Thứ Tư, 30 tháng 11, 2011

Kiều Chinh

Nữ minh tinh giữ hồn Việt trên đất Mỹ



Đằng sau cánh cổng gỗ lớn của ngôi nhà tại California là một ốc đảo, nơi nữ diễn viên nổi tiếng một thời Kiều Chinh lưu giữ kỷ niệm về Việt Nam.

Nữ diễn viên Kiều Chinh.


Đối với bà Kiều Chinh, 73 tuổi, căn nhà này gợi nhớ lại những hồi ức thời nhỏ khi bà sống cùng cha mẹ ở miền bắc Việt Nam . Ở mỗi góc của căn nhà là một loại đồ đạc đặc biệt, một bức họa, trống cổ, tấm áo choàng thêu hình công, phượng, hay sách về châm cứu.

Phía sau nhà là một bàn uống trà bằng tre. Hai bên lối đi dẫn tới gian thờ là hàng cây lựu và bồ đề. Bên trong gian thờ là báu vật mà bà Chinh quý nhất - một chiếc chuông đồng, một cái trống và bức tượng Phật ngồi trên đài sen. Trên mỗi cánh sen, hình đức Phật được khắc tinh xảo. "Mọi thứ trong nhà đều gợi cho tôi thời xưa cũ", bà nói. "Chúng là hình ảnh, mùi hương và âm thanh Việt Nam ".

Đây không chỉ là một ngôi nhà, mà nó là bảo tàng ký ức. Bà Chinh là chủ sở hữu của nó, là người trông giữ và người hâm mộ nhiệt tình nhất. Thế nhưng, bà đang phải đối diện với việc mất nhà và phải bán từng món đồ quý. "Tôi đau đớn khi phải bán những thứ đó", bà nói. "Nhưng đấy là việc cần làm".

Khi còn nhỏ, cô bé Chinh sống cùng cha mẹ ở Hà Nội. Nhà của họ từng là nơi các họa sĩ, nhà thơ và nhạc sĩ tụ họp. Họ phải chuy sang một căn nhà bé hơn ở gần vườn bách thú Hà Nội năm 1943.

Chinh kết hôn năm 18 tuổi. Sau đó, bà được nhà làm phim Mỹ Joseph Mankiewicz phát hiện và khởi nghiệp diễn viên tại Sài Gòn. Năm 1975, nữ diễn viên Kiều Chinh rời Việt Nam tới Toronto, Canada, sau đó, tìm đường tới Hollywood, Mỹ, nhờ quan hệ với một ngôi sao ở đây và trở lại nghiệp diễn. Bà từng đóng những vai chính như trong show truyền hình M.A.S.H và phim The Joy Luck Club.


Nữ diễn viên Kiều Chinh thời trẻ.

Năm 2005, bà mua một mảnh đất ở thành phố Garden Grove . Một năm sau, bà xây nhà. Ngôi nhà là nơi con cháu bà đoàn tụ. "Chúng tìm thấy nguồn cội ở đây", bà cười và nói.

Tình hình tài chính của Chinh vẫn bình thường cho tới hai năm trước. Bà thường xuyên phát biểu tại các hội thảo và có hợp đồng với các công ty truyền thông. Bà từng hy vọng được trút hơi thở cuối cùng tại căn nhà này, xung quanh là con cháu và những ký ức.

Tuy nhiên, giấc mơ của bà tan thành mây khói. Bà nhận được ít vai đóng phim và trong khoảng một năm nay, bà tìm cách bán nhà. Bà không muốn ngân hàng tịch thu nó. "Họ đâu có quan tâm tới bảo tàng của tôi cơ chứ", bà nói.

Tuy nhiên, chỉ trong năm ngoái, giá nhà của bà giảm một phần ba, còn 1,3 triệu USD. Bà bắt đầu rao bán nhà từ hồi tháng 5 và bán dần đồ quý. "Tôi rất khổ sở khi phải bán chúng", bà nói, cố ngăn nước mắt.

Kiều Chinh cho rằng bà sẽ phải chuyển nhà một lần nữa, và cho rằng đó là một phần trong cuộc sống của bà. Tuy nhiên dù đi đâu, bà sẽ vẫn giữ ký ức của quê nhà. "Tôi sẽ chuyển từ một bảo tàng lớn tới bảo tàng nhỏ", bà nói và mỉm cười.

Trong nhà nữ diễn viên Kiều Chinh



Nữ diễn viên Kiều Chinh ngồi trước bức ảnh ghép ghi lại sự nghiệp diễn viên của bà.


Trống đồng, một trong những thứ mà Kiều Chinh phải bán.


Bức tượng Phật trong điện thờ trong nhà bà Kiều Chinh.




Khu vườn trong nhà của nữ diễn viên nổi tiếng một thời.







Thư phòng trong nhà của Kiều Chinh.







Vườn tre sau căn nhà của cựu minh tinh.







Từng ngóc ngách trong khu nhà đều gợi nhớ cho Kiều Chinh về thời quá khứ ở Việt Nam .











Kiều Chinh mang họ Nguyễn, sinh năm 1937 là con út trong một gia đình có 3 người con. Mẹ chị mất sớm trong một trận oanh tạc bom của quân đội Đồng Minh xuống quân Nhật chiếm đóng Việt Nam vào năm 1945. Chị ở với bố và người anh cả trong khi người chị gái đã lập gia đình trước năm 1954 và theo chồng sang Pháp. Trước ngày di cư vào Nam, người anh Kiều Chinh bỏ nhà theo kháng chiến nên chỉ còn lại chị ở một mình với bố.





Đến ngày ra phi trường di cư vào Sài Gòn, sau khi chờ đợi cả ngày mới đến lượt lên máy bay thì thân phụ chị quyết định ở lại tìm người anh rồi sẽ vào Nam sau. Do đó ông đã đẩy người con gái út vào lòng phi cơ trong khi chị muốn nhào ra ở lại cùng người bố thân yêu. Nhưng trước làn sóng người xô đẩy, chị đã lọt vào trong. Đó cũng là lần cuối cùng chị nhìn thấy bố. Và đó cũng là một sự đưa đẩy Kiều Chinh, một cô nữ sinh Saint Paul ở Hà Nội, một thân một mình bước vào cuộc hành trình của cuộc đời khi mới chỉ là cô thiếu nữ 16, 17.





Cảm thông cho tình trạng bơ vơ của Kiều Chinh, một gia đình quen thân phụ chị có mặt trên chuyến phi cơ định mệnh đã đưa chị về sống chung để chờ ngày đoàn tụ với bố và anh. Nhưng thời hạn 300 ngày qui định cho những người di cư từ cảng Hải Phòng đã qua mà không nhận được một tin tức gì về những người thân, nên chị đã ở lại luôn trong gia đình này. Và cũng do định mệnh đẩy đưa, Kiều Chinh trở thành con dâu trong nhà sau khi chính thức lập gia đình với người con trai thứ trong gia đình là Nguyễn Năng Tế vào năm 1956.





Tại Sài Gòn trong thời gian này Kiều Chinh học trường Nguyễn Huệ phần lớn về sinh ngữ. Nhưng sau đó đã phải bỏ học dở dang vì có con. Kiều Chinh và Nguyễn Năng Tế có với nhau 3 người con, 1 gái, 2 trai mà Tuấn Cường là con trai út và cũng là một người say mê nghệ thuật như ca nhạc và điện ảnh như mẹ. Cuộc hôn nhân giữa Kiều Chinh và Nguyễn Năng Tế đi đến đổ vỡ 25 năm sau.





Vào năm 1957, Kiều Chinh trong bước đầu đến với điện ảnh đã không được suôn sẻ khi đạo diễn Joseph Mankiewics đến Sài Gòn thực hiện phim “The Quiet American”. Một hôm từ Nhà Thờ Đức Bà đi ra, khi đi ngang qua nhà hàng Givral, có một người Mỹ ngồi với một nhóm bạn trong nhà hàng của khách sạn Continental bên kia đường Tự Do chạy ra vỗ vai chị hỏi có biết nói tiếng Anh không.





Kiều Chinh hơi sững sờ và tỏ ra ngại ngùng sợ bị hiểu lầm nên không trả lời. Người Mỹ đó hiểu ý nên tự giới thiệu là người trong một đoàn làm phim, nhận thấy chị có dáng vóc rất thích hợp với một vai trò trong cuốn phim sắp quay nên muốn mời giữ một vai quan trọng. Đó là vai Phượng, trong phim “The Quiet American”.





Khi ngỏ ý xin phép được nhận lời đóng phim, nhất là đóng phim với người Mỹ, Kiều Chinh đã gây không ít ngỡ ngàng cho toàn thể gia đình để rồi bị ngăn cản. Vai Phượng sau đó được giao cho nữ tài tử Ý Georgia Moll. Đúng vào thời gian này, phim “Hồi Chuông Thiên Mụ” đang được ông Bùi Diễm và đạo diễn Lê Dân sửa soạn thực hiện. Hai người đã đến tận nhà Kiều Chinh xin phép bố mẹ chồng chị để chị được đóng vai chính trong cuốn phim này.





Sau khi được biết người con dâu trong gia đình sẽ thủ vai một ni cô nên gia đình chị – một gia đình theo Phật Giáo - đã đồng ý một cách dễ dàng, hơn là để chị nhận lời cộng tác với nhóm phim người Mỹ vào thời kỳ sự liên hệ giữa phụ nữ Việt Nam với người Mỹ dễ đưa đến nhiều ngộ nhận. Cuộc hành trình vào lãnh vực điện ảnh của Kiều Chinh chính thức bắt đầu từ đây…





Thật sự cuộc hành trình vào điện ảnh của Kiều Chinh đã manh nha từ thời niên thiếu khi thường được bố thường xuyên đi xem chiếu bóng ở những rạp mà ông là một khán giả thường trực, đặc biệt là một rạp trên đường Cầu Gỗ. Sự say mê điện ảnh đến với chị khi được bố giảng nghĩa về những cuốn phim Pháp thịnh hành vào thời kỳ này. Tuy nhiên chị chưa hề mong ước sau này sẽ thành tài tử vì nền điện ảnh Việt Nam còn trong thời kỳ phôi thai, chưa được quần chúng biết tới.





Tuy nhiên chắc chắn trong tiềm thức người nữ tài tử tương lai đã ghi lại những hình ảnh lôi cuốn qua nghệ thuật diễn xuất của những diễn viên trong những cuốn phim đã xem qua. Nhưng Kiều Chinh lại tỏ ra say mê âm nhạc nên được bố cho theo học piano trong nhiều năm để nuôi niềm mơ ước trở thành một danh cầm. Nhưng tình trạng đất nước chia đôi đã khiến chị phải dở dang việc học nhạc sau khi đặt chân vào miền Nam. Cho đến nay âm nhạc vẫn là một thú tiêu khiển thích thú nhất của người diễn viên điện ảnh này.





Sau “Hồi Chuông Thiên Mụ”, Kiều Chinh cộng tác với Alpha Films của đạo diễn Thái Thúc Nha trong phim “Mưa Rừng”, đồng diễn với Kim Cương, Xuân Phát và Ngọc Phu. Qua đến phim thứ ba là “Ngàn Năm Mây Bay”, phỏng theo tiểu thuyết của Văn Quang, chị đóng với Thanh Nga và Lê Quỳnh. Sau đó chị liên tiếp được mời đóng những phim như “Năm Dần” (“Year Of The Tiger”), do một công ty Mỹ sản xuất với nam tài tử Marshall Thompson cùng một số tài tử Phi Luật Tân và Việt Nam như Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Long, Năm Châu, Kiều Hạnh, vv...





Thêm vào đó là một cuốn phim Mỹ được thực hiện tại Việt Nam nữa là “Operation CIA” với nam tài tử Burt Reynolds. Đó là chưa kể đến nhiều phim ngoại quốc khác được thực hiện tại vùng Á Đông như “Destination Vietnam” với tài tử lừng danh Phi Luật Tân Leopoldo Salcedo và hai tài tử Việt Nam Nguyễn Long và Đoàn Châu Mậu. Phim này do công ty Paramount sản xuất vào năm 1968 và được ra mắt tại thủ đô Manila của Phi với những nghi thức trang trọng dành cho Kiều Chinh, là người cắt băng khánh thành tại rạp The New Frontier Cinema, lớn nhất thành phố.





Vào năm 1971, Kiều Chinh còn được mời thủ diễn một vai quan trọng bên cạnh ngôi sao màn bạc Ấn Độ là nam tài tử Dev Avnam trong phim “Devil Within” do hãng 20th Century Fox sản xuất. Với những phim hoàn toàn do người Việt Nam thực hiện, Kiều Chinh đã xuất hiện trong nhiều cuốn phim khác như “Từ Sài Gòn Đến Điện Biên Phủ” của hãng phim Mỹ Vân với Thẩm Thúy Hằng, Đoàn Châu Mậu và Lê Quỳnh. Với phim này chị đã đoạt giải thưởng của Tổng Thống về “Nữ Diễn Viên Xuất Sắc Nhất” năm 69. Phim “Chờ Sáng” với Lê Quỳnh và Tâm Phan, “Hồng Yến” với Trần Quang và Tâm Phan, “Bão Tình” với Ôn Văn Tài, “Chiếc Bóng Bên Đường” với Kim Cương và Thành Được.





Ngoài vai trò diễn viên, Kiều Chinh còn đứng ra thành ;lập hãnh phim “Giao Chỉ” vào năm 1972 sau khi cùng với đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc thực hiện một số truyện phim nhưng không được sự hưởng ứng của những nhà sản xuất, chỉ chủ trương làm phim với giá vốn thấp và có nội dung bình dân trong tình trạng khó khăn vào thời kỳ chiến tranh. Vả lại những phim vào thời đó không được phổ biến rộng rãi tại các tỉnh xa ngoài những thành phố lớn. Do đó hai người muốn tự đứng ra thành lập riêng một công ty điện ảnh để sản xuất theo ý muốn với sự chấp nhận một số sở phí cao cho các phim thực hiện, điển hình như “Người Tình Không Chân Dung”, thực hiện vào năm 1972 với các tài tử Kiều Chinh, Vũ Xuân Thông và Minh Trường Sơn. Cuốn phim đầu tay của Giao Chỉ Phi, đã đoạt giải Phim Chiến Tranh Hay Nhất và Nữ Diễn Viên Chính Xuất Sắc Nhất tại Đại Hội Điện Anh Á Châu vào năm 1973.





