Trích chương 8 trong :
Tác phẩm “LƯỢC SỬ THỜI GIAN” ( Brief History of Time )
Nguyên tác : Stephen Hawking
Dịch giả : Cao Chi và Phạm Văn ThiềuNguồn gốc và số phận của vũ trụ
Lý thuyết tương đối rộng của
Einstein, tiên đoán rằng không gian, thời gian bắt đầu từ kỳ dị của vụ
nổ lớn, sẽ kết thúc hoặc tại một kỳ dị cuối cùng (trường hợp toàn vũ
trụ co lại) hoặc tại một kỳ dị nằm bên trong một lỗ đen (trường hợp một
vùng định xứ, ví dụ một sao co lại). Mọi vật chất rơi vào lỗ đen, sẽ bị
phá hủy tại điểm kỳ dị, chỉ còn lại hiệu ứng hấp dẫn của khối lượng là
còn được cảm nhận từ phía bên ngoài. Mặt khác, khi các hiệu ứng lượng
tử được tính đến thì dường như khối lượng và năng lượng của vật chất
cuối cùng sẽ trở về với phần còn lại của vũ trụ, và lỗ đen cùng với mọi
kỳ dị bên trong sẽ bay hơi và biến mất. Liệu cơ học lượng tử có gây một
hiệu ứng bi kịch như thế đối với vụ nổ lớn và kỳ dị chung cuộc hay
không? Điều gì thực tế đã và sẽ xảy ra vào các giai đoạn rất sớm và
muộn hơn của vũ trụ, khi các trường hợp hấp dẫn mạnh đến mức mà các
hiệu ứng lượng tử không thể nào bỏ qua được? Thực tế vũ trụ có một điểm
bắt đầu và một điểm kết thúc hay không? Và nếu có, thì phải hình dung
chúng ra sao?
Trong suốt những năm 70 tôi đã
tập trung nghiên cứu các lỗ đen, nhưng vào năm 1981, tôi lại lưu tâm
đến các vấn đề xung quanh nguồn gốc và số phận của vũ trụ khi tôi tham
gia một hội thảo về vũ trụ học tổ chức bởi các tu sĩ dòng Jesuit tại
Vatican. Nhà thờ Thiên chúa giáo đã phạm một sai lầm đối với Galileo
khi họ phủ định một định luật khoa học vì tuyên bố rằng mặt trời phải
quay quanh quả đất. Bây giờ sau nhiều thế kỷ, họ đã quyết định mời
nhiều nhà khoa học làm cố vấn về vũ trụ học. Cuối hội nghị các nhà khoa
học đã được tiếp kiến Giáo hoàng. Ông nói rằng nghiên cứu sự tiến triển
của vũ trụ sau vụ nổ lớn là đúng song Nhà thờ không tìm hiểu về bản
thân vụ nổ lớn vì đó là thời điểm của Sáng tạo, nên thuộc công việc của
Chúa. Tôi rất vui mừng vì đức Giáo hoàng không biết đến bài phát biểu
của tôi tại hội thảo: khả năng không – thời gian là hữu hạn song không
có biên, điều đó có nghĩa là không có cái ban đầu, không có thời điểm
của Sáng tạo. Tôi không có ý muốn chịu cùng số phận của Galileo, người
mà tôi có một cảm giác mạnh mẽ về sự đồng nhất với tôi, một phần vì sự
trùng hợp giữa ngày sinh của tôi đúng tròn 300 năm sau ngày chết của
ông.
Để giải thích các ý tưởng của
tôi và những người khác về điều cơ học lượng tử có thể tác động lên
nguồn gốc và số phận của vũ trụ, trước hết cần phải hiểu về lịch sử của
vũ trụ theo quan điểm được nhiều người chấp nhận, dựa trên mô hình được
biết dưới “mô hình nóng của vụ nổ lớn”. Mô hình này giả định rằng vũ
trụ được miêu tả bởi một mô hình Friedmann, ngược theo thời gian mãi
tận lúc có vụ nổ lớn. Trong những mô hình như vậy người ta thấy rằng
lúc vũ trụ nở, mọi vật chất và bức xạ sẽ lạnh dần. (Khi vũ trụ đạt kích
thước gấp đôi thì nhiệt độ của vũ trụ giảm xuống một nửa). Vì nhiệt độ
là số đo năng lượng trung bình – hay vận tốc – của các hạt, quá trình
lạnh dần này sẽ gây một hiệu ứng lớn đối với vật chất trong vũ trụ. Ở
nhiệt độ rất cao, các hạt chuyển động nhanh đến mức có thể thoát ra
khỏi mọi trường hút giữa chúng với nhau do lực hạt nhân, hoặc điện tử
tạo nên, song khi chúng trở nên lạnh thì chúng hút nhau và kết dính với
nhau.
Ngoài ra, các loại hạt tồn tại
trong vũ trụ cũng phụ thuộc vào nhiệt độ. Ở nhiệt độ đủ cao, các hạt có
năng lượng lớn và khi chạm nhau, nhiều cặp hạt/phản hạt có thể sinh ra
và mặc dù nhiều hạt sau khi sinh ra có thể bị hủy lúc chạm các phản
hạt, chúng vẫn được sinh ra nhanh hơn bị hủy đi. Ở nhiệt độ thấp hơn,
khi các hạt va chạm nhau có năng lượng nhỏ hơn, các cặp hạt/phản hạt
sinh ra với tốc độ chậm hơn và như vậy quá trình hủy của chúng nhanh
hơn quá trình sinh.
Tại vụ nổ lớn, kích thước của
vũ trụ được xem như là bằng không, vì vậy nhiệt độ là vô cùng lớn. Song
trong quá trình giãn nở, nhiệt độ của bức xạ sẽ giảm xuống. Một giây
sau vụ nổ lớn, nhiệt độ đã giảm xuống còn khoảng 10 ngàn triệu độ.
Nhiệt độ này cỡ ngàn lần nhiệt độ ở tâm mặt trời và cỡ nhiệt độ đạt
được lúc bom H (tức bom khinh khí) nổ. Vào thời điểm đó vũ trụ chứa
phần lớn là các photon, electron và neutron (là những hạt nhẹ chỉ tham
gia tương tác yếu và hấp dẫn) và các phản hạt của chúng, cùng với một
số proton và neutron.
