiên bản di dịch ít nhiều. Ngoài "bản Kinh" do Phạm Quý Thích cho khắc in, một số dị bản nữa được in sau đó ở Hà Nội do các nhà in phát hành, thường gọi là "bản Phường".



Nguyên bản tác phẩm Truyện Kiều được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Hiện nay, ở Việt Nam lưu truyền một số dị bản của tác phẩm này. Bản nôm cổ nhất còn lưu giữ là bản "Liễu Văn Đường" khắc in năm Tự Đức thứ 19 (1866), mới phát hiện ở tỉnh Nghệ An [1][2].
Truyện Kiều là tiểu thuyết viết bằng thơ lục bát. Truyện phản ánh xã hội đương thời thông qua cuộc đời của nhân vật chính Vương Thuý Kiều. Xuyên suốt tác phẩm là chữ "tâm" theo như Nguyễn Du đã tâm niệm "Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu" (nghĩa là "Linh Sơn chỉ ở lòng người thôi"). Ngày nay, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm văn học Việt Nam được giới thiệu rộng rãi nhất đến với các du khách cũng như các nhà nghiên cứu nước ngoài.
Truyện Kiều đã từng được in ngược bởi Nhà xuất bản Thanh Niên để có thể đọc mạch truyện ngược chiều thời gian từ "tái hồi Kim Trọng" trở về đoạn mở đầu truyện lúc hai người còn chưa biết nhau.
Truyện Kiều cũng là tác phẩm được viết và đóng thành quyển sách nặng nhất ở Việt Nam do nhà thư pháp Nguyệt Đình thực hiện. Truyện nặng 50 kg, làm trên trên khổ giấy 1 m × 1,6 m và hiện được trưng bày tại Khu di tích Nguyễn Du huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Hoàn cảnh ra đời

Theo Giáo sư Nguyễn Lộc ("Từ điển Văn học" tập II - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1984) trang 455 viết: "Đoạn trường tân thanh là một truyện thơ Nôm viết bằng thể lục bát, dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-1820). Có thuyết nói Nguyễn Du viết trước khi đi sứ, có thể vào thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau này được nhiều người chấp nhận"
Nội dung chính


Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái "sắc nước hương trời" và có tài "cầm kỳ thi họa".
Theo kịch tính của tác phẩm, có thể chia truyện thành những phần nhỏ như sau:
Nhận định chung của Nguyễn Du
Nguyễn Du đem thuyết "tài mệnh tương đố" (tài và mệnh ghét nhau) làm luận đề cuốn truyện.
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
...
Tả hai chị em
Vào khoảng thời vua Minh Thế Tông (1522-1566), trong một gia đình viên ngoại họ Vương có 3 người con, con cả là Vương Thuý Kiều, sau là Thuý Vân và Vương Quan là cậu út. Hai chị em Thúy Kiều và Thuý Vân thì "mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười", nhưng "so bề tài, sắc" thì Thúy Kiều lại hơn hẳn cô em.
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
..
Kiều thăm mộ Đạm Tiên
Trong một lần đi tảo mộ vào tiết Thanh minh, khi đi qua mộ Đạm Tiên, một "nấm đất bên đàng", Kiều đã khóc thương và không khỏi cảm thấy ái ngại cho một "kiếp hồng nhan" "nổi danh tài sắc một thì" mà giờ đây "hương khói vắng tanh". Vốn là một con người giàu tình cảm và tinh tế nên Kiều cũng đã liên cảm tới thân phận của mình và của những người phụ nữ nói chung:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Kiều gặp Kim Trọng
Cũng trong ngày hôm đó, Kiều đã gặp Kim Trọng, là một người "vốn nhà trâm anh", "đồng thân" với Vương Quan, từ lâu đã "trộm nhớ thầm yêu" nàng. Bên cạnh đó thì Kim Trọng cũng là người "vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa". Tuy chưa kịp nói với nhau một lời nhưng sau cuộc gặp gỡ này thì "tình trong như đã, mặt ngoài còn e". Tiếp sau lần gặp gỡ ấy là mối tương tư:
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không
Kim Trọng vì tương tư Kiều nên đã quên hết cả thú vui hàng ngày, tìm cách chuyển đến ở gần nhà Kiều. Sau đó mấy tuần trăng thì Kim Kiều đã gặp nhau, Kiều đã nhận lời Kim Trọng và họ đã trao đổi món kỷ vật cho nhau. Nhiều lần Kim Trọng cũng muốn "vượt rào" nhưng Thuý Kiều là một người sắc sảo, cô đã thuyết phục được Kim Trọng:
Vội chi liễu ép hoa nài,
Còn thân ắt lại đền bồi có khi!
Thấy lời đoan chính dễ nghe,
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân
Kiều bán mình chuộc cha
Tai họa đã đột ngột ập đến Vương gia trong lúc người thiếu nữ còn đang thổn thức với mối tình đầu. Trong hoàn cảnh bi đát như vậy, Kiều đành phải đi đến quyết định bán mình để chuộc cha, nhưng nàng không quên lời hẹn ước "trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai" với Kim Trọng trước khi chàng về Liêu Dương để chịu tang chú. Thuý Kiều đã nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả lời hẹn ước với Kim Trọng:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Trao duyên cho em xong, nàng cảm thấy xót thương cho thân phận của chính mình:
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Do đau thương quá nên Thuý Kiều đã ngất đi trên tay người thân.
Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh và Tú bà Mã Giám Sinh vốn là "một đứa phong tình đã quen" cùng với Tú bà mở hàng "buôn phấn bán hương", chuyên đi mua gái ở các chốn về "lầu xanh". Thấy Thuý Kiều như là một món hàng ngon, nhất quyết mua về, lấy tiếng là làm vợ nhưng sau khi "con ong đã tỏ đường đi lối về", Thuý Kiều đã bị Tú bà bắt phải tiếp khách. Nàng nhất quyết không chịu, tự vẫn bằng dao nhưng không chết. Tú bà đành nhượng bộ cho nàng ra ở lầu Ngưng Bích. Ở nơi này, nỗi nhớ người thân luôn luôn ấp ủ trong lòng đặc biệt là nỗi nhớ mối tình của nàng với Kim Trọng:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
và nỗi nhớ thương cha mẹ của Kiều:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Và nỗi buồn của người thiếu nữ được thể hiện qua những câu thơ chất chứa đầy cảm xúc:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Kiều mắc lừa Sở Khanh
Sống một mình giữa không gian mênh mông xa vắng đó nên khi gặp Sở Khanh, một gã có "hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng" và cũng khá "văn vẻ", cô như người đang sắp chết đuối vớ được cọc mà không còn bình tĩnh nhận ra lời lường gạt sáo rỗng của Sở Khanh.
Than ôi! sắc nước hương trời,
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?
Kiều vội vàng tin Sở Khanh và cùng Sở Khanh trốn thoát khỏi lầu Ngưng Bích. Cô nào ngờ mình đã rơi vào lưới do Tú bà giăng sẵn để giữ cô lại vĩnh viễn ở lầu xanh. Chưa kịp cao chạy xa bay thì Tú bà đến và lúc này nàng mới rõ bản chất con người Sở Khanh:
Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,
Một tay chôn biết mấy cành phù dung!
Đến lúc này, nàng đành phải chịu quy phục, mặc cho thể xác "đến phong trần, cũng phong trần như ai" và cảm thấy xót xa cho chính bản thân mình:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Kiều gặp Thúc Sinh
Thúc Sinh tuy đã có vợ là Hoạn Thư nhưng cũng là người "mộ tiếng Kiều nhi" từ lâu. Thúc Sinh trong tác phẩm này có lẽ là có diễn biến tình cảm, tâm tư mang tính của con người trong "đời thường" nhất, chứ không cách điệu nhiều như những nhân vật khác trong tác phẩm. Thế giới của Thúc Sinh là thế giới của đam mê và là sứ giả phong lưu của tình dục. Chưa có một "đấng nam nhi" nào trong truyện Kiều có cách nhìn nâng tấm thân của Kiều lên tầm thẩm mỹ như Thúc Sinh
Rõ màu trong ngọc trắng ngà!
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Do vậy Kiều đã ham sống và tự tin hơn về tương lai số phận của mình. Hai người vui vẻ bên nhau "ý hợp tâm đầu".
Khi hương sớm khi trà trưa,
Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn.
Thúc Sinh đã chuộc Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh. Tuy nhiên, vì là gái lầu xanh Kiều đã không được Thúc Ông (bố của Thúc Sinh) thừa nhận. Thúc Ông đã đưa Kiều lên quan xét xử:
Phong lôi nổi trận bời bời,
Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.
Quyết ngay biện bạch một bề,
Dạy cho má phấn lại về lầu xanh!
Kiều cam tâm chịu kiếp lẽ mọn để được hưởng hạnh phúc yên bình của gia đình, tuy không được trọn vẹn với Thúc Sinh. Không chịu quay về lầu xanh nên lại thêm một lần nữa Kiều gặp cảnh khốn khổ:
Dạy rằng: Cứ phép gia hình!
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.
Phận đành chi dám kêu oan,
Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.
Một sân lầm cát đã đầy,
Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương.
Thấy Thúc Sinh đau khổ khi thấy Kiều vì mình mà gặp nạn, quan kia đã cho Kiều làm một bài thơ bày tỏ nỗi niềm. Đọc thơ của Kiều, vị quan khen ngợi rồi khuyên Thúc Ông nên rộng lượng chấp nhận Kiều lại cho đồ sính lễ cưới xin. Nhờ thế Kiều thoát kiếp thanh lâu nhưng chưa được bao lâu thì nàng lại mắc vạ với Hoạn Thư, vợ chính của Thúc Sinh.
Kiều và Hoạn Thư
Khi biết chuyện, cha mẹ Thúc Sinh nổi giận đòi trả Kiều trở về chốn cũ, nhưng khi biết Thuý Kiều tài sắc vẹn toàn, có tài làm thơ, bố của Thúc Sinh đã phải thốt lên:
Thương vì hạnh trọng vì tài
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba
Kiều đã ở cùng Thúc Sinh suốt 1 năm ròng và vẫn luôn khuyên Thúc Sinh về thăm vợ cả Hoạn Thư, họ vẫn chưa có con chung sau nhiều năm sống cùng nhau. Sau chuyến đi thăm và quay trở lại gặp Kiều, Thúc Sinh không ngờ rằng Hoạn Thư đã sai gia nhân đi tắt đường biển để bắt Thuý Kiều về tra hỏi. Thuý Kiều bị tưới thuốc mê bắt mang đi, còn mọi người trong nhà lúc đó cứ ngỡ cô bị chết cháy sau trận hỏa hoạn. Kiều trở thành thị tì nhà Hoạn Thư với cái tên là Hoa Nô. Lúc Thúc Sinh về nhà, nhìn thấy Thuý Kiều bị bắt ra chào mình, "phách lạc hồn xiêu", chàng nhận ra rằng mình mắc lừa của vợ cả. Hoạn Thư đã bắt Kiều phải hầu hạ, đánh đàn cho bữa tiệc của hai vợ chồng. Đánh đàn mà tâm trạng của Kiều đau đớn:
Bốn dây như khóc như than
Khiến người trong tiệc cũng tan nát lòng
Cũng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
Thế rồi, do thấy Kiều khóc nhiều, Hoạn Thư bảo Thúc Sinh tra khảo vì lý do gì. Thuý Kiều viết tờ khai nói rằng vì cha bị oan khiên, phải bán mình và bị lừa vào lầu xanh, sau đó có người chuộc ra làm vợ, rồi chồng đi vắng, nàng bị bắt đưa vào cửa nhà quan... rất tủi nhục, bây giờ chỉ mong được vào chùa tu cho thoát nợ trần. Đọc tờ khai xong, Hoạn Thư đồng ý cho Hoa Nô vào Quan Âm các sau vườn để chép kinh. Thực ra, Hoạn Thư đánh Kiều rất nhiều, Nguyễn Du miêu tả về "đòn ghen" của Hoạn Thư là "nhẹ như bấc, nặng như chì". Hoạn Thư đã ứng xử theo thường tình hiện hữu của dân gian, là "chút dạ đàn bà, ghen tuông thì cũng người ta thường tình!", "Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai". Hoạn Thư khéo léo phá vỡ dây tơ giữa Kiều và Thúc Sinh, làm Kiều ra đi một cách tự nguyện. Kiều trốn khỏi Quan Âm các và đã gặp Sư trưởng Giác Duyên (duyên giác ngộ?). Bà đã cho Kiều sang ở tạm nhà Bạc Bà, một Phật tử thường hay lui tới chùa. "Ai ngờ Bạc Bà cùng với Tú Bà đồng môn", Bạc Bà đã khuyên Kiều lấy cháu mình là Bạc Hạnh. Qua tay Bạc Hạnh, một lần nữa Kiều lại bị bán vào lầu xanh.
Kiều gặp Từ Hải
Ở lầu xanh, Kiều "ngậm đắng nuốt cay" sống cuộc sống ô nhục. Một ngày đẹp trời, có một người khách ghé qua chơi, đó là Từ Hải, một anh hùng lừng danh thời đó: "Râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", tài năng phi thường "đường đường một đấng anh hào, côn quyền hơn sức lược thao gồm tài". Hai bên đã phải lòng nhau "Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa" và Từ Hải chuộc Kiều về chốn lầu riêng. Sống với nhau được nửa năm, Từ Hải lại "động lòng bốn phương", muốn ra nơi biên thuỳ chinh chiến. Thuý Kiều muốn xin đi cùng nhưng Từ Hải không cho đi:
Nàng rằng:"phận gái chữ tòng"
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi"
Từ rằng:"tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình..."
Trong lúc Từ Hải đi chinh chiến, nàng ở nhà nhớ tới bố mẹ chắc đã "da mồi tóc sương", còn em Thuý Vân chắc đang "tay bồng tay mang" vui duyên với Kim Trọng. Từ Hải sau đó đã chiến thắng trở về, mang binh tướng tới đón Kiều làm lễ vu quy.
Kiều báo ân trả oán
Lúc vui mừng cũng là lúc Thuý Kiều nghĩ đến những ngày "hàn vi", nàng kể hết mọi chuyện cho Từ Hải và muốn có sự "ân đền oán trả". Những Bạc Bà, Bạc Hạnh, Sở Khanh,... đều bị chịu gia hình, còn những vị sư đã giúp đỡ Kiều trong cơn hoạn nạn đều được thưởng. Riêng Hoạn Thư nhờ khéo nói "Rằng tôi chút phận đàn bà. Ghen tuông thì cũng người ta thường tình" nên được tha. Sau đó Kiều có gặp sư Giác Duyên, được bà báo rằng 5 năm nữa hai người sẽ gặp nhau vì Kiều còn phải trải qua nhiều lận đận ko
Kiều tự vẫn
Hồ Tôn Hiến bấy giờ là một quan tổng đốc của triều đình, mang nhiệm vụ đến khuyên giải Từ Hải đầu hàng và quy phục triều đình. Hồ Tôn Hiến đã bày mưu mua chuộc Thuý Kiều, đánh vào ham muốn có một cuộc sống "an bình" của phụ nữ, nàng đã thật dạ tin người và xiêu lòng nghe theo lời Hồ Tôn Hiến về thuyết phục Từ Hải ra hàng:
Trên vì nước dưới vì nhà,
Một là đắc hiếu hai là đắc trung.
Từ Hải đã phân vân:
Một tay gây dựng cơ đồ
Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành
Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau
Vào luồng ra cúi công hầu mà chi
Sao bằng riêng một biên thùy
Sức này đã dễ làm gì được nhau
Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai
Sau đó, Hồ Tôn Hiến đã thừa cơ bao vây, nhìn thấy Từ Hải, Thuý Kiều định lao tới để tự vẫn nhưng chàng bị mắc mưu và đã "chết đứng giữa đàng". Thuý Kiều cảm thấy hối tiếc và dằn vặt bản thân:
Mặt nào trông thấy nhau đây?
Thà liều sống thác một ngày với nhau!
Hồ Tôn Hiến đang đà thắng đã ép Kiều phải "thị yến dưới màn", Thuý Kiều đã khóc thương và xin được mang Từ Hải đi chôn cất. Hồ Tôn Hiến đã chấp nhận cho "cảo táng di hình bên sông". Biết nàng giỏi đàn, Hồ Tôn Hiến bắt nàng phải chơi, Kiều đã thể hiện nỗi lòng mình qua tiếng đàn:
Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Sáng hôm sau, để tránh lời đàm tiếu về mình, Hồ Tôn Hiến đã gán ngay Kiều cho người Thổ quan. Trên con thuyền, Kiều nhớ tới lời của Đạm Tiên xưa đã nói với mình trong mộng "Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau", nàng đã quyết định nhảy xuống sông tự vẫn.
Kim Trọng đi tìm Kiều
Về phần Kim Trọng, sau khi hộ tang chú xong, quay trở lại thì biết tin gia đình Kiều gặp nạn, Kiều đã bán mình chuộc cha. Kim Trọng đau xót:
Vật mình, vẫy gió, tuôn mưa
Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai
Đau đòi đoạn, ngất đòi thôi
Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê
Mọi người trong nhà khuyên can hết lẽ, chàng nghe theo lời dặn của Kiều và đón cha mẹ Kiều cùng Thuý Vân sang nhà chăm lo phụng dưỡng, đồng thời vẫn đưa tin tìm kiếm nàng khắp nơi. Tuy "sâu duyên mới" nhưng chàng lại "càng dào tình xưa". Vương Quan và Kim Trọng sau đó đều đỗ đạt và làm quan. Sau nhiều ngày tháng tìm kiếm thì hai người mới dò la được thông tin của Thuý Kiều là đã trầm mình dưới sông Tiền Đường. Ra đến sông, mọi người gặp sư Giác Duyên ở đó, được biết là Thuý Kiều đã được bà cứu mang về cưu mang. Sau đó, mọi người được dẫn về gặp lại nàng Kiều, "mừng mừng tủi tủi".
Đoàn tụ
Sau mười lăm năm lưu lạc, Thuý Kiều đã trở về đoàn viên với gia đình. Nhưng nàng chính là người sợ việc đoàn viên hơn ai cả. Trong việc tái ngộ này, Thuý Vân chính là người đầu tiên đã lên tiếng vun vào cho chị. Nhưng trong đêm gặp lại ấy, Thuý Kiều đã tâm sự với Kim Trọng:
Thân tàn gạn đục khơi trong
Là nhờ quân tử khác lòng người ta
Nàng ghi nhận tấm lòng của Kim Trọng nhưng tự thấy mình không còn xứng đáng với chàng nữa.Tuy rằng ngoài mặt hai người đã đồng ý nhưng hai người đã thầm nói sẽ trở thành bạn "chẳng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thơ".
Nguyễn Du đã gửi gắm toàn bộ thế giới quan của mình về xã hội phong kiến lúc đó qua các câu thơ nhận xét về cuộc đời lưu lạc của Thuý Kiều:
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Hết phần cho biết trước nội dung.
Nhận xét về Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều

Tiên Phong Mộng Liên Đường Chủ Nhân:
... Xem chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy dậy mà căn duyên vẫn gỡ chưa rồi; khúc đàn bạc mệnh gảy xong, mà oán hận vẫn còn chưa hả, thì dẫu đời xa người khuất, không được mục kích tận nơi, nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thắm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột.
Dương Quảng Hàm:
trên từ các bậc văn nhân thi sĩ, dưới đến các kẻ thường dân phụ nhụ, ai cũng thích đọc, thích ngâm và thuộc được ít nhiều...
Ca dao:
Đàn ông chớ kể Phan Trần
Đàn yện Kiều về mặt mỹ thuật rõ là cực tốt, mà ở trong đựng những vật có chất độc... "among their people like Nguyễn Du in Việt Nam. His Tale of Kiều is a classic of Vietnamese literature, but a kind of classic that is well-known to all people without exception."
Tạm dịch là: "Ít nhà thơ trên thế giới có khả năng đạt được tiếng vang sâu đậm trong dân chúng của mình như Nguyễn Du ở Việt Nam. Truyện Kiều của ông là cuốn sách kinh điển của văn chương Việt Nam nhưng là một thứ kinh điển mọi người đều biết, không có ai là ngoại lệ."
Một số dị bản của truyện