Cũng trong năm 73, Kiều Chinh còn đoạt Giải Thưởng “Nữ Diễn Viên Chính Xuất Sắc” về bi kịch tại Điện Ảnh Á Châu tại Đài Loan với “Outstanding War Story”. Và cũng trong năm đó, chị thủ vai chính trong phim “Hè Muộn” với Như Loan , Nguyễn Tất Đạt, Bội Toàn và Nguyễn Năng Tế, được coi là cuốn phim cuối cùng chị đóng tại Việt Nam. Đó là không kể còn cộng tác với 2 cuốn phim khác được quay tại Thái Lan và 2 thực hiện tại Singapore mà “Full House” là phim cuối cùng quay tại Singapore trước khi chị trở lại quê hương vào ngày 15 tháng 4 trong lúc Sài Gòn đang trong tình trạng hấp hối.





Nhờ có được nhiều liên hệ với những viên chức trong ngành ngoại giao, Kiều Chinh được cho biết trước những trường hợp không hay sẽ xẩy ra cho Sài Gòn, nên đã quyết định ra đi một mình với thông hành ngoại giao. Thông hành này đã được Bộ Ngoại Giao Việt Nam Công Hoà cấp đặc biệt cho chị sau khi chị nhận tước hiệu “Good Will Ambassador” trong lần tham dự Đại Hội Điện Ảnh New Delhi tại Ấn Độ vào năm 1972.





Kiều Chinh quay trở lại Singapore khoảng 10 ngày sau đó với ý định sẽ tìm cách cư ở một quốc gia khác – đặc biệt là Hoa Kỳ - và sẽ bảo lãnh chồng sang sau, trong khi cả 3 người con chị đã sang Canada du học từ trước. Tuy nhiên sở di trú Singapore cho biết giấy thông hành của chị đã hết hiệu lực nên Kiều Chinh đã bị giam giữ vài ngày, trước khi được trả tự do vời điều kiện phải rời khỏi quốc gia này trong vòng 48 tiếng.





Cuộc hành trình ngoài đời sống tưởng như đi đến chỗ bế tắc sau khi Kiều Chinh bị toà đại sứ của nhiều quốc gia từ chối cấp chiếu khán do sự mất hiệu lực của giấy thông hành. Một số viên chức ngoại giao quen biết đã cho chị ý kiến nên mua một vé máy bay đi nhiều nơi trên thế giới. Theo những viên chức này, hành khách nào ở trên một chuyến bay có thể đến bất cứ nơi nào mình muốn trong khi tình trạng quốc gia gốc của đương sự đang gặp biến loạn mà sự trở về có thể nguy hiểm sẽ đương nhiên được hưởng quyền tỵ nạn.





Từ Singapore Kiều Chinh lại bắt đầu một cuộc hành trình tưởng như bất tận. Chị một mình đã bay sang Bangkok, rồi Hồng Kông, tới Đài Loan, Đại Hàn, Nhật. Rồi từ Nhật sang Pháp, qua Luân Đôn. Lại từ LuânĐôn sang New York. Và cuối cùng Kiều Chinh đặt chân xuống Toronto đúng vào đêm 30 tháng 4 năm 75!











Kiều Chinh và tài tử Tiffi Hedren



Tại đây chị được nữ tài tử Tippi Hedren (tài tử chính trong phim The Birds của Alfred Hitcock) bảo lãnh sang Mỹ vào tháng 6 năm 75. Lý do quen biết với Hedren đước Kiều Chinh cho biết vào giữa thập niên 60, đài truyền hình Mỹ ở Sài Gòn mời chị điều khiển chương trình cho một show gồm những tài tử điện ảnh nổi tiếng đến từ Hollywood, trong số có Tiffy Hedren, Danny Kaye, Glenn Ford, vv...





Vì chỉ gặp gỡ một lần qua show đó vào năm 1965 nên chị không nghĩ rằng 10 năm sau Tippi Hedren còn nhớ đến mình. Nhưng vì quá thất vọng trong việc tìm người bảo trợ sang Mỹ, mà nơi chị nhắm là Hollywood, nên đã gọi điện thoại đề nghị với nữ tài tử quốc tế này. Trước đó chị đã không liên lạc được với những người đầu tiên là tài tử Burt Reynolds, Glenn Ford và William Holden.





Chị đã không ngờ khi vừa nghe nhắc đến tên mình qua điện thoại, Tippi Hedren đã òa khóc và cho biết khi Sài Gòn thất thủ, bà có nghĩ nhiều đến tình trạng của chị nên rất mừng khi nhận được điện thoại. Chỉ hai ngày sau người nữ tài tử giầu tình cảm này đã gửi vé máy bay cho Kiều Chinh sang Mỹ.





Trong vai trò phó chủ tịch một cơ quan từ thiện tên “Food For The Hungry” đảm trách bảo lãnh cho 500 gia đình tỵ nạn Việt Nam ở Sacramento, Tippi Hedrfen đã gửi điện tín mời chị sang cắt băng khánh thành trại tiếp nhận người tỵ nạn và chị đã dùng điện tín này để chứng minh với sở di trú Hoa Kỳ trong khi chị không thuộc diện tỵ nạn như những trường hợp khác.





Thế là Kiều Chinh lại thực hiện một chuyến hành trình sang Sacramento, California, khởi đầu cho con đường dẫn tới kinh đô điện ảnh sau này. Tại Sacramenro chị phụ giúp bà Tippi trong việc giúp đỡ những đồng bào tỵ nạn “Hope Village” một thời gian ngắn và sau đó được mời về ở chung với người con gái của nữ tài tử này. Sự có mặt của chị trên đất Mỹ đã được các cơ quan truyền thông quốc tế như đài phát thanh, truyền hình ABC, NBC, CBS, KTTV, vv... và báo chí như Los Angeles Time, People Magazine, New York Time, vv... chú ý để thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn. Vì đối với họ chị đã là một khuôn mặt quen thuộc từng xuất hiện bên cạnh những ngôi sao màn ảnh nổi tiếng Hoa Kỳ trước khi đặt chân đến xứ sở này.





Qua những lần phỏng vấn đó, Kiều Chinh cho biết đang muốn tìm một công việc làm, ý muốn nói được tiếp tục đóng phim. Nhưng Giám Mục Chủ Tịch cơ quan Từ Thiện Công Giáo USCC đã gửi lời nhắn đến một đài truyền hình đã phỏng vấn chị, cho biết ngài sẵn sàng nhận chị làm thông dịch viên. Lúc đó cơ quan này cũng đang đảm trách công tác bảo trợ cho hàng ngàn người tỵ nạn Việt Nam. Kiều Chinh nhận lời và đến nhận việc, lúc đó tại đây đã có mặt những nghệ sĩ như Jo Marcel, Nam Lộc, vv... và kế đó còn có nam tài tử từng đồng diễn với chị trong nhiều phim ở Việt Nam là Lê Quỳnh.











Chỉ một thời gian ngắn sau Kiều Chinh gặp được nhiều cơ hội để tiếp tục cuộc hành trình trong lãnh vực điện ảnh, khởi đầu với những bộ phim truyền hình của Mỹ. Đặc biệt chị đã được mời thủ vai chính trong loạt phim M*A*S*H nổi tiếng vào năm 1977 bên cạnh nam tài tử Alan Alda, kế đó là những phim truyện thực hiện riêng cho truyền hình (“mini series”) khác như Bureau (1980), Lou Grant (1982), Call To Glory (1984 – 1985), vv... kế đó có Vietnam War Stories (1989), Message From Nam (1993), Cybill (1996), vv...





Gần đây hơn cả là Touched By An Angel (1999 – 2000), Chicago Hope (2000), vv... Đó là chưa kể những cuốn phim TV khác như The Chikldren Of Anlac (1980), Fly Away Home (1980), và gần đây nhất là “Temptation”, thực hiện vào năm 2003. Riêng trong lãnh vực thuần túy điện ảnh, Kiều Chinh đã có mặt trong những cuốn phim quốc tế, khởi đầu với một vai trong Hamburger Hill vào năm 1987.





Kế đó cuộc hành trình trên con đường điện ảnh đối với chị có phần tốt đẹp hơn với Gleaming The Cube (1988), Vietnam-Texas (1989), Welcome Home (1989).





Sau khi cuốn phim The Joy Luck Club được trình chiếu tại khắp nơi trên thế giới thì cuộc hành trình đó càng thêm phần khởi sắc qua khả năng diễn xuất của chị trong vai một người mẹ người Trung Hoa. Kiều Chinh tỏ ra rất hài lòng với cuốn phim này. Sau đó chị còn tiếp tục xuất hiện trong những cuốn phim khác là Catfish In Black Bean Sauce (1999), What’s Cooking (2000), Face (2001)






Và gần đây nhất chị đã thủ vai một lão bà tỵ nạn trong phim “Journey From The Fall” với Diễm Liên và một nam tài tử trẻ tên Nguyễn Long, đề cập về cuộc hành trình của người tỵ nạn sau ngày Sài Gòn sụp đổ vào tháng 4 năm 75. Phim do Trần Hàm đạo diễn, sẽ được trình chiếu vào tháng 4 năm nay để đánh dấu 30 năm xa rời quê hương.



Ngoài việc diễn xuất trong trên 70 cuốn phim các loại, Kiều Chinh còn giữ vai trò cố vấn cho những phim hay chương trình truyền hình có đề tài liên quan đến Việt Nam. Hoạt động của Kiều Chinh không ngừng ở đó để chị còn có nhiều hoạt động khác. Đặc biệt từ năm 1994 đến nay chị còn giữ vai trò thuyết trình viên của tổ chức GTN (Greater Talent New Rork) trụ sở đặt tại New York, cho nhiều cơ quan và tổ chức khắp nơi tại những hội nghị cũng như những buổi hội thảo.











Nhưng hoạt động có tính cách xã hội có nhiều ý nghĩa nhất của Kiều Chinh là đã giữ vai trò đồng chủ tịch sáng lập tổ chức từ thiện bất vụ lợi The Vietnam Children’s Fund với ký giả Terry Anderson. Tổ chức này đã thiết lập được một loạt 61 trường tiểu học tại Việt Nam.





Vào năm 1995, Kiều Chinh trở lại quê hương để cắt băng khánh thành ngôi trường đầu tiên tại Quảng Trị. Và đây cũng là lần đầu chị trở về Hà Nội sau 41 năm xa cách để gặp lại người anh duy nhất, trong khi thân phụ chị đã qua đời. Cuộc hành trình trở về quê hương của Kiều Chinh đã được thực hiện thành phim bởi đài truyền hình KTTV thuộc hệ thống Fox Television dưới tên “Kieu Chinh: A Journey Home”, đã chiếm giải Emmy Awards dành cho phim tài liệu vào năm 1996.





Nếu liệt kê đầy đủ những giải thưởng chị đã đoạt được cùng với hoạt động xã hội chị đã dấn thân thực hiện thì phạm vi một bài viết không cho phép vì giới hạn của nó. Nhất là những điều đó đã từng được nhắc nhở nhiều lần bởi các cơ quan truyền thông cũng như trong cuốn sách “Kiều Chinh-Hà Nội-Sài Gòn-Hollywood” của Nhã Ca, thực hiện năm 1992 tại Hoa Kỳ với bài viết của 29 tác giả Việt-Mỹ. Chỉ cần biết rằng Kiều Chinh đã thành công trong cả hai cuộc hành trình: đời sống và điện ảnh.





Mặc dù cuộc hành trình nào chị cũng đã phải trả một cái giá tương xứng. Có lúc gục ngã, nhưng Kiều Chinh đã vươn lên. Có lúc lên tới đỉnh cao, nhưng Kiều Chinh vẫn luôn khiêm nhượng do bản chất khả ái và lối cư xử nhẹ nhàng của mình.







Kiều Chinh nhận hoa chúc mừng kỷ niệm 70 cuộc đời, 50 năm điện ảnh tại Stafford Performing Theater, Houston, Texas ngày 23.9.2007.



Hiện nay chị sống ở Garden Grove, hàng ngày tập thiền để giữ cho tinh thần được luôn thanh thản. Để rồi từ đó Kiều Chinh vẫn sẽ tiếp tục những cuộc hành trình khác. Cuộc hành trình sắp tới của chị sẽ diễn ra tại thành phố Montreal, Canada vào ngày Chúa Nhật 20 tháng 3 năm 2005 tới đây trong chương trình “Kiều Chinh: Con Người Và Điện Ảnh” do Trung Tâm Văn Hoá Giáo Dục Hồng Đức tổ chức.





Trong khi đó những thân hữu của Kiều Chinh đã bắt đầu xúc tiến thực hiện một chương trình thật trang trọng dành cho chị vào năm 2007 để đánh dấu 50 năm điện ảnh của người nữ minh tinh sống trọn đời mình cho nghệ thuật thứ bảy.



Trường Kỳ

Source: http://baomai.blogspot.com/



Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2011

Từ bài học của người Mỹ và của người Nhât.

Phạm Hoài Nam




Xây dựng lòng yêu nước từ bài học của người Mỹ và của người Nhât.



Phần I: Bài học từ lòng yêu nước của người Mỹ

Ai cũng biết chỉ có lòng yêu nước mới có thể giúp cho dân tộc VN thoát ra khỏi bế tắc hiện nay và để được sống đúng với nhân phẩm con người.

Sự khác biệt về giàu nghèo, có hãnh diện về đất nước của mình hay không - chủ yếu là do lòng yêu nước mà ra.

Cũng vì lòng yêu nước mà từ đầu thế kỷ 18, đã có những phong trào trí thức người Nhật tìm cách thoát khỏi quỹ đạo văn hóa của người Trung Hoa, đứng đầu là hai nhà tư tưởng Ogyo Sorai và Motoori Norinaga.

Lòng yêu nước đã thúc đẩy người Nhật đi khắp bốn phương học hỏi những tinh hoa của thế giới trở về tạo ra cuộc cách mạng Minh Trị Duy Tân để bắt kịp các nước Tây Phương và thoát được thân phận nô lệ.

Lòng yêu nước đã khiến cho người Nhật phải biết nhẫn nhục chịu đựng, cố gắng làm việc để vươn lên từ đống tro tàn.

Lòng yêu nước đã thúc đẩy người Nhật đồng lòng chung sức đương đầu trong cơn khốn khó như cuộc động đất vừa mới xảy ra tại Sendai vào đầu năm nay.