Lúc vũ trụ tiếp tục giãn nở và
nhiệt độ hạ xuống thì các cặp electron/phản – electron sinh ra chậm hơn
là bị hủy. Vì thế phần lớn các electron và phản – electron hủy với nhau
để tạo thành nhiều photon và để sót lại một số electron. Song các hạt
neutrino và phản – neutrino ít hủy nhau vì các hạt này tương tác với
nhau và với các hạt khác rất yếu. Cho nên hiện nay chúng còn tồn tại
trong vũ trụ. Nếu ta có thể quan sát được chúng thì ta có một bằng
chứng chắc chắn về bức tranh của giai đoạn nóng đầu tiên của vũ trụ.
Tiếc thay, năng lượng của chúng ngày nay quá nhỏ để ta có thể quan sát
được chúng một cách trực tiếp. Nhưng nếu neutrino có một khối lượng
nhỏ, theo kết quả một thí nghiệm chưa được kiểm nghiệm lại do những
người Nga thực hiện năm 1981, thì ta có thể ghi đo được chúng một cách
gián tiếp: chúng phải tạo thành một “vật chất tối”, như đã nói trước
đây, vật chất sẽ sinh ra một lực hấp dẫn đủ để hãm đứng sự giãn nở của
vũ trụ và buộc vũ trụ co trở lại.
Khoảng một trăm giây sau vụ nổ
lớn, nhiệt độ xuống còn một ngàn triệu độ, bằng nhiệt độ trong các sao
nóng nhất. Ở nhiệt độ đó proton và neutron không còn đủ năng lượng để
thoát khỏi sức hút của lực hạt nhân và kết hợp với nhau để tạo thành
hạt nhân của nguyên tử đơteri (hydro nặng), gồm một proton và một
neutron. Các hạt nhân của đơteri lại kết hợp thêm với các proton và
neutron để tạo thành hạt nhân heli, gồm hai proton và hai neutron và
một số hạt nhân nặng hơn là liti và berili. Người ta có thể tính ra
rằng trong mô hình nóng của vụ nổ lớn, khoảng một phần tư các proton và
neutron biến thành hạt nhân heli, cùng một số nhỏ hydro nặng và các hạt
nhân khác. Số neutron còn lại phân hủy thành proton vốn là hạt nhân của
nguyên tử hydro.
Bức tranh về giai đoạn nóng
trước đây của vũ trụ lần đầu tiên được phác họa bởi George Gamow trong
công trình nổi tiếng năm 1948, thực hiện chung với một sinh viên của
ông là Ralph Alpher. Gamow là một người giàu tính hóm hỉnh, ông thuyết
phục nhà vật lý hạt nhân Hans Bethe điền thêm tên vào công trình với ý
muốn làm cho danh sách tác giả Alpher, Bethe, Gamow đọc lên nghe gần
như âm của ba chữ cái đầu tiên của bảng vần Hy Lạp là alpha, beta,
gamma: thật là thích hợp cho một công trình nói về giai đoạn đầu của vũ
trụ! Trong công trình này, các tác giả tiên đoán một cách đặc sắc rằng
bức xạ (dưới dạng các photon) từ những giai đoạn nóng tiền sử của vũ
trụ sẽ tàn dư lại trong giai đoạn hiện nay, song với nhiệt độ hạ xuống
chỉ còn vài độ trên không độ tuyệt đối (- 273 độ C). Bức xạ này đã được
Penzias và Wilson phát hiện năm 1965.
Vào thời gian khi Alpher,
Bethe, Gamow viết công trình trên, người ta chưa biết nhiều về các phản
ứng hạt nhân giữa proton và neutron. Các tính toán dự báo về tỉ số các
nguyên tố trong tiền sử của vũ trụ vì lẽ trên không được chính xác lắm,
song những tính toán đó đã được thực hiện lại trên cơ sở những kiến
thức hiện đại và cho những kết quả trùng hợp tốt với các quan trắc thực
nghiệm. Khó mà cắt nghĩa theo một cách nào khác vì sao trong vũ trụ
nhiều heli như vậy. Do đó chúng ta có thể tin tưởng rằng chúng ta có
một bức tranh đúng đắn, ít nhất ngược lại theo thời gian đến thời điểm
khoảng 1 giây sau vụ nổ lớn.
Trong vòng một vài giờ sau vụ
nổ lớn, sự sinh ra heli và các nguyên tố khác dừng lại. Sau đó trong
vòng triệu năm tiếp theo, vũ trụ tiếp tục giãn nở và không có điều gì
đặc biệt xảy ra. Cuối cùng lúc nhiệt độ hạ xuống còn khoảng vài ngàn
độ, và electron cùng các hạt nhân không còn đủ năng lượng thoát khỏi
lực hút điện từ giữa chúng, thì chúng kết hợp với nhau tạo thành các
nguyên tử. Vũ trụ trong Hoàn cục tiếp tục giãn nở và lạnh dần, song
trong các vùng mà mật độ cao hơn trung bình, quá trình giãn nở có chậm
hơn do lực hấp dẫn ở đấy lớn hơn. Điều này có thể dẫn đến sự dừng hẳn
quá trình giãn nở của một số vùng nào đó và bắt đầu quá trình co lại.
Khi các vùng này co lại, lực hút hấp dẫn của vật chất chung quanh bên
ngoài sẽ làm cho các vùng đó bắt đầu quay. Vì các vùng này tiếp tục co
nhỏ lại nên chúng quay nhanh hơn, hoàn toàn tương tự như vận động viên
trượt băng đang quay trên băng sẽ quay nhanh hơn khi họ co tay sát sơ
thể. Cuối cùng khi vùng đang xét trở nên đủ nhỏ, thì nó quay nhanh hơn
đủ cân bằng với lực hấp dẫn và những thiên hà quay dạng hình đĩa được
hình thành theo cách đó. Các vùng khác, nếu không thu được một chuyển
động quay thì sẽ có dạng hình bầu dục và sẽ được gọi là những thiên hà
elliptic. Các thiên hà này sẽ dừng co lại vì nhiều bộ phận riêng lẻ của
chúng sẽ chuyển động trên những quỹ đạo ổn định quanh tâm thiên hà,
song về toàn cục thì thiên hà không có chuyển động quay.
