GS Tôn Thất Trình
Vị trí
Tỉnh Gia Lai là tỉnh lớn nhất Tây Nguyên, sau khi tỉnh Đắc Lắc cũ chia hai thành Đắc Lắc và Đắc Lắc ( Daklak, Darlac ), Đắc ( Dak ) Nông. Diện tích là 15 537 Km2 trong tổng số diện tích 5 tỉnh Tây Nguyên ( Kontum , Gia Lai, Đắc Lắc , Đắc Nông, Lâm Đồng ) 54 475 km2 . Đông giáp hai tỉnh Bình Định và Phú Yên, Tây giáp tỉnh Ratanakiri – Cam Bốt Nam giáp tỉnh Đắc Lắc và Bắc giáp tỉnh Kontum . Pleiku ( Plêy Cu ) nay là tỉnh lỵ tỉnh Gia Lai, cách Qui Nhơn 186km ( 116 dặm Anh ), cách Ban Mê Thuột 197km ( 104 dặm Anh ), cách Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh 550km ( 344 dặm Anh ). Có ba quốc lộ dẫn tới Pleiku : quốc lộ 25 nối Tuy Hòa ( Phú Yên ) với Pleiku; quốc lộ 19 nối Qui Nhơn với Pleiku ; có quốc lộ 14 trải dài từ Pleiku đến Ban Mê Thuột, Kon Tum và Đà Nẳng ( Tourane thời Pháp thuộc ). Máy bay Hàng Không Việt Nam đến Pleiku hằng ngày từ Hà Nội, Đà Nẳng và Sài Gòn tại phi trường Pleiku. cách trung tâm thị xã Plei Ku 25 km và thị xã Kontum 45 Km.
Tính đến tháng 4 năm 2009 dân số Gia Lai là 1 272 800 người. Tăng thêm gần 300 000 người trong 10 năm vì năm 1999 Gia Lai chỉ có 981 500 người. Năm 1990, Gia Lai chỉ mới có 703 400 người. Thành phần dân tộc dân cũng thay đổi nhiều. Vào thời Pháp thuộc, chánh quyền thuộc địa giới hạn người Kinh lên Tây Nguyên, tuy rằng thời Minh Mạng – Thiệu Trị và Tự Đức cấm đạo đã có nhiều dân Kinh theo đạo lên trốn tránh ở Tây Nguyên nhất là quanh các tỉnh lỵ Kontum và PleiKu và thời Pháp thuộc đồn điền Catecka ở gần Biển Hồ ( hồ To Nung ) cũng mộ dân Bình Định lên làm công nhân hái trà. Các năm 1957- 62, dân đinh điền gốc Kinh các tỉnh miền Trung và dân di cư 1954 gốc Kinh miền Bắc cũng lên lập nghiệp ở Gia Lai đến vài vạn người. Sau 1975, chánh sách cho di dân tự do lên Tây Nguyên và nhiều tộc dân miền Bắc vào Gia Lai xây dựng các đập thủy điện sông Ba và sông Sesan cũng góp phần thay đổi thành phần các tộc dân Gia Lai. Cho nên ngày nay tộc dân Kinh chiếm đa số chừng 52 % tổng số cư dân Gia Lai. Hai tộc chánh thời xưa : Gia Rai ( Jơ Rai ) nay chỉ còn chiếm 33.5 %, Ba Na( Bahnar )13. % . Các tộc dân khác là Xơ ( Xê ) Đăng, Giẻ Triêng, Cờ Ho, nay thêm nhiều tộc dân Nùng, Thái, Mường, Tày vùng cao nguyên miền Bắc … Nhắc lại là tộc dân Gia Rai thuộc họ ngôn ngữ Nam Á, cũng như các tộc dân Chăm( Chàm ) , Ê Đê ( Rha Đê ) Raglai, thuộc Nhóm Môn – Khmer . Cùng họ ngôn ngữ Nam Á là các tộc dân Ba Na ( Bahnar ), Xơ Đăng, Cơ Ho, Giẻ Triêng cũng thuộc nhóm Môn –Khmer và các tộc dân Thái , Nùng, Tày thuộc Nhóm Tày –Thái ; các tộc dân Kinh ( hay Việt ) và Mường, thuộc Nhóm Việt -Mường (Theo tài liệu dân tộc học, Mặc Đăng -2000).Tuy nhiên hình thái thân tộc khác nhau : Nguời Gia Rai, Ê Đê theo mẩu hệ, con cái tính theo dòng mẹ, lấy họ mẹ. Con gái chủ động trong hôn nhân theo cách nói là “ con gái bắt chồng” . Cưới xong con trai “ xuất giá” , rời bỏ cha mẹ, anh em để về nhà vợ. Khi vợ chết, lại lủi thủi rời bỏ con cái mình để trở về nhà mẹ hoặc chị em gái của mình. Người Giẻ Triêng theo song hệ, con gái lấy họ mẹ, con trai lấy họ cha.
Về hành chánh, Gia Lai nay gồm tỉnh lỵ là thị xã Pleiku, rộng 21 100 ha, dân số năm 2003 là 186 763 người và hai thị trấn tỉnh quản trị là An Khê, Ayun Pa và 14 quận là Â Chư Pah ( Phú Hòa ), Chư Prong, Chư Sê, Đức Cơ ( nguyên là Chư Ty ), Ia Grai ( Ia Kha ) , Kbang , Krong Pa ( Phú Túc ), Kong Chrô, Mang Yang ( Mang Giang, Kong Đong ), DakĐoa, Ia Pa, DakPo, Phú Thiện, Chư Pu. Sau năm 1975, tỉnh Gia Lai gồm luôn 3 tỉnh là Kontum , Pleiku và Phú Bổn ( Phú Túc , Krong Pa ? ) mà tỉnh lỵ là Hậu Bổn (tên cũ thời Pháp thuộc là Cheo Reo). Sau đó Kontum tách rời thành tỉnh Kontum riêng biệt, diện tích nay là 9 614,5 km2, nhưng dân số Kontum năm 2009 chỉ có 432 900 người.