Lòng yêu nước đã nhắc nhở người Nhật phải luôn luôn gìn giữ thể diện dân tộc…

Và chính lòng yêu nước đã tạo ra một nước Nhật vĩ đại…

Sự khác biệt giữa đất nước chúng ta và nước Nhật cũng chính từ sự khác biệt về lòng yêu nước. Cùng là một nước ở Á Châu, diện tích, dân số, tài nguyên gần như nhau nhưng một nước thì giàu có và được cả thế giới kính nể, còn nước kia thì ngược lại…

Làm sao để xây dựng lại lòng yêu nước? Đây là câu hỏi mà những ai còn có chút quan tâm đến đất nước đều phải ưu tư suy nghĩ.

Trước khi trả lời câu hỏi đó, thiết nghĩ chúng ta phải đặt câu hỏi: tại sao lòng yêu nước của người Việt Nam suy sụp?. Phải chăng nó phát xuất từ hệ lụy của một nền văn hóa yếu kém, những chế độ chính trị khắt nghiệt, những chính sách cai trị thất nhân tâm và những đổ vỡ liên tục của niềm tin!!!.

Lòng yêu nước và niềm hãnh diện dân tộc có mối liên hệ mật thiết với nhau. Người ta không thể hãnh diện về những gì mà mình không yêu thương và cũng rất ít ai có thể yêu thương những gì mà mình không hãnh diện.



Người Việt Nam ngày nay không còn mấy ai hãnh diện về đất nước và dân tộc của mình, ngoài những yếu tố nêu trên, có thể vì trong chính con người Việt Nam của chúng ta, theo quan điểm của người viết, đã thiếu sót một phẩm cách vô cùng cần thiết – đó là tinh thần hào hiệp mã thượng.

Hãy nhìn lại suốt chiều dài lịch sử của đất nước, chúng ta có được bao nhiên tấm gương của tinh thần này, chúng ta chỉ có lập rồi phá chớ không có tiếp nối, và sau mỗi lần lật đổ một triều đại hay một chế độ là những cuộc giết hại công thần, thanh trừng đẫm máu, những sự trả thù tàn bạo, “nhổ cỏ phải nhổ cho tận gốc” chưa đủ mà có khi còn phải “tru di tam tộc” và nó tiếp tục như thế từ đời này sang đời khác.



Tinh thần hào hiệp mã thượng không phải chỉ thiếu sót ở người lãnh đạo mà càng rõ nét hơn trong những sinh họat tập thể của người Việt Nam, càng đứng trước những thử thách thì khuyết điểm này của người Việt Nam càng hiện ra rõ hơn.



Trong phạm vi ngắn gọn của bài viết này, người viết chỉ có tham vọng rất khiêm tốn là hy vọng rằng qua bài học về lòng yêu nước của người Mỹ và Nhật chúng ta có thể rút được vài điểm nào đó để tìm cách xây dựng lại lòng yêu nước của người Việt Nam.







I. Bài học từ người Mỹ





A. Cách đối xử giữa người thắng trận và người bại trận sau cuộc Nội chiến

Nước Mỹ chỉ mới lập quốc được có 235 năm, một đất nước rất trẻ so với nhiều nước khác trên thế giới trong đó có nước VN, nhưng người Mỹ có cả ngàn lý do để họ hãnh diện về đất nước của mình. Từ những người đầu tiên viết ra bản hiến pháp xác nhận một chính quyền thật sự vì dân và do dân, trong đó quyền tự do là quyền thiêng liêng không thể tước đoạt, cho đến vị Tổng thống đầu tiên George Washington, mặc dầu có công lãnh đạo dành lại độc lập từ người Anh, nhưng vẫn một mực làm đúng 2 nhiệm kỳ như hiến pháp đã quy định, cho đến một Abraham Lincoln cam đảm bãi bỏ chế độ nô lệ dù phải trả giá bằng cuộc nội chiến, cho đến một Franklin Roosevelt chấp nhận mọi thử thách đứng về phía chính nghĩa để chống lại chế độ Phát xít cho dù chiến tranh xảy ra bên kia bờ Đại Tây Dương, cho đến một Ronald Reagan quyết tâm khôi phục lại lòng tự tin của người Mỹ sau cuộc chiến VN bằng lòng yêu nước mãnh liệt của mình…. Và vô số những tấm gương khác, từ đủ mọi thành phần trong xã hội. Trong bất cứ thời đại nào, người Mỹ không bao giờ thiếu những con người giàu lòng nhân ái như John Rockefeller, như Bill Gate, như Warren Buffett, như Steve Jobs (vừa mới qua đời)... Họ là những người vượt qua khỏi biên giới hạn hẹp của quốc gia, của màu da chủng tộc, chủ nghĩa...để nghĩ đến nỗi bất hạnh của người nghèo khổ trên toàn thế giới.

Trong lịch sử của nước Mỹ, biến cố gây ấn tượng mãnh liệt nhất, có lẽ là cách mà tổ tiên của họ đã đối xử với nhau sau cuộc Nội chiến Nam-Bắc chấm dứt vào năm 1865.







Vào ngày 7/5/1975, có nghĩa là chỉ có 1 tuần sau khi quân đội Miền Bắc chiếm được Miền Nam, trong lễ ăn mừng chiến thắng tướng Trần Văn Trà đã nói trước mặt mọi người: “Trong cuộc chiến này, cả Miền Bắc và Miền Nam đều chiến thắng, chỉ có người Mỹ bại trận”.

Không biết vô tình hay chủ ý, câu nói này tương tự như lời phát biểu của Tướng Ulysses Grant sau khi tướng Lee tuyên bố đầu hàng và Tướng Grant đã ghi lại trong quyển hồi ký của mình “Personel Memoir of U. S. Grant”: “Trong cuộc chiến này, chỉ có nước Mỹ chiến thắng, chớ không có ai thắng ai thua. ”

Hai câu nói hình thức gần giống nhau nhưng ý nghĩa lại khác nhau hoàn toàn: Tướng Grant nói thật lòng mình để xoa dịu nỗi đau khổ của người bại trận sau cuộc nội chiến kéo dài bốn năm. Trái lại câu nói của tướng Trần Văn Trà là câu nói mị dân, nằm trong mục đích tuyên truyền của chế độ để gạt tất cả những quân dân cán chính của VNCH, tin vào chính sách “khoan hồng của Đảng”, tin rằng chỉ có 10 ngày “học tập”, nhưng sau đó ra đi không biết ngày trở lại và mãi đến hôm nay sự trả thù như thế vẫn chưa chấm dứt.

Có một điểm đặc biệt là trong cách thể hiện lòng yêu nước của người Mỹ đều có chan chứa tinh thần hào hiệp mã thượng.

Nói về tinh thần hào hiệp mã thượng của người Mỹ, cựu thủ tướng Tony Blair của Anh, trong quyển hồi ký “The Journey” mới xuất bản gần đây đã viết như sau:

“Trong phẩm cách của người Mỹ có tinh thần mã thượng hào hiệp, được hun đúc qua nhiều thế kỷ, phát xuất từ tinh thần khai phá biên cương để lập nghiệp, và nhiều đợt di cư của các sắc dân khắp thế giới đổ về đây, từ cuộc chiến đấu để dành độc lập, đến cuộc nội chiến, từ nhiều biến cố lịch sử, cũng như những sự kiện tình cờ. Tất cả đã làm thành một nước Mỹ vĩ đại.

Cái tinh mã thượng hào hiệp này, không có nghĩa là người Mỹ tử tế hay thành công hơn những dân tộc khác. Nó chính là cảm nghĩ của họ về đất nước của mình. Chính lòng nhiệt tình đối với xứ sở đã phá bỏ được những ngăn cách về màu da, giai cấp, tôn giáo hay quá trình trưởng thành. Lý tưởng của người Mỹ là những giá trị đạo đức mà họ ấp ủ. Lý tưởng này gồm có tự do cá nhân, tôn trọng luật pháp, dân chủ. Nó cũng nằm trong quá trình thành đạt của mỗi cá nhân: hễ giỏi là được trọng dụng, phải tự làm lấy và nếu siêng năng chịu khó tất sẽ thành công. Song có lẽ điểm quan trọng nhất phải nói là mọi người Mỹ đều ao ước duy trì cho được những giá trị trên và ráng bảo vệ những giá trị đó. Họ coi những giá trị đó là ưu tiên hàng đầu cho cá nhân mình, sau đó là cho đất nước. Chính những giá trị đạo đức này giúp cho nước Mỹ cương quyết sẵn sàng đương đầu với khó khăn thử thách. Vì những lý tưởng đó mà binh lính Mỹ chấp nhận hy sinh. Vì nó mà mọi người Mỹ, dù giàu sang hay nghèo hèn đều sẵn sàng đứng nghiêm trang chào khi bản quốc ca “The Star-spangled Banner” được trỗi lên. Dĩ nhiên là những lý tưởng đó không phải lúc nào cũng thực hiện được, song mọi người Mỹ đều cố gắng thực thi cho bằng được. ”(1)

Nếu cuộc nội chiến Quốc-Cộng vừa qua đã để lại hệ lụy phân hóa kéo dài đến ngày hôm nay, thì sau cuộc Nội chiến Nam-Bắc Mỹ đã làm cho người Mỹ yêu nước hơn, đoàn kết hơn và hãnh diện về đất nước của mình nhiều hơn.

Họ hãnh diện không phải chỉ vì bãi bỏ được chế độ nô lệ, đúng với nguyện vọng mà tổ tiên họ đã đề ra trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng”, mà còn hãnh diện vì tinh thần hào hiệp mã thượng được thể hiện bởi người chiến thắng lẫn người chiến bại sau khi cuộc chiến kết thúc.

Không có một hình ảnh nào đẹp hơn hình ảnh tướng Robert E. Lee gặp tướng Ulysses S. Grant tại Thị Xã Appamatox, thuộc tiểu bang Virginia ngày 9 tháng 4 năm 1864.



Trước đó một ngày, tướng Lee chỉ còn trông chờ vào chiến thắng của một tướng trẻ can trường, để hy vọng tìm cách xoay chuyển được tình thế, nhưng khi hay tin tướng Gordon đã bị đánh bại, mọi hy vọng của Tướng Lee coi như tiêu tan. Quân của tướng Lee tại tiểu bang Virginia đang bị bao vây tứ phía, tiến không được mà lùi cũng không xong. Binh sĩ đã kiệt sức, lương thực đã cạn, đạn dược đã hết và nguồn tiếp tế cũng bị cắt đứt. Trong tình huống đó ông không còn chọn lựa nào khác là phải triệu tập bộ Tham mưu và nói thật ngắn gọn: “Tôi sẽ đến gặp tướng Grant, cho dù điều đó quá nhục nhã đối với tôi” (nguyên văn câu nói của ông: I will go and see General Grant and I would rather die a thousand deaths). Ngay lập tức ông đích thân soạn một lá thư gởi tướng Grant để yêu cầu sắp xếp một buổi gặp mặt càng sớm càng tốt vì ông không muốn hy sinh thêm bất cứ một sinh mạng nào nữa. Tại địa điểm hẹn gặp nhau, tướng Lee đến trước bằng ngựa với một sĩ quan tùy viên, hiên ngang trong trong bộ quân phục màu xanh dương, bên hông mang kiếm, thể hiện khí phách của người anh hùng dù bại trận vẫn không khuất phục. Khoảng nửa giờ sau tướng Grant, đại diện cho quân đội chiến thắng Miền Bắc tới. Ông mặc quân phục như một người lính bình thường, giày và quần vẫn còn dính bùn, không đeo kiếm. Hai người chào nhau, và tướng Grant tiếp tướng Lee thân mật như giữa một người Mỹ với một người Mỹ, chớ không phải giữa một người chiến thắng với kẻ chiến bại. Với ông làm nhục một người bại trận dù với bất cứ lý do gì cũng là làm nhục nước Mỹ. Sau này ông thú nhận là lúc đầu ông phải nói chuyện dài dòng với tướng Lee, nhắc lại những kỷ niệm xưa khi hai người cùng chiến đấu chung với nhau trong trận chiến Mexico, lý do là vì ông rất ngần ngại và thực sự hổ thẹn khi phải nói với Tướng Lee về chuyện đầu hàng. Cuối cùng chính tướng Lee là người đã nêu ra mục đích của buổi gặp mặt, và yêu cầu tướng Grant đích thân thảo bản văn kiện đầu hàng. Thật sự thì văn kiện đầu hàng Tướng Grant đã soạn sẵn trước khi đến điểm hẹn và tự tay trao cho tướng Lee xem lại. Đọc qua xong, lần đầu tiên gương mặc của tướng Lee tươi hẳn lên khi biết rằng binh sĩ dưới quyền ông được trở về nguyên quán sinh sống như một người dân bình thường, không phải chịu bất cứ một hình thức trả thù nào. Ông nói: "Điều này có một tác động rất tốt đối với tất cả mọi người, đặc biệt là sẽ giúp rất nhiều cho người của chúng tôi. "

Tuy nhiên ông có thêm 2 yêu cầu:

1/ Cho phép binh sĩ của ông được mang ngựa, lừa về quê quán để sử dụng trong nông trại, vì không giống như quân đội miền Bắc, đây là tài sản của riêng họ mang theo khi gia nhập quân đội.

2/ Ông đang giam giữ hơn một ngàn tù binh quân đội miền Bắc và không còn lương thực cho họ, ngay cả binh sĩ của ông cũng đang đói.



Cả hai yêu cầu này của tướng Lee đều được tướng Grant đồng ý ngay lập tức. Riêng yêu cầu thứ hai, tướng Grant ra lệnh cung cấp ngay cho các tù binh và binh sĩ miền Nam 25, 000 khẩu phần ăn.





Tướng Grant hỏi: “Như vậy, đủ chưa?”

Tướng Lee trả lời: "Thưa đại tướng, như vậy là quá đủ. "

Nói xong tướng Lee đứng dậy bắt tay tướng Grant, nghiêng người chào mọi người rồi bước ra khỏi phòng họp. Bên ngoài hội trường các sĩ quan và binh sĩ miền Bắc đang có mặt đều đưa tay kính cẩn chào vị tướng bại trận.

