Phạm Kế Viêm
Source: http://vietpho.org/2018/03/29/dai-thi-hao-nguyen-du-duoi-lang-kinh-tu-vi-pham-ke-viem/
I) Dòng dõi và Gia Đình
Nguyễn Du (1766- 1820) tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên sinh buổi sáng ngày 3/1/1766 tính theo Âm Lịch là Giờ Mão ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu tại Phường Bích Câu, Thăng Long. Quê Nội ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du xuất thân trong một Gia Đình Đại Qúy Tộc nhiều Đời có người làm Quan to (Công Hầu Khanh Tướng) đồng thời là Danh Sĩ một Thời - dưới Triều Vua Lê Chúa Trịnh. Cha của Thi Hào là Cụ Nguyễn Nghiễm sinh tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh đậu Nhị Giáp Tiến Sĩ làm quan đến chức Đại Tư Đồ (Tể Tướng). Mẹ là bà Trần Thị Tần (1740-1778), con gái thứ 3 của một vị quan nhỏ coi việc sổ sách Kế Toán (Câu Kế) dưới trướng Nguyễn Nghiễm, người Xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Xã Hương Mạc, huyện Từ Sơn). Bà Trần thị Tần thuộc dòng dõi Trần Phi Chiêu (1549-1623), ông đậu Tiến Sĩ năm Kỷ Sửu 1589 làm quan đến chức Thượng Thư bộ Hộ, kiêm Đô Ngự Sử, tước Diên Quận Công. Bà là 1 phụ nữ nết na, xinh đẹp nổi tiếng, có tài hát xướng, năng khiếu Nghệ Thuật cao, lại sinh ra ở vùng Kinh Bắc – nôi của Vùng Quê Hát Quan Họ nổi danh - điều đó đều ảnh hưởng tốt đến Hồn Thơ Nguyễn Du từ những ngày còn bé!.
1) Thân Thế và Sự Nghiệp của Nguyễn Nghiễm (1708-1776)
Nguyễn Nghiễm sinh ngày 14 tháng 3 năm Mậu Tý (14/4/1708) tại làng Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngư Cư Sĩ.. Quê Tổ ở làng Canh Họach, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hanoi). Vào đầu Thế Kỷ 17, Tổ 6 đời của ông là Nguyễn Nhiệm (cháu Nguyễn Thiến đời Nhà Mạc) lánh nạn đem Gia Đình vào sinh cơ lập Nghiệp ở Tiên Điền!. Năm Giáp Thìn 1724 đời Vua Lê Dụ Tông – Chúa Trịnh Cương đỗ Thi Hương (Tú Tài) khi mới 16t. Năm Tân Hợi 1731 đời Lê Duy Phương – Chúa Trịnh Giang, ông đỗ Hòang Giáp (Nhị giáp Tiến Sĩ). Ngoài ra anh em Họ (Nguyễn Huệ, Nguyễn Trương) cùng đỗ Tiến Sĩ.
a) Tướng Võ
Lúc đầu vào Triều làm Quan giữ chức Đốc Suất quân Nhung, Hiệp đồng tán nhiệm với các Tướng Võ khác có công lao. Năm Tân Dậu 1741 nhờ phế bỏ Trịnh Giang vì chơi bời làm hỏng Chính Sự, lập Trịnh Doanh nên được thăng làm Tham Chính Sơn Nam, ít lâu sau đổi làm Tế Tửu Quốc Tử Giám. Năm Qúy Hợi 1743 ông được thăng làm Thừa Chi Viện Hàn Lâm, tước Xuân Lĩnh Bá.. Ba năm sau nhờ có công lao được thăng làm Hữu Thị Lang Bộ Công, thăng lên tước Hầu và được đặc cách dự chức Bồi Tụng trong Tướng Phủ!. Năm Mậu Thìn 1748 được làm Tuyên Phủ Sứ Tán Lý Quân Vụ, quản cơ Trấn Nội, chức Tam Lĩnh, tước Lệ Quận Công vào Nghệ An dẹp lọan. Thắng Trận trở về ông được thăng làm Thị Lang Bộ Hình. Ít lâu sau, quân nổi dậy ở vùng núi Thanh Hóa lại ra, ông được sai làm Hiệp Đồng đến đánh thành lũy quân địch. Ông đánh đâu thắng đó. Quân nổi dậy bèn đi theo đường tắt đánh vào trị Sở Thanh Hóa, quân Triều Đình thua chạy; ông lại mang quân về cứu, chiếm lại được Dinh. Đầu năm Canh Ngọ 1750, Triều Đình quy cho ông trách nhiệm để thất thủ Thanh Hóa, nên ông bị giáng làm Đại Học Sĩ Đông Các (Hạn Kế Đô 43t+Kình Đà). Cuối năm đó Trịnh Doanh đem quân đi dẹp quân khởi nghĩa của Thủ Lĩnh Tương ở Sơn Tây sai ông làm Tán Lý giữ trách nhiệm hộ giá. Ông cùng tham gia dẹp được quân của Tương, nên được thăng làm Thiêm Đô Ngự Sử. Đầu năm Nhâm Thân 1752, ông được lệnh ra 4 đạo Sơn Tây, Hưng Hóa đánh hòang thân Lê Duy Mật. Thắng trận trở về, ông được khôi phục lại chức cũ (Vận Thái Tuế). Sang năm Qúy Dậu 1753 có công trạng, ông lại được thăng làm Phó Đô Ngự Sử, đến cuối năm Trịnh Doanh giao cho ông làm Đốc Lĩnh ở Thanh Hóa để dẹp các lực lượng nổi dậy trong vùng Núi. Năm Ất Hợi 1755 ông được cử làm Hiệp Trấn Nghệ An. Năm Bính Tý 1756 ông được gọi về Triều thăng Vực Quận Công đi dẹp quân nổi dậy ở Kinh Bắc, ông thắng trận!.