Áng văn Nôm Truyện Kiều bản Chiêm Vân Thị dưới tựa Thúy Kiều Truyện tường chú
Tiếng Việt
Bản chữ Nôm
Kim Vân Kiều tân truyện: Kim Ngọc lâu tàng bản, Tự Đức thứ 25 (1872).
Kim Vân Kiều tân truyện: Thịnh Mĩ đường tàng bản, Tự Đức thứ 32 (1879).
Kim Vân Kiều tân truyện: Quan Văn đường tàng bản, Tự Đức thứ 32 (1879).
Kim Vân Kiều tân truyện: Văn Nguyên đường tàng bản, Tự Đức thứ 32 (1879).
Kim Vân Kiều tân truyện: Bảo Hoa các tàng bản, Tự Đức thứ 32 (1879)...
Thúy Kiều Truyện tường chú: Chiêm Vân Thị chú đính, Thành Thái (1905?)
Bản chữ Quốc ngữ cũ
Poème Kim Vân Kiều truyện: do Trương Vĩnh Ký phiên âm, in ở Sài Gòn năm 1875.
Kim Vân Kiều tân truyện: do Abel des Michels phiên âm, chú thích và dịch sang tiếng Pháp có kèm theo bản nôm gồm 3 tập in ở Paris, 1884 - 1885.
Kim Vân Kiều tân truyện: do Edmond Nordemann phiên âm, in ở Hà Nội năm 1897.
Đoạn trường tân thanh: của Kiều Oánh Mậu chú thích, khắc in ở Hà Nội năm 1902.
Kim Vân Kiều tân tập: do nhóm Thời hiền thi tự khắc in năm 1906.
Kim Vân Kiều quảng tập truyện: Liễu Văn Đường tàng bản, (1914).
Kim Vân Kiều tân truyện: Phúc Văn đường tàng bản, (1918).
Kim Vân Kiều tân tập: Thời hiền thi tự, Quảng Thịnh đường tàng bản, (1922).
Kim Vân Kiều: Quan Văn đường tàng bản, (1923)...
Ngoại ngữ
Das Mädchen Kiêu, bản tiếng Đức, in năm 1964.
Kim Vân Kiều, bản tiếng Pháp, Xuân Việt, Xuân Phúc, Paris, 1961.
Kiều, bản tiếng Pháp, Nguyễn Khắc Viện, Hà Nội, 1965.
Histoire de Kieu, bản tiếng Pháp, Lê Cao Phan, Hà Nội, 1994.
Kim och Kieu, bản tiếng Thuỵ Điển, Magnus Hedlund, Claes Hylinger, Lars Lindvall, Stockholm, 1969.
Kim Vân Kiều, bản tiếng Anh, Lê Xuân Thuỷ, Sài Gòn, 1963.
The tale of Kieu, bản tiếng Anh, Huỳnh Sanh Thông, New York, 1973.
Kiều, bản tiếng Anh, Michael Councell, Luân Đôn
Kiều, bản tiếng Tiệp Khắc, Gustav Franck, Praha, 1957
Kim Wen Kieov, bản tiếng Ba Lan, Vacsava, (?).
Kim Vân Kiều, bản tiếng Trung Quốc, Hoàng Dật Cầu, Bắc Kinh, 1959.
Kim Vân Kiều, bản tiếng Nhật, Aoi Komatsu, Tokyo, 1949.
Kim Vân Kiều tân truyện, bản tiếng Nhật, Takeuchi Yonosuke, Tokyo, 1985...
Đánh giá

