Thứ Hai, 4 tháng 12, 2017

CÁC TRẬN CHIẾN LÀM THAY ĐỔI THẾ GIỚI - Trận Hải Chiến Armada 1588: Anh Quốc Vs Đế Chế Espana


I. Hoàn Cảnh Trước Trận Chiến:

a. về phía Anh:

Henry mong chờ sự ra đời của một con trai để bảo đảm sự kế tục của triều đại Tudor, nhưng sau khi sinh hạ Elizabeth, Hoàng hậu Anne bị sảy thai hai lần trong năm 1534 và đầu năm 1536, rồi nhà vua bắt đầu có quan hệ với nhiều phụ nữ khác..

Vẫn còn nhiều tranh luận về nguyên nhân Anne bị thất sủng, nhưng các sử gia đồng ý với nhau về sự vô tội của Anne đối với các cáo buộc chống lại bà, họ tin rằng cái chết của bà đã được sắp đặt bởi những đối thủ chính trị. Anne bị bắt ngày 2 tháng 5 năm 1536 và bị cầm tù. Mười bảy ngày sau bà bị hành quyết với các tội danh phản quốc, loạn luận với anh/em trai, George Boleyn, và tội phù thủy

Elizabeth, mới lên ba, bị tuyên bố là con bất hợp pháp và bị mất tước hiệu công chúa, cũng không được hưởng tài sản của người mẹ. Cô chỉ còn là Lady Elizabeth và không được sống gần cha khi ông kết hôn với Jane Seymour. Năm 1537, người vợ thứ ba của Henry, Jane Seymour, sinh con trai, Hoàng tử Edward; theo Đạo luật Kế vị năm 1544, Edward là người kế thừa ngai báu nước Anh.

Henry VIII qua đời năm 1547, truyền ngôi cho Edward VI. Catherine Parr, người vợ cuối của Henry, kết hôn với Thomas Seymour, cậu của Edward VI. Seymour đem Elizabeth về nhà mình. Người ta tin rằng Seymour muốn tạo lập quan hệ thân tình với Elizabeth khi cô sống trong nhà ông. Ở đây, cô nhận lãnh giáo huấn từ Roger Ascham. Dưới ảnh hưởng của Catherine Parr và Ascham, Elizabeth được trưởng dưỡng trong đức tin Tin Lành.

Khi vua em Edward là người Tin Lành sùng tín, còn trị vì, địa vị của Elizabeth vẫn còn an toàn. Đến năm 1553, Edward qua đời ở tuổi mười lăm vì bệnh tật từ khi còn nhỏ. Edward để lại một di chúc thay thế di chúc của Henry. Bất kể Đạo luật Kế vị 1544, di chúc này loại bỏ Mary và Elizabeth khỏi quyền kế thừa và công bố Lady Jane Grey, người được Thomas Seymour bảo hộ, là người kế vị. Một sự hợp tác giữa Thomas và John Dudley, Công tức xứ Northumberland, con trai của John, Guilford Dudley, đã kết hôn với Jane. Lady Jane lên ngai, nhưng bị phế truất chỉ hai tuần lễ sau đó. Trong sự tung hô của dân chúng, Mary chiến thắng tiến vào Luân Đôn, với cô em cùng cha khác mẹ, Elizabeth, ở bên cạnh.

Mối liên kết giữa hai chị em không kéo dài. Mary quyết tâm đàn áp đức tin Tin Lành mà Elizabeth tiếp nhận từ khi còn bé, và buộc mọi người phải dự lễ Misa. Elizabeth không có sự lựa chọn nào khác phải tỏ ra phục tùng nữ hoàng. Song uy tín của Mary sút giảm khi dân chúng biết dự định kết hôn với Hoàng tử Felipe của Tây Ban Nha (về sau là vua Felipe II của Tây Ban Nha) nhằm tìm kiếm sự hậu thuẫn cho phe Công giáo bên trong nước Anh. Sau cuộc nổi dậy của Wyatt năm 1554 tìm cách ngăn cản cuộc hôn nhân giữa Mary và Felipe nhưng thất bại, Elizabeth bị cầm giữ trong Tháp Luân Đôn vì bị cho là có dính líu đến cuộc nổi dậy. Có những sự đòi hỏi xử tử hình Elizabeth, nhưng đa số dân Anh không muốn nhìn thấy một thành viên thuộc dòng họ Tudor rất được lòng dân bị sát hại. Quan Chưởng ấn Stephen Gardiner muốn rút tên Elizabeth khỏi danh sách kế vị, nhưng cả Mary lẫn Quốc hội đều không đồng ý. Sau hai tháng bị giâm giữ, Elizabeth được trả tự do vào đúng ngày mẹ cô bị hành quyết mười tám năm trước. Ngày 22 tháng 5, khi Elizabeth được đưa đến Woodstock để bị quản thúc tại gia dưới sự giám sát của Sir Henry Bedingfield, dân chúng đứng hai bên đường hoan hô cô