b) Quan Văn
Trước đó giữa năm Giáp Tuất 1754, Triều Đình mở Khoa Thi Hội, Trịnh Doanh đã cử ông làm Tả Giám Thị. Cuối năm Đinh Sửu 1757, ông được thăng làm Tả Thị Lang bộ Hình. Đầu năm Tân Tỵ 1761, Triều Đình xét công lao đánh thắng quân nổi dậy, ông được thăng làm Ngự Sử, rồi Thượng Thư bộ Công vào Phủ làm Tham Tụng (Tể Tướng); từ đó thôi không giữ việc quân mà phụ trách đội Nghiêm Hữu thuộc Vệ Quan Thị Hậu. Mùa Hạ năm Giáp Thân 1764 ông được thăng hàm Thiếu Phó. Năm Đinh Hợi 1767 Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm lên thay, thăng ông làm Thái Tử Thái Bảo, tước Xuân Quận Công, Đại Tư Không. Cuối năm Tân Mão 1771 ở lứa tuổi 64t, ông xin về hưu ở làng Tiên Điền, được thăng Đại Tư Đồ. Nhưng tháng 3 năm sau (1772) Trịnh Sâm lại mời ông ra làm Tể Tướng , rồi Thượng Thư bộ Hộ.
c) Tham dự Nam Tiến
Năm Giáp Ngọ 1774, trấn thủ Nghệ An là Bùi Thế Đạt được biết Đàng Trong có nội biến do anh em Tây Sơn nổi dậy, bèn viết thư trình báo về Triều, thời cơ có thể đánh chiếm Thuận Hóa. Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm bèn quyết định ra quân sai Quận Việp Hòang Ngũ Phúc làm Đại Tướng và Nguyễn Nghiễm được sung chức Tả Tướng cùng Bùi Thế Đạt thống lãnh 36000 quân với nhiều Tướng tài như Quận Huy Hòang Đình Bảo, Hòang đình Thể, thêm tùy tướng của Quận Việp là Nguyễn Hữu Chỉnh đi đánh Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Quân Trịnh liên tiếp thắng trận vì nhiều quan lại trong Nam bỏ thành hoặc ra hàng vì chán ghét Trương Phúc Loan chuyên quyền làm bậy! . Ngày Mồng 3 Tết năm Ất Mùi (3/2/1775) Quận Việp chiếm xong Phú Xuân, giao Bùi Thế Đạt ở lại trấn thủ Phú Xuân còn các tướng trong đó có Nguyễn Nghiễm theo Hòang Ngũ Phúc tiếp tục đuổi theo Chúa Nguyễn vào Qủang Nam. Chúa Nguyễn Định Vương bỏ chạy vào Gia Định. Quân Trịnh tiếp tục giao tranh với quân Tây Sơn của Nguyễn Nhạc và đánh bại Tây Sơn ở Cẩm Sa khiến Nguyễn Nhạc phải xin hàng!. Tuy nhiên sau trận Cẩm Sa từ tháng 7 năm 1775 quân Trịnh bị bệnh Dịch lan tràn bản thân ông và Quận Việp đều nhiễm bệnh nặng. Tiến đến đóng ở Chu Ô thuộc địa đầu của Quảng Ngãi thì dừng lại vì bệnh Dịch càng ngày càng nhiều – tình cảnh rất thê thảm (hơn 3000 nhiễm bệnh trong đó 600 người chết). Hoàng Ngũ Phúc và Nguyễn Nghiễm đều trở về Bắc dưỡng bệnh!.
Tháng 11 âm lịch năm Ất Mùi 1775 Nguyễn Nghiễm về Quê Nhà ở Tiên Điền trong tình trạnh gầy yếu, không lâu ông mất ngày 17 tháng 11 nhuận năm Ất Mùi (07/1/1776) khi Vận Số đi vào Hạn Thái Bạch 67t+Kình Đà+Thiên khắc Địa xung.
d) Tác Phẩm
Ông cùng Ngô Thì Sĩ có làm lời chú và lời bàn trong Bộ Đại Việt Sử Ký bản kí tục biên, ngòai ra, ông còn soạn các tác phẩm sau: Xuân Trung liên vịnh - Xuân Đình tạp vinh- Việt Sử bị lãm- Lạng Sơn đoàn thành đồ chí- Cổ Lễ nhạc chương thi văn tập - Khổng Tử mộng Chu Công.
2) Gia Đình của Nguyễn Nghiễm
Nguyễn Nghiễm có tất cả 8 người vợ trong đó có 6 bà quê ở Kinh Bắc và 21 người con, trong đó nổi danh nhất (về Quan Chức và Văn Thi Nghiệp) có 3 người:
a) Con Trưởng Nguyễn Khản làm đến Tham Tụng Triều Lê - Trịnh. Đương thời 2 bố con đều làm Đại quan cùng Triều,đều được Vua Lê và Chúa Trịnh tín nhiệm trọng dụng với nhiều đặc ân!.
b) Nguyễn Đề cùng mẹ với Nguyễn Du làm quan dưới Triều Tây Sơn giữ chức Tả đồng nghị Trung Thư sảnh, đã từng đi Sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của Vua Càn Long nhà Thanh, xướng họa thơ cùng với các Sứ Thần Triều Tiên.
c) Đại Thi Hào Nguyễn Du là con thứ 7 của ông và bà vợ Ba (Trần Thị Tần) , riêng Bà Tần sinh được 4 trai 1 gái (Nguyễn Trụ, Nguyễn Đề, Nguyễn thị Diên “vợ Vũ Trinh”, Nguyễn Du, Nguyễn Ức).