Đôi chút xuôi dòng thời gian lịch sử
1- Gia Lai- Pleiku từ thế kỷ thứ II đến lúc Việt Nam Nam Tiến cai quản, trước thời Pháp thuộc
Tộc dân Gia Rai, họ ngôn ngữ Nam- Đảo, theo Philippe Papin ( 2001 ) có lẽ đã từ ven biển lên cao nguyên các tỉnh Gia Lai và Kontum vào khỏang thế kỷ II. Và các tộc dân Kiritas khác cũng lên định cư ở miền núi Trường Sơn cùnglúc hay chậm hơn đôi chút . Sau đó vua Chăm Chế Bì La But- Jaya Harivarman I, năm 1151 đánh bại tất cả các quân các tộc dân Kiritas cao nguyên tràn xuống xâm chiếm đồng bằng ; theo con đường Phú Yên – Phú Bổn (- Hậu Bổ- Cheo Reo )- Pleiku.. đuổi theo các tộc dân cao nguyên Kiritas Trường Sơn miền Trung ( thời Pháp thuộc gọi là « Mọi – Montagnards du Sud ») từ Bình Thuận ra đến Phú Yên, khuất phục các tộc dân Jarai , Rongao, Roglai Blao… đặt nền cai trị Chăm lâu dài ở vùng núi này. Phần nào di tích văn hóa Chăm, còn rải rác từ Bình Thuận ra đến Plei ku – Kontum ngày nay.
Như chúng ta đã biết, Đô Đốc Bùi Tá Hán đã thiết lập nền cai trị Việt Nam ở các tỉnh miền Bắc Tây Nguyên thuộc dinh Quảng Nam theo lệnh của Chúa Trịnh và sau đó người kế vị giao chức trấn thủ Quảng Nam cho Chúa Tiên Nguyễn Hòang. Năm 1611, Chúa Tiên đánh Chiêm Thành, lấy đất lập ra tỉnh Phú Yên và lẽ dĩ nhiên kiểm sóat luôn các vùng đất Phú Bổn- Plei ku – Kontum, Chiêm cai trị. Năm 1653 chúa Hiền- Nguyễn Phước Tần đánh Chăm, lập ra phủ Diên Khánh từ Phan Rang trở ra phía Bắc. Nhưng mãi đến năm 1679, chúa Hiền mới lấy đất Phan Rí- Phan Rang đặt ra hai huyện Yên Phúc và Hòa Đa, lập phủ Bình Thuận, chiếm hết đất Chăm, nên các tỉnh Tây Nguyên Nam Trường Sơn Chăm cai trị cũng đương nhiên là đất Việt. Tuy nhiên, Việt Nam chỉ kiểm sóat lỏng lẻo Tây Nguyên. Vua Thiệu Trị ( trị vì 1820 – 1840 ) đã phải phong cho hai tù trưởng Gia Rai và Ba Na hàng quan vỏ tứ phẩm triều đình Huế, nhưng đối với dân địa phương đó là hai “ Vua Hỏa- Hỏa Xá” và “Vua Thủy- Thủy Xá” .
2- Sơ lược Chiến Tranh Đông Dương( Đông Pháp) lần thứ nhất
… Các anh đi khi nào trở lại ?
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong.
Chờ mong chiến dịch thành công,
Xác thù chất núi, bên sông đỏ cờ.
Anh đi chín đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh ?
( Hòang Trung Thông , 1925 – 19… )
( Các đoạn từ 1 đến 7 trước chương địa hình, phần lớn là lược thuật tài liệu Việt Nam War, giải tỏa ngày 25 tháng 6 năm 2007 và cập nhật thêm đến ngày 20 tháng 10 năm 2011, của Bách Khoa Tân Thế Giới – New World Encyclopedia ).
Vào thập niên 1840 cho đến thập niên 1880, thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam qua nhiều cuộc chiến tranh thuộc địa. Khi điều đình sau Thế Chiến Thứ Nhất ( 1914- 1918 ) đưa tới ký kết Hòa Ước Versailles năm 1919, ông Hồ Chí Minh ( và một số người quốc gia yêu nước khác ) khẩn cầu cầu một phái đòan Việt Nam được phép tham dự, hầu tiến tới phục hồi nền độc lập cho các xứ Đông Pháp – Indochine francaise thuộc địa và bảo hộ. Nhưng yêu cầu bị gạt bỏ và tình trạng Đông Pháp cũng y nguyên như cũ.
Vào Thế chiến Thứ Hai ( 1940 – 45 ), chánh phủ Vichy của Pháp hợp tác với Nhật chiếm đóng Đông Pháp, sau ngày 22 tháng chín năm 1940, khi lực lượng Nhật từ Tàu sang đánh bại quân Pháp thuộc địa ở Lạng Sơn. Tuy Pháp tiếp tục những chức vụ cai trị chánh thức, thật sự Nhật đã kiểm sóat cả 3 nước Việt Nam, Miên và Lào. Ông Hồ Chí Minh trở về Viêt Nam và thiết lập một nhóm kháng chiến chống Nhật ở miền Bắc, với sự giúp đở của những tóan của Cơ quan các Sở Chiến Lược Hoa Kỳ – US Office of Strategic Services ( tiền thân của Cơ quan Tình Báo Hoa Kỳ, CIA -Central Intelligence Agency ). Các tóan này họat động sau lưng các hàng ngũ địch quân và hổ trợ các nhóm kháng chiến địa phương. Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp thuộc địa và trả lại độc lập có phần hình thức cho Việt Nam và vua Bảo Đại lập nội các “ độc lập” ( nhưng không có bộ quốc phòng, vì chưa tổ chức được ), thủ tướng là học giả Trần Trọng Kim. Tháng 8 năm 1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh. Các nhà quốc gia – nationalists, các nhà cọng sản – communists và một số người yêu nước Việt Nam khác, hy vọng nắm chánh quyền . Quân đội Nhật giúp Việt Minh ( Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội), nghĩa là quân kháng chiến của ông Hồ chí Minh ( HCM )và một vài nhóm quốc gia Việt Nam đòi Độc lập , bằng cách tống giam các chức quyền và binh lính Pháp thuộc địa và bảo hộ; giao trả mọi cơ sở công cộng cho dân Việt. Sau khi vua Bảo Đại tuyên bố thóai vị, ngày 2 tháng 9 năm 1945, ông HCM tuyên bố Việt Nam Độc Lập khỏi Pháp và lập chánh phủ do ông lảnh đạo. Ở đám đông Ba Đình, ông HCM, một nhà thiết lập đảng cọng sản Pháp năm 1920, đọc một bài diễn văn hào hứng sôi nổi, trích nhiều đọan Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ – U.S. Declaration of Independence và một ban nhạc thổi bài quốc ca Hoa Kỳ “ The Star Spangle Banner”. Ông HCM tiên đóan là có lẽ Hoa Kỳ sẽ đồng minh với phong trào quốc gia Việt Nam , căn cứ trên các diễn văn của Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, người chống lại tái lập chế độ thực dân Âu Châu sau Thế Chiến Thứ II.