Trên đường trở về doanh trại, các binh sĩ miền Nam nghiêm chào vị tướng lãnh mà họ ngưỡng mộ, có người đã bật khóc, tướng Lee cũng không cầm được nước mắt. Về đến doanh trại, trước mặt nhiều sĩ quan và binh sĩ đang chờ đợi, tướng Lee nói: “Tôi đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được. Các anh em hãy trở về quê quán bây giờ và nếu sống được như những công dân tốt như các anh em đã từng chiến đấu như những chiến sĩ thì các anh em sẽ thành công. Tôi luôn luôn hãnh diện vì các anh em. Chào tạm biệt. Thượng đế phù trợ cho tất cả. " (Boys, I have done my best for you. Go home now. And if you make as good citizens as you have soldiers, you will do well. I shall always be proud of you. Goodbye. And God bless you all. )





Tin đầu hàng của tướng Lee lan ra nhanh chóng, tiếng súng của binh sĩ Miền Bắc vang lên khắp nơi để reo mừng chiến thắng. Ngay lập tức tướng Grant ra lệnh phải ngưng ngay tức khắc: “Quân đội miền Nam đã đầu hàng. Chiến tranh đã chấm dứt. Họ là đồng bào của chúng ta, chúng ta không được phép reo mừng trên chiến bại của họ. ”

Theo điều kiện trong văn kiện đầu hàng, ngày 12 tháng 4 là ngày quân đội Miền Nam sẽ nộp súng ống và cờ xí cho quân đội Miền Nam. Tướng Grant giao việc này cho Đại tá Joshua Chamberlain phụ trách. Còn phía Miền Nam thì tướng Gordon nhận trách nhiệm. Ngày hôm ấy đã xảy ra một cảnh tượng hết sức cảm động. Khi các binh sĩ Miền Nam đi theo đội ngũ tới địa điểm để giao súng ống và cờ xí, Đại tá Chamberlain đã ra lệnh binh sĩ của mình đứng nghiêm chào các anh hùng bại trận đang đi ngang qua để bày tỏ lòng kính trọng. Sau này tướng Gordon đã ghi lại như sau: “Trong giây phút đó, không hề có một tiếng kèn hay tiếng trống, không một tiếng reo mừng, không một lời nói, không cả một tiếng thì thầm, không một cử động, nhưng là một sự tĩnh lặng khủng khiếp, mọi nhịp thở như ngừng lại và như thể họ đang nhìn những hồn tử sĩ đi qua” và ông gọi Chamberlain là “người sĩ quan hào hiệp nhất của quân đội Miền Bắc. ”

Sau 4 năm nội chiến đã làm 620 ngàn người thiệt mạng và hàng triệu người bị thương, các đô thị ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ bị tàn phá nặng nề và đương nhiên cũng không khỏi những đắng cay của người bại trận. Nhưng những người lãnh đạo của bên thắng trận lẫn bên bại trận đều lấy tình dân tộc, sự bao dung rộng lượng và lòng hào hiệp để đối xử với nhau. Chính điều này đã làm cho người Mỹ vô cùng hãnh diện về xứ sở của mình.

Sau cuộc chiến, những người lãnh đạo kế tiếp của nước Mỹ vẫn làm theo tinh thần của tướng Lee và tướng Grant, họ không bao giờ bàn đến đến chuyện ai đúng ai sai, ai chính nghĩa, ai không chính nghĩa, mà chỉ nghĩ đến làm sao để hàn gắn lại vết thương của chiến tranh và xây dựng lại đất nước. Các nghĩa trang dành cho liệt sĩ bắt đầu được dựng lên ở hai miền đất nước, bên nào bên đó tự lo lấy, xấu đẹp tùy sức.

Ngày nay khi viếng thăm Nghĩa Trang Arlington ở thủ đô Washington DC, chúng ta sẽ thấy khu nghĩa trang dành cho binh sĩ Miền Bắc và Miền Nam đều trang nghiêm giống nhau và trong tất cả các bảo tàng viện khắp nước Mỹ, hình ảnh quân đội hai bên được trưng bày trân trọng như nhau, để nhắc nhở người Mỹ xem đó như một bài học cho các thế hệ mai sau.

Trên nóc Tòa Quốc Hội Hoa Kỳ hiện nay có một bức tượng phụ nữ cao 10 mét - tượng trưng cho hình ảnh bà mẹ của Miền Nam có con hy sinh trong cuộc nội chiến.



Bốn năm sau cuộc nội chiến, tướng Grant đắc cử tổng thống và làm 2 nhiệm kỳ (1869-1877), còn tướng Lee vẫn tiếp tục giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính phủ liên bang.

Tướng Lee dù là tướng bại trận, không giữ được chức vụ cao như tướng Grant, nhưng bù lại, càng về cuối đời, tình cảm và lòng kính trọng của người Mỹ dành cho ông càng tăng lên, có thể nói còn cao hơn cả tướng Grant. Ngày nay tượng đài của tướng Lee có mặt nhiều nơi trên nước Mỹ và Robert Lee là tên đường quen thuộc trên một đất nước luôn luôn cố gắng lấy “lòng bao dung xóa bỏ hận thù”.

Nhận xét về con người của tướng Lee, sử gia Benjamin Harvey Hill đã viết như sau:

"Tướng Lee là một đối thủ không có thù hận; một người bạn không phản bội, một người lính không tàn ác, một nạn nhân không than khóc. Một sĩ quan không sa đọa, một công dân không làm điều sai trái, một láng giềng không chỉ trích, một người Công giáo không đạo đức giả, một con người không thủ đoạn. Ông là một Caesar không có tham vọng, một Frederick không có chuyên quyền, một Napoleon không ích kỷ và một Washington không có phần thưởng. "

(General Robert Lee is a foe without hate; a friend without treachery; a soldier without cruelty; a victor without oppression, and a victim without murmuring. He was a public officer without vices; a private citizen without wrong; a neighbour without reproach; a Christian without hypocrisy, and a man without guile. He was a Caesar, without his ambition; Frederick, without his tyranny; Napoleon, without his selfishness, and Washington, without his reward. )

Thật khó có người nào được lời khen như thế, nhưng đó là con người thật của Robert Lee. Với những người lãnh đạo như thế đương nhiên quốc gia họ phải hùng mạnh.

Tưởng cũng nên nhắc lại là khi cuộc nội chiến vừa mới xảy ra, tướng Lee được đề cử chỉ huy quân đội Miền Bắc nhưng ông đã từ chối và gia nhập quân đội Miền Nam, vì ông nói rằng ông không thể phản bội lại cái nơi mà ông đã sinh ra và lớn lên.

B. Cách đối xử của người Mỹ với cựu thù Nhật Bản sau Đệ Nhị Thế Chiến





Tướng Grant và Tướng Lee đối xử với nhau hết sức tử tế sau cuộc chiến, có thể giải thích vì là người cùng một nước, cùng hấp thụ một nền văn hóa, cùng một màu da, cùng một ngôn ngữ, và cùng nghĩ đến tương lai của đất nước Hoa Kỳ, nhưng đến trường hợp người Mỹ đối xử tử tế không kém đối người Nhật sau Đệ Nhị Thế Chiến thì chắc chắn không phải vì những lý do nêu trên. Người Mỹ hành xử như thế chỉ vì lòng hào hiệp mã thượng cố hữu mà họ đã hấp thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác và đã ăn sâu vào máu xương. Trong lúc đó, người Nhật dù bại trận nhưng vẫn không để mất tinh thần võ sĩ đạo samurai, lòng yêu nước và lòng tự trọng của dân tộc.

Trước khi Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng, Nhật và Mỹ vẫn còn là hai nước kẻ thù không đội trời chung. Trong 4 năm chiến tranh ác liệt tại Thái Bình Dương, đã làm cho người Mỹ hy sinh khoảng 360, 000 binh sĩ và nhiều vết thương khác, nhưng điều đó không làm cho họ nuôi mối thù với người Nhật sau khi chiến tranh chấm dứt.

Hai quả bom nguyên tử rớt xuống Hiroshima và Nagasaki đã làm cho 150, 000 người chết ngay lập tức, nhưng không vì thế mà người Nhật nuôi mối căm hờn. Trái lại cả người Mỹ và người Nhật cùng hợp tác để xây dựng lại một nước Nhật từ đống tro tàn.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, trên chiến hạm Missouri, đại diện của các nước Đồng Minh và chính phủ Nhật Bản chính thức ký văn kiện đầu hàng.

Sau khi ký xong, đại diện của Đồng Minh là tướng MacArthur đọc bài diễn văn ngắn gọn, nhưng chứa đựng tất cả tinh thần cao thượng của người Mỹ, ông kết bài diễn văn như sau: “Đây là hy vọng thiết tha nhất của tôi, và thật sự cũng là hy vọng của toàn thể nhân lọai, rằng từ sự kiện trang nghiêm này một thế giới tốt đẹp hơn sẽ hiện ra từ máu và sự chém giết nhau trong quá khứ - một thế giới sẽ phục sự cho nhân phẩm con người và để hòan thành ước nguyện cao cả nhất cho Tự do, Lòng bao dung và Sự công bằng. ”.

(It is my earnest hope, and indeed the hope of all mankind, that from this solemn occasion a better world shall emerge out of the blood and carnage of the past - a world dedicated to the dignity of man and the fulfillment of his most cherished wish for freedom, tolerance and justice).



MacArthur không phải chỉ nói như thế để xoa dịu nỗi đau khổ của người Nhật lúc đó, hay vì phép lịch sự của một nhà ngoại giao, mà ông nói thật lòng mình. Gần 6 năm cai trị nước Nhật đã chứng minh rằng ông không phải chỉ làm có thế, mà còn làm nhiều hơn thế nữa. Ông đã giúp cho nước Nhật vượt qua được cơn khốn khó, trở thành một quốc gia độc lập, tự do, dân chủ và đặt nền tảng cho một cường quốc kinh tế sau này.



Tướng MacArthur thay mặt cho người Mỹ cai trị từ ngày 15/8/1945 cho đến ngày 11/ 4/1951 với tư cách là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của các lực lượng Đồng Minh (the Supreme Commander of the Allied Powers), nói là lực lượng Đồng Minh nhưng thật sự là chỉ có quân đội Mỹ. Ngay sau khi đặt chân đến Tokyo, MacArthur ra lệnh cho các binh sĩ dưới quyền ông không được trả thù người Nhật vì bất cứ lý do gì và ưu tiên hàng đầu của ông phải lo cho người dân Nhật qua khỏi cơn đói rách do các hậu quả của chiến tranh.

Việc chọn lựa tướng Tướng MacArthur trong vai trò này là một quyết định sáng suốt của Tổng Thống Truman và là một may mắn cho người Nhật. Trong số tướng lãnh của Mỹ lúc bấy giờ, MacArthur là người có hiểu biết nhiều nhất về văn hóa Nhật Bản, cuộc đời binh nghiệp của ông trải qua phần lớn ở Á Châu. Chính yếu tố này giúp ông dễ dàng thực hiện các cải tổ cần thiết cho nước Nhật và được người Nhật kính trọng mặc dầu truyền thống của Nhật Bản khó có thể chấp nhận ngoại quốc cai trị mình.

MacArthur là một trong những danh tướng lỗi lạc nhất trong lịch sử của nước Mỹ. Ông tốt nghiệp thủ khoa của trường Võ Bị West Point và cho đến ngày nay chỉ có 2 người tốt nghiệp cao điểm hơn ông. Ông tham gia cả ba trận chiến lớn: Đệ Nhất Thế Chiến, Đệ Nhị Thế Chiến và Cuộc Chiến Cao Ly. Trong bất cứ hoàn cảnh nào ông đều thể hiện là người chỉ huy can trường và bản lãnh, nhưng quan trọng hơn thế nữa ông còn là một người Mỹ kiểu mẫu, một người Mỹ mang lý tưởng của tinh thần hào hiệp, cho dù đối với kẻ thù.

Trong 5 năm rưỡi điều hành nước Nhật, MacArthur đã thực hiện những cải cách toàn diện về hành chánh, xã hội, giáo dục, cách thức bầu cử và điền địa (land reform)... Về phương diện kinh tế ông chủ trương một mô hình kinh tế tự do cạnh tranh giống như ở Mỹ và khuyến khích người Nhật tham gia vào thương trường để tạo ra một tầng lớp trung lưu.

Hiến pháp mà nước Nhật sử dụng cho đến ngày hôm nay là do MacArthur và bộ tham mưu soạn thảo. Hiến pháp mới này dựa Hệ thống của Anh (Westminster System). Trong đó những quyền tự do của con người được tôn trọng triệt để. Hiến pháp này cũng xác định là Nhật Hoàng chỉ là biểu tượng tinh thần giống như Vua hay Nữ Hoàng của Anh.



Trong thời gian từ 1945 đến 1951, với chương trình viện trợ Marshall, người Mỹ đã đổ vào nước Nhật hàng tỉ đô la, cộng với những ý kiến sáng suốt và những chương trình cải cách thiết thực của Tướng MacArthur - đã để lại một dấu ấn sâu đậm và ảnh hưởng lâu dài đối với nước Nhật. Nhờ vậy chỉ 25 năm sau chiến tranh nước Nhật trở thành cường quốc kinh tế thứ nhì trên thế giới. Dĩ nhiên kết quả này phần lớn cũng do sự nỗ lực làm việc, sự hy sinh và tinh thần của dân tộc Nhật Bản.

Một quyết định sáng suốt khác của tướng MacArthur trong giai đoạn này là ông chống lại việc đưa Nhật Hoàng Hirohito ra Tòa Án Quốc Tế như một tội phạm chiến tranh sau khi chiến tranh chấm dứt. Bản án này nếu xảy ra sẽ từ chung thân tới tử hình.

Điều này không những chỉ gây một chấn động tâm lý mà còn là một sỉ nhục quá lớn đối với người Nhật. Nhật Hoàng là biểu tượng tinh thần của người Nhật. Phá vỡ biểu tượng này tức là phá vỡ kỹ cương truyền thống và cấu trúc xã hội của nước Nhật đã được gìn giữ liên tục trong suốt mấy ngàn năm.



Cuối cùng sau khi rời khỏi nước Nhật, tướng MacArthur chẳng những không bị oán ghét mà còn được dân Nhật xem như là một trong những người có công lớn trong việc xây dựng nên một nước Nhật hiện đại.

Khi nắm quyền quản trị nước Nhật, MacArthur có tham vọng sẽ biến nước này trở thành một nước Mỹ lý tưởng, một nước Thụy Sĩ của Á Châu. Tham vọng này cuối cùng không thành công trọn vẹn vì người Nhật không muốn để mất hồn tính dân tộc của mình.

Một cuốn sách nghiên cứu công phu của học giả Sakaiya Taichi, có tựa là “12 người lập ra nước Nhật”. Theo tác giả, đó là 12 người có ảnh hưởng sâu đậm nhất đối với nước Nhật và tác giả sắp xếp theo mức độ ảnh hưởng của từng người từ 1 đến 12.