Sau một thời gian trị vì ôn hòa, Mary, một người Công giáo sùng tín, khởi sự theo đuổi chính sách ngược đãi người Kháng Cách mà nữ hoàng xem là những kẻ dị giáo và là mối de dọa cho thẩm quyền của bà. Do những cuộc bách hại chống phe Kháng Cách được tiến hành dưới thời trị vì của mình, nữ hoàng bị gán cho biệt danh "Mary khát máu". Dù bị Mary thuyết phục cải đạo theo Công giáo La Mã, Elizabeth khôn khéo duy trì lòng trung thành với lương tâm và khát vọng của mình. Cuối năm ấy, khi có những lời đồn đại về việc Mary có thai, Elizabeth được phép trở lại triều đình theo lời yêu cầu của Felipe. Do lo ngại nữ hoàng có thể chết khi sinh con, Felipe muốn Elizabeth, dưới sự bảo hộ của ông, sẽ là người kế vị, thay vì người có huyết thống gần Elizabeth nhất, Nữ hoàng Mary của Scotland. Mary lớn lên trong hoàng cung Pháp và có hôn ước với Thái tử Pháp, mặc dù là người Công giáo, Felipe không muốn Mary kế thừa ngai báu nước Anh vì sợ ảnh hưởng của người Pháp trên chính trường Anh qua Mary.

Tháng 11 năm 1558, sau cái chết của Mary, Elizabeth lên ngôi báu nước Anh.

Một trong những mối quan tâm hàng đầu của Elizabeth I khi bắt đầu trị vì là các vấn đề tôn giáo. Nhận biết thần dân muốn nữ hoàng khước từ quyền lực của Giáo hoàng và ảnh hưởng của Tây Ban Nha, điều này phù hợp với ước nguyện của bà và những quyết sách được đề nghị bởi Sir William Cecil. Elizabeth cũng biết Giáo hoàng sẽ không chịu công nhận bà là con hợp pháp của Henry VIII và là quân vương của nước Anh Đạo luật Quyền Tối thượng năm 1559 buộc tất cả viên chức công phải chấp nhận quyền kiểm soát của nhà vua trên giáo hội. Nhiều giám mục từ chối ủng hộ lập trường của Elizabeth bị bãi chức và được thay thế bởi những chức sắc ủng hộ nữ hoàng. Bà bổ nhiệm Hội đồng Tư vấn mới, không còn có sự hiện diện của các thành viên Công giáo. Dưới triều Elizabeth, tình trạng chia rẽ và tranh chấp do bè phái giảm thiểu đáng kể. Cố vấn trưởng của nữ hoàng, Sir William Cecil, đảm nhiệm chức Bộ trưởng Ngoại giao, và Sir Nicholas Bacon làm Quan Chưởng ấn.

Nhiều tín hữu Công giáo, nhất là ở châu Âu đại lục, xem Elizabeth là dị giáo. Ngày 25 tháng 3 năm 1570, Giáo hoàng Pius V ra chỉ dụ Regnans in Excelsis phạt vạ tuyệt thông Elizabeth và gọi là bà là "nữ hoàng tiếm vị".Chỉ dụ này, trên lý thuyết giải phóng người Công giáo tại Anh khỏi nghĩa vụ trung thành với Elizabeth, lại khiến giáo hội Anh liên kết chặt chẽ với vương quyền và đặt người Công giáo tại Anh vào tình huống khó khăn

Chính sách đối ngoại của Elizabeth chủ yếu là phòng thủ, với một ngoại lệ là cuộc chiếm đóng Le Havre kéo dài từ tháng 10 năm 1562 đến tháng 6 năm 1563, khi phe Huguenot đồng minh với Elizabeth liên kết với phe Công giáo Pháp tái chiếm bến cảng này. Elizabeth định ý trao đổi Le Havre để lấy Calais mà người Pháp đã chiếm lại vào tháng 1 năm 1558.

Năm 1560, bà gởi quân đến Scotland để ngăn cản ý định của người Pháp sử dụng đất nước này như một hậu cứ để tấn công nước Anh. Năm 1585, Elizabeth ký Hiệp ước Nonsuch với Hà Lan nhằm ngăn chặn hiểm họa từ Tây Ban Nha. Dựa vào sức mạnh của các hạm đội Anh Quốc mà Elizabeth có thể theo đuổi chính sách đối ngoại mạnh mẽ hơn. Khi tranh chấp với Tây Ban Nha, 80% cuộc chiến diễn ra trên mặt biển.

Nữ hoàng phong tước cho Francis Drake sau chuyến thám hiểm vòng quanh thế giới từ năm 1577 đến 1580, và sau những cuộc đột kích của ông nhắm vào những hải cảng và hạm đội của Tây Ban Nha. Triều đại của bà cũng chứng kiến việc thành lập những đồn điền đầu tiên trên những vùng đất mới ở châu Mỹ, và khu thuộc địa Virginia được đặt tên để vinh danh nữ hoàng. Dù vậy, những vụ cướp biển và những vụ làm ăn bất chính của những tay phiêu lưu trên biển vẫn diễn ra ngoài vòng kiểm soát của triều đình

Elizabeth phê chuẩn Hiệp ước Cateau-Cambresis năm 1559, mang lại hòa bình cho hai nước Anh và Pháp. Bà ủng hộ nguyên tắc "Nước Anh của người Anh". Tuy nhiên, một lãnh thổ dưới quyền cai trị của bà là Ireland không chấp nhận nguyên tắc này.

b. Về Phía Tây Ban Nha:

Năm 722, vương quốc Asturias theo đạo Cơ đốc được thành lập, chỉ 11 năm sau khi người Berber xâm chiếm bán đảo Iberia vào năm 711. Đầu năm 739, quân đội Hồi giáo bị đuổi ra khỏi Galacia, nơi có một trong những địa điểm thiêng liêng nhất của Đạo Cơ đốc thời trung cổ, Santiago de Compostela. Một thời gian ngắn sau, quân đội của người Frank cũng đánh đuổi thành công quân đội Hồi giáo về phía nam dãy Pyrenees, thành lập một tỉnh Cơ đốc giáo rồi sau này phát triển thành một vương quốc ở phía đông bắc.