Cùng với thời gian, các khối
khí hydro và heli trong các thiên hà sẽ phân rã thành các đám khí nhỏ
hơn và những đám khí này sẽ co lại dưới sức hấp dẫn của chúng. Khi
chúng co lại thì các nguyên tử ở trong sẽ va chạm nhau và nhiệt độ của
khí sẽ tăng lên, có thể đến mức đủ cao để xảy ra phản ứng nhiệt hạch.
Lúc này hydro kết thành heli, nhiệt lượng thoát ra làm tăng áp suất và
các đám mây không co lại thêm nữa. Chúng ổn định trong trạng thái đó
rất lâu như các sao giống mặt trời, đốt cháy hydro thành heli và bức xạ
phát sinh dưới dạng nhiệt và ánh sáng. Những sao có khối lượng lớn hơn
cần có nhiệt độ cao hơn để cân bằng lực hút hấp dẫn lớn hơn của chúng,
và các phản ứng nhiệt hạch xảy ra nhanh hơn, cho nên chúng sẽ tiêu hủy
hydro trong vòng chừng một trăm triệu năm. Chúng sẽ co lại, nóng lên và
bắt đầu biến heli thành những nguyên tố nặng hơn như cacbon hoặc oxy.
Song chúng không để thoát nhiều năng lượng hơn, vì vậy một trạng thái
tới hạn sẽ xảy ra như đã miêu tả ở chương nói về các lỗ đen.
Điều gì sẽ xảy ra sau đó không
hoàn toàn rõ lắm song hình như các vùng ở tâm sao sẽ co lại đến một
trạng thái mật độ cao như một sao neutron hoặc lỗ đen. Các vùng bên
ngoài đôi khi có thể bị bắn ra trong một vụ nổ gọi là vụ nổ siêu sao,
phát ra ánh sáng mạnh hơn mọi sao khác trong thiên hà. Một số nguyên tố
nặng hình thành ở cuối đời một sao sẽ bị bắn trở lại vào đám khí của
thiên hà và sẽ là nguyên liệu cho thế hệ tiếp theo của các sao. Mặt
trời của chúng ta chứa khoảng 2% các nguyên tố nặng đó vì thuộc thế hệ
sao thứ hai hoặc thứ ba, hình thành chừng năm ngàn triệu năm về trước
từ một đám mây quay chứa các mảnh vụn của các siêu sao thế hệ trước.
Phần lớn khí trong các đám mây đó sẽ cấu thành mặt trời hoặc bị bắn xa,
còn một khối lượng nhỏ các nguyên tố nặng sẽ kết với nhau thành các
thiên thể hiện đang chuyển động trên các quỹ đạo quanh mặt trời như
trái đất.
Lúc ban đầu quả đất rất nóng
và không có khí quyển. Theo thời gian quả đất lạnh dần và có được bầu
khí quyển hình thành nhờ sự khuếch tán các chất khí từ khoáng chất. Bầu
khí quyển trong quá khứ không phải là bầu khí quyển thích hợp với cuộc
sống. Bầu khí quyển này không chứa ôxy mà chỉ chứa một số chất khí khác
là độc tố cho cuộc sống như sunfua hydro (là các chất khí gây ra mùi
trứng thối). Song có những dạng sống sơ khai có thể phát triển trong
những điều kiện như vậy. Người ta cho rằng sự sống đó bắt đầu trong
những đại dương, rất có thể là kết quả ngẫu nhiên của sự phức hợp các
nguyên tử thành những cấu trúc lớn, gọi là đại phân tử, những đại phân
tử này có khả năng tập hợp nhiều nguyên tử khác trong đại dương thành
những cấu trúc tương tự. Như thế chúng có thể tự tạo và sinh sản.
Trong một số trường hợp có thể xảy ra các sai lầm trong quá trình
sinh sản. Phần lớn các sai lầm đó dẫn đến những đại phân tử mới không
có khả năng tự tạo và do đó tàn lụi dần. Song cũng có những sai lầm dẫn
đến những đại phân tử lại có khả năng tự tạo. Các đại phân tử này hoàn
hảo hơn và sẽ thay thế dần các đại phân tử trước. Bằng cách đó hình
thành một quá trình tiến hóa dẫn đến sự phát triển những cơ thể phức
tạp hơn, có khả năng tự tạo. Những dạng sống sơ đẳng lúc đầu tiêu thụ
nhiều nguyên liệu khác nhau như sunfua hydro và ôxy thoát sinh. Quá
trình này dần dần biến đổi thành phần của khí quyển đến hiện trạng và
do đó tạo điều kiện thuận lợi cho các dạng sống cao cấp hơn như cá, bò
sát, loài có vú, và cuối cùng là con người.
Bức tranh phác họa trên đây
của vũ trụ từ trạng thái rất nóng và lạnh dần trong quá trình giãn nở
của vũ trụ phù hợp với những quan trắc có được. Tuy nhiên, bức tranh đó
cũng đặt ra nhiều câu hỏi quan trọng chưa có câu trả lời:
(1) Tại vì sao vũ trụ nóng đến như vậy ở các giai đoạn đầu tiên?
(2) Vì sao vũ trụ đồng nhất
như vậy ở kích thước lớn? Tại sao vũ trụ giống nhau ở mọi điểm và theo
mọi hướng? Nói riêng vì sao nhiệt độ của bức xạ phông có trị số bằng
nhau theo mọi hướng? Tình huống tương tự như khi ta hỏi nhiều sinh viên
một câu hỏi thi, nếu chúng trả lời giống nhau thì ta có thể tin rằng
chúng đã trao đổi với nhau. Còn trong mô hình mô tả trên đây, từ vụ nổ
lớn ánh sáng không đủ thời gian để đi từ một vùng quá xa xôi đến một
vùng khác, mặc dù các vùng này vốn đã kề nhau trong giai đoạn sớm của
vũ trụ. Theo thuyết tương đối, nếu ánh sáng không thể đi từ một vùng
này đến một vùng khác, thì không có thông tin nào đã được trao đổi. Như
vậy các vùng khác nhau không thể có cùng một nhiệt độ, trừ khi chúng có
cùng một nhiệt độ lúc ban đầu vì một lý do nào đó chưa giải thích được.