Đây là một cuốn sách rất có giá trị và cũng rất thích thú để đọc. Có điểm đặc biệt là trong 12 người này, không có một danh tướng có công đánh đuổi ngọai xăm, tạo những chiến tích lẫy lừng hay thống nhất đất nước. Cũng không có vị vua khai quốc công thần, ngay cả Minh Trị Thiên Hoàng (người có công lớn nhất trong cuộc Cách Mạnh Duy Tân) cũng không có tên.

12 người mà tác giả Sakaiya Taichi chọn là những người có công đóng góp về tôn giáo, tư tưởng, là những người đã làm thăng hoa giá trị tinh thần của người Nhật. Họ cũng là những đưa ra những quan niệm về chính trị, kinh tế và xã hội cho nước Nhật mà ảnh hưởng của họ vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay.

Trong số này chỉ có một vị tướng và là một người ngọai quốc duy nhất – đó là tướng MacArthur. Đứng thứ 10 trong số 12 người, với các tựa bài là “MacArthur: Thí nghiệm biến Nhật Bản thành một “nước Mỹ lý tưởng””.

Tôi nghĩ rằng chọn lựa này vô tư và hợp lý và Tướng MacArthur rất xứng đáng được như thế.

Tác giả Sakaiya Taichi phân tích tất cả những cải cách của MacArthur đã ảnh hưởng đến nước Nhật và người Nhật như thế nào.

Trong đó cũng ghi lại lời nói của MacArthur: “Nhật Bản sẽ trở thành một nước như Mỹ, nhưng nước Mỹ ở đây không phải là nước Mỹ hiện bây giờ và một nước Mỹ lý tưởng”.

Cuối cùng tác giả kết luận như sau: “Trong dòng lịch sử Nhật Bản, đột nhiên xuất hiện nhân vật thống trị MacArthur từ nước ngòai đến, một người chưa có hiểu biết chính xác về Nhật Bản, nhưng đã ôm giấc mơ biến Nhật Bản thành một nước Mỹ lý tưởng.

Những tham vọng của MacArthur có cái đã thành công mỹ mãn, có cái đã đi quá trớn. Nhưng tựu trung, chúng đã để lại ảnh hưởng mãnh liệt trong xã hội Nhật Bản cho đến ngày hôm nay”.

Sau 6 năm giúp nhiệt tình, đến khi thấy rằng nước Nhật đã “đủ lông đủ cánh” vững vàng về cả 3 phương diện chính trị, kinh tế và xã hội, người Mỹ và người Nhật ký Hiệp Ước San Francisco ngày 8/9/1951 trao trả độc lập lại người Nhật.

Người Mỹ đã giúp người Nhật vượt qua được cơn khốn khổ và trở thành một quốc gia giàu mạnh, chỉ vì là đồng loại và không phải là thù địch. Đây là nghĩa cử quá cao quý của con người. Đất nước chúng ta cũng đã từng có những cơ hội tương tự nhưng đáng tiếc là chúng ta đã không biết tận dụng cơ hội đó giống như người Nhật, người Nam Hàn, người Đài Loan hay người Do Thái!

Một câu chuyện cảm động nhân Lễ Tạ Ơn

Thanh Trúc, phóng viên RFA

2011-11-24

Nhân ngày Lễ Tạ Ơn, xin được chia sẻ cùng quí vị câu chuyên cảm động và ý nghĩa về một người đã khuất, ông Al Christine, còn gọi là Alex Christine Sr.



Courtesy holidayspot

Happy Thanksgiving.







Mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi hôm nay rơi đúng vào Thanksgiving Day, Ngày Lễ Tạ Ơn, một truyền thống tri ân cao đẹp ở đất nước Mỹ mà chính các di dân đến Hiệp Chủng Quốc cũng thấy mình học hỏi được rất nhiều điều hay từ ngày lễ này.



Và Thanh Trúc cũng mạn phép nhân ngày Lễ Tạ Ơn để xin được chia sẻ cùng quí vị câu chuyên cảm động và ý nghĩa về một người đã khuất, ông Al Christine, còn gọi là Alex Christine Sr., qua lời thuật từ vị khách mời quen thuộc của mục Đời Sống người Việt Khắp Nơi, linh mục Martino Nguyễn Bá Thông.



Một người Mỹ luôn tươi cười



Giáo đường Saint Mary On The Hill, Augusta, Georgia, đã không biết tự bao giờ, hàng cuối cùng bên tay phải, ghế thứ ba từ ngoài đếm vào, mỗi chiều thứ Bảy, đó là chỗ ngồi của ông.



Một người Mỹ trắng, cụt một tay, cụt một chân, mặt luôn tươi cười mà chừng như thân xác đang chịu đựng nỗi đau triền miên, đó là Alex Christine. Và câu chuyện bắt đầu:



Chúng ta đang sống được trên thế giới tự do, chúng ta phải cám ơn những người như ông. Trong ngày Lễ Tạ Ơn này chúng tôi cám ơn ông.



LM Nguyễn Bá Thông



“Thật sự đó là một phần mình viết cho bài giảng trong Lễ Tạ Ơn này. Như quí vị biết tôi chịu chức linh mục năm 2004, về một giáo xứ hoàn toàn là người Mỹ trắng. Tôi cứ nói đùa là giáo xứ chỉ có một mình tôi không giống ai.



Trong mỗi buổi thánh lễ thì tôi cũng nhìn ông và ông cũng nhìn tôi. Là một linh mục thì tôi cũng chào hỏi ông, dừng lại hỏi năm ba câu. Được vài tháng thì bà vợ của ông đến nói: “Cha ơi xin Cha, bà dùng chữ là xin Cha thân mật với ông một tí bởi vì ông có nhiều điều muốn chia xẻ với Cha lắm mà thật tình ông không dám. Ông có những tâm sự bên trong bởi vì ông đã từng ở chiến trường Việt Nam.”



Sau đó, linh mục Martino cố tình làm thân và trò chuyện với người đàn ông tàn tật đó nhiều hơn, biết được ông là người chuyên tháo gỡ mìn, đã qua chiến trường Việt Nam hai lần:



“Đầu tiên ông qua chiến trường Việt Nam là năm 65, sau đó ông trở lại nữa. Ông là người chuyên môn hướng dẫn các quân nhân cách gỡ mìn và bom đạn được cài đặt.



Năm 70 khi ông trở lại chiến trường Việt Nam lần thứ hai, lúc đó ông đứng đầu quân đoàn chuyên dạy cho người ta cách gỡ bom mìn. Trong một lần như thế thì mìn nổ, ông mất đi một chân và cụt một tay, trong thân xác còn nhiều mảnh đạn và ông cứ đau đớn triền miên như vậy.



Chắc quí vị đặt câu hỏi là chuyện này dính gì đến Lễ Tạ Ơn? Câu chuyện dính với Lễ Tạ Ơn là bởi vì sáu năm sau đó, năm 2010, tôi là người chủ tế nghi thức tẩm liệm cho ông tại nhà quàn vào đêm hôm trước thánh lễ an táng. Có nhiều điều làm cho tôi phải nghĩ tới, nhất là trong Lễ Tạ Ơn này. Bởi có những điều ông chưa bao giờ kể với tôi, và ngày hôm đó tôi và mọi người đều bất ngờ.”



Sau khi hoàn tất nghi thức tẩm liệm, linh mục Martino Nguyễn Bá Thông mời trưởng nam của ông Alex, một luật sư, lên nói đôi lời về người cha quá cố của mình. Và Alex Christine Jr. bắt đầu như thế này:



Nhưng, con yêu dấu, một người đàn ông còn có nhiều trách nhiệm khác cũng quan trọng không kém trách nhiệm đối với gia đình của mình.



Alex Christine Sr.



“Bạn thử hình dung khi đang ở trong trận chiến khốc liệt, tại một chiến trường xa tổ quốc, với cái chết rình rập chung quanh, tương lai không biết đi về đâu. Hơn thế nữa, bạn không biết bạn còn có cơ hội để gặp gia đình một lần nữa không. Giữa không gian đó, bạn tìm dăm ba phút gởi một thông điệp tới người thân của bạn. Bạn sẽ nói gì viết gì?



Bốn mươi lăm năm trước, cha chúng tôi, ông Al Christine, đã đối mặt với tình huống ấy. Ngày 26 tháng Bảy năm 1965, khi đang phục vụ tại chiến trường Việt Nam trong binh đoàn Mũ Xanh Green Beret đặc trách thao gỡ bom mìn, ông đã viết lá thư đầu tiên cho người con trai trưởng trong gia đình, Alex Junior, lúc đó 14 tuổi. Đó là tôi. Ông không biết rằng đúng bốn mươi lăm năm sau ngày ông thảo lá thư đó từ chiến trường, tôi, em trai Brian, em gái Kathleen, em trai út Bobby, lại có mặt nơi đây để đưa tiễn ông.



Ông đã bị thương tại chiến trường Việt Nam, nhưng vẫn tiếp tục hoàn thành hai năm phục vụ trước khi trở về quê hương. Năm 1969 ông trở qua Việt Nam, đến ngày 7 tháng Mười Một năm 1970, trong một lần chỉ huy tháo gỡ bom mìn, ông đã mất cánh tay phải và một chân trái khi đang cùng các binh sĩ Hoa Kỳ và Việt Nam chiến đấu chống lại một lực lượng quân đội hùng hậu của miền Bắc.



Cha tôi đã nhận lãnh nhiều huy chương danh dự và cao quí của quân đội Hoa Kỳ và Đồng Minh, những huân chương như Purple Hearts, Chiến Thương Bội Tinh, Silver Star, Bronze Star, Air Medal, Bảo Quốc Huân Chương Vietnamese Cross Of Gallantry.



Cuộc chiến Việt Nam đã cướp đi cánh tay phải và chân trái của cha tôi, để lại trong người ông hàng trăm mảnh đạn. Từ ngày đó, năm 1970, ông phải hàng ngày đối diện với nỗi đau đớn triền miên của thân xác. Thế nhưng ông luôn tươi cười và muốn làm cho mọi người chung quanh cười tươi. Hôm nay, tôi xin phép đọc lại lá thư ông viết năm 1965 từ chiến trường. Có điều tôi e rằng tôi khó có thể hoàn tất, nên tôi xin nhờ cha Martino đọc giùm cho tôi.”



Đó là những lời phát biểu của Alex Jr. về người cha thân yêu của anh hiện đang nằm kia, một buổi chiều năm 2010. Ông Al Christine nằm đó mà như mỉm cười, lặng lẽ, bình an, không còn đau đớn. Trở lại với linh mục Martino Nguyễn Bá Thông:



“Thì quí vị tự hỏi chuyện này có liên quan gì với Lễ Tạ Ơn? Thưa quí vị có liên quan. Trong cuộc đời linh mục của tôi thì đám tang này là đám tang thứ hai ba trăm rồi, có gì phải nói? Nhưng phải nói bởi vì câu chuyện đang được từ từ mở ra, cho tôi cảm nhận được tình yêu của ông, và đó tại sao tôi nói là ý nghĩa của Ngày Tạ Ơn.”











Ý nghĩa của Ngày Tạ Ơn



Thưa quí vị, trong lá thư đó, ông Alex Sr. viết như sau:



“Alex, Con yêu dấu:



Tối nay cha không thể ngủ được và cha quyết định viết thư cho con. Cha thật sự không muốn phải xa con, nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh, nhưng cha muốn con hiểu được lý do tại sao cha phải quyết định xa con.



Chắc đã có nhiều lần con tự hỏi tại sao cha rời con, rời mẹ con, và cả gia đình! Và chắc cũng không ít lần con buồn phiền, bực tức và là cha không có mặt để chơi với con, để dẫn con đi câu cá, và làm những việc rất bình thường mà tất cả các người cha làm với các đứa con trai của mình! Và có thể, con còn ghét cha nữa.

Con, có nhiều điều mà người đàn ông phải làm! Dĩ nhiên cha rất thương con, thương mẹ con, thương các em của con! Và bởi vì cha thương các con, cha muốn được gần gũi với con!



Cha không ao ước gì hơn là được ở bên con và mẹ con, để được thấy con và giúp con khôn lớn.Cha sẽ rất hạnh phúc khi được làm điều đó, bởi vì người đàn ông sẽ không có gì cả nếu ông ta không có con cái. Vì một ngày nào đó, cha sẽ chết đi, và qua con và các em của con mà tên của cha sẽ tiếp tục sống.

Nhưng, con yêu dấu, một người đàn ông còn có nhiều trách nhiệm khác cũng quan trọng không kém trách nhiệm đối với gia đình của mình. Cha có trách nhiệm này đơn giản thôi, vì cha là một người đàn ông tự do, sống trong một đất nước tự do, Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.



Đúng bốn mươi lăm năm sau ngày viết lá thư đó, ông Alex đã không còn đau đớn. Ông đã được diễm phúc nhìn thấy bốn đứa con của mình trưởng thành và thành đạt.



LM Nguyễn Bá Thông



Tất cả các quyền lợi và cơ hội mà con được hưởng, đôi lúc có phần lạm dụng, không phải dễ dàng mà có đâu con. Chúng ta được hưởng những cơ hội đó vì đã có những người đàn ông khác xả thân để bảo vệ nó. Có thể bây giờ con không hiếu được điều ấy, nhưng một ngày nào đó con sẽ hiểu. Chắc chắn con sẽ phải hiểu. Đó là tại sao đêm hôm nay cha viết lá thư này cho con.



Con, đừng bao giờ chần chừ bước ra khỏi cái ích kỷ của mình để chiến đấu bảo vệ tự do và quyền lợi đó. Vì nếu con chần chừ, con sẽ mất tất cả. Nếu con không sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ nó, người ta sẽ cướp nó ra khỏi tay con. Cha tin rằng đó là chân lý, là sự thật như cha tin rằng Chúa đã ban con cho cha để tiếp nối cuộc đời khi cha nằm xuống.



Cha đang mong tới ngày cha trở về quê hương và sống bên cạnh con như cha con ta đã từng sống cách đây vài tháng. Cha mong ước điều đó hơn bất cứ điều gì khác. Nhưng con yêu dấu, nếu điều đó không xảy ra, con hãy hiểu cho cha là “tại sao cha quyết định phải xa con”, Cha tin rằng con sẽ trưởng thành và trở nên người đàn ông mà bất cứ người cha nào cũng phải hãnh diện.