a) Thân Thế và Sự Nghiệp của Nguyễn Khản (1734-1787)
Sinh ngày mồng 3 tháng 3 năm Giáp Dần (16/4/1734) tại Tiên Điền (Hà Tĩnh) là con Trưởng của Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm với Bà Chính Thất Đặng Thị Dương (bà là con gái thứ 2 của Tri Phủ Đặng Sỹ Vinh, thông minh, xinh đẹp, nết na, lầu thông Kinh Sử, lấy chồng năm 16t). Năm Qúy Dậu 1753 Nguyễn Khản đỗ đầu Bảng Thi Hương. Nhân có lệ bổ dụng các con quan nên ông nhận được chức Viên Ngoại bộ Lại, sau đó vì có tiếng học giỏi được sung chức Thị Giảng ở Phủ Chúa dạy học cho Thế Tử Trịnh Sâm. Năm Canh Thìn 1760 vào tuổi 27 ông thi đỗ Tiến Sĩ Nho Học. Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm lên nối ngôi, vì có công dạy Chúa lúc còn là Thế Tử nên ông được thăng chức Đại Học Sĩ kiêm Quốc Tử Giám Tế Tửu. Năm Mậu Tý 1768 ông được kiêm luôn chức Nghiêm Hữu Đội. Với cương vị đó Nguyễn Khản vừa là Quan văn kiêm cả Võ trong Phủ Chúa + hai cha con đều là Đại Quan cùng Triều nên các quan trong Triều Đình hết sức trọng vọng. Năm Mậu Tuất 1778 (Vận Thái Tuế) ông được gia thăng Hình Bộ Tả Thị Lang và làm Hiệp Trấn xứ Sơn Tây – Hưng Hóa kiêm chức Thống Lĩnh các Đạo quân dẹp loạn ở ngoài vùng Biên Ải. Chính sự được yên ổn đem lại bình yên cho dân bản xứ làm uy thế của ông ngày càng một lớn, nên được Trịnh Sâm giao nhiều trọng trách của Triều Đình. Ngoài quan hệ Chúa Thượng - Bề Tôi giữa Trịnh Sâm và Nguyễn Khản còn có mối quan hệ bạn bè thân thiết. Ông thường được Chúa ban ân theo Ngự giá đi săn, đi câu, tắm sông, thưởng nguyệt, ngồi cùng mâm với Vợ Chồng Chúa. Mỗi khi Chúa làm thơ đều đọc cho ông nghe để góp ý sửa chữa, nếu thấy ông chưa góp ý sửa chữa thì Chúa coi bài thơ đó chưa hòan chỉnh. Ông là bậc Thầy về thơ Quốc Âm, đã dịch Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn ra chữ Nôm – là Danh Sĩ trong nhóm Cúc Lâm Cư Sĩ; rất tiếc ngày nay, hầu hết tác phẩm của ông đều bị thất lạc!.
Trịnh Sâm rất sủng ái tuyên phi Đặng Thị Huệ - khi Huệ sinh con trai, Trịnh Sâm có ý dành ngôi Thế Tử của Trịnh Khải cho Trịnh Cán!. Được tin Nguyễn Khản âm mưu đảo chính giúp Thế Tử Trịnh Khải (biến cố năm Canh Tý 1780). Việc bại lộ những người chủ mưu đều bị hành hình, riêng ông được Trịnh Sâm tha tội chết!. Năm Nhâm Dần 1782 Trịnh Sâm mất, quân lính nổi dậy rước Trịnh Khải lên Ngôi Chúa, Trịnh Khải cho gọi Nguyễn Khản về Triều phong chức Thượng Thư Bộ Lại, tước Toán Quận Công. Năm sau được phong chức Thiếu Bảo, cùng năm được thăng Nhập Thị Tham Tụng (Tể Tướng). Sau 2 năm Trịnh Khải lên ngôi các quân lính cậy thế có công phù lập Trịnh Sâm, nên rất kiêu hãnh kéo nhau vào Phủ Chúa đòi phong chức. Nguyễn Khản cùng dự mưu xin Chúa chém 7 tên cầm đầu nên bị Kiêu Binh đến đốt phá Dinh Thự tại Phường Bích Câu. Nguyễn Khản cùng em Nguyễn Điều trốn lên Sơn Tây gửi mật thư cho Trịnh Khải xin hội binh các Trấn để trừ họa Kiêu Binh, nhưng việc bị tiết lộ, ông cùng Nguyễn Điều xin nghỉ trở về Quê nhà. Trịnh Sâm thường viết thư thăm hỏi và ban thuốc men cùng tiền bạc lại cho phép thu Thuế 2 chiếc Tàu buôn để chi dùng. Năm Đinh Mùi 1787 quân Tây Sơn tiến ra Bắc, ông trở về Kinh Đô tập hợp Triều Thần bàn chuyện chống lại quân Tây Sơn, nhưng việc chưa thành thì ông bị cảm Bệnh và mất tại Thăng Long (Vận Số đi vào Hạn Thái Âm 53t+Kình Đà sau Hạn Kế Đô 52t vài tháng. Thái Âm chủ về Tim Mạch)..
b) Thân Thế và Sự Nghiệp của Nguyễn Đề (1761-1805)
Nguyễn Đề tự Tiến Phú, hiệu Tinh Kiên, biệt hiệu Văn Thôn Cư Sĩ là nhà Thơ Việt Nam ở cuối Thế Kỷ 18 - đầu Thế Kỷ 19. Sinh ngày 13 tháng 2 năm Tân Tỵ (1761) tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con thứ 6 của Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm và bà Trần Thị Tần và là anh cùng Mẹ với Thi Hào Nguyễn Du - cả 2 đều hưởng dòng máu Thi Ca của Song Thân từ hồi còn nhỏ!. Nhờ cha làm Tể Tướng nên những năm tháng thiếu thời, ông sống khá yên vui cùng các anh em trong Dinh Thự bề thế ở phường Bích Câu trong Kinh Thành Thăng Long.