Thế nhưng ở Hội Nghị Postdam, Đồng Minh đã quyết định là Quân đội Quốc Gia Tàu – Nationalist Chinese và lực lượng Anh Quốc sẽ giám sát giải giáp quân dội Nhật đầu hàng và đưa họ về Nhật. Quân đội Tàu vào Việt Nam vài ngày sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập và chiếm đóng vùng miền Bắc, từ vĩ tuyến tuyến thứ 16 trở ra Bắc. Quân đội Anh đến miền Nam Việt Nam tháng 10 năm 1945. Ở miền Nam, Pháp khẩn cầu Anh giao lại nền cai trị cho họ. Ông HCM yêu cầu quốc tế cứu giúp chống lại việc Pháp tái chiếm, gồm luôn cả một điện tín gửi cho Tổng Thống Hoa Kỳ Harry S. Truman, hy vọng thuyết phục Hoa Kỳ can thiệp.
Ở miền Bắc, Pháp điều đình với cả chánh phủ quốc dân đảng Tàu lẫn Việt Minh. Bằng cách trao trả Thượng Hải và các nhượng địa ở Trung Hoa, Pháp thuyết phục Tàu cho phép họ trở lại miền Bắc Việt Nam và điều đình với Việt Minh. Ông HCM chấp thuận cho phép lực lượng Pháp đổ bộ ở ngọai ô Hà Nội, và Pháp thỏa thuận chấp nhận một nước Việt Nam độc lập trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp – French Union. Lợi dụng thời cơ hòa hõan đôi bên thảo luận, Ông Hồ thanh tóan, thủ tiêu v.v.. mọi nhóm quốc gia đang canh tranh đối thủ Việt Minh. Nhưng khi điều đình để ông Hồ lập một chánh phủ trong Liên Hiệp Pháp thất bại, tháng 12 năm 1946, Pháp tấn công Hải Phòng, giết hại hàng ngàn người, rồi tiến lên Hà Nội. Ông HCM và Việt Minh rút về các chiến khu núi non Bắc Việt, tổ chức kháng chiến, làm thành Chiến Tranh Đông Dương ( Đông Pháp ) Thứ Nhất – First Indochina War. Sau khi Cọng Sản đánh bại Quốc Dân Đảng Tưởng Giới Thạch ở cuộc nội chiến Tàu, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã có thể viện trợ quân sự trực tiếp cho Việt Minh. Và Việt Minh đã nhận được nhiều vỏ khí mới,tiếp tế và chuyên môn cần thiết, biến họ thành một lực lượng quân sự qui ước.
3- Chia đôi đất nước và Pháp rời bỏ Việt Nam 1950- 55
Cùng lúc Mao tiếp viện cho Việt Minh, Hoa Kỳ cũng viện trợ quân sự cho Đồng Minh Pháp. Sau khi chiến tranh Triều Tiên ( Cao Ly – Đại Hàn) bùng nổ, Hoa Kỳ bắt đầu cuộc chiến tranh Việt Minh kháng chiến chống thực dân Pháp, như thể là một thí dụ khác cọng sản bành trướng khắp thế giới do điện Cẩm Linh – Kremlin, Nga Sô lảnh đạo. Năm 1950, Nhóm Viện Trợ Quân sự và Cố vấn Hoa Kỳ- U. S. Military Assistance anh Advisory Group ( MAAG ) đến Việt Nam để sàng lọc những yêu cầu Pháp viện trợ, cố vấn chiến lược và huấn luyện binh lính Việt Nam. Năm 1956, MAAG nhận trách nhiệm huấn luyện quân đội Việt Nam. Tính đến năm 1954, Hoa Kỳ đã cung cấp 300 000 võ khí nhẹ và liên thanh cùng 1 tỉ đô la Mỹ, để hổ trợ cố gắng quân sự Pháp, hứng đở đến 80% chi phí cuộc chiến tranh Đông Pháp.
Việt Minh đánh bại quân sự Pháp nặng nề ngày 7 tháng 5 năm 1954 ở Điện Biên Phủ. Sau Điện Biên Phủ, dân chúng Pháp không còn ủng hộ cuộc chiến tranh Đông Pháp nữa và ở Hội Nghị Giơ Neo – Genève, chánh phủ Pháp thiên tả Mendes France điều đình một hiệp ước Hòa Bình với Việt Minh. Hiệp Ước này giúp Pháp rút khỏi Đông Pháp và giao trả độc lập cho ba nước Đông Pháp cũ. Tuy nhiên Việt Nam bị tạm thời chia đôi ở vĩ tuyến 17: trên vĩ tuyến 17, Việt Nam thiết lập một quốc gia xã hội chủ nghĩa ( Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và dưới vĩ tuyến một quốc gia không cọng sản do vua Bảo Đại làm quốc trưởng. Nhưng ông Ngô Đình Diệm( NĐD) mau lẹ truất phế vua Bảo Đại và thiếp lập một quốc gia mới là Việt Nam Cộng Hòa.
