Chú Đại Bi
Nīlakaṇṭha Dhāraṇī
Huỳnh Bá Hinh
***
Chú đại bi – Wikipedia tiếng Việt
Nīlakaṇṭha Dhāraṇī - Wikipedia, the free encyclopedia
VIDEO
-
-
-
Tượng Thiên thủ thiên nhãn chùa Bút Tháp Việt Nam
1/- Nhập đề lung khởi:
Nhà tôi trước kia ở trên mặt đường ngay đầu một con hẻm nhỏ dẩn từ đường Cô Bắc sang tới cuối đường Đề Thám cận với đường lớn Trần Hưng Đạo. Tuy là xóm hẻm nhưng theo tôi nhớ cũng có trên 100 ngôi nhà chen chúc nhau vào lúc ấy. Xóm càng nghèo càng đông là chuyện thường thấy ở khắp nơi, mà có người thì có những lễ nghi của quan hôn tang tế.
Chuyện bắt đầu từ lúc nào thì tôi không nhớ nhưng hể trong xóm có người qua đời do tuổi tác, bệnh tật, nạn tai hay chiến tranh thì đều đặt quan mượn ngay trước cửa nhà vì đó là chỗ trống rộng rải duy nhất để mọi người tụ họp. Tiếng khóc, nhạc đám ma, người đến điếu viếng an ủi, kẻ góp nhặt phúng góp giúp tang gia.
Ma chay dỉ nhiên phải rước thầy về làm lể cầu siêu, hòa lẩn trong tiếng mỏ đêm khuya, tiếng chuông khánh sáng là giọng trầm bổng u oán của các thầy với những từ ngữ lạ hoắc đại để như " bà dô bà ra, lật y mông" mà tôi chẵng hiểu gì ở lứa tuổi đó. Có lần, sau buổi tụng tôi có đánh bạo hỏi thầy và sau nầy trên đường đời với nhiều vị thầy khác nữa thì được trả lời gần gần như nhau.
"Đó là chú của nhà Phật, bất khả tư nghì không thể nghĩ bàn, nói ra thì mất đi sự linh ứng". Lúc nhỏ thì tôi tin lắm.
Tượng Thiên thủ thiên nhãn chùa Bái Đính
2/- Dẫn nhập:
NGÔN NGỮ là tiếng nói của một nhóm người, khảo cứu ngôn ngữ qua 3 khía cạnh chuyên môn như hình thái (forms), ngữ nghĩa (meaning) và ngữ cảnh (context) là chuyện của các nhà chuyên môn Linguistic, tôi chỉ hiểu đơn giản rằng có tiếng nói thì có ÂM THANH. Loại âm thanh đơn hay đa, trầm hay bổng đó (hình thái ) được một nhóm người đều đồng ý đặt định cho sự vật gì hữu hình (cảnh) hay một loại tâm trạng xúc cảm vô hình nào (nghĩa). Tóm lại, tiên quyết của ngôn ngữ là tiếng động là âm thanh.
VĂN TỰ là chữ viết, phân tích cùng khắp rồi cũng chỉ đến kết luận là hình thức " ký hiệu hay cách lối vẽ lại âm thanh " để người có cùng kiến thức được đặt định như mình có thể phát ra tiếng đó hoặc âm thanh đó.
3/- Vào bài:
Sau một thời gian tìm hiểu, tôi được biết thêm bài chú các thầy thường tụng đó có tên gọi rất dài là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni do ngài bồ tát Quán Thế Âm tuyên chú trước hội các chư Phật chư Bồ tát.
Không mang ý nghĩa riêng tư nào, khi tìm hiểu thêm, chúng ta thấy xuất thân ngài Quán Âm không như đức Phật Thích Ca hoặc như chư thánh tăng sau này. Ngài chỉ hóa hiện ra trong kinh điển và tượng thờ nơi các chùa mà không có chứng cứ nào cho thấy ngài xuất hiện trong thế gian thực tại này. Nói cho rõ hơn, ngài không có một lý lịch rõ rệt về quê quán, cha mẹ, nơi tu đạo, lúc mất hoặc xá lợi gì để lại cho chúng sanh phàm trần. Ngài chỉ xuất hiện trong kinh điển Bắc tông và sẽ linh ứng mãi khi còn có người tụng niệm.
Bài chú Đại Bi lúc đầu được ghi chép bằng văn tự Sanskrit hay còn gọi là Bắc Phạn. Các nhà ngôn ngữ học ngày nay tìm thấy nhiều tài liệu để chứng minh rằng Sanskrit thuộc hệ ngôn ngữ Indo-Iranian và ảnh hưởng trực tiếp đến hệ Indo-European nguyên thủy lúc đầu. Rất nhiều các từ của Âu Châu và Anh ngữ ngày nay có nguồn gốc từ tiếng Sanskrit hay nói như các nhà Linguistic thời đại này thì "Sanskrit is the root of all languages: Sanskrit là rễ nguồn của nhiều nền ngôn ngữ khác ). Điều này dĩ nhiên dấy lên làn sóng tranh cãi giữa các cụ Âu Châu và các cụ Á Châu nhưng không thuộc về phạm vi bài biết này.
https://mutiny.wordpress.com/ 2007/02/09/sanskrit-mother-of- european-languages-says-prof- dean-brown/
Bài chú Đại Bi lúc đầu được ghi chép bằng văn tự Sanskrit hay còn gọi là Bắc Phạn. Các nhà ngôn ngữ học ngày nay tìm thấy nhiều tài liệu để chứng minh rằng Sanskrit thuộc hệ ngôn ngữ Indo-Iranian và ảnh hưởng trực tiếp đến hệ Indo-European nguyên thủy lúc đầu. Rất nhiều các từ của Âu Châu và Anh ngữ ngày nay có nguồn gốc từ tiếng Sanskrit hay nói như các nhà Linguistic thời đại này thì "Sanskrit is the root of all languages: Sanskrit là rễ nguồn của nhiều nền ngôn ngữ khác ). Điều này dĩ nhiên dấy lên làn sóng tranh cãi giữa các cụ Âu Châu và các cụ Á Châu nhưng không thuộc về phạm vi bài biết này.