Chiến trường Việt Nam 1969,



Cha của con,



Alex Christine.”



Chúng tôi cám ơn ông



Chia sẻ với Thanh Trúc, linh mục Martino Nguyển Bá Thông cho biết nước mắt ông đã tuôn trào khi đọc lá thư của người quá cố, một cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam, nay đã xuôi tay nhắm mắt:





Linh mục Martino Nguyễn Bá Thông. Courtesy OBV. “Có thể tôi là người đầu tiên mở màn cho những giọt nước mắt, thế là cả nhà nguyện được tự do khóc, cha con chúng tôi cùng khóc. Tôi khóc, những người Công giáo khóc, những anh em Tin Lành khóc, những người Phật giáo cũng khóc, những người vô thần cũng khóc.

Nhưng quí vị thân mến, chúng tôi khóc vì chúng tôi hãnh diện và chúng tôi tự hào. Chúng tôi tự hào và chúng tôi cám ơn nữa. Cám ơn bởi vì trên thế giới này cũng vẫn có những người như ông.



Đặc biêt đối với tôi, tôi cám ơn ông đã cùng đồng hành với bố tôi, mẹ tôi, các cậu của tôi, cả giòng họ nhà tôi trong chiến trường. Ông không phải người Việt Nam nhưng ông tin vào một thế giới tự do và ông muốn chia xẻ cái tự do đó không phải chỉ với con cái của ông mà đối với tất cả chúng ta. Quí vị thân mến, giờ đây tôi đang ngồi chia sẻ lá thư này mà nước mắt tôi vẫn tuôn giống như lúc đó.



Ngày hôm nay nghe câu chuyện này, có thể chúng ta cảm thấy mơ hồ, nhất là các bạn trẻ. Nhưng các bạn thân mến, chúng ta đang sống được trên thế giới tự do, chúng ta phải cám ơn những người như ông. Trong ngày Lễ Tạ Ơn này chúng tôi cám ơn ông.”







Video: Phụ nữ Việt ở Mỹ với Lễ Tạ Ơn 2010







Quí vị vừa theo dõi câu chuyện cảm động về một cựu chiến binh Al Chritine, đã về bên kia thế giới và đã để lại một phần thân thể của mình ở Việt Nam, trong tinh thần và trách nhiệm của một người lính chiến.



Một chút suy tư của linh mục Martino Nguyễn Bá Thông, một lời tri ân trong buổi tối Lễ Tạ Ơn này:



"Đúng bốn mươi lăm năm sau ngày viết lá thư đó, ông Alex đã không còn đau đớn. Ông đã được diễm phúc nhìn thấy bốn đứa con của mình trưởng thành và thành đạt. Các con của ông tiếp tục làm những gì ông đã làm dang dở.



Alex, người con trưởng, trở thành một luật sư và cũng là chủ tịch hội đồng tài chánh của nhà thờ chính tòa giáo phận Saint Augustine. Người em gái kế, cô Kathleen, có bằng cao học giáo dục, và ông rất hãnh diện nói về người con gái này vì cô là phụ nữ đầu tiên trong cả giòng họ nhà ông, những di dân từ Ý, có bằng đại học. Người con trai thứ ba, anh Brian, là một bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ rất nổi tiếng. Cậu con út, anh Bobby,là thẩm phán của quận mà chúng tôi đang sống, cũng là chủ tịch hội đồng mục vụ thuộc giáo xứ tôi đang chăm sóc lúc bấy giờ.”



Hay là quí vị Hãy cùng Thanh Trúc cảm ơn Thượng Đế đã ban cho đời những con người như ông.



Câu chuyện của mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi tạm ngưng ở đây. Cảm ơn quí vị đã theo dõi như đã từng theo dõi chuyên mục do Thanh Trúc phụ trách mười lăm năm qua.



Thanh Trúc sẽ trở lại cùng quí vị thứ Năm tuần tới.

BỮA ĂN CHIỀU CUỐI CÙNG

Leonardo da Vinci vẽ bức "Bữa ăn chiều cuối cùng" (The last supper) mất bảy năm liền. Đó là bức tranh vẽ Chúa Jesus và mười hai vị tông đồ trong bữa ăn cuối cùng trước khi Chúa bị Judas phản bội.

Leonardo tìm người mẫu rất công phu. Giữa hàng ngàn thanh niên, ông chọn được một chàng trai 19 tuổi có gương mặt thánh thiện, một nhân cách tinh khiết tuyệt đối để làm mẫu vẽ Chúa Jesus. Da Vinci làm việc không mệt mỏi suốt sáu tháng trước chàng trai, và hình ảnh Chúa Jesus được hiện trên bức vẽ.

Sáu năm tiếp theo ông lần lượt vẽ xong 12 vị tông đồ, chỉ còn có Judas, vị môn đồ đã phản bội Chúa vì 30 đồng bạc, tương đương 16.96 đô la Mỹ.

Hoạ sĩ muốn tìm một người đàn ông có khuôn mặt hằn lên sự hám lợi, lừa lọc, đạo đức giả và cực kỳ tàn ác. Khuôn mặt đó phải toát lên tính cách của kẻ sẵn sàng bán đứng người bạn thân nhất, người thầy kính yêu nhất của chính mình... Cuộc tìm kiếm dường như vô vọng. Bao nhiêu gương mặt xấu xa nhất, độc ác nhất, Vinci đều thấy rằng chưa đủ để bộ lộ cái ác của Judas. Một hôm, Vinci được thông báo rằng có một kẻ mà ngoại hình có thể đáp ứng được yêu cầu của ông. Hắn đang ở trong một hầm ngục ở Roma, bị kết án tử hình vì giết người và phạm rất nhiều tội ác tày trời khác.

Da Vinci lập tức lên đường đến Roma. Trước mắt ông là một gã đàn ông nước da đen sậm với mái tóc dài bẩn thỉu phủ xoà xuống mặt, một khuôn mặt xấu xa, độc ác tự nó nói lên nhân cách của một kẻ hoàn toàn bị tha hoá. Đúng, đây là Judas! Được sự cho phép đặc biệt của Đức Vua, người tù được đưa tới Milan nơi bức tranh đang được vẽ dở. Mỗi ngày, tên tù im lặng ngồi trước Da Vinci và hoạ sĩ thiên tài cần mẫn với công viêc truyền tải vào bức tranh diện mạo của kẻ phản phúc.

Khi nét vẽ cuối cùng hoàn thành, kiệt sức vì phải đối mặt với cái ác một thời gian dài, Vinci quay sang bảo lính gác "Các ngươi đem hắn đi đi...". Lính canh túm lấy kẻ tử tù, nhưng hắn đột nhiên vùng ra và lao đến quì xuống bên chân Da Vanci, khóc nấc lên: "Ôi, ngài Da Vinci! Hãy nhìn con! Ngài không nhận ra con ư?"

Da Vinci quan sát kẻ mà suốt sáu tháng qua ông đã liên tục nhìn mặt. Cuối cùng ông đáp: "Không, ta chưa từng nhìn thấy ngươi cho đến khi ngươi được đưa đến cho ta từ hầm ngục ở Roma...". Tên tử tù kêu lên "Ngài Vinci... Hãy nhìn kỹ lại tôi! Tôi chính là người mà bảy năm trước ông đã chọn làm mẫu để vẽ Chúa Jesus..."

Câu chuyện này có thật, như bức tranh "Bữa ăn chiều cuối cùng" là có thật. Chàng trai đã từng được chọn làm hình mẫu của Chúa Jesus chỉ sau hơn hai ngàn ngày, đã tự biến mình thành hình tượng hoàn hảo của kẻ phản bội ghê gớm nhất trong lịch sử.

Tương lai không hề được định trước. Chính chúng ta là người quyết định số phận của chính mình.
 
Source Internet.

Thứ Năm, 24 tháng 11, 2011

BẪY TÌNH

Truyện của Huỳnh Quốc Phú.


Thủy bỏ tờ báo xuống, gỡ cặp kính để lên bàn, đôi mắt từ từ khép lại. Nàng vừa đọc một cái tin trên tờ San Jose Mercury News, số ra Sunday, Nov. 6, 2011:

-

TEMPTATIONS AWAIT

Checklist for a trip to Vietnam: Visa, passport, wife’s OK.

-

“Sài Gòn City, Vietnam -- The trouble for Henry Liem begins every time he prepares to return to his homeland.

Getting the required visa from the Vietnamese government is a breeze. It's the "second visa" -- from his wife worried that he will stray over there -- that requires diplomatic skills.
"My wife is always cranky every time I go," said Liem, a philosophy instructor at San Jose City College who visits Vietnam twice a year to teach at a university. "So I rarely disclose my upcoming trip until the last minute. It's pain minimization. The longer she knows, the longer I have to bear the pain."

Bài báo mở đầu bằng câu chuyện của ông Henry Liem nào đó. Ông này về Việt Nam mỗi năm hai lần để dạy triết cho một trường đại học. Không biết ông dạy triết loại gì mà khi xin visa, ông được xã hội chủ nghĩa cho nhập cảnh một cách thật dễ dàng. Tuy nhiên, ngoài cái visa do tòa lãnh sự việt cộng cấp để nhập cảnh, ông còn phải xin thêm một visa nữa để xuất cảnh: đó là cái visa chấp thuận để đi của bà vợ đầu ấp tay gối mỗi ngày.

Một điều nghịch lý là mỗi khi xuất ngoại, hầu hết mọi người đều lo xin visa sớm, để nếu có gì trục trặc, thì còn nhiều thời gian xoay trở. Trong khi cái visa thứ nhì của ông Henry Liem thì ngược lại: phải đợi đến giờ phút cuối ông mới nộp đơn, và không đợi bà vợ có đủ thời gian suy tính cản trở, ông cuốn gói dông cho lẹ!

-

Cả bài báo đại ý nói về tình trạng đàn ông Việt Nam ở ngoại quốc, khi trở về thăm quê hương, thường bị (hay được!) những cô gái tuổi còn rất trẻ tống tình một cách mãnh liệt. Cho dù là người đàn ông thuộc loại “quá đát, mỏi gối chồn chân,” cũng được các nường nhỏ bằng con cháu của mình chiếu cố một cách tận tình, lý do: tất cả chỉ vì tiền chứ không phải vì tình! Có tiền là các nường sẽ chiều chuộng tới bến. Chính vì cái đề tài “Fun for men, pain for women” nên ông ký giả người Mỹ John Boudreau bỏ công để viết và bài được đăng trên trang nhất ngày Chủ Nhật của tờ báo…

-----

Khoảng năm phút sau, để tâm tư lắng đọng, Thủy mở mắt nhìn lên trần, bài báo đã khơi lại tâm tư đau đớn của nàng…

Liếc nhanh về phòng ngủ của Xuân, người chồng của nàng gần bốn mươi năm, có lẽ ông ta còn ngủ, cũng có thể đã thức mà chưa ngồi dậy. Đã hai năm nay vợ chồng nàng ngủ riêng, mỗi người mỗi phòng, giờ giấc tùy hỉ chẳng ai để ý đến ai. Cứ tưởng sau bao năm làm lụng vất vả trên xứ người, vợ chồng nàng sẽ tận hưởng những gì do công lao hai người cực khổ xây dựng, được sống hạnh phúc bên nhau từng phút từng giây vào lúc cuối đời, nào dè…

---

Năm 1954, nhờ thấy được sự tàn ác của cộng sản, gia đình Thủy nhanh chân lên máy bay đi thẳng vào Sài Gòn và định cư tại đó. Hơn nữa Bố nàng là một người khoa bảng cho nên được chính quyền miền nam nhanh chóng chọn để nắm một chức vụ quan trọng, lúc đó nàng chỉ là một “Cô bé Bắc Kỳ nho nhỏ.” Cuộc đời niên thiếu của nàng êm ả trôi qua tại miền nam nắng ấm. Nàng là nữ sinh TV, đọc dí dỏm là Trứng Vịt thay vì Trưng Vương.

-

Năm lên đệ nhị cấp, do sự giới thiệu của bạn bè, nàng quen biết Xuân, cũng là người bắc di cư, lúc đó Xuân đang học Chu Văn An, hơn nàng hai lớp. Bố của Xuân là một thương gia tương đối thành công tại Sài Thành. Cuộc tình học trò Chu Văn An Trưng Vương (CVATV) chớm nở từ đó.

-

Sau đó Thủy và Xuân đều học luật. Năm 1972, Xuân được bổ nhiệm làm Thẩm Phán của một tỉnh lỵ nhỏ ở miền Tây. Sáu tháng sau, đám cưới của Xuân và nàng được tổ chức linh đình tại Sài Gòn để kết thúc cuộc tình năm chữ : “CVATV” (Chết Vì Ăn Trứng Vịt.)

-

Nàng theo Xuân về sống tại một tỉnh lẻ của đồng bằng miền nam. Với bằng cử nhân luật, nàng xin đi dạy tại một trường trung học để cho đỡ buồn, đồng thời có thêm lợi tức. Cũng nhờ khoảng thời gian sống gần gũi người miền nam và đám học trò thật thà chất phác, nàng cảm thấy thoải mái khi tiếp xúc với mọi người. Theo nàng nghĩ, người miền nam không có chiều sâu, cho nên không cần phải “đề phòng” như người miền bắc. Chỉ cần nói chuyện một lát, là có thể đoán được người đó nghĩ gì, nàng tự hào như vậy.

Nhờ vào chức vụ, Xuân được cấp cho một ngôi nhà xinh xắn bên cạnh một nhánh của sông Cửu Long. Cuộc sống êm ả mỗi ngày của Thủy như giòng nước trôi qua lại khi thủy triều thay đổi. Đứa con gái đầu lòng của nàng cũng sinh ra tại đây. Nhiều khi nàng ngồi im lặng hàng giờ để nhìn nước trôi mà trong đầu chẳng nghĩ ngợi gì hết. Cũng có lúc nàng cảm thấy nhàm chán vì cuộc sống quá êm đềm, nhưng bây giờ, sau bốn mươi năm cuộc đời, nàng thấy nhớ giòng sông năm xưa và thèm có lại những giây phút vô tư lự quý giá đó.