4- Đệ Nhất Cọng Hòa ( 1955-1963)
Chánh phủ NĐD không chịu tham dự hội nghị Giơ Neo, đặc thù nhấn mạnh đến bầu cử tòan quốc vào tháng 7 năm 1956, được Hoa kỳ khuyến khích bên sau không chịu để cho Cọng Sản chắc chắn thắng cử tòan quốc. Hoa Kỳ cũng nêu lên câu hỏi về tính cách hợp pháp của bất cứ mọi bầu cử nào ở miền Bắc do Cọng Sản cai trị. Các năm 1954- 56 , dọc theo vĩ tuyến 17 và chuyên chở tàu thủy – tàu bay ước lượng có 450 000 người di cư tị nạn- refugees từ miền Bắc vào Nam và chừng 52 000 người dân sự ( ? ) tập kết- regroupees từ Nam ra Bắc . Chánh phủ miền Nam NĐD từ chối bầu cử năm 1956, lấy cớ là miền Nam không ký Hiệp Ước Giơ Neo. Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1955, ông NĐD ( chống lại cố vấn Hoa Kỳ) dùng các chiến dịch quân sự lọai trừ các đối lập 2 giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo và nhóm tổ chức tội ác – organized crime group Bình Xuyên ( đồng minh với công an mật vụ- secret police và vài phần tử quân đội ). Cuối năm 1955, ông NĐD tổ chức bầu cử ở miền Nam, truất phế quốc trưởng Bảo Đại để làm tổng thống, thiết lập một quốc hội và viết ra một hiến pháp. Ông NĐD thắng cử, được 98.2 % tổng số phiếu.
Chống lại chánh quyền NĐD cai trị miền Nam, năm 1957, các cán bộ chìm Việt Minh ở miền Nam không tập kết ra Bắc, chôn dấu vỏ khi để nổi lên, nếu như không có tuyển cử thống nhất đất nước, đã tổ chức nổi lọan ở mức độ thấp. Cuối năm 1956 , một lảnh tụ cộng sản miền Nam Lê Duẩn trở ra Bắc. khẩn cầu Đảng Lao Động ( Đảng Cọng Sản ông HCM đổi tên trá hình ) lấy lập trường cứng rắn hơn về thống nhất Việt Nam, nhưng Hà Nội vẫn còn e dè tung ra một cuộc chiến đấu quân sự thực sự. Tháng giêng 1959, dưới áp lực các cán bộ miền Nam đã được mật vụ chánh quyền miền Nam nhắm đích xác, Ủy Ban Trung Ương Đảng ra một quyết định mật cho phép dùng quân sự chiến đấu giải phóng miền Nam. Ngày 12 tháng chạp 1960, theo chỉ thị Hà Nội, cọng sản miền Nam thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam – National Front for the Liberation of South Việt Nam ( NLF ) để lật đổ chánh phủ Việt Nam Cọng Hòa. NLF gồm 2 thành phần khác nhau : các trí thức miền Nam chống lại chánh quyền miền Nam và là người quốc gia – nationalists ; đảng viên cọng sản ở lại miền Nam không tập kết ra Bắc năm 1954 và những người Cọng Sản từ Bắc mới nhập vào Nam. Tuy có nhiều thành viên NLF không là đảng viên Cọng sản, họ đều bị các cán bộ đảng Cọng sản giám sát chặc chẻ và càng ngày càng bị đẩy ra ngòai khi nội chiến tiếp diễn, nhưng họ cũng đã giúp cho NLF tô điểm cho mình một bộ mặt quốc gia rộng rải, thay vì là một phong trào cọng sản. Phong trào Bajaranca ( Ba Nà, Jarai, Ê Đê , Chăm …. ) là một thành phần của NLF ở Tây Nguyên.
5- Chiến dịch Sấm Rền- Operation Rolling Thunder 1965 – 1968 và trận Ia Drang, thật sự khởi đầu Chiến Tranh Việt Nam- The Viet Nam War .
Tháng hai năm 1965, căn cứ không quân Hoa Kỳ ở Pleiku bị NLF tấn công hai lần, giết chết hơn một tá quân nhân Mỹ. Những tấn công du kích này khiến cho chánh phủ Hoa Kỳ trả đủa bằng các oanh kích máy bay ( Chiến dịch Tên Lữa – Operation Flaming Dart) ở miền Bắc. Chiến dịch Sấm Rền là tên mã số một cuộc thả bom chiến lược duy trì liên tục ở miền Bắc, do các máy bay Không Quân-Air Force và Hải Quân- Navy Hoa Kỳ thực hiện, từ ngày 2 tháng 3 năm 1965. Mục đích nguyên thủy là nâng cao tinh thần dân chúng miền Nam và ra dấu hiệu cảnh cáo miền Bắc. Không lực Hoa Kỳ hành động như thể “ một thuyết phục chiến lược – strategic persuasion” đe dọa chánh trị miền Bắc, âu lo bị ném bom liên tục. Nhưng khi Chiến Dịch Sấm Rền không đem lại kết quả, các mục tiêu đổi qua phá hủy ý chí miền Bắc đánh miền Nam bằng cách phá mọi cơ sở công nghệ, mạng lưới giao thông và phòng không ( mỗi ngày một gia tăng ). Sau hơn một triệu lần oanh kích và thả 750 000 tấn bom, Chiến dịch Sấm Rền chấm dứt ngày 11 tháng 11 năm 1968 .
Từ cuối năm 1964, Miền Bắc đã gửi quân đội tham gia trực tiếp ở Miền Nam . Vài chức quyền Hà Nội muốn xâm chiếm ngay Việt Nam Cọng Hòa và một dự án được phát triễn dùng những đơn vị Quân đội Nhân Dân Việt Nam – People Army of Việt Nam (VPA/ PAVN ) phân chia Cộng hòa Miền Nam ra 2 phần, xuyên qua Tây Nguyên. Hai đối thủ ( Hoa Kỳ và PAVN ) du nhập vào miền Nam lần đầu tiên chạm trán nhau ở trong chiến dịch tên gọi là Chiến dịch Lưỡi Lê Bạc – Operation Silver Bayonet , thường được gọi là trận chiến Ia Drang. Ia Drang là một chi nhánh lớn của sông Sesan – Srêpok chảy ngang qua phía Tây Nam tỉnh Gia Lai. Trong chiến trận khốc liệt này, đôi bên đều học được nhiều kinh nghiệm, nhiều bài học xương máu. Quân đội miền Bắc, thiệt hại nặng nề, bắt đầu thích nghi với ưu thế đè bẹp của không lực di động , cung cấp võ khí và trực thăng đánh cận chiến Hoa Kỳ. Hoa Kỳ nhận thức là quân đội nhân dân Việt Nam ( VPA / PAVN ) không phải là những đám du kích áo rách khố ôm – ragtag mà là một lực lượng kỷ luật, đầy nhiệt huyết và thành thạo .
6- Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch 275 ( từ 4 tháng ba đến 3 tháng tư 1975 )
Tham chiến – quân đội miền Bắc gồm 4 sư đòan bộ binh: 10, 320, 316, 968 và 4 trung đòan bộ binh 25, 95a, 95b, 271, cọng thêm trung đòan đặc công 178, trung đòan thiết giáp 273 và các đơn vị binh chủng chuyên môn, kỷ thuật.
– quân đội Cộng Hòa miền Nam gồm sư đòan bộ binh 23, lữ đòan dù 3 , trung dòan bộ binh 40 ( giai đọan phát triễn ), binh đòan ( trung đòan ) biệt động quân 4, 6, 7, 21, 22, 23, 24, 25, lữ đòan thiết giáp 2( gồm 4 thiết đòan ), cọng 30 tiểu đòan bảo an và các binh chủng chuyên môn, kỷ thuật
Sau hơn một tuần nghi binh như muốn chiếm Kontum – Pleiku, ngày 10 tháng 3 năm 1975, tướng Văn Tiến Dũng tung ra chiến dịch 275, một tấn công giới hạn vào Tây Nguyên có xe tăng và đại pháo hổ trợ; mục tiêu là Ban Mê Thuột ở tỉnh Đắc Lắc. Nếu quân đội nhân dân chiếm được Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ Gia Lai là thị trấn Pleiku và con đường ra bờ biển biển Đông sẽ phơi bày cho một chiến dịch dự trù năm 1976 mới thi hành. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa – ARVN ở Ban Mê Thuột, không còn được Mỹ và đồng minh yểm trợ, viện trợ hùng hồn như khi quân đội Hoa Kỳ tham chiến chư rút KhỎi Việt Nam , không còn địch nổi quân đội miền Bắc trang bị vỏ khí tân tiến Nga – Tàu và tan rả ngày 11 tháng 3 năm 1975. Một lần nữa, Hà Nội rất ngạc nhiên về tốc độ thành công mau chóng này và tướng Dũng khẩn cầu Bộ Chánh trị cho phép ông tiến chiếm ngay Pleiku và sau đó chiếm Kontum. Vì còn 2 tháng nữa mới bắt đầu mùa mưa, tại sao lại không lợi dụng tình thế ?
Tổng Thống Thiệu lo sợ đa số lực lượng quân đội miền Nam bị cắt đứt ở các tỉnh miền Trung phía Bắc Việt Nam Cộng Hòa và ở Tây Nguyên, quyết định dàn trải lại số quân này về phía Nam gọi là “ đầu teo đít to – lighten the top and keep the bottom” . Nhưng cuộc triệt thóai này mau lẹ trở thành một cuộc rút lui đẩm máu, khi quân đội miền Bắc đột ngột tấn công từ miền Bắc. Khi ARVN cố triệt thóai, nhiều đơn vị bị tán phân ở Tây Nguyên oanh liệt cầm cự chống lại quân đội miền Bắc. Tướng Phú bỏ hai thị trấn Pleiku và Kontum, rút lui về Tuy Hòa theo con đường Pleiku- Hậu Bổn -Tuy Hòa tục gọi là “ đòan quân lệ rơi – column of tears”. Dân chúng theo cùng ARVN rút lui. Vì các con đường và cầu cống đã bị phá hủy, đòan quân tướng Phú tiến chậm và quân đội miền Bắc xáp lại gần hơn. Cuộc di tản quân – dân chậm chân ở các núi non xuống bờ biển; họ luôn luôn bị VPA nả pháo và đến ngày một tháng tư thì di tản tiêu tan.
Tưởng cũng nên biết là Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc ( Trung Cọng ) trong Chiến Tranh Việt Nam, từ mùa hè năm 1962, Mao Trạch Đông đã thỏa thuận cung cấp cho không Hà Nội 90 000 súng trường và đại bác. Khi xảy ra chiến dịch Sấm Rền, Trung Quốc đã gửi nhiều tiểu đòan công binh và nhiều đơn vị phòng không cho Bắc Việt ,để sửa chửa hư hại bom Mỹ thả, xây thêm đường xá, đường xe lữa và nhiều công sự chiến đấu khác. Như vậy giúp giải tỏa nhiều đơn vị để đi B ( xâm nhập vào Nam ). Từ năm 1965 đến năm 1970 đã có trên 320 000 quân Trung Quốc phục vụ cho Bắc Việt , nhiều nhất là năm 1967 số quân Trung Quốc ở Bắc Việt lên đến 170 000 người.
Còn Nga Sô thì cung cấp cho Miền Bắc dụng cụ thuốc men y khoa, vỏ khí, máy bay , trực thăng, đại bác, hỏa tiễn bắn từ đất – ground air missiles và trang bị quân sự khác. Tính ra có đến 80% mọi lọai vỏ khí miền Bắc sử dụng là do Nga Sô cung cấp. Hàng trăm cố vấn quân sự được gửi đến Miền Bắc để huấn luyện cho quân đội nhân dân. Các phi công Sô Viết thường chỉ là các bộ huấn luyện và nhiều phi công đã làm các nhiệm vụ chiến đấu dưới tư cách “ thiện nguyện – volunteer”
7- Hai mũi dùi đánh Khmer Rouge ( Đỏ ) Kampuchia, từ Pleiku và Ban Mê Thuật
Ngày 12 tháng tư 1975, Cọng sản Khmer Rouge ( Đỏ ) chiếm Nam Vang – Pnom Penh và thành lập nước Kampuchia Dân Chủ – Democratic Kampuchia đưa nước Căm Bốt vào một thời kỳ đen tối thảm khốc, vì Khmer Rouge buộc dân chúng phải rời bỏ thành phố, thị trấn về thôn quê, bắt đầu xây dựng “ Thiên đường xã hội chủ nghĩa kiểu Mao Trạch Đông” . Tình nghĩa “anh em xã hội chủ nghĩa” ở Kampuchia không lâu dài như ở Lào. Khmer Rouge có nhiều tham vọng lịch sử chiếm lại đất đai Việt Nam , tấn công liên tiếp các vùng biên giới miền Nam Việt Nam, đặc biệt từ Tây Ninh đến Hà Tiên.