https://mutiny.wordpress.com/
Trung Hoa vào thế kỷ thứ bảy khi mà đại sư Huyền Trang thỉnh tam tạng kinh điển từ Thiên Trúc về. Sau đó , tuy ốm đau và lớn tuổi, ngài đã ra sức dịch thuật và giới thiệu đến hậu thế cùng với công phu bao đời của các vị uyên thâm sau như ngài Nghĩa Tịnh v.v... để có phần Hán Tạng phong phú hiện nay. Truớc ngài Huyền Trang, cũng đã có những vị như Ngài Cưu Ma La Thập, ngài Bồ Đề Lưu Chi, nhưng phần dịch thuật của các ngài lại không được đón nhận nhiều.
Tượng Thiên thủ thiên nhãn chùa Đào Xuyên, VN
4/- Đặt vấn đề:
Vậy ta được biết, bài chú mà chúng ta tụng niệm hằng ngày trước tiên có xuất xứ từ Sanskrit Bắc Phạn, sau đó được dịch sang Hán ngữ và cuối cùng được dịch sang tiếng Việt Nam. Nhưng dịch làm sao mà ta không hiểu một câu nào? Thậm chí đến một chữ cũng không. Vấn đề ở đâu? Và tại sao ta cần phải hiểu nghĩa lý trong đó, mọi người trì tụng rầm rì cả ngàn năm nay có sao đâu?
Còn nhớ trước năm 75 chúng ta được đọc các tác phẩm văn chương của Nga, Đức, Nhật v.v... qua các bản dịch từ tiếng Pháp, tiếng Anh của các dịch giả Việt Nam mà vẫn hiểu rõ ràng từng câu từng chữ. Tuy người Pháp cho rằng "Traduire c'est trahir - dịch tức là phản". Nhưng nếu cho rằng dịch một ngoại ngữ từ một ngoại ngữ thứ hai hoàn toàn không thể hiểu được thiếu phần chính xác ở đây. Bằng chứng rõ ràng là ta đọc và hiểu được qua tiếng Việt các tác phẩm như " Chiến tranh và Hòa bình " bác sĩ Zhivago" " Câu chuyên dòng sông" v.v...
Tượng Thiên thủ thiên nhãn chùa Mễ Sở, VN
5/- Suy diễn vấn đề:
Dịch thuật theo tôi chỉ là giải thích sự biến đổi âm thanh từ HÌNH THÁI quy định trước của nhóm người này qua một loại HÌNH THÁI âm thanh quy định của nhóm người khác sao cho họ ( 2 nhóm người ) cùng hiểu phiên phiên như nhau về NGHĨA và CẢNH. Nhưng nếu trong ngôn ngữ của nhóm này không có loại âm thanh đó thì sao? Do đó, từ sự phiên dịch chúng ta có thêm việc phiên âm là lối phát ra âm lơ lớ tạo ra được âm thanh gần như của phía bên này nhưng không có nghĩa cảnh gì của phía bên kia. Thí dụ dễ hiểu và gần với chủ đề bài này nhất tôi xin tạm dùng các chữ ngoại quốc như: - Washington - France - Italy - Turkey v.v... chẳng hạn.
Ngày nay, chúng ta nhìn văn tự trên ( vốn là ký hiệu theo lối alphabet ) thì có thể đọc thẳng các từ trên do " vẻ lại đúng âm thanh". Nhưng với người Trung Hoa trước đây thì không thể được, trước hết họ không được huấn luyện để đọc ra các ký hiệu đó, tiếp nữa âm thanh của họ không có những hình thái đó để họ vẽ lại.
Như có đề cập ở trên, không phiên dịch được thì họ đành phải phiên âm, tức là mượn những ký hiệu nào có âm thanh gần gân phiên phiên lơ lớ như vậy để vẽ lên mà không mang bất cứ Nghĩa hay Cảnh nào trong trường hợp này.
Đây là hình vẽ các âm thanh trên và âm người Trung Hoa có thể phát ra mà ký hiệu alphabet ghi lại được: - 华盛顿 huá shèng dùn - 法蘭西 fǎ lang xī - 意大利 yì dà lì -- 土耳其 tǔ ěr qí .
Khi vẽ như vậy, người Trung Hoa có thể đọc lên các từ trên rất gần với nguyên âm, nhưng khi Hán Tự của Trung Hoa sang đến Việt Nam thì được chuyển đổi thành Hán Việt là hệ thống có cùng hình thái -ngữ nghĩa-ngữ cảnh như bên Trung quốc nhưng lại có lối phát âm địa phương khác nhau. Điều này cũng không khó hiểu lắm khi hiện nay Trung Hoa có khoảng 300 ngôn ngữ khác nhau tuy cùng phát âm trên một chữ viết từ khi nhà Tần thống nhất, mãi đến gần đây đã được lối chữ bính âm hay dễ hiểu hơn một lối vẽ mới đơn giản hơn dần thay thế lối vẽ phồn thể nhiều nét. Như vậy, một chữ viết ra của Hán ngữ có gần 300 âm địa phương phát ra khác nhau.
Hệ Hán-Việt (Nam) khi đọc lên Hán tự lại có các âm khác rất nhiều so với âm Hán-Trung (Hoa) nên chúng ta đọc nên các âm sau đây: - Hoa Thịnh Đốn - Pháp Lan Tây - Ý Đại Lợi - Thổ Nhỉ Kỳ .