(3) Vì sao vũ trụ bắt đầu giãn
nở với vận tốc tới hạn là vận tốc ranh giới giữa mô hình co lại và mô
hình giãn nở, và ngay trong thời gian hiện tại, mười ngàn triệu năm sau
vẫn còn giãn nở với vận tốc tới hạn đó? Nếu như vận tốc giãn nở tại
thời điểm một giây sau vụ nổ lớn chỉ nhỏ hơn một phần trăm ngàn triệu
triệu thì vũ trụ đã co lại trước khi bắt đầu đạt kích thước hiện nay.
(4) Mặc dầu vũ trụ đồng nhất xét ở kích thước lớn, vũ trụ vẫn chứa
những vùng định xứ có nồng độ vật chất cao hơn như các sao và thiên hà.
Người ta cho rằng các sao và thiên hà được hình thành do sự khác nhau
về mật độ của các vùng ngay trong các giai đoạn sớm của vũ trụ. Vậy
nguồn gốc của các thăng giáng mật độ là ở đâu?
Lý thuyết tương đối, xét độc
lập, không thể giải thích được các điểm trên và đưa ra các câu trả lời
cho những câu hỏi vừa đặt ra vì lý thuyết tương đối đoán nhận rằng vũ
trụ sinh ra từ một kỳ dị với mật độ vô cùng của vụ nổ lớn. Tại điểm kỳ
dị đó, lý thuyết tương đối và các định luật vật lý khác không còn đúng
nữa: người ta không thể biết điều gì sẽ xảy ra với một điểm kỳ dị đó.
Như đã giải thích trước đây, điều đó có nghĩa rằng ta có thể tách rời
vụ nổ lớn và các sự kiện trước nó ra khỏi lý thuyết vì chúng không thể
tác động lên những gì chúng ta quan sát được. Không – thời gian cần
phải có biên – đó là điểm bắt đầu từ vụ nổ lớn.
Khoa học hy vọng tìm ra các
định luật cho phép trong các giới hạn xác định bởi hệ thức bất định,
tiên đoán được sự phát triển của vũ trụ nếu ta biết được trạng thái của
nó tại một thời điểm. Những định luật đó có thể là do Chúa ban hành,
nhưng hình như sau đó Chúa đã để cho vũ trụ tự phát triển và không buồn
can thiệp vào nữa. Nhưng Chúa đã chọn điều kiện ban đầu hoặc cấu hình
vũ trụ như thế nào? “Điều kiện biên” tại điểm bắt đầu của thời gian là
điều kiện gì?
Một câu trả lời khả dĩ là cho
rằng Chúa đã chọn một cấu hình đầu tiên theo những lý lẽ mà chúng ta
không có hy vọng hiểu được. Điều đó hoàn toàn trong quyền lực của một
đấng siêu nhân, song nếu ông ta đã bắt đầu theo một kiểu khó hiểu như
vậy, thì tại sao ông ta lại để cho vũ trụ phát triển theo những quy
luật mà chúng ta có thể hiểu được? Toàn bộ lịch sử khoa học là một quá
trình tiệm cận đến nhận thức được rằng các sự kiện không phát triển một
cách ngẫu nhiên, mà chúng phản ánh một trật tự tiềm ẩn nào đó có hoặc
không có nguồn gốc thần thánh. Ta có thể giả định một cách tự nhiên
rằng trật tự đó không những được áp dụng vào các định luật mà cả vào
các điều kiện ban đầu của không – thời gian. Có thể có rất nhiều mô
hình vũ trụ với các điều kiện biên ban đầu khác nhau. Chúng ta phải đưa
ra được một nguyên tắc nào đó để chọn được một trạng thái ban đầu, do
đó chọn được một mô hình để mô tả vũ trụ.
Một khả năng là chọn cái gọi
là điều kiện hỗn độn (chaotic) ban đầu. Điều kiện này giả định hoặc vũ
trụ vô cùng trong không gian hoặc tồn tại vô số trong vũ trụ. Theo điều
kiện gọi là hỗn độn ban đầu, xác suất tìm thấy một vùng không gian bất
kỳ trong một cấu hình cho trước bất kỳ sau vụ nổ lớn là bằng nhau:
trạng thái ban đầu của vũ trụ là hoàn toàn mang tính ngẫu nhiên. Điều
đó có nghĩa là vũ trụ trước đây có nhiều xác suất là vô trật tự vì rằng
đối với vũ trụ tồn tại nhiều cấu hình hỗn độn và vô trật tự hơn là các
cấu hình đều đặn và trật tự. (Nếu mỗi cấu hình có xác suất bằng nhau
thì vũ trụ phải xuất phát từ một trạng thái hỗn độn, vô trật tự vì một
lý do đơn giản là tồn tại quá nhiều trạng thái như vậy). Rất khó hình
dung được vì sao những trạng thái hỗn độn ban đầu lại có thể dẫn đến
một vũ trụ đều đặn, trật tự ở kích thước lớn như vũ trụ hiện nay. Người
ta cũng bắt buộc phải nghĩ rằng những thăng giáng mật độ trong một mô
hình như thế nhất định phải dẫn đến sự hình thành một số lượng lỗ đen
nguyên thủy lớn hơn cận trên thu được từ các quan trắc phông tia gamma.
Nếu vũ trụ vô cùng trong không
gian, hoặc nếu tồn tại vô số vũ trụ, thì phải tồn tại ở đâu đó nhiều
vùng lớn đã trở nên đồng nhất. Tình huống này giống như lúc có một đàn
khỉ rất đông gõ máy chữ – phần lớn những điều chúng gõ ra vô nghĩa
nhưng cũng không loại trừ có xác suất là chúng thu được một bài thơ
ngắn của Shakespear. Tương tự như vậy trong trường hợp vũ trụ, cũng có
thể chúng ta ngẫu nhiên sống trong một vùng đồng nhất như thế? Thoạt
nghĩ có thể điều đó có quá ít xác suất vì những vùng hỗn độn và vô trật
tự là quá nhiều so với những vùng đồng nhất. Song hãy giả định rằng chỉ
trong những vùng đồng nhất mới tồn tại những thiên hà và các sao, ở đấy
có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của những sinh vật phức
tạp có khả năng sinh sản như con người có khả năng đặt câu nghi vấn:
Tại sao vũ trụ lại đồng nhất như thế? Đây là một ví dụ để ứng dụng cái
gọi là nguyên lý vị nhân (anthropic) được phát biểu như sau: “Chúng ta
nhìn thấy vũ trụ như vậy bởi vì chúng ta tồn tại”.