Truyện Kiều đã nhận được rất nhiều đánh giá khác nhau. Sau đây là một số đánh giá 
"Truyện Thúy Kiều" là một tập văn chương rất hay, diễn được đủ cả nhân tình thế cố, tả được cả mọi cảnh trong đời, mà chỗ nào văn chương cũng tao nhã, lời lẽ cũng lý thú. Nói theo tiếng đời nay thì "Truyện Thúy Kiều" thật là một tập văn chương đại trước tác của nước ta vậy (Trần Trọng Kim)
Ảnh hưởng

Những ảnh hưởng chính
Hàng trăm năm qua, Truyện Kiều vẫn luôn tồn tại trong đời sống của dân tộc Việt. Đây là một trong số ít các tác phẩm lớn được nhiều người dân đủ mọi tầng lớp học thuộc lòng. Đối đáp bằng những ngôn từ, lời lẽ trong truyện Kiều cũng đã trở thành một hình thức sinh hoạt văn hoá của một số cộng đồng người Việt như lẩy Kiều, trò Kiều, vịnh Kiều, tranh Kiều, bói Kiều... Ngày nay, tên một số nhân vật và địa danh trong Truyện Kiều được sử dụng trong đời sống với nghĩa tương tự:
Sở Khanh: chỉ những người đàn ông phụ tình.
Tú Bà: chỉ những người phụ nữ môi giới, bảo kê cho gái mại dâm.
Hoạn Thư: chỉ những người phụ nữ có máu ghen thái quá.
Lầu xanh: nơi chứa gái mại dâm.
Bói Kiều
Bói Kiều là tập tục xem bói bằng Truyện Kiều. Với mỗi trang truyện Kiều được giở ra thì tương ứng với nội dung của trang mà người xem bói sẽ đoán vận mệnh.
Lẩy Kiều
Lẩy Kiều là cách dùng theo âm điệu, cấu trúc của câu thơ Kiều để sửa thành một câu khác cho một tình huống khác. Nhà văn Hoài Thanh từng được "tặng" một bài thơ như sau:
Vị nghệ thuật một nửa đời
Nửa đời lại phải vị người cấp trên
Thi Nhân còn một chút duyên
Chẳng cầm cho vững lại lèn cho đau
Trong ca dao, dân ca cũng có rất nhiều câu lẩy Kiều.