Dĩ nhiên, những âm trên hoàn toàn là tối nghĩa, không mang một ý thức hay ý tứ nào, nó chỉ giúp ích cho người Trung Hoa mượn đọc các âm ngoại khác mà không dùng cho người Việt đọc lên mang theo một ý nào. Không thể nào dịch Washington là nơi hoa khốn đốn rơi thịnh đầy , không dịch được France là hoa Lan trồng theo phương pháp ở hướng tây v.v...
Cuối cùng, chỉ có hành động từ một phiên dịch chuyển thể sang một phiên dịch khác là rõ ràng và sáng nghĩa, ngược lại ta cũng thấy được sự vô ý sự cẩu thả hay nói nặng hơn là hành động mông muội của việc lấy phiên âm từ một ngoại quốc chuyển sang một loại phiên âm khác hay từ phiên âm chuyển sang phiên dịch càng tệ hại hơn.
Người xưa có nói, làm thầy thuốc phạm sai lầm thì giết một mạng người, làm chính trị sai lầm giết một dân tộc nhưng làm văn hóa sai lầm thì giết cả một thế hệ.
Trong những bài kinh Phạn được phiên âm sang tiếng Hán rồi lại phiên âm lần thứ nhì qua tiếng Hán-Việt tối nghĩa trên, đây không những là giết một thê hệ mà trên ngàn năm qua đã giết cả một nền đạo học tâm linh của biết bao thế hệ người Việt. Tệ hại nhất, là hàng tăng chúng với kỹ thuật hiện đại ngày nay lại không tìm hiểu nghiên cứu để phục hồi lại ý tưởng thâm diệu ban đầu của kinh tạng.
Chẳng những vậy, y cứ trên hàng cư sĩ không hiểu rõ đạo, các thầy giảng dạy tùy hứng tùy tâm trí sở kiến của các thầy đến với người nghe, rõ ràng là đem hạ kinh điển chư Phật xuống ngang hàng với kiến thức không thể nghĩ bàn của bản thân mình.
Phật pháp thậm thâm vi diệu cứ như thế được một số tăng chúng vô minh lợi dụng.
Sau đây sẽ dùng một câu rút từ bài chú Đại Bi bằng tiếng Sanskrit với các phiên dịch qua tiếng Anh, tiếng Việt, tiếng Trung cùng với các phiên âm của Hán-Trung và Hán Việt để chúng ta dễ dàng theo dõi và nắm giữ mạch của bài viết cũng như quý vị chú ý nhất vào phần phân câu và ngắt đoạn, do phiên âm không hiểu lời kinh nên người Trung Hoa đã ngắt thành 84 câu với những lời giải thích mơ hồ, lời chú nghĩa hoàn toàn sai nguyên nghĩa và còn sai quấy hơn trong việc y vào 84 câu mà chế bậy xuất tượng ra 84 hóa thân của đức Quán Âm mà mỗi câu là một hình tướng khác nhau trong khi nguyên văn vốn chỉ có 36 câu.
- Sanskrit : Namo ratna-trayāya Namo āriyā - valokite - s'varāya
Sau đây sẽ dùng một câu rút từ bài chú Đại Bi bằng tiếng Sanskrit với các phiên dịch qua tiếng Anh, tiếng Việt, tiếng Trung cùng với các phiên âm của Hán-Trung và Hán Việt để chúng ta dễ dàng theo dõi và nắm giữ mạch của bài viết cũng như quý vị chú ý nhất vào phần phân câu và ngắt đoạn, do phiên âm không hiểu lời kinh nên người Trung Hoa đã ngắt thành 84 câu với những lời giải thích mơ hồ, lời chú nghĩa hoàn toàn sai nguyên nghĩa và còn sai quấy hơn trong việc y vào 84 câu mà chế bậy xuất tượng ra 84 hóa thân của đức Quán Âm mà mỗi câu là một hình tướng khác nhau trong khi nguyên văn vốn chỉ có 36 câu.
- Sanskrit : Namo ratna-trayāya Namo āriyā - valokite - s'varāya
- Hán Trung văn tự: 南無喝囉怛那哆囉夜耶南無.阿唎耶婆盧羯帝. 爍缽囉耶
- Hán-Trung âm: nā mo hē là dá nà duō là yè yé nā mo a lī yé wó lú jié dì shuò bō là yé
- Hán Việt đọc từ Trung Văn: Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da Nam Mô A Rị Da Bà Lô Yết Đế Thước Bát Ra Da
Tìm hiểu từng phần đoạn cổ kinh trên, ta lần lượt hiểu ra:
Tìm hiểu từng phần đoạn cổ kinh trên, ta lần lượt hiểu ra:
Namo hay còn được viết hoặc phát âm là Namah hay Namas có nghĩa là Thành kính hưóng về...
Ratna: là châu báu quý giá hay còn được gọi là Bảo theo Hán Việt.
Tra: từ gốc có nghĩa là ba hay Tam của Hán Việt, ở đây chúng ta nghe thấy các âm Tri của Latin, Tres của Tây Ban Nha, Trois của Pháp hay Three của Anh Ngữ.
Trayaya ở đây có nghĩa là thể trạng 3 không tách rời nhau.
Ariya: là đấng thanh khiết, đấng huệ trí.
Valokite còn đọc là Avalokite có nghĩa là sự tự tại.
S'varāya hay còn đọc là s'varay (sound) chứ không phải là svaha (hail) có nghĩa là âm thanh chứ không có nghĩa là một lời chào mừng như nhiều người lầm tưởng.