Sự suy yếu của Đế chế Hồi giáo Al-Andalus trong những cuộc chiến tranh với vương quốc Taifa đã tạo điều kiện cho sự mở rộng của các vương quốc Cơ đốc giáo. Việc chiếm thành công thành phố trung tâm Toledo vào năm 1085 đã hoàn thành việc giải phóng phần lớn miền bắc Tây Ban Nha. Sau sự phục hồi vào thế kỉ 12 của vương triều Hồi giáo, những vùng đất lớn của người Hồi giáo đã rơi vào tay người Cơ đốc giáo vào thế kỉ 13 như Córdoba năm 1236 vào Seville năm 1248. Và người Hồi giáo chỉ còn lại mỗi vùng đất bị bao vây Granada và có vai trò như một tiểu quốc chư hầu ở phía nam. Cũng vào thế kỉ 13, vương quốc Aragón đã mở rộng tới vùng Địa Trung Hải và vươn đến đảo Sicily.

Năm 1469, ngai vàng của hai vương quốc Cơ đốc giáo Aragón và Castilla đã được hợp nhất bởi lễ cưới giữa vua Fernando II của Aragón và nữ hoàng Isabel I của Castilla. Năm 1492, vương quốc hợp nhất đã chiếm đóng Granada, chấm dứt 781 năm cai trị của người Hồi giáo tại bán đảo Iberia. Cũng trong năm 1492, với sự hỗ trợ của vua Fernando và nữ hoàng Isabel, nhà thám hiểm Christopher Columbus đã vượt Đại Tây Dương và tìm ra châu Mỹ, một phát kiến địa lí quan trọng hàng đầu của lịch sử. Trong cùng năm, một lượng lớn người Do Thái đã bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha bởi Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha.

Vua Fernando và nữ hoàng Isabel đã củng cố vững chắc hệ thống quyền lực trung ương, đồng thời cái tên España (Tây Ban Nha) bắt đầu được dùng để chỉ vương quốc hợp nhất. Với những cải cách lớn về chính trị, pháp luật, tôn giáo và quân đội, Tây Ban Nha đã vươn lên trở thành một cường quốc trên thế giới.

Sự thống nhất của các vương quốc Aragón, Castilla, Leon và Navarre đã làm nên nền tảng của đất nước Tây Ban Nha hiện nay và Đế chế Tây Ban Nha. Tây Ban Nha đã trở thành một trong những quốc gia hùng mạnh hàng đầu châu Âu trong thế kỉ 16 và nửa đầu của thế kỉ 17, vị thế đó được tạo nên bởi thương mại phát triển và sự chiếm hữu thuộc địa. Tây Ban Nha đã vươn tới đỉnh cao dưới sự trị vì cũa hai vua đầu tiên của hoàng triều Habsburg là Carlos I (1516-1556) và Felipe II (1556-1598).

Hệ thống thuộc địa ở đế chế Tây Ban Nha trải rộng khắp Trung Mỹ và Nam Mỹ, Mexico, một phần lớn miền nam Hoa Kỳ, Philippines ở Đông Á, bán đảo Iberia (trong đó có cả Bồ Đào Nha), miền nam Ý, đảo Sicily và một số nơi ngày nay thuộc các nước Đức, Bỉ, Luxembourg và Hà Lan. Tây Ban Nha là đế quốc đầu tiên được gọi là đất mặt trời không bao giờ lặn. Thời kỳ này được gọi là Kỉ nguyên Khai phá với việc các nước châu Âu đi chiếm thuộc địa, mở ra các trung tâm buôn bán. Cùng với nguồn kim loại, hương liệu, các mặt hàng xa xỉ phẩm mang về từ thuộc địa, các nhà thám hiểm Tây Ban Nha và châu Âu đã mang về rất nhiều kiến thức, làm thay đổi cách nhìn của người châu Âu về thế giới.

Vào thế kỉ 16 và thế kỉ 17, Tây Ban Nha cũng bắt đầu đối mặt với nhiều khó khăn. Đầu thế kỉ 16, bọn cướp biển Barbary hung hãn dưới sự bảo hộ của đế chế Ottoman đã đột kích vào những vùng ven biển của Tây Ban Nha, với âm mưu lập ra các vùng đất Hồi giáo mới. Thời gian này, những cuộc chiến tranh giữa Tây Ban Nha và Pháp cũng thường nổ ra tại Ý và một vài nơi khác. Tiếp đó, phong trào cải cách tôn giáo ở châu Âu đã khiến đất nước rơi vào bãi lầy của những cuộc chiến tranh tôn giáo. Felipe II của Tây Ban Nha (hay Filipe I của Bồ Đào Nha) (21 tháng 5 năm 1527 – 13 tháng 9 năm 1598) là vua Tây Ban Nha từ năm 1556 đến năm 1598, phu quân của nữ hoàng Mary I của Anh từ năm 1554 đến 1558, vương chủ của 17 tỉnh từ năm 1556 đến 1581, dùng nhiều tước hiệu như công tước hay bá tước để trị vì trên các lãnh thổ của đế chế; cũng là vua Bồ Đào Nha và Algarves với tư cách là Filipe I năm 1558. Ông cũng là người trị vì trên những lãnh thổ ở châu Mỹ của Tây Ban Nha như Tân Tây Ban Nha và Peru. Đồng thời, ông kiểm soát được cả Vương quốc Sicily, Công quốc Milan, và Franche-Comté, một vùng đất chiến lược quan trọng ở biên giới phía đông với vương quốc Pháp.