Giá trị hiện thực
Truyện Kiều là bản cáo trạng bằng thơ về một xã hội phong kiến đầy rẫy sự bất công, tàn bạo. Phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời là cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỉ XIX (xã hội đồng tiền, xấu xa đồi bại và những bất công). Phản ánh thân phận thấp hèn của người phụ nữ trong xã hội, cho dù là người phụ nữ có nhan sắc.
Giá trị nhân đạo
Ca ngợi phẩm chất đẹp đẽ và tài sắc của người phụ nữ.
Thông cảm và đồng cảm sâu sắc trước nỗi khổ của con người,đặc biệt là với nỗi khổ của người phụ nữ dưới xã hội phong kiến
Thể hiện khao khát trong tình yêu, hạnh phúc lứa đôi
Ước mơ tự do công bằng trong cuộc sống.

Ngôn ngữ
Bài thơ viết dưới dạng văn học dân gian. Bên cạnh đó Nguyễn Du còn vận dụng linh hoạt thành công các thành ngữ, ca dao, các điển cố điển tích vào trong Truyện Kiều khiến cho bộ truyện Nôm đã trở thành một tập Đại thành ngôn ngữ của văn học dân tộc.
Ngôn ngữ độc thoại được vận dụng tài tình để bộc lộ nội tâm nhân vật
Ngôn ngữ đối thoại thể hiện tinh tế tính cách và hoàn cảnh nhân vật
Tả người
Nhân vật chính diện: Ngòi bút ước lệ, dùng hình ảnh thiên nhiên tả người. Là nhân vật lý tưởng hóa của Nguyễn Du
Nhân vật phản diện: Tả thực, là nhân vật hiện thực hóa của Nguyễn Du
Tả cảnh
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình sinh động, khắc họa rõ nét nội tâm nhân vật.


Điện ảnh
Năm 1923, điện ảnh Việt Nam sản xuất bộ phim truyện đầu tiên quay và phát hành tại Việt Nam, phim Kim Vân Kiều do công ty Phim và Chiếu bóng Đông Dương (Indochine Films et Cinéma) thực hiện và trính chiếu tại rạp Cinéma Palace phố Tràng Tiền.
Năm 2010, Hội Điện ảnh Việt Nam và Trung tâm hỗ trợ phát triển tài năng phối hợp tổ chức thi sáng tác kịch bản phim Truyện Kiều, thời gian nhận bài từ 15/3/2010 đến 15/1/2011 , trị giá giải 200 triệu đồng.Giải sẽ được trao nhân Ngày Điện ảnh Việt Nam 2011 và lễ trao giải Cánh diều vàng 2010 15/3/2011. Tuy nhiên có tin đồn rằng dự án này bị "chìm xuồng" vì Hội và Trung tâm chưa thống nhất.

***

Nguyễn Du ( 1765–1820) tên tự Tố Như , hiệu Thanh Hiên , biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ , Nam Hải điếu đồ, là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê Mạc, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông là một nhà thơ lớn của Việt Nam, được người Việt kính trọng gọi ông là "Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, Nguyễn Du được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.
Tiểu sử