Vậy nguyên văn của Namo ratna-trayāya Namo āriyā valokite s'varāya có nghĩa hết sức rỏ ràng là Thành kính hướng tâm đảnh lể ngôi Tam Bảo, thành kính hướng tâm đảnh lể đấng tự tại và âm thanh.
Vậy nguyên văn của Namo ratna-trayāya Namo āriyā valokite s'varāya có nghĩa hết sức rỏ ràng là Thành kính hướng tâm đảnh lể ngôi Tam Bảo, thành kính hướng tâm đảnh lể đấng tự tại và âm thanh.
Ta biết thêm do từ danh hiệu của ngài Avalokite Svaraya mà người Trung Hoa tôn ngài là Quán Tự Tại hay Quán Thế Âm hay Quán Âm. Cũng xin nói rỏ thêm, danh từ Svaraya Quán Âm được thêm vào kinh điển sau thế kỷ thứ bảy chứ trước đó chưa hề xuất hiện. Có thể tín ngưỡng thiên hạ thấy ngài tự tại quá không được nên mới giao cho việc quán sát âm thanh để cứu độ chúng sanh.
Dưới đây là toàn bộ bài chú Đại Bi với âm Hán Việt và lời chú giải, phần viết đậm nhạt vốn chỉ là ngắt câu cho mỗi nghĩa, nhưng được viết chung để nối ý vào nhau.
Câu 1
Namo ratna-trayāya Namo āriyā-valokite-s'varāya Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da (thành kính đảnh lể ngôi tam bảo)
Nam Mô A Rị Da Bà Lô Yết Đế Thước Bát Ra Da
(thành kính đảnh lể đức Quán Tự Tại - đức Quán Thế Âm)
Câu 1
Namo ratna-trayāya Namo āriyā-valokite-s'varāya Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da (thành kính đảnh lể ngôi tam bảo)
Nam Mô A Rị Da Bà Lô Yết Đế Thước Bát Ra Da
(thành kính đảnh lể đức Quán Tự Tại - đức Quán Thế Âm)
Câu 2
Bodhi-sattvāya Maha-sattvāya Mahā-kārunikāya Bồ Đề tát đỏa bà da ma ha tát đỏa bà da ma ha ca lô ni ca da.
(bậc bồ tát giác ngộ hữu tình - bậc đại sĩ - bậc đại bi tâm)
Câu 3
Om sarva rabhaye sudhanadasya
Án Tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tả (tán thán việc quy y nhất thiết thánh chúng và chánh pháp tùy thuộc)
Om sarva rabhaye sudhanadasya
Án Tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tả (tán thán việc quy y nhất thiết thánh chúng và chánh pháp tùy thuộc)
Câu 4
Namo skritva imam āryā-valokite-s'vara ram dhava Namo narakindi hrih
Nam mô tất kiệt lật đỏa y mông a rị da bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà Nam mô na ra cẩn trì hê rị
(Sau khi hoàn tất việc đảnh lể đức Quán Tự Tại Quán Âm đại từ tâm địa, tiếp đến thành kính đảnh lể bậc đại chí thánh, bậc hiền thiện tôn giả)
Namo skritva imam āryā-valokite-s'vara ram dhava Namo narakindi hrih
Nam mô tất kiệt lật đỏa y mông a rị da bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà Nam mô na ra cẩn trì hê rị
(Sau khi hoàn tất việc đảnh lể đức Quán Tự Tại Quán Âm đại từ tâm địa, tiếp đến thành kính đảnh lể bậc đại chí thánh, bậc hiền thiện tôn giả)
Câu 5
Mahā-vadha-svā-me ma ha bàn đa sa mế (Phóng ra ánh sáng đại quang minh)
Mahā-vadha-svā-me ma ha bàn đa sa mế (Phóng ra ánh sáng đại quang minh)
Câu 6
Sarva-arthato-s'ubham ajeyam Sarva-sata
Tát bà tát bà a tha đậu du bằng a thệ dựng Tát bà tát đa na ma bà tát đa
(khiến cho hết thảy chúng sanh nhất thiết được vô ưu vô tỷ bỉ vô tham và trong sạch diệu tịnh)
Sarva-arthato-s'ubham ajeyam Sarva-sata
Tát bà tát bà a tha đậu du bằng a thệ dựng Tát bà tát đa na ma bà tát đa
(khiến cho hết thảy chúng sanh nhất thiết được vô ưu vô tỷ bỉ vô tham và trong sạch diệu tịnh)
Câu 7
Namo-vasat Namo-vāka mavitāto na ma bà tát đa Na ma bà dà Ma phạt đạt đậu
(từ đó, hướng tâm đảnh lể quy y bậc thiện hữu tình, quy y bậc đồng tử mà Trời và người đều hằng mong thân cận)
Namo-vasat Namo-vāka mavitāto na ma bà tát đa Na ma bà dà Ma phạt đạt đậu
(từ đó, hướng tâm đảnh lể quy y bậc thiện hữu tình, quy y bậc đồng tử mà Trời và người đều hằng mong thân cận)
Câu 8
Tadyathā: Om avaloki-lokate- đát điệt tha Án. A bà lô hê Lô ca đế
(Thần chú tuyên ra: Hợp nhất thể đại đồng với Quán Tự Tại)
Câu 9 & 10
karate-e-hrih Mahā-bodhisattva Sarva sarva Mala mala Ca ra đế Di hê rị Ma ha bồ đề tát đỏa Tát bà tát bà Ma ra ma ra
(từ người phát đại bi tâm đến nhất thiết các đại giác hữu tình như hoa thanh tịnh vô nhiễm lan ra khắp nơi chốn)
Câu11 & 12
Mahi Mahi ridayam Kuru kuru karmam .