Felipe là con trưởng của Carlos I của Tây Ban Nha và Isabella của Bồ Đào Nha. (tên của ông cũng được những nhà thực dân đặt tên cho một quốc gia trên thế giới Phillipines, có nghĩa là quần đảo của vua Phillip(Felipe),Tên nước này có nguồn gốc từ việc Ruy López de Villalobos đặt tên hai hòn đảo Samar và Leyte là Las Islas Filipinas theo tên vua Philip II của Tây Ban Nha trong chuyến viễn chinh không thành công của ông năm 1543. Quần đảo từng được gọi theo nhiều cái tên như Đông Ấn Tây Ban Nha, Nueva Castilla và Quần đảo San Lázaro. Cuối cùng, cái tên Filipinas được dùng để chỉ toàn bộ quần đảo).

c. Nguyên nhân dẫn đến chiến tranh:

sau khi Elisabeth lên ngôi, một hiệp ước hoàn bình giữa Anh - Pháp - Tây Ban Nha được ký kết vào năm 1559 và đã đem lại cho châu âu một thời gian hòa bình ngắn ngủi.

thời kỳ hòa bình này đã giúp cho nước Anh cơ hội về tài chính để xây dựng nền kinh tế và mở rộng hạm đội của mình vào năm 1568.

cuối năm 1568 người Anh đã bắt giữ một con tàu Tây Ban Nha đang trên đường đến Hà Lan. Filipe II rất bực tức, và quan hệ giữa hai quốc gia trở nên tồi tệ.

Filipe II cũng rất khó chịu khi người Anh cổ vũ cho đạo Tin Lành. cũng như việc Phong Tước Hiệp sĩ cho Francis Drake, người luôn ủng hộ cho thương mại cá nhân, cho dù trước đó châu âu đã có một hiệp ước tự do mậu dịch và điều này làm Filipe cảm thấy bị sỉ nhục.

Sau khi các nhà lãnh đạo Tin lành của Hà Lan, William of Orange, đã bị ám sát. Elisabeth đã cung cấp cho Drake 25 tàu chiến để ông ta tiến hành quấy rối Tây Ban Nha.

những sự kiện này gây ảnh hưởng liên tục lên Filipe II và cuối cùng ông ta cử một hạm đội đến gây chiến với nước Anh.

II. Các phe tham chiến:

a. Phe Tây Ban Nha:

Tổng: 132 tàu, 8766 thủy thủ, 21500 binh lính, 2088 nô lệ chèo xuồng.

Lãnh đạo: Đô đốc chỉ huy hạm đội trước khi lên đường ( chết trước khi lên đường)

1.Lực lượng hải quân bồ đào nha:

São Martinho (48 guns: Flagship of the commander-in-chief, the Duke of Medina Sidonia and Maestre de Francisco de Bobadilla, the senior army officer)

São João (50 guns).

São Marcos (33 guns).

São Felipe (40 guns).

San Luis (38 guns).

San Mateo (34 guns).

Santiago (24 guns).

Galeon de Florencia (52 guns).

San Cristobel (20 guns).

San Bernardo (21 guns).

Augusta (13 guns).

Julia (14 guns).

2. Lực lượng hải quân tây ban nha tại Biscay:

Santa Ana (30 guns: Flagship of Juan Martinez de Recalde, Captain General and second in command of the Armada).

El Gran Grin (28 guns).

Santiago (25 guns).

La Concepcion de Zubelzu (16 guns).

La Concepcion de Juan del Cano (18 guns).

La Magdalena (18 guns).

San Juan (21 guns).

La Maria Juan (24 guns).

La Manuela (24 guns).

Santa Maria de Montemayor (18 guns).

Maria de Aguirre (6 guns).

Isabela (10 guns).

Patache de Miguel de Suso (6 guns).

San Estaban (6 guns).

3. Lực lượng hải quân của Castilla:

San Cristobal (36 guns: Flagship of Diego Flores de Valdés).

San Juan Bautista (24 guns).

San Pedro (24 guns).

San Juan (24 guns).

Santiago el Mayor (24 guns).

San Felipe y Santiago (24 guns).

La Ascuncion (24 guns).

Nuestra Senora de Begona (24 guns).

La Trinidad (24 guns).

Santa Catalina (24 guns).

San Juan Bautista (24 guns).

Nuestra Senora del Rosario (24 guns).

San Antonio de Padua (12 guns).

4. Lực lượng hải quân của vùng Andalusia:

Nuestra Senora del Rosario (46 guns Flagship of Don Pedro de Valdés).

San Francisco (21 guns).

San Juan Bautista (31 guns).

San Juan de Gargarin (16 guns).

La Concepcion (20 guns).

Duquesa Santa Ana (23 guns).

Santa Catalina (23 guns).

La Trinidad (13 guns).

Santa Maria de Juncal (20 guns).

San Barolome (27 guns).

Espiritu Santo.

5. Lực lượng hải quân guipuzcoan:

Santa Ana (47 guns: Flagship of Miguel de Oquendo).