Nguyễn Du tên tự là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên sinh ngày mồng 3 tháng 1 năm (1765) tức ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu tại phường Bích Câu, Thăng Long (nay là phường Cát Linh, quận Đống Đa, Hà Nội). Cha là Nguyễn Nghiễm, sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Thượng thư bộ Hộ triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần (24-8-1740) - (27-8-1778), con gái một người làm chức câu kế. Quê làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm (kém chồng 32 tuổi sinh được năm con, bốn trai và một gái).
Tổ tiên của Nguyễn Du có nguồn gốc từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan.
Năm Đinh Hợi (1767), khi Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân Quận công nên Nguyễn Du thời đó sống trong giầu sang phú quý.
Năm Giáp Ngọ (1774), cha Nguyễn Du sung chức tả tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ thời gian này Nguyễn Du chịu nhiều mất mát:
Năm 1775 anh trai cùng mẹ là Nguyễn Trụ (sinh 1757) qua đời.
Năm 1776 (Bính Thân) cha Nguyễn Du qua đời.
Năm 1778 (Mậu Tuất) bà Trần Thị Tần, mẹ Nguyễn Du qua đời. Cũng trong năm này, anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều (sinh năm 1745) được bổ làm Trấn thủ Hưng Hóa.
Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý, bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Lúc này Nguyễn Du được một người thân của Nguyễn Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tuấn đón về Sơn Nam Hạ (Nam Định) nuôi ăn học.
Năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại, tước Toản Quận công, Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây.
Năm Quý Mão (1783) Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường (Tú tài). Ông lấy vợ là con gái Đoàn Nguyễn Thục và ông được tập ấm chức Chánh thủ hiệu hiệu quân Hùng hậu của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Cũng trong năm này anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Đề (sinh 1761) đỗ đầu kỳ thi Hương ở điện Phụng Thiên (cử Nhân) và Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu Bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng.
Tháng 2 năm (1784), kiêu binh nổi dậy đưa hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm thái tử. Tư dinh của Nguyễn Khản ở phường Bích Câu, Thăng Long bị phá, Nguyễn Khản phải trốn lên ở với em là Nguyễn Điều đang là trấn thủ Sơn Tây. Đến năm 1786 thì Nguyễn Khản bị mắc bệnh rồi chết ở Thăng Long.
Năm 1789 Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với nhà Tây Sơn|Tây Sơn]], giữ chức Thị lang bộ Lại. Lúc này Nguyễn Du về ở quê vợ (Quỳnh Côi, Thái Bình).
Tháng mười, năm Tân Hợi (1791), anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết, dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền Hà Tĩnh bị Tây Sơn phá hủy.
Năm 1793 Quý Sửu, Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm thái sử ở viện cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn.
Năm 1794 Giáp Dần, Nguyễn Đề được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ. Đến năm 1795 Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh, đến năm 1796 trở về được thăng chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh.
Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. sau khi được tha ông về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông có làm thơ My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù)
Mùa thu năm Nhâm Tuất (1802), Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Mấy tháng sau thăng tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội).
Năm 1803, Nguyễn Du được cử lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long.
Năm 1805 Ất Sửu ông được thăng Đông các đại học sĩ (hàm Ngũ phẩm), tước Du Đức hầu và vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân. Năm 1807 được cử làm giám khảo kỳ thi h\Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm 1808 ông xin về quê nghỉ.
Năm 1809 ông được bổ chức Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình
Năm Quý Dậu 1813 ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814 ông đi sứ về, được thăng Hữu tham chi bộ Lễ (hàm Tam phẩm).
Năm Bính Tý (1816), anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam.
Năm 1820 (Canh Thìn) Gia Long qua đời Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch chết ngày mồng 10 tháng 8 AL (16-9-1820) thọ 54 tuổi.
Năm Giáp Thân (1824), người ta cải táng ông và đưa về quê nhà Tiên Điền, Hà Tĩnh.
Tác phẩm

Văn bản
Tác phẩm bằng chữ Hán
Thơ chữ Hán của ông được chia làm ba tập
Thanh Hiên thi tập. Gồm 78 bài, sáng tác trong thời gian ông sống ở quê hương xứ Nghệ tức là trước khi ông ra làm quan triều nguyễn
Nam Trung tạp ngâm. Gồm 40 bài, sáng tác trong thời ông làm quan triểu nguyễn ở Huế,ở Quảng Bình và ở một số địa phương khác từ Hà Tĩnh trở vào nam
Bắc hành tạp lục. Gồm 131 bài, sáng tác trong thời gian ông đi sứ sang tàu
Tác phẩm bằng chữ Nôm
Truyện Kiều
trần minh hiền , orlando ngày 10 tháng 3 năm 2012

alt

alt
trần minh hiền , orlando ngày 10 tháng 3 năm 2012

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.