Ma hê ma hê rị đà dựng
(phát đại tự tại tâm hăng hái thường tạo nên các thiện nghiệp)
Câu 13 & 14
Dhuru dhuru vijayate Mahā-vijayati Dhara dhara dhrinis'varāya Cu lô cu lô yết mông Độ lô đồ lô phạt xà da đế Ma ha phạt xà da đế Đà la đà ra Địa rị ni Thất Phật ra da
(mới có năng lực độ thoát khỏi các triền phược và vượt thắng lên được, phải ráng sức duy trì cho có được tâm kiên cố dũng mảnh tự tại)
Câu 15
cala cala mama vimala muktele
Giá ra giá ra Mạ mạ phạt ma ra Mục đế lệ
(lâu dần khiến cho biến hóa dẫn đến sự giải thoát vô nhiễm)
Câu 16 & 17
Ehi ehi s'ina s'ina ārsam prasari vis'va vis'vam prasaya .
Y hê di hê Thất na thất na Ra sâm Phật ra xá lợi Phạt sa phạt sâm Phật ra xá da
(nương theo đó mà thực hiện hoằng pháp hởi vị Pháp vương tử chủ của hòa bình)
Câu 18 & 19
Hulu hulu mara Hulu hulu hrih Hô lô hô lô ma ra Hô lô hô lô hê lỵ
(tiếp tục tu hành, tiếp tục làm sạch thân và làm sạch tâm - thanh tẩy thân tâm)
Câu 20 & 21
Sara sara Siri siri Suru suru Bodhiya Bodhiya Bodhaya Bodhaya
Ta ra ta ra Tất rị tất rị Tô rô tô rô Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ Bồ đà dạ bồ đà dạ
(Kiên cố lên, dũng mảnh lên, rực rỡ lên không thôi không gián đoạn. Giác ngộ, giác ngộ mau hỡi người có căn cơ chứng giác)
Câu 22 & 23 &24
Maitreya narakindi dhrish-nina bhayamana svāhā Siddhāya svāhā Di đế lỵ dạ Na ra cẩn trì Địa rị sắc ni na Bà dạ ma na Ta bà ha Tất đà dạ Ta bà ha
(với tâm đại từ đại bi khi người đã thành tựu, có được danh tiếng cũng do tâm từ bi đó)
Câu 25 & 26 & 27
Maha siddhāya svāhā Siddha-yoge- svāhā Narakindi svāhā
Ma ha tất đà dạ Ta bà ha Tất đà dũ nghệ Thất bàn ra dạ Ta bà ha Na ra cẩn trì Ta bà ha
(thành tựu do tâm đại từ bi phát ra, thành tựu trong việc giải thoát tương ứng với vạn pháp, thành tựu trong đức hạnh)
Câu 28 & 29 & 30
Māranara svāhā S'ira simha-mukhāya svāhā Sarva mahā-asiddhaya svāhā
Ma ra na ra Ta bà ha Tất ra tăng a mục khê da Ta bà ha Ta bà ma ha a tất đà dạ Ta bà ha
(thành tựu trong diệu nghĩa vô cấu, thành tựu không ai có thể sánh khi nói ra có sức thuyết phục, thành tựu ai có thể sánh trong tất cả các ý nghĩa sâu sắc)
Câu 31 & 32
Cakra-asiddhāya svāhā Padma-kastāya svāhā.
Giả kiết ra a tất đà dạ Ta bà ha Ba đà ma kiết tất đà dạ Ta bà ha (thành tựu không ai sánh trong chuyễn Pháp luân , thành tựu không ai sánh trong đóa sen đỏ tượng trưng cho diệu tịnh nghiệp)
Câu 33 & 34
Narakindi-vagalāya svaha Mavari-s'ankharāya svāhā
Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ Ta bà ha Ma bà rị thắng yết ra dạ Ta bà ha
(thành tựu trong việc trở thành đức Thế Tôn, thành tựu trong đem uy đức của mình tạo ra tính nhiệm cho mọi người)
Câu 35
Namo ratna-trāyāya Namo āryā-valokite-s'varaya svāhā Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da Nam mô a rị daBà lô kiết đế Thước bàn ra dạ Ta bà ha
(thành kính đảnh lể ngôi tam bảo, thành kính đảnh lể đức Quán Tự Tại - đức Quán Thế Âm )
Câu 36
Om Sidhyantu mantra padāya svāhā Án. Tất điện đô Mạn đà ra Bạt đà gia Ta bà ha.
(tuyên chú: hiệp nhất các thành tựu trên viên mãn, đạt được sự viên mãn thành tựu đó qua trì tụng lời chân ngôn này)
Tượng Thiên thủ thiên nhãn chùa Tây Phương, VN
6/- Kết:
Bài viết này sẽ khiến mất lòng nhiều người, tôi nhận thức được điều này trước khi ngồi viết ra. Một việc cả ngàn năm đương nhiên được mọi người nhìn nhận thì không thể chỉ trong khoãng khắc với vài trang giấy thì có thể thay đổi được giá trị và ý nghĩa của nó.
Tôi viết để ... chơi với tôi, với những ai muốn chơi theo.
Tôi không chơi với anh Trung Hoa chuyên gia lừa gạt từ vật chất đến tín ngưỡng và tâm linh.
Tôi không treo 84 bức tranh Tàu vẻ hóa thân các vị tiên Trung Hoa và gọi là Quán Thế Âm.
Tôi không chơi với anh Trung Hoa chuyên gia lừa gạt từ vật chất đến tín ngưỡng và tâm linh.
Tôi không treo 84 bức tranh Tàu vẻ hóa thân các vị tiên Trung Hoa và gọi là Quán Thế Âm.