-

Cứ tưởng cuộc đời êm ả trôi qua, đầu Tháng Tư năm 1975, Bố nàng bất thần gọi điện thoại bảo vợ chồng nàng về Sài Gòn gấp, lý do theo Bố nghĩ: miền nam sẽ mất. Với kinh nghiệm hiểu biết về cộng sản, Bố hoảng hốt hối thúc mọi người chuẩn bị đi tỵ nạn thêm một lần nữa. Vợ chồng nàng không tin lắm vì lúc đó vùng đồng bằng vẫn an toàn không một thị trấn nào bị việt cộng chiếm đóng. Bố nàng phải nhiều lần thúc dục, nàng mới chịu ẵm con cùng chồng trở về Sài Gòn khi Quốc Lộ 4 được khai thông trở lại.

-

Cuộc đời đến với nàng một cách thật dễ dàng, trong khi quân dân miền nam vất vả ngăn chặn kẻ thù vào những giờ phút hấp hối, thì gia đình nàng đã tới Subic Bay ở Philippine, có thể nói là những người tỵ nạn đầu tiên đến căn cứ này. Tài sản của cả hai bên nhà nàng và chồng, coi như mang đi hết, ngoại trừ bất động sản. Sau hai lần tỵ nạn: từ bắc vô nam và từ miền nam sang Mỹ, Thủy không có cảm giác đau khổ của một người vì bất đắc dĩ phải lìa bỏ quê hương, đôi lúc nàng còn có cảm tưởng như là đi du lịch, chỉ sau khi rời khỏi trại tỵ nạn Camp Pendleton để định cư tại Orange County, thì nàng mới phải vật lộn với đời sống vật chất của xứ này. Trong những năm đầu, gia đình nàng được nhận trợ cấp của chính phủ, đứa con trai thứ nhì cũng chào đời lúc đó.

Lợi dụng thời gian được hưởng trợ cấp, vợ chồng nàng đã đi học lại. Năm 1980 Xuân ra trường với bằng kỹ sư điện và gia đình nàng dời lên San Jose vì Xuân nhận được việc làm với lương khá cao. Sau đó Thủy cũng nhận được một việc làm về accounting đúng với ngành nàng chọn học.

Thời gian trôi qua, nơi Thung Lũng Hoa Vàng, cặp vợ chồng Xuân Thủy không mấy chốc trở nên khá giả. Có lúc vợ chồng nàng làm chủ đến năm căn nhà vì biết đầu tư đúng lúc vào thị trường địa ốc.

-

Đến năm 2000, Thủy về hưu vì tài chánh không còn cần thiết để nàng phải lặn lội ra đi từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều nữa. Vả lại, với số bất động sản đã có, nàng đủ việc để ở nhà quán xuyến. Chỉ có chồng nàng là vẫn còn phải tiếp tục đi làm vì lợi tức cao nhờ lương hậu, cộng với bonus và stock hãng cho. Hơn nữa Xuân phải đi làm để có bảo hiểm sức khỏe cho cả gia đình.

Sau khi về hưu, Thủy được hưởng những giây phút thoải mái sau bao năm làm việc vất vả. Xuân, chồng nàng là một người đàn ông tốt, có trách nhiệm, yêu thương nàng và con cái một cách tuyệt đối. Cả thời gian lấy Xuân, nàng chưa bao giờ thấy chồng mình dối gạt hay làm những chuyện gì có lỗi với nàng. Đôi lúc nàng còn tự hào: nhờ “chăm sóc kỹ lưỡng,” nên Xuân không “thoát” được bàn tay phù thủy của nàng, con gái “Bắc Kỳ” mà…

-

Gia đình nàng và Xuân rất sùng đạo Phật. Sẵn có nhiều thời gian rảnh rỗi, nàng đi chùa để tô đắp niềm tin Phật pháp. Cả nàng và Xuân thường hay bỏ thời gian làm công quả cho chùa và dĩ nhiên cũng là người giúp đỡ tận tình nếu chùa bị kẹt về tài chánh. Cũng chính vì như vậy, vợ chồng Thủy là những người được kính nể đối với ban trị sự của chùa, tiếng nói của hai người rất được mọi người chú ý. Ban đầu, trong những cuộc tổ chức làm từ thiện, chùa đều mời vợ chồng nàng tham gia, sau đó với sự nhiệt tình, chùa nhờ vợ chồng nàng đảm trách tất cả.

-

Năm 2002, chùa đón tiếp một vị sư từ Việt Nam qua chơi. Sau nhiều lần tiếp xúc với vị sư này, vợ chồng nàng quyết định về Việt Nam lần đầu, hầu để nhìn tận mắt cảnh khốn khổ của những người nghèo, nhất là những trẻ mồ côi. Lần đó vợ chồng nàng quả thật động tâm khi thấy những nỗi khổ đau của người nghèo sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Sau khi trở về Mỹ, Thủy và chồng thành lập một hội từ thiện, kêu gọi lòng hảo tâm của mọi người để giúp những kẻ khốn khổ bên nhà. Nhiều lần tổ chức quyên tiền, văn nghệ gây quỹ và cả hai đã nhiều lần trở về mang lại bao nhiêu niềm hy vọng cho những người khốn cùng. Thủy và Xuân hăng say làm từ thiện vì nghĩ rằng sẽ để phước lại cho con cái.

-

Có một lần, trong một chuyến về Việt Nam, Xuân gặp lại một người bạn học cũ ở trung học. Tay bắt mặt mừng, cả hai đều thích thú kể chuyện ngày xưa lúc còn học ở Chu Văn An. Sau đó người bạn của Xuân mời vợ chồng nàng đi uống nước ở một quán, gần khách sạn nơi vợ chồng nàng đang trú ngụ. Quán nước này trông khá lịch sự, mặc dù các cô chiêu đãi ăn mặc cũng hơi…mát mẻ.

Lúc mới bước vào quán, Thủy để ý xem cảnh vật chung quanh, cảnh giác mọi hành động lẫn lời nói của mấy cô chiêu đãi. Mặc dù Xuân đáng tuổi bác của mấy cô này, nhưng Thủy không muốn cô nào có hành động lố lăng đối với ông chồng của mình. Nàng đã từng nghe rất nhiều lời bàn của mấy bà đã từng về trước… Có một bà bạn của Thủy kể lại rằng: khi vợ chồng bà vào một quán ăn, một cô chiêu đãi viên đáng tuổi cháu, gọi ông chồng đầu tóc bạc phơ của bà là anh và xưng em ngọt sớt. Bà bạn của Thủy nóng mặt lên lớp cô ta rằng: “Ông ấy đáng tuổi bác của cô mà dám gọi bằng anh xưng em?” Bà này nhận được câu trả lời của cô chiêu đãi: “Ở Việt Nam, chỉ có cha và những người già tới một trăm tuổi, mới được gọi Ba và Bác, xưng con, còn dưới một trăm tuổi thì chỉ đáng làm anh thôi.” Bà bạn của Thủy giận run lên mà chẳng nói được gì, chỉ còn biết hối chồng mình đi về!

Khi người bạn của Xuân gọi thức uống, một cô chiêu đãi buột miệng xưng em làm Thủy giật mình. Nàng trừng mắt nhìn cô ta làm cô này khựng lại, lí nhí thêm vài tiếng rồi bỏ vào bên trong.

Vài phút sau, một cô chiêu đãi khác mang thức uống ra. Cô này có gương mặt hiền lành, dáng điệu hết sức khúm núm. Cô ta mời mọi người dùng nước và gọi vợ chồng nàng bằng bác, xưng con. Thủy nghe cách xưng hô, lấy làm hả dạ và có cảm tình với cô này ngay. Dưới mắt nàng cô gái gợi lại hình ảnh những đứa học trò thật thà chất phát của nàng ngày xưa, lúc nàng đi dạy ở trung học.

-

Trong khi Xuân và người bạn đang kể lại những kỷ niệm năm xưa, thì thình lình có tiếng ồn ào chửi bới làm náo động cả quán, cùng lúc đó, một tên thanh niên hùng hổ bước vào gọi tên Mẫn. Hắn ta chửi bới đòi Mẫn phải đưa tiền cho hắn. Người con gái mặt hiền lành mang nước cho nàng lúc nãy sợ hãi bước ra, thì ra cô ta tên Mẫn.

Tên thanh niên vừa trông thấy Mẫn là tiến tới nắm áo, tát vào mặt nàng một cái nẩy lửa. Mẫn chới với không biết phải làm sao. Tên này bèn giật cái ví từ tay của Mẫn, lục soát lấy hết tiền rồi ném trả cái ví vào mặt nàng, xong xuôi hắn bỏ đi. Trước khi rời quán, hắn không quên hăm dọa là sẽ trở lại lấy thêm…

-

Cảnh tượng xảy ra làm Thủy thật bất mãn, nàng chưa bao giờ thấy một người đàn ông vũ phu đánh một người con gái yếu đuối như tên này. Nhìn vào góc nhà, Thủy thấy Mẫn đang ôm mặt khóc nức nở. Động lòng trắc ẩn, nàng đến hỏi thăm và vỗ về, đồng thời hỏi xem sự tình. Mẫn kể lể, người đàn ông đó là chồng của cô. Hai người lấy nhau bốn năm, có một đứa con gái. Vì chồng cô bị nghiện ngập lại mắc thêm tật cờ bạc, nên cả gia đình bị tan nát. Hắn ta còn lén lút đem cầm miếng đất hương hỏa trong đó có cái nhà của cha mẹ nàng ở dưới quê. Vì muốn chuộc lại miếng đất đó, nàng phải giao con cho mẹ giữ để lên Sài Gòn tìm việc làm. Đã vậy mà Mẫn cũng không được yên, thỉnh thoảng hắn tới đòi đưa tiền cho hắn. Mẫn đã nhiều lần thay đổi chỗ làm, nhưng rồi hắn vẫn tìm thấy. Nói xong Mẫn khóc sướt mướt làm Thủy cảm thấy đứt ruột, lòng xót xa thương hại cho một người con gái thật vô phước.

Sau khi biết rõ sự tình, Thủy sanh lòng hảo tâm, rút trong túi quần ra tờ một trăm đô la dúi vào tay Mẫn, coi như là làm một việc từ thiện. Khi nhìn thấy một trăm đô la Mỹ, Mẫn hoảng hốt đưa lại cho Thủy, nói là không dám nhận sự giúp đỡ của nàng. Cho dù Thủy nói cách nào Mẫn vẫn một mực từ chối và nói: con không dám nhận tiền của bác.

Vì tính thật thà của Mẫn, Thủy càng thấy mến người con gái đáng thương này nhiều hơn. Sau đó Thủy hỏi Mẫn là bây giờ cháu tính làm sao. Mẫn trả lời là không biết phải tính sao nữa, vì chồng nàng đã biết chỗ này rồi, thì nàng phải đi tìm chỗ khác để làm. Hơn nữa chỗ ở của Mẫn cũng bị người chồng vũ phu tìm thấy, cho nên cô ta cũng phải tìm nơi khác trú ngụ.

Đã lỡ mở lòng hảo tâm, Thủy không nỡ bỏ rơi Mẫn. Một ý nghĩ thoáng qua đầu, nàng chực nhớ trong chùa, nơi nàng hợp tác làm từ thiện có một phòng trống. Họ vẫn thường mời vợ chồng nàng đến ở mỗi khi về Việt Nam. Nàng hỏi Mẫn: “Nếu cháu không ngại, bác sẽ gửi cháu vào một chùa để tránh chồng của cháu?” Sau một hồi phân vân, Mẫn đồng ý theo Thủy về chùa.

Sau đó, mỗi lần vợ chồng Thủy về Việt Nam làm từ thiện, Mẫn là một trợ tá đắc lực trong mọi công tác. Cô ta hiền lành giữ đạo làm con nên vợ chồng Thủy càng tin tưởng và thương Mẫn nhiều hơn.

-

Sự việc bắt đầu xảy ra là có một lần, trước ba ngày khởi hành về Việt Nam, Thủy bị đưa vào nhà thương cấp cứu vì bị đau ruột dư. Sau hai ngày nằm bệnh viện nàng được về nhà, sức khỏe không có gì nguy hiểm, chỉ cần thời gian bình phục. Vì công việc từ thiện dính líu đến nhiều người, không thể hoãn lại được, nên Thủy bảo chồng đi một mình. Lần đó đáng lẽ chồng nàng chỉ phải ở lại có một tuần, nhưng Xuân đã ở lại đến ba tuần mới về, với lý do: chậm trễ giấy phép của chính quyền. Sau khi Xuân trở về Mỹ, Thủy thấy cử chỉ và hành động của chồng rất khác thường: Xuân như bị mất hồn, tâm trí như ở đâu đâu và dáng dấp trông thật mỏi mệt. Nàng tưởng là Xuân quá vất vả vì công việc, nên lo săn sóc chồng một cách chu đáo… Thật sự Thủy có ngờ đâu, lần vắng mặt của nàng đó, là lần người con gái hiền lành mà nàng thương mến giúp đỡ, đã ngã vào lòng người “bác” kính yêu và âu yếm xưng “em” với chồng của nàng một cách nũng nịu!

Thật ra, lần về làm từ thiện này của Xuân chỉ cần có một tuần, nhưng chỉ ba ngày sau Xuân đã ôm trọn người con gái tuổi còn nhỏ hơn con mình trong vòng tay mà chính chàng cũng không ngờ! Sự việc xảy ra quá bất ngờ nên Xuân không biết phải xử trí ra sao. Sau đó Mẫn đòi ra ở riêng, vì nếu còn ở lại chùa thì thế nào chuyện cũng đổ bễ. Hai tuần về trễ cũng vì Xuân phải ở lại sắp xếp chỗ ở cho Mẫn.

-

Sau lần đó, người chồng thân yêu của Thủy có những cử chỉ khác thường. Đôi lúc Xuân tỏ vẻ yêu thương nàng một cách nồng nàn, đôi lúc thì xa vắng như hồn về cõi khác. Xuân thường hăng say nhắc đến việc về Việt Nam làm từ thiện, chàng còn tỏ vẻ quán xuyến tất cả mọi việc để Thủy không phải lo. Hơn thế nữa, Xuân thường hay ỡm ờ là nếu Thủy không khỏe thì cứ để chàng lo cho cũng được.

Cũng vì hoạch định một chương trình từ thiện quy mô, nên hai tháng sau Xuân trở về Việt Nam, xui một điều là Thủy lại để chồng đi một mình! Lần này theo chương trình, chồng nàng sẽ ở đến ba tuần. Khi ra đi Thủy thấy mặt chồng hớn hở thì nghĩ rằng: đó là cái phúc hậu của người làm từ thiện!