Ngày 25 tháng chạp năm 1978 , Hà Nội tấn công ”bè lũ phản động Pol Pot- Ieng Sary” Khmer Rouge, tung ra từ 10 đến 12 sư đòan quân đội nhân nhân VV và ba trung đòan – regiments Khmer ( các trung đòan này sau là hạt nhân của Quân đội Nhân dân Khmer – KPRAF) , tổng cọng chừng 100 000 người. Theo 5 mủi dùi vượt qua biên giới Miên Việt, thọat tiên là ở Tây Bắc Cam Bốt. Một đội quân, từ Buôn Mê Thuột tiến dọc theo quốc lộ 13 và quốc lộ 14 chiếm thị trấn Kracheh City, tỉnh lỵ tỉnh Kracheh. Đội quân thứ hai tấn công từ Pleiku, theo đường vòng quốc lộ số 19 chiếm thị xã – tỉnh lỵ tỉnh Stung ( Stoeng ) Treng. Mục đích thứ nhất những tấn công đầu tiên ở vùng Đông Bắc Cam Bốt là chiếm mau lẹ một phần đất đai Cam Bốt đáng kể, trước đây là nơi phát sinh phong trào Khmer Rouge và quân đội Kampuchia -RAK thành hình vào thập niên 1960. Vùng xa xôi hẻo lánh này cũng khó lòng cho Khmer Rouge đuổi lui VPA, dù cuộc chiến Miên Việt kết thúc ra sao đi nữa ( nhắc lại là thời gian này cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc công nhận Khmer Rouge, chống Việt Nam! ). Xâm chiếm sớm vùng này có thể ngăn ngừa các đơn vị Khmer Rouge tái chiếm Đông Bắc Cam Bốt, một vùng có nhiều dân chúng ủng hộ Khmer Rouge. Tấn công còn có thể có ý định làm bối rối các lảnh đạo Kampuchia Dân Chủ về mục tiêu chánh Việt Nam tấn công. Tuy nhiên, các chỉ huy Khmer Rouge không bị mắc mưu hai mủi dùi Việt Nam tấn công Kracheh – Stoeng Treng, và không cố tâm tăng cường bảo vệ Đông Bắc. Thay vào đó, Khmer Rouge dựng lên đường phòng thủ chánh ở các đồng bằng trồng lúa bằng phẳng phía Đông Nam Căm Bốt. Suy đóan Khmer Rouge về ý định của Việt Nam rất đúng: tấn công chánh lực lượng Hà Nội tấn công chánh là vùng Đông Nam.
Từ tỉnh Tây Ninh, các đơn vị võ khí mạnh mẽ, dọc theo quốc lộ số 7 tràn tới chiếm mục tiêu là cảng sông Kam( Kon )pong Cham. Ở phía Nam, các đơn vị Việt Nam có phi cơ yểm trợ tấn công dọc theo quốc lộ 1, theo hướng Neak Luong ( Phumi Prek Khsay ), ngõ cửa trên sông Mê Kông đến Pnom Penh ( Nam Vang ). Mũi dùi thứ 5, từ Hà Tiên tiến chiếm hải cảng Kampot và KampongSaom , ngăn ngừa Trung Quốc ( ? ) tiếp viện lực lượng Khmer Rouge rút lui. Ngày 7 tháng giêng 1979, Khmer Rouge bỏ ngỏ Phnom Penh không phòng thủ và quân đội Việt Nam chiếm thủ đô này …
Địa hình, khí hậu
Tỉnh Gia Lai cũng như các tỉnh Tây Nguyên khác gồm địa hình cao nguyên và thung lũng . Sau đây là mô tả địa hình khí hậu chiếu theo Thái Công Tụng ( Vietnammologica , 2005 ): Từ miền núi cao phía Bắc Kontum , phía sau đồng bằng Quảng Nam, giải Trường Sơn chạy dài từ Bắc xuống Nam, ngăn cách vùng Tây Nguyên với đồng bằng duyên hải Trung Việt. Gải núi này rất dốc về phía Đông vì gần biển. Còn phía Tây nó thoai thỏai, tạo thành nhiều cao nguyên, trong đó có cao nguyên Pleiku . Giải núi này cũng là bức tường phân biệt khí hậu giữa Đông Trường Sơn và Tây Trường Sơn. Phía Đông ở các đồng bằng duyên hải, mùa mưa trễ hơn, từ tháng 10 – 11. Trong khi đó phía Tây, nghĩa là phía cao nguyên, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5. Nói một cách khác bên này là mùa nắng thì bên kia là mùa mưa. ( thêm : cho nên mới nẩy ra hai câu thơ thời miền Bắc thúc dục đi B, xâm nhập đánh miền Nam: “Trường Sơn Đông nắng , Tây mưa; Ai chưa đến đó thì chưa biết mình”) .