Dịch thuật của tôi còn nhiều sai sót nhưng ít ra tôi không tụng lảm nhảm " bà dô bà ra " và nghe dạy cứ tin là được vì đức Phật không hề dạy ta những điều đó.
Cuối cùng, ai không thích, xin hãy ... bất khả tư nghì.
Cuối cùng, ai không thích, xin hãy ... bất khả tư nghì.
Tượng Thiên thủ thiên nhãn lộ thiên Suối Tiên, VN
Phiên bản Bắc Phạn
Nīlakaṇṭha Dhāranīनीलकण्ठ धारनी
namo ratnatrayāya namah ui arya avalokiteśvarāyaनमो रत्नत्रयाय नमह् अर्य अवलो कितेश्वराय
bodhisattvāya mahāsatvāya mahākārunikāyaबोधिसत्त्वाय महासत्वाय महाकारु निकाय
oṃ sarvarabhaya sudhanadasye namaskrtvā imamॐ सर्वरभय सुधनदस्ये नमस्क्र्त् वा इमम्
āryāvalokiteśvara raṃdhava namo narakindi.आर्यावलोकितेश्वर रंधव नमो नरकि न्दि।
hrih mahāvadhasama sarva athadu śubhuṃ ajeyaṃ.ह्रिह् महावधसम सर्व अथदु शुभुं अजेयं।
sarva satya nama, vastya namo vāka, mārga dātuh.सर्व सत्य नम वस्त्य नमो वाक मा र्ग दातुह्।
tadyathā oṃ avaloki locate karate, e hrihतद्यथा ॐ अवलोकि लोचते करते ए ह ्रिह्
mahābodhisattva. sarva sarva, mala mala, mahima hṛdayam,महाबोधिसत्त्व। सर्व सर्व मल मल महिम हृदयम्
kuru kuru karmuṃ, dhuru dhuru vijayate mahāvijayate,कुरु कुरु कर्मुं धुरु धुरु वि जयते महाविजयते
dhara dhara dhirīniśvarāya, cala cala, mama vimala muktele,धर धर धिरीनिश्वराय चल चल मम वि मल मुक्तेले
ehi ehi, śina śina, āraṣaṃ pracali viṣa viṣaṃ prāśaya.एहि एहि शिन शिन आरषं प्रचलि वि ष विषं प्राशय |
huru huru mara hulu hulu hrihहुरु हुरु मर हुलु हुलु ह्रिह्
sara sara siri siri suru suru bodhiya bodhiyaसर सर सिरि सिरि सुरु सुरु बोधि य बोधिय
bodhaya bodhaya. maitriya nārakindiबोधय बोधय । मैत्रिय नारकिन्दि
dharṣinina bhayamāna svāhā siddhāya svāhāधर्षिनिन भयमान स्वाहा सिद्धाय स्वाहा
mahāsiddhāy svāhā siddhayogeśvarāya svāhāमहासिद्धाय् स्वाहा सिद्धयोगेश् वराय स्वाहा
narakindi svāhā māraṇara svāhāनरकिन्दि स्वाहा मारणर स्वाहा
śira saṃha mukhāya svāhā sarva mahā asiddhāya svāhāशिर संह मुखाय स्वाहा सर्व महा असिद्धाय स्वाहा
cakra asiddhāya svāhā padma hastrāya svāhāचक्र असिद्धाय स्वाहा पद्म हस् त्राय स्वाहा
nārakindi vagalaya svāhā mavari śankharāya svāhāनारकिन्दि वगलय स्वाहा मवरि शन् खराय स्वाहा
namah ratnatrayāya namo āryavalokiteśvarāya svāhāनमः रत्नत्रयाय नमो आर्यवलोकिते श्वराय स्वाहा
oṃ sidhayantu mantra padāya svāhā
namo ratnatrayāya namah ui arya avalokiteśvarāyaनमो रत्नत्रयाय नमह् अर्य अवलो
bodhisattvāya mahāsatvāya mahākārunikāyaबोधिसत्त्वाय महासत्वाय महाकारु
oṃ sarvarabhaya sudhanadasye namaskrtvā imamॐ सर्वरभय सुधनदस्ये नमस्क्र्त्
āryāvalokiteśvara raṃdhava namo narakindi.आर्यावलोकितेश्वर रंधव नमो नरकि
hrih mahāvadhasama sarva athadu śubhuṃ ajeyaṃ.ह्रिह् महावधसम सर्व अथदु शुभुं
sarva satya nama, vastya namo vāka, mārga dātuh.सर्व सत्य नम वस्त्य नमो वाक मा
tadyathā oṃ avaloki locate karate, e hrihतद्यथा ॐ अवलोकि लोचते करते ए ह
mahābodhisattva. sarva sarva, mala mala, mahima hṛdayam,महाबोधिसत्त्व। सर्व सर्व मल मल
kuru kuru karmuṃ, dhuru dhuru vijayate mahāvijayate,कुरु कुरु कर्मुं धुरु धुरु वि
dhara dhara dhirīniśvarāya, cala cala, mama vimala muktele,धर धर धिरीनिश्वराय चल चल मम वि
ehi ehi, śina śina, āraṣaṃ pracali viṣa viṣaṃ prāśaya.एहि एहि शिन शिन आरषं प्रचलि वि
huru huru mara hulu hulu hrihहुरु हुरु मर हुलु हुलु ह्रिह्
sara sara siri siri suru suru bodhiya bodhiyaसर सर सिरि सिरि सुरु सुरु बोधि
bodhaya bodhaya. maitriya nārakindiबोधय बोधय । मैत्रिय नारकिन्दि
dharṣinina bhayamāna svāhā siddhāya svāhāधर्षिनिन भयमान स्वाहा सिद्धाय
mahāsiddhāy svāhā siddhayogeśvarāya svāhāमहासिद्धाय् स्वाहा सिद्धयोगेश्
narakindi svāhā māraṇara svāhāनरकिन्दि स्वाहा मारणर स्वाहा
śira saṃha mukhāya svāhā sarva mahā asiddhāya svāhāशिर संह मुखाय स्वाहा सर्व महा
cakra asiddhāya svāhā padma hastrāya svāhāचक्र असिद्धाय स्वाहा पद्म हस्
nārakindi vagalaya svāhā mavari śankharāya svāhāनारकिन्दि वगलय स्वाहा मवरि शन्
namah ratnatrayāya namo āryavalokiteśvarāya svāhāनमः रत्नत्रयाय नमो आर्यवलोकिते
oṃ sidhayantu mantra padāya svāhā
ॐ सिधयन्तु मन्त्र पदाय स्वाहा
Phiên bản tiếng Hán
(Cách viết GiảnThể)
南 无、喝 啰 怛 那、哆 啰 夜 耶.