Năm Mậu Tý 1768 mới 7 tuổi ông đã được Tập Ấm: Hoằng Tín đại Phu, Trung Thành Môn Vệ Úy, Khuê Nhạc Bá. Năm Canh Tý 1780 nhờ thông minh và chăm chỉ, ông đỗ đầu Kỳ khảo Khóa ở Quốc Tử Giám. Năm Qúy Mão 1783 ông đỗ đầu kỳ thi ở huyện Thọ Xương và huyện Đông Ngàn. Tháng 10 cùng năm ông đỗ Giải Nguyên lúc 23 tuổi khoa Thi Hương ở trường thi Phụng Thiên. Năm Bính Ngọ 1786 ông được bổ làm Thị Nội Văn Chức, giữ việc thường trực tại nhà học của con Chúa Trịnh; rồi kiêm Phó Trí Thị Nội Tả Lại phiên ở Phủ Chúa. Sau nữa ông được thăng Xu Mật Viện sự Đức Phái Hầu. Cùng năm Tây Sơn ra Bắc, ông được giao chức Hiệp Tán Quân Cơ ở đạo quân Sơn Tây. Năm Kỷ Dậu 1789 Vua Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu, không theo kịp, ông phải lánh về Quê Mẹ ở Bắc Ninh (Hạn La Hầu 28t+Kình Đà). Năm Canh Tuất 1790 ông được nhà Tây Sơn mời ra giúp - từ Hàn Lâm Viện Thị Thư rồi được cử làm Phó Sứ (do Nguyễn Quang Hiển dẫn đầu) đi Sứ đến Yên Kinh triều cống nhà Thanh. Về nước ông được thăng Đông Các Đại Học Sĩ, gia tăng Thái Sử, Thự Tả Thị Lang Nghi Thành Hầu. Năm Giáp Dần 1794 triều Cảnh Thịnh, ông được thăng Tả Phụng Nghi bộ Binh, vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp Tán Nhung Vụ cai quản tinh binh. Năm Ất Mão 1795, ông được cử sang Tàu lần 2 để chúc mừng Vua Càn Long làm Lễ nhường ngôi cho con là Gia Khánh. Tháng 2 năm sau về nước ông được phong chức Tả Đồng Nghị Trung Thư Sảnh. Năm Nhâm Tuất 1802 nhà Tây Sơn sụp đổ, Vua Gia Long lệnh cho ông theo Xe Vua ra Bắc và làm việc tại Bắc Thành dưới quyền quan Tổng Trấn. Năm Ất Sửu 1805 trong lần chịu tang người Thiếp, ông bị một Viên Tri Phủ truy bức nhân có 1 vụ việc tại làng; rồi vì qúa uất ức, ông đã qua đời khi Vận Số đi vào Hạn Thái Âm 44t+Tam Tai +Kình Đà.
Gia Cảnh
Ông có 2 người Vợ: Vợ chính thất họ Trịnh không có con. Vợ thứ sinh 3 con trai tên Giai, Lịch và Vĩ.
Tác Phẩm
Ông để lại 2 Tập Thơ chữ Hán: Quế Hiên Giáp Ất tập và Hoa trình tiêu khiển Tập.
Có người nhận xét về Ông: Ông làm quan thời Vua Lê Chúa Trịnh (Cha và Anh cùng là Đại Quan); khi Triều Lê sụp đổ, Ông ra làm quan với Nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn với lòng tự nguyện, không mặc cảm, ít vướng bận nghĩa “Trung quân”, thậm chí có lúc ông còn chỉ trích những người bảo thủ, lánh Đời. Vì chuyện này ông đã phải hứng chịu không ít lời dèm pha!. Trên 300 bài thơ của ông đều là những bài thơ Vịnh Cảnh, Ngụ Hứng, Cảm Hòai, Thù Tạc… Trong số đó có gần chục Bài Thơ viết cho Em Trai là Tố Như Nguyễn Du. Tuy viết bằng chữ Hán, nhưng thơ của Ông đều có giọng bình dị, ít Triết Lý và được thể hiện bằng thứ Ngôn Ngữ tinh tế mà không cầu kỳ và kiểu cách. Nguyễn Đề là nhà Thơ có tấm lòng nhân nghĩa, vị tha, có tâm hồn sâu lắng và nhiều trăn trở. Ngòi bút của ông bình dị, nhưng có nhiều bài hay, câu hay. Đặc biệt Ông có hàng chục bài thơ viết cho Nguyễn Du với tất cả tình cảm yêu thương của một người anh dành cho một đứa em trai có Số Phận khá vất vả, long đong. Lần Nguyễn Du nuôi chí chống Tây Sơn, việc bị bại lộ bị bắt giam. Nhờ ông thân quen với tướng Tây Sơn là Nguyễn Thận nên Nguyễn Du được thả. Tuy 2 anh em sống xa cách nhau và mỗi người một số phận; song họ luôn nhớ nhau, đặc biệt là Tình Cảm của Ông đối với Nguyễn Du (và ngược lại) vô cùng sâu sắc. Đây chính là thứ Tình anh Em hiếm thấy trong Lịch sử Văn Học Việt Nam!.