Santa Maria de la Rosa (47 guns).

San Salvador (25 guns).

San Esteban (26 guns).

Santa Marta (20 guns).

Santa Barbara (12 guns).

San Buenaventura (21 guns).

La Maria San Juan (12 guns).

Santa Cruz (18 guns).

Doncella (16 guns).

Asuncion (9 guns).

San Bernabe (9 guns).

Nuestra Senora de Guadalupe (1 gun).

La Madalena (1 gun).

6. Hải đội Levantine:

La Regazona (30 guns: Flagship of Martin de Bertandona)

La Lavia (25 guns).

La Rata Santa Maria Encoronada (35 guns).

San Juan de Sicila (26 guns).

La Trinidad Valencera (42 guns).

La Anunciada (24 guns).

San Nicolas Prodaneli (26 guns).

La Juliana (32 guns).

Santa Maria de Vison (18 guns).

La Trinidad de Scala (22 guns).

7. Hải đội Hulk:

El Gran Grifon (38 guns: Flagship of Juan Gómez de Medina)

III. Diễn Biến

Năm 1858 vua Philip điều hạm đội Armada đi chinh phạt nước Anh. Philip lên kế hoạch xâm lược nước Anh bằng Armada từ 1570 đến 1588, mục đích của ông ta là phế truất Nữ hoàng Elizabeth Tin Lành dị giáo và phục hồi Công giáo ở Anh. Philip là chồng của Nữ hoàng Công giáo Mary và tự coi mình là Vua nước Anh cho đến lúc Mary chết vào năm 1558.

Armada trong tiếng TBN có nghĩa là "hạm đội". Vào thời này, một hạm đội xâm lược được người TBN gọi là " Hạm đội may mắn". Còn người Anh lại mỉa mai gọi nó là "Hạm đội vô địch".

Để đối đầu địch thủ đầu tiên của mình, Nữ hoàng Elizabeth của Anh đã mau chóng trở thành một người xông xáo trong phong trào đấu tranh của người theo Tin Lành ở Pháp và Hà Lan, nơi người Hà Lan đang nổi dậy chống chính quyền TBN. Bà ta đã chọc giận vua TBN bằng việc tấn công các quyền lợi ở Châu Mỹ của người TBN và cả bờ biển của người TBN: Drake cướp phá Cadiz năm 1587 và Bá tước Leicester đã dẫn đầu một đội quân trợ chiến cho các cuộc nổi dậy của người Hà Lan tại Hà Lan.

Giáo hoàng đã rút phép thông công của Elizabeth và ban ra một tuyên bố về bổn phận của người Công giáo tới ngai vàng Anh quốc, khuyến khích 1 loạt các âm mưu ám sát Elizabeth, người đã chặt đầu Nữ hoàng Công giáo Mary vào năm 1587. Vụ xử tử Mary là giọt nước làm tràn ly dẫn đến cuộc xâm lược Anh quốc của người TBN.

Kế hoạch của Philip cần 1 hạm đội khổng lồ các chiếm hạm TBN, Bồ Đào Nha và Naples, căng buồm đến bán đảo Iberia, eo biển Anh quốc và hợp với đội quân của người TBN, một phần của hạm đội Armada, được tiếp tế phần lớn bởi lực lượng đồn trú người TBN ở Hà Lan, trên bờ biển Kent. Một khi chinh phục được nước Anh, Philip II sẽ bổ nhiệm 1 vị vua mới hoặc tự mình lên ngôi.

Vua chọn một cựu chiến binh hải quân giàu kinh nghiệm, Marquis de Santa Cruz, để chỉ huy Armada. Alexander Farnese, Công tước Parma, một vị tướng xuất chúng và chính Phillip chống lại các phiến quân người Hà Lan, sẽ chỉ huy đội quân băng qua eo biển TBN-Hà Lan.

Trong thâm tâm Phillip có rất ít sự khác biệt giữa kế hoạch của mình và ý chí của Chúa. Ông đã tự tin, giống như các cố vấn tôn giáo của mình, rằng bất kỳ sự thiếu tương xứng nào trong kế hoạch của ông sẽ được khắc phục bằng sự can thiệp của thần thánh. 180 linh mục và nhà sư đi cùng với các đội tàu và thủy thủ đã được chỉ thị để tuân thủ tôn giáo và đạo đức hà khắc; chửi thề và sự hiện diện của phụ nữ trong các tàu được đặc biệt cấm. Đối với người Tây Ban Nha, Armada là một cuộc viễn chinh tôn giáo đánh dấu bởi một số các biểu tượng của quân Thập tự.

Một sai lầm khác là ông nghĩ rằng cuộc hải tập xâm lược không thể bị đẩy lùi bởi sự có mặt của hạm đội mạnh vô địch của người Anh. Điều sai lầm thứ ba là lực lượng Tây Ban Nha ở Hà Lan có thể tiến ra bờ biển mặc kệ hạm đội của Hà Lan có mạnh và cơ động đến đâu. Điều sai lầm thứ tư là ông đã tin tưởng Công tước xứ Parma, người sẽ không hoàn thành nhiệm vụ dù đã lấy danh dự nghề nghiệp của mình ra đảm bảo cho kế hoạch nguy hiểm này.