Na Mo, He Le Da Na, Duo La Ye Ye / Nam mô hăn nai tăn na tôn nai da de.).
南 无 阿 唎 耶.
(Na Mo, Ou Li Ye / Nam mô ô ri dè.).
婆 卢 羯 帝、烁 缽 啰 耶.
(Po Luo Jie Di, Shuo Bo La Ye / Bồ rồ chết kế, xít quanh na de.).
菩 提 萨 埵 婆 耶,
(Pu Ti Sa Duo Po Ye / Bu ti sa tô bô dè.),
摩 诃 萨 埵 婆 耶.
(Mo He Sa Duo Po Ye / Mồ hô sa tô bô de.).
摩 诃、迦 卢 尼 迦 耶
(Mo He, Jia Lu Ni Jia Ye / Mô hô chả lu ni cha dè.).
唵,
(An / Ùm.),
萨 皤 啰 罚 曳,
(Sa Bo La Fa Yi / Sa ban nai phà di. )
数 怛 那 怛 写.
(Su Da Na Da Xia / Xú tăn na tằn chà.).
南 无、 醯 吉 慄 埵、 伊 蒙 阿 唎 耶.
(Na Mo, Xi Ji LieDuo, Yi Mong Ou Li Ye / Nam mô xi kê ly tô di mô ri dè.).
婆 卢 吉 帝、室 佛 啰 愣 驮 婆.
(Po Lu Jie Di, Shi Fu La Leng Tuo Po / Bồ rồ kết kế xit phô nai lân tồ bô.).
南 无、那 啰 谨 墀.
(Na Mo, No La Jin Chi / Nam mô na nai kin tì.).
醯 利 摩 诃、皤 哆 沙 咩.
(Shi Li Mo He, Ba Duo Suo Mi / Hề ly mô hô banh tô sa mế.).
萨 婆 阿__、豆 输 朋
( Sa Po Ou Ta, Dou Shu Peng / Sa bố ô ta tô xu bùn.).
阿 逝 孕.
(Ou Shi Yun / Ở xừ dyin.),
萨 婆 萨 哆、那 摩 婆 萨 哆,那 摩 婆 伽,
(Sa Po Sa Duo, Na Mo Po Sa Duo Na Mo Po Qie / Sa bô sa tô Nam mô bô sa tồ, nam mô bô che .),
摩 罚 特 豆.
( Mo Fa Te Dou / Mô pha tơ tô).
怛 侄 __,
( Da Zhi Ta / Tân sư tha),
唵,阿 婆 卢 醯.
(An, Ou Po Lu Xi / Ùm, mô bô lu thế),
卢 迦 帝,
( Lu Jia Di / Lu cha tề),
迦 罗 帝.
(Jia Lu Di / Chà rồ tế).
夷 醯 唎.
( Yi Xi Li / Ý hề ly ).
摩 诃 菩 提 萨 埵.
(Mo He Pu Ti Sa Duo / Mô bu ti sa tô.).
萨 婆 萨 婆,
(Sa Po Sa Po / Sa tô sa bồ.),
摩 啰 摩 啰,
(Mo La Mo La / Mồ nai mô nai.),
摩 醯 摩 醯、唎 驮 孕.
(Mo Xi Mo Xi, Lie Tuo Yun / mô hê mô hề⠬y tô dyin.).
俱 卢 俱 卢、羯 蒙.
(Ju Lu Ju Lu, Jie Mong / Chuy lu chuy lu chẻ mùn.).
度 卢 度 卢、罚 阇 耶 帝.
(Du Lu Du Lu, Fa She Ye Di / Tù lu tù lu phá xơ de ti.).
摩 诃、罚 阇 耶 帝.
(Mo He, Fa She Ye Di / Mô phá xơ dè tì.).
陀 啰 陀 啰,
(Tuo La Tuo La / Tồ nai tồ nai.),
地 唎 尼,
(Di Li Ni / Ti li ni.),
室 佛 啰 耶.
(Shi Fu La Ye / Xử phố nai de.).
遮 啰 遮 啰,
(Zhe La Zhe La / Chân nai chân nai.),
摩 么 罚 摩 啰,
(Mo Mo Fa Mo La / Mân mô bâm mô nài.),
穆 帝 隶.
(Mo Die Lie / Mù tì ly.).
伊 醯 伊 醯,
(Yi Xi Yi Xi / Ỷ hê ly hê.),
室 那 室 那,
(Shi Na Shi Na / Xử na xử na.),
阿 啰 參、佛 囉 舍 利.
(Ou La Sen, Fu La She Li / O na sân tô nai sơ rì.).
罚 沙 罚 參.
(Fa Suo Fa Seng / Phạ sa phạ sân.).
佛 啰 舍 耶.