II) Thân Thế và Sự Nghiệp của Đại Thi Hào Nguyễn Du
1) Lá số Tử Vi
MỆNH đóng Cung Dậu (Kim) với Thái Tuế, Thái Dương, Thiên Lương, Hóa Quyền – Thái Âm, Long Phượng hội chiếu. Tam giác (Mệnh, Quan, Tài) được Vòng Thái Tuế (Danh Vọng và Quyền Thế) . THÂN cư Thiên Di nằm trong Tam Giác (Di, Phúc Đức, Thê) ở Thế Tuế Phá, nhưng được Vòng Lộc Tồn (Lộc Trời cho, dù không giầu cũng hưởng mọi sự may mắn khác, hóa giải mọi bế tắc, rủi ro và tật bệnh). Cung Huynh Đệ nằm trong Tam Giác (Huynh Đệ, Điền Trạch, Tật Ách) được Vòng Tràng Sinh (hình bóng của 2 Vòng Thái Tuế và Vòng Lộc Tồn kết hợp). Cung Phụ Mẫu với Sát Phá Tham hội Thiếu Dương, Tứ Đức, Ân Qúy, Văn Tinh + Đào Hồng: Cha lúc nhỏ thông minh học giỏi, lớn lên tài thao lược Văn Võ song toàn (từ Võ “Sát Phá Tham+Địa Kiếp đắc địa” ra Văn: ở ngôi Tể Tướng 15 năm) ở vị trí nào cũng có tài ứng biến, sắp đặt gọn ghẽ mọi việc bề bộn; được cả Vua lẫn Chúa khen là người Nhân Đức và Tài Trí. Với Văn Tinh + Đào Hồng: nổi danh về thơ phú, ca hát cả Cha lẫn Mẹ. Cung Phúc Đức với Cơ Âm Cự Đồng hội Song Lộc, Xương Khúc, Tướng Ấn, Mã Khốc Khách được Vòng Lộc Tồn: dòng Họ Nội Ngoại nhiều Đời Danh Vọng, Giàu có (Công Hầu Khanh Tướng) - một Thời Vang Bóng!. Cung Huynh Đệ đóng tại Thân (Kim hợp Mệnh Thủy) đưọc Vòng Tràng Sinh với Tử Phủ Vũ Tướng hội Hóa Khoa, Tả Hữu, Khôi Việt, Thai Toạ (anh em xuất thân từ các Dòng Họ Đại Qúy Tộc, Công Danh “ thành đạt + nổi danh về Văn Thi Nghiệp” điển hình Anh Cả Nguyễn Khản tuổi Giáp Dần 1734 hành Thủy và Nguyễn Đề tuổi Tân Tỵ 1761 hành Kim đều hợp với Thủy Mệnh của Nguyễn Du – nên thời trẻ anh em có nhiều gắn bó liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng với Bộ Hung Sát Tinh: Không Kiếp, Kình Đà, Hỏa Tinh cũng gây cho Anh Chị Em nhiều sóng gió trong cuộc Đời - kể cả Đương Số!).
Tuổi Ất Dậu với Can Ất đứng vào hàng đầu hàng Can với Thái Tuế tại Mệnh là người thông minh hơn người trong bất cứ Lãnh Vực nào, lúc trẻ cũng vượt trội bạn đồng trang lứa, mẫu người nhiều tham vọng, nặng lòng với Quê Hương, Đất nước, có tình nghĩa với Đồng Bào và bà con Dòng Họ. Nhật Nguyệt + Tứ Linh “Long Phượng Hổ Cái”: sống lý tưởng, có tài về Văn Chương Nghệ Thuật. Mệnh ứng với thời trẻ trước 30t ở Đại Vận (2-11t) khi sinh ra Cha đang làm Tể Tướng nên sống trong giàu sang Phú Qúy, lên 3 tuổi được Tập Ấm (Hòang Tín Đại Phu, xuất thân Thành Môn Vệ Úy, tước Thu Nhạc Bá). Với hàm ấy Nguyễn Du đã đứng vào hàng Sĩ Tịch của Triều Đình của Triều Đình Lê - Trịnh, mặc dù chưa phải là một Vị Quan tại chức!. Tướng Mạo khôi ngô, thông minh (Nhật Nguyệt+Tứ Linh), lên 6t bắt đầu học chữ Hán, sách vở chỉ xem qua 1 lần là nhớ. Có lần Quận Việp Hòang Ngũ Phúc đến nhà chơi thấy Nguyễn Du có tướng mạo phi thường bèn tặng ông 1 thanh Bảo Kiếm. Dù Mệnh được Vòng Thái Tuế + THÂN cư Thiên Di được Vòng Lộc Tồn nhưng Nhật (tượng Cha), Nguyệt (tượng Mẹ) gặp Hóa Kỵ, Phục Binh, THÂN (ứng với thời gian từ Trung Vân đến Hậu Vận) nằm ở Vòng Tuế Phá (gặp nhiều ngang trái, bất mãn, có tinh thần cách mạng, nhưng nhờ Lộc Tồn +Mã Khốc Khách “Nghị Lực cao” đã vượt qua nhiều Sóng Gió của Cuộc Đời).
Từ năm Ất Mùi 1775 khi đi vào Hạn La Hầu 10t+Triệt, Ông đã chịu nhiều mất mát: anh trai Nguyễn Trụ cùng Mẹ tuổi Đinh Sửu 1757 qua đời vào Hạn La Hầu 19t+Kình Đà, cũng vào cuối năm đó Cha đau bệnh mất vào Hạn Thái Bạch 67t+Kình Đà. Hai năm sau Mẹ tuổi Canh Thân 1740 mất năm Mậu Tuất 1778 vào lúc Vận Số của Ông đi vào Năm Tuổi 13t+Hạn Thái Bạch+Kình Đà (nên nhớ Mệnh của ông ở Dậu với Mệnh của Phụ Mẫu ở Tuất: Dậu và Tuất ở Thế Nhị Phá và Thế Hỏa khắc Thế Kim + Cha Mệnh Hỏa, con Mệnh Thủy). Mồ côi cả Cha lẫn Mẹ cuộc sống trở nên khó khăn vào Thời Điểm này nằm trong Đại Vận (12t-21t) tại Cung Huynh Đệ, ông phải về sống với Anh Cả Nguyễn Khản, người Anh cùng Cha khác Mẹ hơn Ông 31t rất tài hoa, làm Quan to tại Triều được Chúa ưu đãi. Đời sống của người Anh Cả đã có ảnh hưởng nhiều đến ông trên đường Sự Nghiệp!.
Năm Canh Tý 1780 Nguyễn Khản đang làm Trấn Thủ Sơn Tây bị khép vào tội mưu lọan trong Vụ án năm Canh Tý (phò Thế Tử Trịnh Khải âm mưu phế bỏ Trịnh Cán) bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận Công. Lúc này Nguyễn Du được người bạn thân của Anh Cả là Đoàn Nguyễn Tuấn (là Anh Vợ sau này) đón về Sơn Nam Hạ (Nam Định) nuôi ăn học. Năm Nhâm Dần 1782 Trịnh Sâm mất, Kiêu Binh phế Trịnh Cán tôn Trịnh Khải lên ngôi Chúa. Nghĩ tình Thầy Trò, Trịnh Khải đón Nguyễn Khản về Triều với chức Thượng Thư Bộ Lại còn Nguyễn Điều làm Trấn Thủ Sơn Tây.