Có hai cách diễn dịch nguyên
lý vị nhân: Nguyên lý yếu và nguyên lý mạnh. Nguyên lý vị nhân yếu
khẳng định rằng trong vũ trụ vô cùng trong không gian và hoặc trong
thời gian, điều kiện thuận lợi cho sự nảy sinh một dạng sống có trí tuệ
chỉ xuất hiện ở một số vùng nhất định hữu hạn trong không gian và thời
gian. Những sinh vật có trí tuệ trong những vùng đó sẽ không ngạc nhiên
nếu chúng nhận thấy rằng địa phương của chúng trong vũ trụ thỏa mãn các
điều kiện cần thiết cho sự sống của chúng. Tình huống tương tự như lúc
một người giàu có sống trong môi trường nhung lụa không thấy được cảnh
bần cùng chung quanh.
Một ví dụ ứng dụng nguyên lý
vị nhân yếu là “giải thích” vì sao vụ nổ lớn đã xảy ra gần mười ngàn
triệu năm về trước thì cũng cần gần ấy thời gian cho sự tiến hóa của
sinh vật có trí tuệ. Như trước đây đã nói, đầu tiên một thế hệ sớm các
sao được hình thành. Các sao này biến một số hydro và heli nguyên thủy
thành cacbon và oxy vốn là các thành phần cơ thể của chúng ta. Các sao
này lại nổ thành các siêu sao, và các mảnh vỡ tàn dư lại hợp thành các
sao và hành tinh khác, trong số này có thái dương hệ của chúng ta đã
tồn tại khoảng năm ngàn triệu năm. Trong một hoặc hai ngàn triệu năm
đầu tiên của trái đất, nhiệt độ quá cao vì thế các cấu trúc phức tạp
không hình thành được. Trong ba ngàn triệu năm còn lại thì một quá
trình tiến hóa chậm sinh học đã nảy sinh dẫn đến sự hình thành từ những
cơ thể đơn giản đến các sinh vật có khả năng tư duy đi ngược theo thời
gian về vụ nổ lớn.
Nhiều người đặt nghi vấn về sự
đúng đắn và ích lợi của nguyên lý vị nhân yếu. Ngoài ra một số người đi
xa hơn và đề nghị nguyên lý vị nhân mạnh. Theo nguyên lý này, tồn tại
hoặc nhiều vũ trụ khác nhau hoặc nhiều vùng khác nhau của một vũ trụ
duy nhất, mỗi đối tượng có cấu hình ban đầu riêng và có thể có tổ hợp
riêng các định luật khoa học. Trong đa số các vũ trụ đó, điều kiện
không thuận lợi cho sự phát triển của những cơ thể phức tạp; chỉ có một
vài vũ trụ như vũ trụ của chúng ta là có điều kiện cho sự phát triển
của những sinh vật có trí tuệ đủ khả năng để đặt ra câu hỏi: vì sao vũ
trụ phải giống như ta quan sát được? Câu trả lời bây giờ sẽ trở nên đơn
giản. Nếu vũ trụ khác đi thì chúng ta sẽ không thể tồn tại ở đây được!
Các định luật khoa học, trong dạng mà chúng ta nhận thức như hiện
nay chứa nhiều hằng số cơ bản ví dụ điện tích của electron và tỷ số
khối lượng của proton và của electron. Chúng ta không thể, ít nhất là
trong điều kiện hiện nay, tính được giá trị của những hằng số đó từ lý
thuyết – chúng ta chỉ thu được các trị số đó bằng thực nghiệm. Có lẽ
một ngày nào đó chúng ta sẽ tìm được một lý thuyết thống nhất hoàn
chỉnh có khả năng tính được mọi hằng số, song cũng rất có thể rằng một
số hoặc tất cả hằng số đó lại biến thiên từ vũ trụ này sang vũ trụ khác
hoặc ngay trong một vũ trụ. Điều đáng chú ý là trị số của những hằng số
đó dường như đã được điều chỉnh một cách tinh tế sao cho cuộc sống có
thể nảy sinh và phát triển được. Ví dụ nếu điện tích electron chỉ khác
đi một tý thì các sao hoặc không thể đốt cháy hydro và heli hoặc khác
đi chúng không thể nổ thành siêu sao. Lẽ dĩ nhiên có thể tồn tại những
dạng sống khác, mà thậm chí các nhà văn viễn tưởng cũng không sáng tạo
nổi, những dạng sống không cần đến cả ánh sáng của các sao như mặt trời
hoặc các nguyên tố hóa học nặng hơn được tạo thành trong các sao và bị
bắn vào không gian khi sao nổ.
Có lẽ cũng dễ hiểu là miền xác định của các hằng số không thể rộng
được nếu các hằng số đó phải phù hợp với sự phát triển của cuộc sống
trí tuệ. Đa số các tập giá trị của các hằng số dẫn đến sự hình thành
những vũ trụ mặc dầu rất đẹp, song không phù hợp cho sự phát triển sinh
vật có khả năng chiêm ngưỡng vẻ đẹp đó. Chúng ta có thể đoán nhận hoặc
điều đó là sự chứng minh cho mục đích thiêng liêng của Chúa trong sự
sáng tạo và sự lựa chọn các định luật khoa học hoặc điều đó là sự chứng
minh cho nguyên lý vị nhân mạnh. Có một số ý kiến người ta có thể đưa
ra để phản đối ý kiến cho rằng nguyên lý vị nhân mạnh có thể giải thích
trạng thái quan sát được của vũ trụ.
Thứ nhất, ta phải hiểu sự tồn tại của nhiều vũ trụ khác như thế
nào đây? Nếu quả thực chúng tách riêng xa nhau, thì những điều xảy ra
trong một vũ trụ khác sẽ không gây một hệ quả nào quan sát được trong
vũ trụ chúng ta. Vì vậy chúng ta phải sử dụng nguyên lý tiết kiệm để
cắt bỏ chúng khỏi lý thuyết của chúng ta. Nếu, mặt khác, tồn tại nhiều
vùng khác nhau của cùng một vũ trụ, thì các định luật khoa học phải là
chung cho tất cả các vùng, vì trái lại thì chúng ta không thể chuyển
động liên tục từ một vùng này sang vùng khác. Trong trường hợp đó thì
sự khác biệt giữa các vùng quy về sự khác biệt của các cấu hình ban đầu
và như thế nguyên lý vị nhân mạnh lại quy về nguyên lý vị nhân yếu.