(Fu La She Ye / Phọ nai sơ de.).
呼 嚧 呼 嚧 摩 啰,
(Hu Lu Hu Lu Mo La / Hu lu hu lu mô nai.),
呼 嚧 呼 嚧 醯 利.
(Hu Lu Hu Lu Xi Li / Hu lu hu lu hê lì.).
娑 啰 娑 啰,
(Suo La Suo La / Xà nai xà nai),
醯 唎 醯 唎,
(Xi Li Xi Li / Xi ly xi hì ri.),
苏 嚧 苏 嚧.
(Su Lu Su Lu / Xu lu xu lu.).
菩 提 夜、菩 提 夜.
(Pu Ti Ye, Pu Ti Ye / Bu ti de bu tì de.).
菩 驮 夜、菩 驮 夜.
(Pu Tuo Ye, Pu Tuo Ye / Bu tô de bu tô de.).
弥 帝 唎 夜,
(Mi Di Li Ye / Mi đi ly de.),
那 啰 谨 墀.
(Nuo La Jin Chi / Na nai kin tì.).
地 利 瑟 尼 那,
(Di Li Se Ni Na / Tì ly sờ rì na.),
波 夜 摩 那,
(Po Ye Mo Na / Bô de mô na.),
娑 婆 诃.
(Suo Po He / Sap bô hồ.).
醯 陀 夜
( Xi Tuo Ye / Xì tô de.),
娑 婆 诃.
(Suo Po He / Sap bô hô.).
摩 诃 醯 夜
( Mo He Xi Tuo Ye / Mô hô xi tô de.),
娑 婆 诃.
(Suo Po He / Sap bô hồ.).
醯 陀 喻 艺
(Xi Tuo Yu Yi / Xi tô duy di.),
室 皤 啰 耶,
(Shi Bo La Ya / Xử ban nai de.),
娑 婆 诃.
(Suo Po He / Sap bồ hô.).
那 啰 谨 墀,
(Nuo La Jin Chi / Na nai kin ti.),
娑 婆 诃.
(Suo Po He / Sap bồ hồ.).
摩 啰 那 啰,
(Mo Na Nuo La / Mô nai na nai.),
娑 婆 诃.
(Suo Po He / Sap bô hô.).
醯 啰 僧、阿 穆 佉 耶,
(Xi La Sen, Ou Mu Qie Ye / Xi lai xăn ô mu chuy de.),
娑 婆 诃.
(Suo Po He / Sap bô hồ.).
娑 婆 摩 诃、阿醯 陀 夜
( Suo Po Mo He, Ou Xi Tuo Ye / Sap bồ mô hô hô si tô de.),
娑 婆 诃.
(Suo Po He / Sap bồ hô.).
者 吉 啰、阿 醯 陀 夜
( Zhe Ji La, Ou Xi Tuo Ye / Tra kế nai ô si tô de.),
娑 婆 诃.
(Suo Po he / Sap bồ hồ.).
波 陀摩 羯 醯 陀 夜
( Bo Tuo Mo, Ji Xi Tuo Ye / Bồ tô mô che si tô de.),
娑 婆 诃.
(Suo Po He / Sap bô hô.).
那 啰 谨 墀、皤 伽 啰 耶,
(Nuo La Jin Chi, Bu Qie La Ye / Na nai kin ki banh che nai de.),
娑 婆 诃.
(Suo Po He / Sap bô hồ.).
摩 婆 利、胜 羯 啰 夜,
(Mo Po Lie, Sen Ji La Ye / Mồ bồ xăn che nai de.),
娑 婆 诃.
(Suo Po He / Sap bồ hô.).
南 无 喝 啰 怛 那、哆 啰 夜 耶.
(Na Mo He La Da Na, Duo La Ye Ye / Nam mô hân nai tân nai tô nai da dè.).
南 无 阿 唎 耶.
(Na Mo Ou Li Ye / Nam mô ô ri de.).
婆 嚧 吉 帝,
(Po Lu Jie Di / Bô ru ke.),
烁 皤 啰 夜,
(Suo Bo La Ye / Ke xứ bấn nai de.),
娑 婆 诃.
(Suo Po He / Sap bồ hồ.).
唵 醯 殿 都,
( An, Xi Dian Du / Ùm, xì tín đú.),
漫 多 啰,
(Man Duo La / Mánh đồ nai.),
跋 陀 耶,
(Ba Tuo Ye / Ba tố de.),
娑 婆 诃.
(Suo Po He / Sap bô hồ.).
Phiên bản tiếng Việt
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. An tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a lị da bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì, hê lị ma ha bàn đà sa mế. Tát bà a tha đậu thâu bằng a thệ dựng, tát ba tát đá, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. An a bà lô hê lô ca đế, ca ra đế, di hê lị. Ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê lị đà dựng. Câu lô câu lô kiết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xa da đế. Đà ra đà ra địa ri ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha, Ma ha tất đà dạ ta bà ha, Tất đà du nghệ thất bàn ra da, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha, ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. An tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ, ta bà ha.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a lị da bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì, hê lị ma ha bàn đà sa mế. Tát bà a tha đậu thâu bằng a thệ dựng, tát ba tát đá, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. An a bà lô hê lô ca đế, ca ra đế, di hê lị. Ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê lị đà dựng. Câu lô câu lô kiết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xa da đế. Đà ra đà ra địa ri ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha, Ma ha tất đà dạ ta bà ha, Tất đà du nghệ thất bàn ra da, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha, ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. An tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ, ta bà ha.
Hay :D Cảm ơn bạn rất nhiều :D Tiếc rằng không có nhiều người nhận xét. Thật buồn cho thế giới tâm linh Việt Nam.
Trả lờiXóa