Năm Qúy Mão 1783 Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam đậu Tam Trường (Tú Tài) vào năm 18t. Cũng trong năm này Nguyễn Đề (anh cùng Mẹ tuổi Tân Tỵ 1761) đỗ Giải Nguyên khoa Thi Hương ở Điện Phụng Thiên và Anh Cả Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu Bảo cuối năm thăng chức Tham Tụng (Tể Tướng).
Sau sự kiện Kiêu Binh đốt cháy Dinh Thự của Anh Cả ở Phường Bích Câu (Thăng Long). Hòan cảnh khó khăn nên Anh Cả đành xin cho ông làm chức Chánh Phủ Hiệu tỉnh Thái Nguyên năm Bính Ngọ 1786 – đó là năm đầu của Đại Vận (22t-31t) tại Cung Thê gặp Tuần+Triệt. Tiểu Vận năm Bính Ngọ 1786 đi vào Vận Đào Hồng Hỉ, Ông lập gia đình với bà Đoàn Thị Huệ, con gái Tiến Sĩ Đòan Nguyễn Thục đang làm Ngự Sử tại Triều, người xã An Hải, huyện Quỳnh Côi, Trấn Sơn Nam (nay là tỉnh Thái Bình). Năm Đinh Mùi 1787, Tây Sơn tiến quân ra Bắc, Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu, Nguyễn Khản trở về Kinh Đô tập hợp Triều Thần bàn chuyện chống Tây Sơn, nhưng việc chưa thành thì ông bị bệnh mất tại Thăng Long. Nguyễn Du theo Vua không kịp, phải chạy trốn về Quê Vợ ở nhờ nhà anh vợ Đòan Nguyễn Tuấn tại Thái Bình (Vận Số đi vào Hạn Thái Bạch 22t+Kình Đà +Vận Triệt).
Đại Vận (22t-31t) tại Cung Thê nằm trong Tam Giác (THÂN cư Di, Thê, Phúc) tuy gặp Vòng Lộc Tồn, nhưng ở Thế Tuế Phá, Ông có tập hợp Hào Mục để tính chuyện Phục Quốc, nhưng chí không thành!. Mười năm lưu lạc ăn nhờ ở đậu Quê Vợ là những năm tháng cô đơn cùng cực của Ông, đói không cơm ăn, rét không có áo mặc. Ông gọi quãng Thời Gian này là Mười năm gió bụi ”Thập tải Phong Trần “. Hàng ngày Ông làm thơ than thở cho cảnh ngộ của mình, chưa làm nên danh vọng gì mà đã rơi vào cảnh cùng khổ!. Thời gian này nhà Vợ, bố vợ và anh vợ đều mất, ông đành trở về Quê Cha đất Tổ ở Tiên Điền. Trở lại Quê nhà, thấy nhà cửa tan hoang, anh em lưu lạc khắp nơi, Ông đã phải thốt lên “ Hồng Lĩnh vô Gia, Huynh Đệ tán”. Tuy vậy ở Tiên Điền vẫn còn bà con thân thuộc – nên Ông được bà con chia cho mảnh đất ở thôn Thuận Mỹ làm nhà ở. Do được sinh ra và sống trong nhung lụa của một Gia Đình Đại Qúy Tộc nên về Quê, Ông chẳng biết làm gì ngoài đống sách vở Thánh Hiền!. Đêm nằm nghe tiếng gió Bắc thổi qua liếp cửa, tiếng chuột rúc chạy trên đống sách khiến tâm trạng lại càng thêm buồn tủi. Để khuây khỏa Ông thường cùng trai làng Tiên Điền lên núi Hồng Lĩnh săn hươu nai hay xuống sông Lam bắt cá.
Năm Kỷ Dậu 1789 Vua Quang Trung đại phá quân Thanh, Đòan Nguyễn Tuấn ra hợp tác với nhà Tây Sơn giữ chức Thị Lang bộ Lại. Lúc này Nguyễn Du về ở Quê Vợ (Quỳnh Côi, Thái Bình). Tháng 10 năm Tân Hợi (1791), Nguyễn Quýnh, người anh thứ 4 cùng cha khác mẹ của Ông do chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết, Dinh Cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền, Hà Tĩnh bị phá hủy!.
Năm Qúy Sửu 1793 Ông về thăm Quê ở Tiên Điền, cuối năm Ông vào Kinh thăm anh ruột Nguyễn Đề đang làm Thái Sử ở Viện Cơ Mật và anh rể Đòan Nguyễn Tuấn.
Mùa Đông năm Bính Thìn (1796), ở năm đầu của Đại Vận (32t-41t) tại Cung Tử Tức gặp Tuần +Triệt, Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo Chúa Nguyễn Ánh, nhưng bị Quận Công Nguyễn Thận bắt giam 3 tháng ở Nghệ An, may nhờ anh ruột Nguyễn Đề quen với Thận nên được tha (Hạn Thái Bạch 31t+Kình Đà). Trong thời gian ở Tù, Ông có làm bài Thơ My trung mạn hứng «Cảm hứng trong Tù».
2) Thời Kỳ tham chính
Đại Vận (32t-41t) nằm trong Thế Thiếu Dương +Sát Phá Tham+Đào Hồng Hỉ + Tuần Triệt: 10 năm nhiều sóng gió, sau bế tắc, nhờ Triệt tháo gỡ, vào các năm cuối của Đại Vận, cuộc đời đã đi vào trang Sử mới.