Cao nguyên Pleiku diện tích 4 500 km2, cao độ trung bình 800m. Trước kia là một vùng thấp, nhưng có dung nham núi lửa phun trào lên, lấp lên khá dày, lâu ngày hóa thành đất đỏ. Hiện nay vẫn còn một đỉnh núi lửa đã tắt, ngọn Chi Hdrung ( Hàm Rồng ) cao độ 1 028m. Quanh các ngọn núi lữa có những hồ miệng núi lửa như hồ Do nau Eng Prong. Dạng vòm cao nguyên Pleiku tạo ra đường phân thủy ( phân nước ) của hai lưu vực ; phía Đông là sông Ba chảy xuống Tuy Hòa và phía Tây là lưu vực sông Mê Kong. Phía Đông cao nguyên là những rặng núi granit và Rhyolit kéo dài của thượng Kontum ; quốclộ 19 từ Qui Nhơn lên Pleiku phải xuyên qua đèo Mang Giang ( cao 740m ). Phía Tây, cao nguyên Pleiku cao độ thấp hơn với thung lũng Ia Drang, nơi xảy ra chiến trận khốc liệt Tây Nguyên năm 1965 đã đề cập ở trên. Giữa cao nguyên Pleiku và Đắc Lắc là dãy núi granit Chư Pha cao 922m, đầu nguồn sông Ea Hleo.
Thung lũng Cheo Reo – Phú Túc ( Phú Bổn ) cao độ 160m ở giữa rìa Nam cao nguyên Pleiku, kéo dài đến gò đồi đồng bằng Tuy Hòa. Hai sông lớn Pleiku là sông Ba và Ea Ayunh chảy qua thung lũng này. Thung lũng An Khê , diện tích 600- 700 km2 , cao độ 400- 450m, giữa đường Pleiku đi Qui Nhơn chứa nhiều lọai đất xám và có dòng sông Ba chảy qua. Vì gần Bình Định nên dân cư phần lớn là dân Bình Định lên khai phá thung lũng An Khê.
Về khí hậu, cao nguyên Pleiku mưa nhiều hơn so với Ban Mê Thuột . Vũ lượng hàng năm Pleiku trung bình là 2450mm so với trung bình 1900mm của Ban Mê Thuột. Nhưng mùa nắng Pleiku lại gắt gao hơn . Nhiệt dộ trung bình Gia Lai – Pleiku thay đổi từ 21 đến 250 C , trung bình lạnh hơn Ban mê Thuột – Đắc Lắc. Thung lũng Cheo Reo vừa rất nóng và rất khô. Thung lũng này ở giữa hai dãy núi cùng hướng tây bắc – đông nam, bị khuất gió mùa tây Nam lẫn gió mùa đông bắc nên rất khô hạn. Vũ lượng trung bình thung lung Cheo Reo chỉ có 1300 mm như Ninh Thuận vậy. Tuy nhiên Tây Nguyên có ưu điểm so với miền duyên hải Trung Việt là không có bảo lụt ( mưa lụt – flash flood chớp nhoáng), không có gió Lào khô cháy như Quảng Trị chẳng hạn.
. Sông ngòi
Cũng theo Thái Công Tụng, Gia Lai có 2 hệ thống sông ngòi :
Hệ thống chảy về Biển Đông là sông Ba và hệ thống chảy về sông Mê kông là sông Se San. Sông Ba phát nguyên từ núi Ngọc Lĩnh thuộc Kontum, chảy theo hướng Bắc –Nam qua An Khê ( gần thị trấn Ayunh Pa) đến Cheo Reo ( Hậu Bổn ), sau đó chuyễn sang phía Đông về Tuy Hòa. Sông Ba có nhiều nhánh phụ, nhánh lớn nhất là sông Ea Ayunh . Hai nhánh lớn của sông Poko là sông Dakbla dài 141 Km, sông Sa Thầy cũng chảy qua Gia Lai một phần nào, nhưng lớn nhất là ở hạ lưu Poko là sông Sesan, tòan lưu vực có tiềm năng thũy điện to lớn . Ở phía tây Pleiku là sông Ea Hleo và hai chi lưu là sông Ia Drang và Ia Sup , bắt nguồn từ dãy núi Chư Hron, chảy theo hướng Đông Tây rồi đổ về sông Srê Pok sau đó chảy vào sông Mêkong ở Stung( stoeng ) Treng, Căm Bốt .
Danh lam thắng cảnh
Cảnh quan Gia Lai nhiều nơi đặc sắc, thơ mộng. đó là các rừng nhiệt đới Krong Ka Kinh, đỉnh núi cao 1761m; Krong Cha Rang; thác Xung khoeng, thác Phú Cường, Suối Đá Trắng, Suối Mơ và hồ Ayunh hạ… , nhưng đẹp nhất có lẽ là Biển Hồ ( To Nung Lake ) .
Biển Hồ- Sea Lake . Cao Nguyên Gia Lai – Pleiku có khi cao hơn 1000m và trên các đỉnh cao thường không có nước. Vì lý do này , dân Gia Lai cỗ xưa mơ tưởng nước và biển. Truyền thuyết cho rằng nước từ hồ chảy thẳng ra Biển Đông và dân xuất khẩu gỗ từ Tây Nguyên chỉ có việc thả trôi các súc gỗ xuống hồ, rời sáng hôm sau chận bắt gỗ ở biển Qui Nhơn . Tên cũ là To Nung, một làng cỗ truyền thuyết., rất rộng lớn và đẹp đẻ. Dân làng an lãnh, thì một ngày nào đó một núi lửa bùng lên , phun cháy giết hại nhiều người. Số còn lại đến miệng núi lữa than khóc và nước mắt họ chảy đầy miệng núi cho nên có tên là Tô Nung, hồ Nước Mắt .