Philip đã xuống một chiếu chỉ và các văn bản hướng dẫn về Hầu tước Santa Cruz và Công tước xứ Parma đặt ra một cách chi tiết mọi khía cạnh của chiến dịch. Theo các hướng dẫn, hạm đội Armada tập hợp tại Lisbon để hội quân và tập hợp vũ khí đạn dược lên các chiến thuyền

Tháng hai năm 1588, Hầu tước Santa Cruz qua đời, Philip phải tìm sự một người thay thế có khả năng kiểm soát các nhân tố chia rẽ và cứng đầu trong hạm đội khổng lồ và lực lượng hộ tống hạm đội của mình. Lực lượng vũ trang của thế kỷ 16 Tây Ban Nha chỉ có thể được điều khiển bởi một ai đó có tầm ảnh hưởng trong xã hội lớn và có địa vị, đặc biệt là khi ông sẽ phải hợp tác chặt chẽ với một nhà quý tộc như là cao cấp là Công tước Parma. Và nhà vua đã chọn Alonzo Perez de Guzman, Công tước xứ Medina Sidonia, một quý tộc đáng tin cậy nhưng không có kinh nghiệm quân sự hay hải quân.

Hạm đội Armada gồm nhiều kiểu chiến hạm khác nhau. Các tàu hải quân chủ yếu là thuyền buồm lớn kiểu Bồ Đào Nha, thuyền buồm với súng và các thê đội hải quân. Philip xây dựng Armada phù hợp với các điều kiện ở ĐịaTrung Hải: tàu buồm có mái chèo kiểu Naples, là các con thuyền dài và thấp trang bị mái chèo hai bên mạn và được chèo bởi các tù nhân.

Bản quân của Armada là các hulk hoặc urca, loại thuyền buôn được cải biển phục vụ chiến tranh chiến tranh: mũi tàu cao hơn, có tháp chỉ huy, nhiều pháo và có thể chở nhiều lính và quân nhu. Nhiều tàu đến từ các thị trấn của Liên minh Hanseatic ở Baltic. Kỳ hạm của đội tàu khổng lồ này là Gran Grifon đến từ Rostock.

Nhưng hạm đội Armada trước khi ra khơi đã gặp nhiều vấn đề về quân nhu cũng như trang thiết bị hàng hải: thực phẩm được trữ trên tàu quá sớm nên đã có dấu hiệu hư hỏng trước lúc ra khơi, thùng chứa bị rò rỉ nước, đạn pháo sai cỡ nòng. Tuy nhiên các nguồn cung cấp đảm bảo cho hạm đội hoạt động trong 4 tháng, nhưng các con tàu sống sót trở về Coruna và Santander vào cuối tháng 9 năm 1588 đã gần như chết đói.

Hạm đội Armada ra khơi vào ngày 28/5/1588 từ Lisbon, lừ lừ tiến đến bờ biển Bồ Đào Nha và cập bến Coruna phía tây bắc duyên hải Tây Ban Nha

Cuộc hành trình từ Lisbon đã bộ lộ tính cồng kềnh của Armada. Các thuyền buồm lớn, cao đồ sộ như những lâu đài nổi được thiết kế để đánh cập mạn và giáp lá cà thì vững chắc nhưng đi rất chậm. Nhiều tàu buôn đã được thiết kế cho các điều kiện dễ chịu ở Địa Trung Hải; chỉ dùng để chèo ngược gió, ứng phó các điều kiện bất lợi bằng cách đơn giản là neo và chờ đợi gió đổi. Một số tàu có mạn tàu kết hợp mái chèo thích hợp cho vùng Địa Trung Hải, nhưng rất nguy hiểm trong các vùng có sóng to ở duyên hải Đại Tây Dương. Với các kiểu tàu khác nhau, Armada có thể đi thuyền ở mức trung bình là 2 ½ knot với một cơn gió thuận lợi..

Trong thời gian ở Corunna, Medina Sidonia viết cho Philip II rằng bước đầu tiên của cuộc hành trình từ Lisbon đã cho thấy Armada không có khả năng hoàn thành vai trò mà Philip đã gán cho nó. Philip đã không để ý đến việc này. Vào giữa tháng 7 năm 1588, Armada khởi hành đến Anh.

Lãnh chúa Howard của Effingham, Đô đốc Hạm đội Anh ở Plymouth, bị thúc giục bởi Drake, mang tàu của ông vào trong vịnh Biscay, với ý định trên tấn công Tây Ban Nha tại cảng Corunna. Gió nam cho phép hạm đội Tây Ban Nha tiến về phía bắc để ngăn chặn hạm đội Howard nên Howard trở lại Plymouth, để chờ đợi sự xuất hiện của các tàu Tây Ban Nha vì ông sợ không theo kịp Armada. Sau khi đi qua vịnh Biscay, Armada đến quần đảo Scilly ngày 19 tháng 7 năm 1588.

Vào ngày 19 tháng 7 năm 1588 thuyền trưởng Thomas Fleming tàu Hinde vàng, khi thoáng thấy các Armada qua làn sương mờ buổi sáng đã rời Lizard và chạy tới Plymouth. Fleming đến Plymouth tìm Sir Francis Drake báo tin, nhưng không được để ý.

Hạm đội Armada bị phát hiện, người Anh đã nổi lửa báo hiệu cho phần còn lại của vương quốc từ Devon tới Norhthumbia

Ngay khi vừa đến eo biển Anh, hạm đội Armada đã bị tập kích. Hạm đội nhanh và linh hoạt hơn của Howard đã cố gắng triệt hạ các tàu chiến chắc chắn nhưng chậm chạp của bản quân Armada bằng pháo tầm xa.