Năm Nhâm Tuất 1802 Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn; khi ra Bắc Hà có xuống chiếu mời các Quan Chức cũ của nhà Lê phải ra yết kiến. Nguyễn Du được truyền lệnh theo xa giá ra Bắc Thành và được làm quan. Tháng 8 cùng năm được bổ làm Tri Huyện Phù Dung (thuộc Khóai Châu, Sơn Nam). Tháng 11 được thăng Tri Phủ Thường Tín. Mùa Đông năm Qúy Hợi 1803 để tiếp Sứ Thần nhà Thanh sang phong sắc cho Vua Gia Long, Ông được cử cùng các Tri Phủ Thượng Hồng là Lý Trần Chuyên; Tri Phủ Thiên Trường là Ngô Nguyễn Viên; Tri Phủ Tiên Hưng là Trần Lân ra Cửa Nam Quan nghênh tiếp Sứ Thần.
Mùa Thu năm Giáp Tý 1804 lấy cớ bị bệnh (Hạn Thái Bạch 40t+Tam Tai+Kình Đà) Ông xin từ chức về Quê. Con đường Hoạn Lộ với nhà Nguyễn đang hanh thông, nhưng ông vẫn thấy không mặn mà với Triều Đại này!. Về Quê chưa được bao lâu thì Vua Gia Long có chỉ triệu vào Kinh Đô. Mùa Xuân năm Ất Sửu 1805, Tiểu Vận vào Quan Lộc (+Hạn Thái Dương 41t+Tướng Ấn, Song Lộc, Mã Khốc Khách) được thăng Đông Các Đại Học Sĩ, tước Du Đức Hầu. Đây là ân sủng lớn mà Triều Đình dành riêng cho Ông; vì Ông chỉ đỗ Tam Trường (Tú Tài) mà thời đó phải đỗ Hương Cống (Cử Nhân) thì mới được bổ làm quan. Sở dĩ Triều Đình đặc cách phong cho Ông vì thấy Ông là người có tài; hơn nữa Ông lại xuất thân trong 1 Đại Gia Đình Khoa Bảng lỗi lạc một thời gian dài là Giường Cột của Triều Lê. Hơn nữa với mục đích trọng dụng những người như Ông có thể thu phục được nhâm tâm của Sĩ Phu Bắc Hà khi còn luyến tiếc Triều Lê!.
Tuy làm quan to với nhà Nguyễn, nhưng Ông chẳng lấy thế làm vui, mà lại thêm buồn vì thời thế đã đổi thay, lại thương cho Số Phận của mình. Những đêm mưa rả rích ở Xứ Huế, một mình nhìn về Phiá Bắc Đèo Ngang, lòng càng thêm đau sót. Nhà nghèo lại đông con, phải chịu cảnh đói rách (Thập khẩu đề cơ Hòanh Lĩnh bắc ”Mười miệng đói đang kêu ở Đèo Ngang”).
Năm Đinh Mão (1807), năm đầu của Đại Vận (42t-51t) tại Cung Tài Bạch tuy là Đại Vận Thái Tuế +Tứ Linh, nhưng Nhật Nguyệt gặp Hóa Kị, Phục Binh+THÂN Tuế Phá: 10 năm được vài năm đầu ưng ý, thỏa mãn với vài ước vọng thủa thiếu thời, nhưng nhìn cảnh Quan Trường còn đầy rẫy kẻ xu thời trục lợi chỉ thích vơ vét cho đầy túi tham, hơn nữa lòng còn vọng tưởng Cố Quốc một thời Danh Vọng của Đại Gia Đình. Ông càng cám cảnh cho thân phận cá chậu chim lồng của mình!.
Tháng 9 năm Đinh Mão (1807) được bổ làm Giám Khảo trường Thi Hương ở Hải Dương. Xong việc Ông xin về Quê được Vua chấp thuận. Đến mùa Hạ năm Kỷ Tỵ (1809) Vua lại có chỉ bổ Ông giữ chức Cai Bạ tỉnh Qủang Bình. Trong 4 năm giữ chức Cai Bạ mọi việc trong Hạt như: lính tráng, dân sự, kiện thưa, tiền nong, lương thực và các hạng Thuế, Ông đều bàn bạc thương thuyết với các quan lưu thư ký mục để thi hành. Chính sự giản dị không cần tiếng tăm nên được Sĩ Phu và nhân dân yêu mến.
Tháng 9 năm Nhâm Thân (1812) Ông xin tạm nghỉ 2 tháng về Quê xây mộ cho anh Nguyễn Đề. Tháng 2 năm Qúy Dậu (1813) có chỉ triệu về Kinh thăng hàm Cần Chánh Đại Học Sĩ (Vận Thái Tuế), sau đó được cử đi Sứ Trung Quốc với tư cách Tuế Cống Chánh Sứ cùng 2 Phó Sứ giúp việc là Thiêm Sự Bộ Lại Trần văn Đại và Nguyễn văn Phong.
Trong dịp đi Sứ sang Tàu, có dịp trở lại Thăng Long; bạn bè mở tiệc tiễn đưa ở Dinh Tuyên Phủ có gọi mấy chục Nữ Nhạc đến giúp vui. Trong đám Nữ Nhạc, Ông có nhận ra 1 người mà 20 năm trước, khi Ông từ Thái Bình lên thăm anh là Nguyễn Đề đã hát cho quân Tây Sơn nghe. Nhìn dung nhan tiều tụy, chạnh lòng nghĩ đến Thế Sự đổi thay, Ông buồn bã thốt lên: “Than ôi! Sao người ấy lại đến nỗi này. Tôi bồi hồi không yên, ngẩng lên, cúi xuống ngậm ngùi cho cảnh xưa nay”. Lòng cảm thương vô hạn, Ông đã gửi vào bài thơ Long Thành cẩm giả ca. Trong thời gian đi Sứ, ngoài sứ mệnh bang giao, mỗi khi qua đền chùa, các Danh Lam Thắng Cảnh nổi tiếng của Trung Quốc, Ông thường ghé thăm và làm thơ.. Ông ca ngợi Hạng Võ, Văn Thiên Trường, Tỷ Can…qua sông Mịch La nơi Khuất Nguyên trầm mình, Ông làm bài thơ Phản Chiêu Hồn khuyên Khuất Nguyên đừng trở về Dương Gian xấu xa, đầy tội ác. Qua tượng vợ chồng Tần Cối, Ông chê trách Tần Cối nghe vợ giết Trung Thần làm Hán gian cho ngoại bang. Đến thăm đền thờ Tiểu Thanh ở Hàng Châu, tỉnh Triết Giang, người con gái tài sắc vẹn toàn, nhưng bạc mệnh, Ông làm thơ khóc Tiểu Thanh, ngậm ngùi nghĩ đến thân phận Mình “Bất tri tam bách dư niên hậu – Thiên Hạ hà nhân khấp Tố Như ”.