Ý kiến phản đối thứ hai cho là nguyên lý này đi ngược lại dòng
chảy của lịch sử khoa học. Chúng ta đã đi từ mô hình vũ trụ xem quả đất
là trung tâm của Ptolemy và các tiền bối, qua mô hình mặt trời là trung
tâm của Copernicus và Galileo, đến mô hình hiện đại trong đó quả đất
chỉ là hành tinh kích thước vừa phải quay quanh một sao trung bình
trong vùng biên của một thiên hà xoắn ốc bình thường vốn chỉ là một
trong triệu triệu thiên hà của vũ trụ quan sát được. Nguyên lý vị nhân
mạnh lại có tham vọng cho rằng toàn bộ kiến trúc khổng lồ đó tồn tại
chỉ vì con người. Điều đó quả thật là khó tin. Chắc chắn rằng thái
dương hệ là một tiền đề cho cuộc sống của chúng ta, và chúng ta cũng có
thể ngoại suy nghĩ đó cho toàn thiên hà của chúng ta để cho phép sự tồn
tại các thế hệ sao trước đã tạo nên những nguyên tố nặng hơn. Song
dường như không có một sự cần thiết nào buộc các thiên hà khác và cho
vũ trụ phải đồng nhất và giống nhau theo mọi phương hướng ở kích thước
lớn.
Chúng ta sẽ cảm thấy yên tâm hơn với nguyên lý vị nhân, ít nhất ở
phương án yếu, nếu chúng ta có thể chứng minh rằng nhiều cấu hình ban
đầu khác nhau của vũ trụ sẽ tiến triển để tạo một vũ trụ giống như vũ
trụ đang quan sát được. Nếu quả như vậy, thì một vũ trụ thoát thai từ
những điều kiện hỗn độn ban đầu sẽ chứa một vùng đồng nhất, đều đặn
thích hợp cho sự nảy sinh cuộc sống trí tuệ. Mặt khác, nếu trạng thái
ban đầu đã được chọn tuyệt đối cẩn thận để được một vũ trụ mà chúng ta
thấy chung quanh, thì vũ trụ đó chắc có ít xác suất chứa một vùng nào
đó trong đó sự sống có thể xuất hiện. Trong mô hình nóng của vụ nổ lớn
mô tả trước đây, chúng ta đã thấy ở giai đoạn sớm của vũ trụ, nhiệt
lượng không đủ thời gian để chảy từ vùng này sang vùng khác. Điều đó có
nghĩa rằng trạng thái ban đầu của vũ trụ phải có cùng một nhiệt độ ở
mọi nơi, có như thế thì ta mới quan sát được hiện tượng bức xạ phông có
cùng một nhiệt độ ở mọi nơi theo mọi hướng. Tốc độ giãn nở ban đầu cũng
phải được chọn rất chính xác thì tốc độ giãn nở hiện nay mới tiếp tục
xấp xỉ tốc độ tới hạn cần thiết để tránh quá trình co lại. Điều đó có
nghĩa rằng trạng thái ban đầu của vũ trụ phải được chọn rất cẩn thận
nếu mô hình nóng của vụ nổ lớn là đúng ngược mãi tận tới điểm ban đầu
của thời gian. Rất khó giải thích vì sao vũ trụ được bắt đầu như vậy,
trừ khi cho rằng đây là hành động của Chúa muốn tạo nên những sinh vật
như chúng ta.
Với ý đồ tìm một mô hình của vũ trụ, trong đó nhiều cấu hình khác
nhau ban đầu có thể tiến triển đến một vũ trụ như hiện tại, một nhà
khoa học công tác tại Viện công nghệ Massachusetts là Alan Guth đã đưa
ra gợi ý trong các giai đoạn sớm vũ trụ đã trải qua một thời kỳ giãn nở
cực nhanh. Thời kỳ giãn nở cực nhanh này được gọi là thời kỳ lạm phát,
với ý nghĩa rằng trong thời kỳ đó vũ trụ đã giãn nở với tốc độ tăng dần
chứ không phải giảm dần như hiện tại. Theo Guth, bán kính của vũ trụ đã
tăng vọt lên triệu triệu triệu triệu triệu (1 với ba mươi con số không)
lần trong chỉ một phần rất nhỏ của giây.
Guth gợi ý rằng vũ trụ đã bắt đầu từ một vụ nổ lớn, từ một trạng
thái rất nóng, nhưng rất hỗn độn. Các nhiệt độ cao này làm cho các hạt
trong vũ trụ chuyển động rất nhanh và có năng lượng rất lớn. Như đã nói
ở trên những nhiệt độ cao như vậy các lực tương tác mạnh, yếu và điện
tử hợp nhất thành một lực duy nhất. Trong quá trình giãn nở, vũ trụ
lạnh dần, năng lượng các hạt giảm đi. Có thể xảy ra quá trình gọi là
chuyển pha và đối xứng giữa các lực bị phá vỡ: lực tương tác mạnh trở
nên khác biệt với các lực tương tác yếu và điện từ. Một ví dụ thông
thường của quá trình chuyển pha là quá trình nước đóng băng khi nhiệt
độ hạ thấp. Nước lỏng có đối xứng giống nhau ở mọi điểm và theo mọi
hướng. Song các tinh thể băng hình thành, chúng sẽ chiếm những vị trí
nhất định và xếp thành hàng theo một hướng nào đó. Điều này phá vỡ đối
xứng của nước ở trạng thái lỏng.
Trong trường hợp nước, nếu cẩn thận chúng ta có thể làm “siêu
lạnh” nước, điều đó có nghĩa là chúng ta có thể đưa nhiệt độ xuống dưới
nhiệt độ đóng băng 0 độ C mà băng vẫn chưa xuất hiện. Guth gợi ý rằng
điều đó có thể xảy ra cho vũ trụ: nhiệt độ giảm xuống dưới trị số giới
hạn mà đối xứng giữa các lực vẫn chưa bị phá vỡ. Nếu điều đó xảy ra, vũ
trụ sẽ rơi vào một trạng thái ổn định, với năng lượng lớn hơn năng
lượng ứng với lúc đối xứng bị phá vỡ. Có thể chứng minh rằng năng lượng
dôi này sẽ gây ra hiệu ứng phản hấp dẫn: nó sẽ có tác động như hằng số
vũ trụ mà Einstein đã đưa vào lý thuyết tương đối rộng khi ông muốn xây
dựng một mô hình tĩnh của vũ trụ.