Sau loạt đạn của Anh, hạm đội Armada bị thiệt hại không đáng kể, nhưng 2 tàu đã bị loại: Nuestra del Rosario bị va chạm mạnh và bị loại khỏi đội hình, và chiếc San Salvador phát hỏa buồng chứa thuốc súng, nổ tung phần đuôi thuyền. Nó bị loại ra khỏi đội hình, trôi dạt và bị quân Anh bắt và kéo về Weymouth, trên tàu vẫn còn đầy thủy thủ chết và bị thương do vụ nổ. Tàu này là tàu chứa người phụ trách phát lương và tiền lương của hạm đội, đây là 1 đòn nghiêm trọng. Người Tây Ban Nha trả lời với pháo hạng nặng của họ nhưng không gây nhiều thiệt hại vì hạm đội Anh đã ra khỏi tầm bắn.

Người Anh đã không thể gây nhiều thiệt hại cho hạm đội Armada như mong đợi, vì đại bác của họ đa phần là hạng nhẹ. Nhưng chiến thuật của họ lại vượt trội hơn người Tây Ban Nha. Người Anh dàn quân thành hàng ngang, tận dụng tối đa hỏa lực tập trung trong khi đội hình thê đội thì phân tán theo hàng. Trong khi đó người TBN lại bó thành từng cụm, nên hỏa lực của họ bị che khuất bởi chính đội hình lộn xộn. Hơn nữa, những khẩu pháo mạnh nhất của Armada lại chỉ có thể bắn thẳng, chỉ hợp với chiến thuật tàu chiến dàn hàng dọc tiến công. Tàu của Anh thì lại dàn hàng ngang với đại bác ở bên mạn, nên có thể càn quét quanh đội hình hạm đội TBN và tấn công các tàu nằm ngoài rìa. Để đánh chặn người Anh, Armada phải đảo hướng, đây là 1 việc không thể khi toàn bộ hạm đội đã bó thành cụm tiến thẳng về phía trước, và nếu tách lẻ ra sẽ làm mồi cho hỏa lực tập trung của các chiến hạm Anh đang bao vây.

Nhưng quân Anh cũng chịu thiệt hại. Sự bối rối của người Anh đã tạo điều kiện cho Armada tái sắp xếp hạm đội, và Medina Sidonia vẫn còn đủ đạn dược để chiến đấu. Quân Anh thì vào bờ biển để lấy thêm đạn, đồng thời cử tàu buôn vũ trang quấy rồi quân TBN. Hạm đội TBN ở quá gần bờ nam eo biển Anh, một nơi không thân thiện. Medina Sidonia phái người đưa thư cho Parma, bảo ông ta nên khởi hành sớm. Nhưng quân thủy và bộ của Parma không thể hợp quân với Armada trong 2 tuần, vì hạm đội Hà Lan đang đánh quấy nhiễu quân Parma ở Bruges.

Sau đó Armada rời eo biển với hạm đội Anh đang đuổi sát đuôi. Medina Sidonia còn được 124 chiến hạm. Phía Howard có 136 chiếc nhưng phân bố dàn trải và nhiều chiếc còn dừng ở bờ biển để tiếp đạn.

Medina Sidonia thả neo toàn hạm đội ở vùng biển hẹp Calais. Ông ta muốn dụ hạm đội Anh đến gần để cập mạn và đánh cận chiến. Nhưng người Anh đã lấy 6 chiến hạm, phóng hỏa chúng và đâm thẳng vào đội hình hạm đội TBN.

Quân TBN khi thấy 8 chiếc chiến hạm đang bốc cháy lao về phía mình đã hoảng sợ, cắt dây neo bỏ chạy tán loạn. Chiếc Capitana bị mắc cạn trên bờ biển. Nó đã lãnh trọn hỏa lực từ quân Anh khi không thể di chuyển và đáp trả. Trong khi đó, phần còn lại của Armada rong buồm lên phía bắc, nhưng gió nam thổi mạnh đã giúp quân truy kích của Anh bắt kịp hạm đội Armada, hai bên giao chiến ác liệt, nhưng người TBN đã không thể có được cơ hội xâm lược nước Anh nữa.

Mùa thu năm 1858, một cơn bão lớn cũng đã nhấn chìm phân nửa hạm đội Armada. Cả thảy có 63 chiến hạm bị đắm vì trận bão ở duyên hải Xcotlen và Ailen.

Philip chấp nhận thất bại như chấp nhận ý chí của Chúa. Thay vì quy trách nhiệm cho Medina Sidonia, Philip phục chức Thủ hiến Cadiz cho ông ta. Elizabeth mở khân khố để thưởng cho các thủy thủ.

Thất bại của Armada đã đi vào văn hóa dân gian của Anh. Việc đánh bại Armada đã giúp nước Anh thêm tự tin. Người Anh sau này đã có đủ thực lực dựng nên một đế chế kéo dài suốt 400 năm.