Tháng 4 năm Giáp Tuất (1814) trở về nước, Ông có làm tập thơ Bắc hành tạp lục. Mùa Hạ năm Ất Hợi (1815) Ông được phong chức Hữu Tam Tri bộ Lễ tước Du Đức Hầu. Năm Kỷ Mão 1819 Ông được cử làm Đề Điệu trường Thi Quảng Nam, Ông dâng biểu xin nghỉ được nhà Vua chuẩn y. Thời Điểm này là năm đầu của Đại Vận (52t-61t) tại Cung Tật Ách ở Thìn (Thổ khắc Mệnh) có Kình Dương (Kim) rất độc với Can Ất (Mộc), lại Nhị Hợp với Mệnh (Nhật Nguyệt gặp Hỏa Linh, Hóa Kỵ: Tinh Thần mệt mỏi luôn luôn lo lắng đến sức khỏe). Năm Canh Thìn 1820 Vua Gia Long băng hà, Minh Mệnh lên ngôi, có lệnh sai Ông đi làm Chánh Sứ sang Tàu cầu phong, nhưng chưa kịp đi thì Ông mất vì bệnh Dịch Tả ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (16/9/1820) tại Kinh Thành Huế khi Tiểu Vận vào Tật Ách gặp Kình, Vận Số đi vào Hạn La Hầu 55t+Kình Đà, Không Kiếp.
Bệnh Dịch Tả này là trận Dịch lớn xuất phát từ Xiêm La, Chân Lạp rồi lây sang nước ta, phát sinh từ các tỉnh Hà Tiên, Định Tường rồi lan ra Bắc, người chết không biết bao nhiêu mà kể, cả thành thị lẫn thôn quê đều náo loạn!.
Hiện nay Nhà Thờ của Đại Thi Hào Nguyễn Du ở Tiên Điền có gắn 4 chữ (Địa Linh Nhân Kiệt) và Nhà Lưu Niệm trong đó có Tượng Đài của Ông được xây tại tỉnh Hà Tĩnh.
3) Tác Phẩm
a) Chữ Hán
- Thanh Hiên Thi tập gồm 78 bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan Triều Nguyễn.
- Nam Trung tạp ngâm gồm 40 bài ngâm nga lặt vặt lúc làm quan ở Huế, Quảng Bình và các địa phương phía Nam Hà Tĩnh.
- Bắc Hành tạp lục gồm 131 bài Thơ ghi chép các sự kiện khi đi Sứ sang Tàu.
b) Chữ Nôm
- Đoạn Trường Tân Thanh (truyện KIỀU) gồm 3254 câu Thơ theo thể Lục Bát viết bằng chữ Nôm có nội dung dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân (người Tàu) xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều, nhân vật chính- một cô gái có Tài Sắc nhưng Hồng nhan bạc phận.
- Văn Chiêu Hồn: Văn Tế 10 loại chúng sinh theo thể Thơ Song Thất Lục Bát.
- Thác lời Trai phường Nón: 48 câu Thơ thể Lục Bát với nội dung thay lời anh con Trai Phường Nón làm thơ tỏ tình với Cô Gái phường Vải.
- Độc Tiểu Thanh ký viết về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn của Trung Quốc, 16t bị gả làm vợ lẽ của nhân vật thuộc nhà quyền qúy. Vì Vợ Cả hay ghen nên đuổi nàng ra sống một mình ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ, không bao lâu bị bệnh chết ở tuổi 18t. Trước khi chết, nàng có để lại nhiều bài Thơ và Họa, nhưng hầu hết bị người vợ cả đốt!. Bài thơ viết theo thể Thất ngôn Bát cú Đường Luật.
- Văn Tế sống Trường Lưu nhị Nữ: gồm 98 câu viết theo lối Văn Tế để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với 2 cô gái Phường Vải.
Sáng tác của Nguyễn Du không nhiều về số lượng, nhưng có Vị Trí đặc biệt quan trọng trong Di Sản Văn Hóa Dân Tộc. Từ Kiệt Tác Truyện KIỀU đã nảy sinh biết bao những hình thức Sáng Tạo Văn Học và Văn Hóa khác nhau: thơ ca về Kiều, các phóng tác Truyện Kiều bằng văn học, sân khấu, điện ảnh; rồi vô số dạng thức của Nghệ Thuật Dân Gian: đố Kiều, giảng Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều… Đặc biệt là số lượng rất lớn những bài Bình Luận, những Công Trình Phê bình (từ xưa đến nay), kể cả Nghiên Cứu.
Dưới mắt người ở nước ngoài: Nguyễn Du là Nhà Thơ lớn của Thế Giới lúc bấy giờ, họ coi Ông là Vị Thánh của nền Thi Ca Việt Nam. Họ qúy trọng Ông vì đã đóng góp công vào nền Thi Ca Thế giới. Ông là nhân vật kiệt xuất của thơ ca Việt Nam. Năm 1965 Ông được Hội Đồng Hòa Bình Thế Giới của UNESCO công nhận là Danh Nhân Văn Hóa Thế Giới và quyết định Kỷ Niệm trọng thể nhân dịp Kỷ Niệm 200 năm, năm sinh của Ông.
Paris Mùa Xuân năm Mậu Tuất 2018
Phạm Kế Viêm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.