Vì vũ trụ đã giãn nở giống như trong mô hình nóng của vụ nổ lớn,
cho nên hiệu ứng đẩy của hằng số vũ trụ này làm cho vũ trụ giãn nở với
vận tốc luôn tăng. Ngay cả trong những vùng với mật độ hạt lớn hơn
trung bình, hiệu ứng phản hấp dẫn gây ra bởi hằng số vũ trụ đó cũng
vượt quá hấp dẫn. Do đó các vùng này phải giãn nở theo quy luật gia
tăng lạm phát. Trong quá trình giãn nở, các vùng đó và các hạt vật chất
sẽ đi xa nhau và ta có được một vũ trụ giãn nở với mật độ hạt nhỏ và
hiện nằm trong trạng thái siêu lạnh. Mọi điểm bất thường trong vũ trụ
sẽ bị là đều vì quá trình giãn nở, tương tự như những nếp nhăn của một
quả bóng biến dần khi ta thổi không khí vào. Như vậy trạng thái đồng
nhất và đều đặn hiện nay của vũ trụ có thể đạt được trong quá trình
tiến triển từ nhiều trạng thái không đồng nhất khác nhau.
Trong một vũ trụ như thế, quá trình giãn nở được gia tốc bởi hằng
số vũ trụ và không bị hãm dần bởi lực hấp dẫn của vật chất, ánh sáng có
đủ thời gian để thực hiện hành trình từ vùng này sang vùng khác trong
các giai đoạn sớm của vũ trụ. Tình huống này có thể đưa ra lời giải cho
bài toán nêu ra trước đây: vì sao các vùng khác nhau của vũ trụ có cùng
những tính chất giống nhau. Ngoài ra, vận tốc nở của vũ trụ sẽ tự động
trở nên xấp xỉ vận tốc giới hạn xác định bởi mật độ trong vũ trụ. Điều
này có thể giải thích câu hỏi vì sao vận tốc giãn nở của vũ trụ vẫn gần
vận tốc giới hạn, mà không cần giả định rằng vận tốc giãn nở ban đầu
của vũ trụ đã được lựa chọn một cách cẩn thận.
Ý niệm về lạm phát cũng giúp ta giải thích được vì sao có nhiều
vật chất như vậy trong vũ trụ. Có chừng mười triệu triệu triệu triệu
triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu (1 với tám
mươi số không) hạt trong vùng không gian mà chúng ta có thể quan sát
được. Chúng từ đâu đến? Theo thuyết lượng tử các hạt đó được sinh ra từ
năng lượng trong cặp hạt/phản hạt. Song bây giờ lại đến câu hỏi, năng
lượng từ đâu ra? Câu trả lời là năng lượng toàn phần của vũ trụ chính
xác bằng không. Vật chất trong vũ trụ được cấu tạo từ năng lượng dương.
Song vật chất lại hút nhau vì hấp dẫn. Hai lượng vật chất gần nhau có
ít năng lượng hơn là khi chúng xa nhau, bởi vì chúng phải sản ra năng
lượng để kéo chúng ra xa chống lại hấp dẫn đang kéo chúng lại gần nhau.
Như thế trong một ý nghĩa nhất định, trường hấp dẫn có năng lượng âm.
Trong trường hợp của một vũ trụ gần đồng nhất trong không gian, người
ta có thể chứng minh được rằng năng lượng hấp dẫn âm này sẽ triệt tiêu
năng lượng dương của vật chất. Như thế năng lượng toàn phần của vũ trụ
bằng không.
Hai lần không vẫn là không. Cho nên vũ trụ có thể tăng gấp đôi
năng lượng dương của vật chất và đồng thời tăng gấp đôi năng lượng âm
của hấp dẫn mà vẫn không vi phạm định luật bảo toàn năng lượng. Điều
này không thể xảy ra trong một quá trình giãn nở bình thường của vũ
trụ, trong đó mật độ năng lượng vật chất giảm đi khi vũ trụ trở nên lớn
hơn. Song điều đó có thể xảy ra trong một quá trình giãn nở lạm phát
bởi vì mật độ năng lượng của trạng thái siêu lạnh vẫn không thay đổi
khi vũ trụ giãn nở: Khi kích thước vũ trụ tăng gấp đôi, năng lượng
dương của vật chất và năng lượng âm của hấp dẫn cũng tăng gấp đôi do đó
năng lượng toàn phần vẫn bằng không. Trong pha lạm phát, kích thước của
vũ trụ tăng lên rất nhiều. Như thế toàn phần năng lượng hiện hữu để tạo
nên các hạt đều trở nên rất lớn. Như Guth đã nhận xét: “Có thể nói đây
là một bữa tiệc không mất tiền. Và vũ trụ là bữa tiệc không mất tiền
tối hậu”.
Vũ trụ hiện nay không giãn nở theo quy luật lạm phát. Như thế phải
tồn tại một cơ chế có khả năng loại bỏ hằng số vũ trụ hiệu dụng quá lớn
và như vậy biến vận tốc giãn nở từ quá trình gia tốc về quá trình chậm
dần vì hấp dẫn như chúng ta hiện nay. Trong giai đoạn lạm phát có thể
đối xứng giữa các lực bị phá vỡ, tương tự nước siêu lạnh rồi cuối cùng
cũng phải đông lại. Năng lượng dôi ra của đối xứng bị phá vỡ thoát ra
và hâm nóng vũ trụ đến một nhiệt độ vừa đúng dưới nhiệt độ tới hạn ứng
với đối xứng giữa các lực. Vũ trụ tiếp tục giãn nở và lạnh dần đúng như
mô hình nóng của vụ nổ lớn, song bây giờ ta lại cần giải thích tại sao
vũ trụ giãn nở với vận tốc tới hạn và vì sao các vùng khác nhau có cùng
một nhiệt độ.