Sau khi Xuân về Việt Nam được hai tuần, vào một đêm, Thủy nhận được một cú điện thoại, người gọi nàng là vị sư cô quản trị của chùa…

-

Để có yếu tố bất ngờ, Thủy tức tốc về Sài Gòn mà không báo cho chồng biết. Sau khi rời phi trường Tân Sơn Nhất, Thủy đến ngay khách sạn nàng thường hay ở để tìm Xuân. Không thấy chồng mình ở đó, Thủy bèn đến chùa ngay, cũng không gặp Xuân, đồng thời nàng mới biết là Mẫn đã dọn ra từ hai tháng trước. Đến bấy giờ nàng mới gọi điện thoại tìm Xuân, điện thoại không trả lời. Cùng đường, nàng đành trở về khách sạn nghĩ cách tìm chồng, tâm can như bị thiêu đốt.

Một ngày sau, có lẽ có người thông báo cho Xuân, chồng nàng hớt hải xách vali hành lý đến khách sạn tìm nàng. Gặp mặt chồng Thủy giận quá muốn xỉu, miệng mấp máy nói không ra lời. Sau cùng nàng cũng ráng hỏi Xuân đi đâu, Xuân ấp úng trả lời là đi phân phát quà từ thiện ở Bình Tuy. Nhìn mặt Xuân, nàng biết ngay đó là lời nói dối, bởi vì người chồng bao nhiêu năm nàng ôm ấp không có cái khuôn mặt trơ trẽn như vậy! Thủy òa lên khóc nức nở…

-

Biết là không thể dối vợ được nữa, Xuân bèn nói thật. Chàng nói là cũng không ngờ tại sao Mẫn nằm trong vòng tay của chàng mà chàng không có cách nào chống cự, để rồi chuyện nó đến và tiếp tục tiến tới. Với số tuổi sáu mươi, Xuân biết mình không còn bao nhiêu sức lực để theo kịp Mẫn, nhưng không hiểu tại sao mỗi lần gần Mẫn, cô ta không bao giờ làm cho chàng có cảm tưởng là một ông già và lúc nào cũng tỏ vẻ chân thành cảm kích Xuân đã cho cô ta những giây phút sung sướng tuyệt vời…Mặc dù là vậy, lần này trở về, Xuân có thủ sẵn một hộp Viagra để giúp chàng có đủ sự tự tin của người đàn ông khỏe mạnh. Hộp thuốc này chàng đã bí mật nhờ một người bạn làm dược sĩ mua dùm, Thủy hoàn toàn không biết…

-

Xuân rón rén mở cửa rào để Thủy bước vào nhà, ngôi nhà nho nhỏ xinh xinh nằm trong một cái hẻm không sâu lắm. Đó là cái tổ uyên ương mà Xuân vừa mới tậu cho Mẫn được một tuần. Chàng gõ nhẹ cửa, cánh cửa mở ra, vợ chồng Thủy hết sức ngạc nhiên vì người mở cửa là tên chồng vũ phu đã đánh Mẫn tại quán nước. Hắn ta tỏ vẻ là chủ nhân mời vợ chồng nàng vào nhà. Sau khi vợ chồng Thủy ngồi xuống, hắn ta chọn một cái ghế ngồi đối diện, dáng điệu trông rất xấc xược. Lúc đó Mẫn đứng phía sau của hắn, gương mặt có vẻ ngại ngùng nhưng không còn nét hiền hậu như những lần gặp trước. Trên môi cô ta, điểm nhẹ một nụ cười khó hiểu. Thủy nhìn giáp vòng rồi nhìn Mẫn hỏi:

“Mẫn, bác thương con như con ruột, sao con có thể làm nên chuyện như vậy?”

Mẫn tránh né không trả lời, tên chồng của cô ta bèn lên tiếng:

“Sẵn đây tui giới thiệu cho hai bác biết, con nhỏ này tên Mận, chứ không phải Mẫn, nó là bồ của tui đó.”

Thủy đi từ ngạc nhiên này, đến ngạc nhiên khác. Nhưng lúc đó nàng mới khám phá ra rằng, đây là một âm mưu có tính toán từ đầu. Hắn ta tiếp lời:

“Nhân dịp này tui cám ơn hai bác đã cho tui gửi con Mận, bây giờ tui lấy nó lại.”

Thủy cứng họng, biết chẳng còn gì để nói, trong khi Xuân chồng nàng mặt mày thay đổi từ xanh qua tím, quả là một điều sỉ nhục. Thủy hậm hực đứng lên ra về, chồng nàng tiu nghỉu, tay chân run rẩy riu ríu theo sau…

-----

Kể từ lần sau cùng về làm từ thiện, Thủy đau khổ tột cùng vì sự phản bội của người chồng yêu quý. Tình cảm hai người hầu như không còn có thể hàn gắn lại. Còn Xuân thì mang một mặc cảm tội lỗi tày trời mà chàng tự nghĩ không thể nào tha thứ cho mình được. Đã nhiều lần chàng quỳ gối trước mặt Thủy khóc lóc van xin tha thứ. Đối với Thủy, người đàn ông mà nàng kính yêu trước kia, bây giờ trông sao hèn hạ quá! Nhục nhã quá!

-

Xuân đã xin nghỉ việc sau khi trở về. Chàng như một kẻ tàn phế từ thể xác đến linh hồn, không còn tâm tư để làm việc được nữa. Việc chùa chiền, làm từ thiện, vợ chồng nàng đều hoàn toàn chấm dứt.

Hai đứa con nàng thấy Bố quá tội nghiệp đều năn nỉ xin nàng tha thứ cho Bố. Vì thương con, hơn nữa chuyện xảy ra Thủy cũng có một phần trách nhiệm, nên lần lần Thủy cũng dịu lại. Xuân vì muốn chuộc lỗi lầm của mình nên lúc nào cũng chiều chuộng vợ một cách quá đáng, nhiều lúc làm Thủy bực mình, nhưng sau cùng nàng lại thấy tội nghiệp… Rồi thì vào một ngày đẹp trời, Thủy đã xiêu lòng và chuyện tình vợ chồng nàng bắt đầu nối lại. Số thuốc Viagra mà Xuân đã dùng vào việc “bất chánh” trước kia, phần còn lại, bây giờ lại có… chánh nghĩa.

-----

Đầu óc Xuân mơ hồ, tai nghe văng vẳng những tiếng xôn xao xa vắng. Đôi mắt chàng từ từ hé mở, nhưng phải nhắm lại ngay vì ánh sáng quá chói chang. Chàng không biết mình ở đâu, cũng không biết chuyện gì xảy ra. Định thần vài giây, chàng lại từ từ mở mắt, chưa kịp nhìn thấy gì thì đã nghe tiếng nói quen thuộc của vợ. Phải thêm chừng ba mươi giây nữa thì Xuân mới biết là mình đang nằm trong bệnh viện…Trong vòng hai tháng, đây là lần thứ nhì chàng bị xỉu và phải đưa vào cấp cứu.

Đã nửa năm nay, sức khỏe của Xuân không tốt. Chàng không nghĩ là mình có bệnh gì nguy hiểm, nhưng không hiểu tại sao cứ thấy mỏi mệt, nhức đầu, đau nhức, tay chân rã rời, con người không có sinh lực…

Vì thấy cái sân cỏ mọc quá cao, Xuân miễn cưỡng đi lấy máy ra cắt. Có lẽ vì nắng hơi gắt, cộng với trong người không được khỏe, nên khi làm nửa chừng chàng bị xỉu. Cũng may là Thủy đang ở gần đó, nên vội vàng gọi xe cứu cấp đưa chồng vào nhà thương. Thủy hoảng hốt sợ chồng mình bị stroke mặc dù lần trước đã không phải. Sau khi nằm ở phòng cấp cứu được năm giờ, Xuân được cho về vì không thấy gì nguy hiểm. Tuy nhiên vì đây là lần thứ nhì, nên bác sĩ cấp cứu khuyên chàng nên gặp bác sĩ riêng của mình để được theo dõi kỹ hơn…

-----

Đã nửa năm nay, sức khỏe của Xuân không tốt. Chàng không nghĩ là mình có bệnh gì nguy hiểm, nhưng không hiểu tại sao cứ thấy mỏi mệt, nhức đầu, đau nhức, tay chân rã rời, con người không có sinh lực…

Vì thấy cái sân cỏ mọc quá cao, Xuân miễn cưỡng đi lấy máy ra cắt. Có lẽ vì nắng hơi gắt, cộng với trong người không được khỏe, nên khi làm nửa chừng chàng bị xỉu. Cũng may là Thủy đang ở gần đó, nên vội vàng gọi xe cứu cấp đưa chồng vào nhà thương. Thủy hoảng hốt sợ chồng mình bị stroke mặc dù lần trước đã không phải. Sau khi nằm ở phòng cấp cứu được năm giờ, Xuân được cho về vì không thấy gì nguy hiểm. Tuy nhiên vì đây là lần thứ nhì, nên bác sĩ cấp cứu khuyên chàng nên gặp bác sĩ riêng của mình để được theo dõi kỹ hơn…
Xuân bước vô nhà, buông người ngồi phịch xuống sofa, tay ôm mặt khóc, chàng thấy cả thế giới chung quanh mình sụp đổ. Xuân tự hỏi: tại sao ông Trời lại có thể tàn nhẫn với chàng như thế được? Sau nhiều cuộc thử nghiệm, kết quả sau cùng bác sĩ có câu trả lời: chàng bị nhiễm trùng HIV, tình trạng trên đà bộc phát! Thêm một hậu quả tai hại do lỗi lầm của chàng gây ra hơn năm năm về trước! Dù có hối hận, tìm cách chuộc lỗi, nhưng đã muộn rồi! Thủy có thể tha thứ cho chàng, nhưng với cái bệnh nan y thời đại, cái giá mà Xuân phải trả thật là quá đắt!
-----
Thủy nhìn lên bàn thờ Phật, tâm tư thật hỗn loạn. Nàng không biết là mình nên cầu cứu với đấng Bồ Tát, hay là trách cứ Ngài. Cả gia đình nàng hoàn toàn bị sụp đổ khi khám phá ra rằng: nàng cũng bị nhiễm trùng HIV do chồng truyền sang! Còn gì tệ hại hơn nữa không? Chắc là không, theo nàng nghĩ!
Kể từ thời niên thiếu, cuộc đời của Thủy êm ả trôi qua, chỉ phải chịu cực đôi chút vì cuộc sống vật chất trên đất Mỹ, nhưng nói chung nàng luôn nhìn đời là màu hồng.
Cứ tưởng rằng với thành quả đạt được sau bao năm vất vả, về hưu, nàng sẽ sống phần đời còn lại một cách thoải mái trong tình yêu gắn bó của gia đình. Nào ngờ tất cả đều sụp đổ kể từ khi vợ chồng nàng bắt đầu… làm từ thiện!
Trách ai đây? Bồ Tát chăng?
Nhiều khi quẩn trí nàng có ý đó, nhưng rồi lại sợ xúc phạm tới đấng thiêng liêng mà bao năm gia đình nàng đặt hết niềm tin.
Trách con Mận và thằng bồ của nó chăng?
Đúng, nếu không có con Mận và thằng bồ của nó bày mưu lập kế, thì người chồng đi ngay về thẳng của nàng đâu có phạm phải một lỗi lầm tày trời như vậy!
Trách Xuân, chồng nàng chăng?
Cũng đúng nữa. Tại sao người chồng của nàng lại dám phản bội nàng đi ngoại tình với một đứa con gái tuổi còn nhỏ hơn con mình? Nàng không bao giờ tin chuyện đó có thể xảy ra được! Vậy mà nó xảy ra!
Trách nàng chăng?
Chuyện xảy ra quá đau khổ, nghĩ tới cái gì, nàng trách cái đó, nghĩ tới người nào nàng trách người đó, trong đó có cả nàng:
Nàng trách mình tại sao về hưu sớm, để có quá nhiều thời gian đi chùa, từ đó mới bày đặt đi làm từ thiện!
Mà muốn làm từ thiện cũng không sao, nhưng tại sao phải về Việt Nam? Xứ Mỹ này cũng lắm người cần giúp đỡ kia mà?
Nàng trách nàng quá dại dột đã để người chồng hiền lành không kinh nghiệm tình trường đi một mình! Chỉ cần một chút mánh khóe của con Mận là đã hồn bay phách tán, quên mất đường về!
Nàng trách nàng quá khờ dại tin người. Trách mình quá tự tin: nhìn bề ngoài của một người miền nam, mà tin là đoán được những gì họ nghĩ trong đầu, như nàng đã từng tự hào khi còn theo chồng dạy học ở miền tây tỉnh lẻ. Nàng không ngờ sau ba mươi năm xa quê hương, vật đổi sao dời, xã hội Việt Nam đã bị nhiễm độc nặng, trong đó, những đứa con gái thật thà miền nam cũng cùng số phận!
Nàng trách, nàng trách tất cả, trách để trút bỏ cái tức, xả bỏ cái hận, trách cho vơi nỗi niềm, trách để đổ lỗi tại cái này, vì người kia, nhưng rốt cục, càng trách nàng càng thấy đau khổ.
-----
Tiếng chuông thanh thoát chấm dứt phần đọc kinh buổi sáng, Thủy nhẹ nhàng để cây chày xuống bàn, ngước mắt nhìn lên bức hình Phật Tổ Như Lai, hai tay chắp trước ngực, nàng lâm râm khấn vái thêm vài phút trước khi đứng dậy. Ngày hai buổi thành tâm tụng niệm, rốt cục Thủy dần dần tìm thấy sự an bình cho tâm hồn. Một điều Thủy khám phá ra rằng: không phải cứ đi chùa thường xuyên là tu. Cũng không phải cho người ta nhiều tiền là làm từ thiện, có nhiều phước. Càng không phải đọc kinh cho hay, lạy cho nhiều là trở thành một người tu hành có cấp bậc cao, để được người khác kính trọng. ..
Tất cả là duyên, là nghiệp hay nói nôm na là cái số. Phật ở trong tâm của ta. Phật ở trong tất cả hành động sinh hoạt hàng ngày. Phật ở tất cả mọi nơi. Điều quan trọng nhất là tâm hồn phải vị tha, luôn thành tâm hướng thiện. Mọi việc đã có tạo hóa an bài…
Nàng đã ngộ.
-----
CHÚ THÍCH:
Vì một cái duyên, tôi biết được câu chuyện. Bài báo của ký giả John Boudreau là động lực thúc đẩy tôi kể lại. Hy vọng nó sẽ đóng góp vào kho tàng vô tận“Chuyện Dài XHCN.”