VI. Kết quả trận chiến:

a. về phía Tây ban Nha:

1. El Gran Grifin bị đắm ở đảo Fare phía bắc Orkney.

2. San Marcos bị đắm trên bờ biển Ailen.

3. San Felipe và San Mateo bị bắt bởi người Hà Lan.

4. Florencia đã được tháo dỡ sau khi không thể sữa chữa.

5. El Gran Grin đã bị đắm ngoài khơi bờ biển Ailen và thủy thủ đoàn còn sống sót đã bị treo cổ bởi quân đội Anh.

6. La Maria Juan chìm trong trận Gravelines.

7. San Juan đã bị đắm ngoài khơi bờ biển Ai-len.

8. La Trinidad biến mất và được coi là đã chìm sâu trong Đại Tây Dương.

9. San Juan Bautista khởi hành tới Blasket Sound ngoài khơi bờ biển phía tây nam của Ai-len và cuối cùng đã đánh đắm bởi Đô đốc Recalde.

10. Urca Duquesa Santa Ana đã bị đắm ngoài khơi bờ biển của Ai-len.

11. Santa Ana cố lết đến San Sebastian trên bờ biển phía Bắc của Tây Ban Nha, nhưng đã nổ tung.

12. Santa Maria de La Rosa đã bị đắm trong trận Blasket Sound ngày 11 tháng 9 năm 1588.

13. San Esteban bị đánh đắm ngoài khơi bờ biển Clare của Ireland. Thủy thủ sống sót đã bị treo cổ.

14. La Lavia: tàu này chở Tổng Biện của hạm đội Armada và được cho rằng đã bị đánh đắm ngoài khơi bờ biển Ailen.

15. La rata Encoronada đã bị mắc cạn và bị đốt cháy trong vịnh Blacksod.

16. n Juan de Sicilia nổ tung trong Vịnh Tobermory tại Scotland.

17. La Trinidad Valencera bị đánh đắm trong vịnh Kinnagoe, Donegal.

18. La Anunciada bị đánh đắm ở cửa sông Shannon.

19. Juliana bị chìm ở Donegal. Thủy thủ sống sót được tin là đã định cư ở Ulster.

20. Falcon Blanco Mayor: a tàu của Hamburg bị Armada trưng dụng được Drake đưa về quê nhà sau khi bị bắt ở eo biển Anh.

21. Castillo Negro chìm ở Ailen.

22. Barca de Amburg chìm ở Ailen.

23. San Pedro Thị trưởng đã bị đắm trên bờ biển Devon

24. Falcon Blanco Mediano đã bị đắm ở Connemara. Hầu hết các thủy thủ còn sống sót đã bị treo cổ.

25. Santiago bị đánh đắm ở Ailen.

26. San Lorenzo bị mắc cạn Calais sau đợt hỏa công.

27. Patrona về được Le Havre nhưng gần như hỏng hoàn toàn.

28. Girona đã bị đắm ở Antrim.

29. Princesa bị đắm ở Bayonne.

30. Diana bị đắm ở Bayonne.

...

Hạm đội Armada mất 65 tàu, còn lại 65 tàu. Trong số tàu bị mất, 41 chiếc là những chiếm hạm lớn. Trong 30000 quân lính, gần 20000 đã chết trong chuyến hải trình, trong chiến trận, bị treo cổ, đói khát và bệnh tật

Kết thúc sự huy hoàng của TÂy Ban Nha. Vàng của Tây Ban Nha bây giờ đa phần rơi vào tay các Hải Tặc Anh. Tây Ban Nha dần dần suy yếu tuy vẫn còn được giáo hoàng chia phần phía tây bán cầu cho mình nhưng quyền lực bị thách thức bởi Bồ Đào Nha với thuộc Địa Brazil. Pháp với thuộc địa Montreal, Quebec, Guyanna. Anh với thuộc địa là 13 bang, Ấn Độ, Malaysia, singapore, Hà Lan với Indonesia, Guyana...

b. Về phía Anh:

Đây là chiến thắng quan trọng trong thời kỳ phục hưng tại Anh ( William Shakepeare sinh ra trong thời kỳ này).

Hải Tặc Anh trở nên nổi tiếng (đơn cử là Francis Drake là nỗi ám ảnh của thương thuyền Tây ban nha).

vàng bạc của tân thế giới đa phần được đưa vào nước Anh từ đây bắt đầu xuất hiện hiện giai cấp tư sản tiền đề cho cuộc cách mạng tư sản anh sau này của Oliver Cromwell.

Hạm đội Anh cũng thu được nhiều kinh nghiệm và phát triển lực lượng của mình trở thành Hạm đội bậc nhất thế giới cho đến chiến tranh thế giới lần 1.

đồng thời trong 400 năm sau đó nước Anh trở thành đế quốc bậc nhất thế giới với diện tích thuộc địa và bản thân nước Anh lên đến 41 Triệu Km2 chỉ thua có mỗi đế chế mông cổ ( thế kỷ 13 giữa được một đế quốc rộng 45 triệu Km2).

và cụm từ đế quốc "mặt trời không bao giờ tắt "đã chuyển từ Tây Ban Nha Sang Anh. cũng như Anh đã chiếm được nhiều thuộc địa của các quốc gia khác như tiểu bang New York ( New Amtersdam, hà lan), Nam Phi ( Boers, Hà Lan), Quebec (Pháp).

Anh chính thức trở thành đại đế quốc kể từ sau trận hải chiến lịch sử này. còn Tây ban nha suy sụp từ một đại đế quốc nắm vận mệnh thế giới trở thành loại cường quốc hạng hai.

Source: http://webtruyen.com/cac-tran-chien-lam-thay-doi-the-gioi/tran-hai-chien-armada-1588-anh-quoc-vs-de-che-espana-2_1118801.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.