Hồ là miệng núi lữa, cách trung tâm thị xã Pleiku chừng 5 km về phía Bắc.Tổng diện tích là 460 ha, 250 ha đầy nước. Núi rừng và rừng thông vây quanh hồ, và hồ hinh thuẩn chia ra hai phần vì một bán đảo nhỏ dọc theo trung tâm hồ. Mùa mưa, mặt nước hồ lan rộng khỏang 400 ha và sâu chừng 40m. Một phía bên hồ là một ghềnh đá basalt – dung nham. Hồ đã được mệnh danh là Hòn Ngọc Pleiku –Pearl of Pleiku. Rừng quanh hồ gồm nghiều lọai lan rừng- orchids , hoa quì – hướng duơng hoang dại wild sunflowwers và hoa báo xuân ( anh thảo) –primula. Bướm màu sắc sặc sở bay lượn dọc caác dòng suối , đậu trên hoa, rồi lại bay đi khắp nơi. Đôi khi gặp đò chèo độc mộc – pirangua, đò thân gỗ đẻo ruột rổng tuếch, lượt trôi trên hồ. Rừng núi lân cận hồ còn chứa nhiều lọai chim như chim cút –quails và ngỗng trời – wild geese. Vài góc hồ sen trồng càng làm cho hồ sinh động thêm. Người lớn có thể nhìn mặt hồ bao la để quên ngày mệt mõi. Thanh niên nam nữ có thể đến hồ ca hát , nhảy múa và hứa hẹn hôn nhân những đêm trăng sáng. Năm 1988 , hồ đã được bộ Văn Hóa xếp vào hạng cảnh quan thiên nhiên xinh đẹp quốc gia. Để khuyến khích du lịch sinh thái , cơ quan văn hóa Gia Lai cấm không cho đánh bắt hay nuôi trồng cá, sợ làm ô nhiễm nước trong vắt Biển Hồ vì nước hồ cũng là nguồn cung cấp nước sạch, trong mát cho thị xã Pleiku. Và đã từ chối nhiều dự án có thể làm hư hại môi sinh hồ như tiệm ăn, khách sạn, công viên v.v… Du khách đến viếng hồ theo hai đường trồng thông xanh dọc theo đường đến hồ . Cuối dốc là một tháp canh nhìn được núi ngoan mục và có đò thuê chèo quanh hồ rộng suốt mùa hè.
Gia Lai còn rất nhiều hồ lớn nhỏ khác do các đập thủy điện các sông Se San , sông Ba , sông Ayunh tạo ra. Thác Phú Cường hay thác Ya li, ở ranh giới tỉnh lỵ Kontum và Pleiky trên sông Se San, cũng có một hồ lớn nước hồ nay chuyễn hết cho đập thủy điện . Thác Xung Khoang trên sông Ia Drang, huyện Chư Prong, cách thị xã Pleiku 30 Km về phía Tây Nam , cao 40 m. Nước thác chảy trên các lằn nứt đá tảng, làm ra một dòng nước trong sạch có tường vách gồ ghề bao quanh. Hai bên thác là rừng cây cỏ nhiệt đới rập rạp um tùm .
Công viên Đồng Xanh thành lập năm 1999, cách thị xã Pleiku 10km, thuộc xã An Phú, rộng 8 ha. Nhà Rong kiểu Tây Nguyên được trưng bày ở đây. Rất nhiều lọai hoa, cây mộc Tây Nguyên được đem về trồng tại công viên . Cũng như núi giả, hồ sen , suối nuớc phông ten, đình tạ và vườn hoa xếp đặt hài hòa tạo ra phong cảnh mỹ miều Công viên hảnh diện có đàn T’rưng đánh đàn với nước và một công viên nước nhiều trò tiêu khiển . Đàn T’rưng là một nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, rất phổ biến ở nhiều tộc dân Tây Nguyên.Trong dân gian, T’Rưng chỉ có 5- 7 ống tre lồ ô , cắt dài ngắn khác nhau, kết vào hai sợi dây chạy song song, làm thành một cái đàn có thể cuộn lại bỏ vào trong gùi .. Khi chơi đàn, người ta buộc một đầu đàn vào gốc cây, đầu kia buộc quanh bụng mình, kéo căng hai sợi dây kết các ống, rồi dùng hai chiếc dùi bọc vải gõ lên các ống. Âm thanh đàn T’Rưng nghe dòn, nhưng ấm và đục.
Làng La Phum , cách Pleiku khỏang 2 Km. Đi theo đường quốc lộ số 14 chừng 16 km đến thác Yali , rồi đi thêm 15 km đến trường học Mo Nong, đi tiếp thêm 600 m, rồi quẹo phải dọc theo một lối mòn nhỏ hẹp là đến làng La Phum. La Phum là một làng cỗ truyền Tây Nguyên. Ở giữa nhà Rong và ở cuối làng là Làng người Chết- Village of the Dead, còn có tên là Làng Thiên đường -Heaven Village. Nơi đây gồm 10 nhà dài, mỗi nhà chứa một tá hay hơn nữa bình đựng tro người chết. Bình rượu cần, cung và các vật dụng khác được xếp hàng ngăn nắp. Một nhà khác chứa những tượng gỗ phản ảnh đời sống hằng ngày.
Làng D’ ko Tu là làng tộc dân Ba Nà. Muốn đến làng này, đi dọc theo đường Hùng Vương trên quốc lộ 19 hướng về Qui Nhơn. Tới bảng chỉ đường cây số 33, đi thêm 500m nữa thì đến làng D’ko Tu. Nhà Rong ở đây trang trí đẹp đẻ , mái nhà mi cao ráo nằm giữa làng. Ở phía Tây là một vùng nhà mồ, nhỏ hơn nhà mồ tộc dân Gia Rai. Một trong số nhà mồ đặc biệt trang trí sặc sở. Một cột nhà nhỏ có hình dạng máy bay và hai mái nhà hình đò, thuyền. Vài nhà khảo cỗ tin rằng tộc dân Ba Nà có thể gốc gác bờ biển miền Trung di cư lên cao nguyên .
Chùa Bửu Nghiêm của người Kinh xây cất năm 1964, ở số 200 đường Duy Tân phường Diên Hồng thị xã Pleiku. Vài năm gần đây, trụ trì là hòa thượng Thích Từ Hương ( ? ) cai quản chùa, tiếp tục trùng tu, mở rộng chùa cũng như tham gia các họat động văn hóa – cứu tế địa phương.
Cũng không nên quên các di tích lịch sử như căn cứ du kích của vua Quang Trung Nguyễn Huệ, vùng đất liệt sĩ Núp, nhà tù Pleiku, các địa danh chiến trận PleiMe, Cheo Leo và Ia Drang .
Sẽ tiếp phần II : phát triễn Gia lai – Plei ku về thủy điện, nông nghiệp, công nghê , dịch vụ… nhất là cập nhật tương lai phát triễn Tam Giác Lào ( Nam Lào)- Miên (Đông Bắc )- Việt ( Tây Nguyên và Bình Phước )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.