Trong lý thuyết ban đầu của Guth, quá trình chuyển pha được giả
định là xảy ra đột ngột, tương tự như các tinh thể băng trong nước thật
lạnh. Có thể nghĩ rằng các “bong bóng” của pha mới của đối xứng bị phá
vỡ được hình thành trong pha cũ, tương tự như các bong bóng hơi được
bao bọc bởi nước đang sôi. Các bong bóng được giả định là giãn nở và
gặp nhau cho đến khi toàn bộ vũ trụ rơi vào pha mới. Một khó khăn, mà
tôi và nhiều người khác đã chỉ ra là vũ trụ giãn nở quá nhanh cho dẫu
rằng các bong bóng lớn lên bằng tốc độ ánh sáng, chúng cũng sẽ chuyển
động xa nhau ra và không kịp gặp nối nhau. Như vậy vũ trụ rơi vào trạng
thái không đồng nhất, với một số vùng vẫn còn có đối xứng giữa các lực.
Một bức tranh như thế không tương ứng với những điều ta quan sát được.
Tháng 10 năm 1981, tôi đến Matxcơva tham dự hội thảo về hấp dẫn
lượng tử. Sau hội thảo, tôi có làm một seminar về mẫu lạm phát và các
vấn đề của mẫu đó tại Viện thiên văn Sternberg. Trước đây tôi thường
nhờ một người khác đọc báo cáo thay tôi vì đa số không hiểu được giọng
nói của tôi. Nhưng lúc này tôi không còn thì giờ chuẩn bị nên tôi tự
đọc, và chỉ nhờ nghiên cứu sinh của tôi phát lại những lời tôi nói.
Phương thức này khá có kết quả và tạo được mối tiếp xúc với thính giả.
Trong buổi seminar có một người Nga còn trẻ là Andrei Linde làm việc ở
Viện Lebedev tại Matxcơva. Linde cho rằng có thể tránh được khó khăn
gắn liền với điều các bong bóng không nối với nhau, nếu ta cho rằng các
bong bóng lớn tới mức mà vùng vũ trụ của ta nằm trọn trong một bong
bóng. Để giả thuyết được hợp lý thì sự phá vỡ đối xứng phải xảy ra rất
chậm trong bong bóng và điều này là hoàn toàn khả dĩ trên lý thuyết
thống nhất lớn.
Ý tưởng của Linde về một quá trình phá vỡ đối xứng chậm là rất hấp
dẫn, song sau này tôi hiểu rằng những bong bóng của Linde phải lớn hơn
kích thước vũ trụ vào lúc đó. Tôi đã chứng minh rằng đối xứng bị phá vỡ
khắp mọi nơi chứ không phải trong lòng các bong bóng. Điều này sẽ dẫn
đến một vũ trụ đồng nhất, đúng như ta quan sát. Tôi rất tâm đắc với ý
tưởng này và cùng bàn luận với một sinh viên của tôi là Ian Moss. Với
tư cách là một người bạn của Linde, tôi hơi bối rối khi sau này nhận
được bài báo của Linde do một tạp chí khoa học gửi đến hỏi liệu bài báo
có thể công bố hay không. Tôi đã trả lời rằng còn điểm yếu về các bong
bóng lớn hơn vũ trụ, song ý tưởng cơ bản về quá trình phá vỡ đối xứng
chậm là rất hay. Tôi có khuyến nghị cho đăng bài báo vì tôi nghĩ rằng
nếu không Linde sẽ mất rất nhiều tháng để sửa chữa lại, bởi vì mọi tài
liệu mà ông đã gửi sang phương Tây phải được thông báo qua kiểm duyệt
của Liên Xô (cũ), vốn không am hiểu lắm và cũng không mau mắn gì đối
với những bài báo khoa học. Tôi có viết cùng với Ian Moss một bài báo
ngắn gửi đăng cùng số báo, trong đó chúng tôi đặt lại vấn đề các bong
bóng và chỉ ra cách giải quyết vấn đề.
Vừa từ Matxcơva trở về, hôm sau tôi đã bay tới Philadenphia để
nhận huy chương của Viện Franklin. Cô thư ký của tôi là Judy Fella đã
sử dụng sắc đẹp duyên dáng của mình để thuyết phục hãng British Airways
cấp cho cô ta và tôi hai vé máy bay không mất tiền xem như một hợp đồng
quảng cáo cho hãng. Tiếc rằng tôi đến sân bay chậm vì mưa to và lỡ
chuyến máy bay. Nhưng rồi tôi cũng đến được Philadenphia để nhận huy
chương dành cho tôi. Người ta yêu cầu tôi làm một seminar về mẫu lạm
phát của vũ trụ tại Trường Đại học Drexel ở Philadenphia. Và tôi đã báo
cáo về các vấn đề nở lạm phát của vũ trụ, tương tự như ở Matxcơva.
Một ý tưởng gần giống của
Linde cũng được phát triển độc lập sau đó vài tháng bởi Paul Steinhardt
và Andreas Albrecht tại trường Đại học Pensylvania. Bây giờ họ cùng với
Linde có vinh dự chung vì đã đưa ra “mô hình lạm phát mới”, dựa trên ý
tưởng về một quá trình đối xứng chậm. (Mô hình lạm phát cũ dựa trên ý
tưởng ban đầu của Guth về một quá trình phá vỡ đối xứng nhanh kèm theo
sự hình thành các bong bóng).
Mô hình lạm phát mới là một mô hình tốt có khả năng giải thích vì
sao vũ trụ lại có dạng như hiện nay. Song, nhiều người khác và tôi đã
chứng minh rằng mô hình đó, ít nhất là trong phương án ban đầu, đã dẫn
đến những thay đổi về nhiệt độ của bức xạ phông lớn hơn nhiều so với
các quan trắc thu được. Các phương án sau cũng gây ra mối nghi ngờ liệu
có tồn tại một quá trình chuyển pha kiểu như vậy ở giai đoạn rất sớm
của vũ trụ hay không. Theo ý kiến của riêng tôi, thì mô hình lạm phát
mới này bây giờ cũng đã chết như một lý thuyết khoa học, mặc dầu cũng
còn một số người dường như chưa nghe biết và vẫn tiếp tục viết về mô
hình đó.Source http://www.tredeponline.com/post/archives/32197
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.