Bài của một tác giả trong nước, có nhiều điểm đáng đọc ...
***
1. Thăm thẳm Angkor
Trở lại sau ba chục năm, tôi
thấy đất nước Campuchia như không hề thay đổi. Ngút ngát tầm mắt vẫn
chỉ có hai màu: Màu xanh mướt mát của thốt nốt, của dừa, của chòm xóm
hiền hòa, bình yên và màu nâu nồng nàn của đất. Đã sang tháng Bảy vào
mùa mưa mà mới có vài trận mưa rào dè dặt, ngắn ngủi. Mới có lác đác
vài mảnh ruộng xanh màu mạ non. Còn lại cánh đồng bằng phẳng, tít tắp
vẫn một màu đất nâu khô hạn chờ mưa.
Ở Sài Gòn, khu công nghiệp Tân Bình thênh thang nằm
ngay trong thành phố giữa cuồn cuộn người xe. Ra khỏi thành phố đi về
hướng nào cũng gặp liên tiếp những khu công nghiệp rộng lớn. Các khu
công nghiệp nối liền Sài Gòn với các thành phố chung quanh Biên Hòa,
Thủ Dầu Một, Tân An thành một khối đô thị khổng lồ, một liên hiệp các
khu công nghiệp mênh mông, không còn chỗ cho một
mảnh ruộng, một bờ cỏ xanh, không còn chỗ cho một mảnh vườn xum xuê cây
trái vốn là hình ảnh thân thuộc từ bao đời của đất miền Đông, miền Tây
Nam
Bộ. Ở Campuchia, một ngày ô tô bon bon hơn năm trăm cây số qua năm tỉnh
đồng bằng đông dân Svay Rieng, Kampong Cham, Kampong Chnang, Kampong
Thom, Seam Reap, tôi không thấy một khu công nghiệp. Theo đường số Năm
từ hướng tây hay theo đường số Một từ hướng đông vào thủ đô Phnom Penh
hai bên đường cũng chỉ có những ngôi nhà sàn cột bê tông lênh khênh.
Nhà sàn dù tường xây hay tường gỗ, dù mái ngói hay mái tôn thì hai đầu
nóc mái nhà nào cũng có hai đường cong uyển chuyển như cặp sừng duyên
dáng trên đầu con bò, như cặp râu vênh vênh điệu đàng, kiêu hãnh của
con kiến. Đó là nét riêng của ngôi nhà sàn Campuchia.
Ngồi trên ô tô chạy cả ngày đường, chỉ hai lần tôi nhìn thấy con
mương mảnh mai mới đào với chút nước lắp xắp đáy mương chạy thẳng
tắp giữa cánh đồng khô hạn. Nền sản xuất nông nghiệp thô sơ còn phụ
thuộc vào thiên nhiên, một năm chỉ có một vụ lúa vào mùa mưa, thế mà
ngày nay Campuchia đã trở thành nước xuất khẩu gạo một triệu tấn năm.
Đi
từ Việt Nam sang Campuchia là đi từ sự hối hả, nhốn nháo sang sự điềm
tĩnh, thanh thản. Các khu công nghiệp bề thế, các khu đô thị ngổn ngang
khắp nơi trên đất Việt Nam là sự nhốn nháo trong đời sống kinh tế dẫn
đến sự nhốn nháo trong đời sống xã hội. Nhiều khu công nghiệp hoành
tráng, nhiều khu đô thị nguy nga chỉ là nơi quyền uy giành giật đất
sống của người nông dân, chỉ là nơi quyền uy làm giầu trên sự khốn cùng
của người nông dân, đẩy người nông dân thất thểu dắt díu nhau lũ lượt
ra
thành phố bán sức lao
động, nhiều người phải bán cả lương tâm kiếm sống, tạo ra sự nhốn nháo
trong hoạt động xã hội, nhốn nháo cả trong đời sống văn hóa, trong tâm
hồn con người. Đi từ sự nhốn nháo đó đến sự điềm tĩnh Campuchia càng
thấy lòng thư thái, thanh thản.
Không cần căn cứ vào những con số thống kê về sản lượng công
nghiệp, nông nghiệp, chỉ nhìn cảnh quan tự nhiên, chỉ nhìn vào sinh
hoạt xã hội và phong thái con người trong đời sống hàng ngày cũng thấy
rõ Campuchia vẫn còn ở nền sản xuất nông nghiệp thô sơ, tiết tấu cuộc
sống vẫn khoan thai, chậm rãi, phẳng lặng của xã hội nông nghiệp.
Trình độ phát triển sản xuất cũng chính là trình độ phát triển xã
hội. Dù rất khiêm nhường tôi cũng có thể nói rằng xã hội Việt Nam ở
thang
bậc phát triển cao hơn xã hội Campuchia. Nhưng nhìn vào quản lí xã hội
thì tôi lại ngậm ngùi nhận ra rằng những nhà quản lí xã hội Campuchia ở
thang bậc cao hơn, có tầm văn hóa cao hơn những nhà quản lí xã hội Việt
Nam và điều quan trọng là họ thực sự tiêu biểu cho ý chí của dân tộc
Campuchia!
Thang bậc năng lực quản lí xã hội và tầm văn hóa của nhà quản lí
chính là ở cung cách ứng xử với văn hóa, với thiên nhiên và với người
dân. Đến Angkor Thom, Angkor Wat, leo lên bậc thềm những tòa tháp đá
hùng vĩ, ngỡ ngàng, kinh ngạc chiêm ngưỡng những tượng đá uy nghi,
những phù điêu, những chạm khắc tinh tế trên đá như do những bàn tay
thần tạo nên, tôi khâm phục sức lao động phi thường, thẩm mĩ lịch lãm
và tài năng sáng tạo nghệ thuật
tuyệt vời của tổ tiên người Campuchia. Đi trong không gian di sản giữa
rừng già đại ngàn, nhìn những cây rừng đồ sộ, lừng lững như có từ thời
tiền sử, nhìn cành lá rừng tươi xanh đan dày từ mặt đất lên cao ngay
sát con đường dập dìu người, xe, tôi hiểu rằng người dân Campuchia
không phải chỉ nâng niu giữ gìn từng khối đá của đền đài mang hồn
thiêng của tổ tiên Khmer, mang tầm vóc nền văn minh Angkor mà họ còn
nâng niu, giữ gìn từng chiếc lá rừng nhỏ bé, bình dị, thành kính lưu
giữ cả không khí trầm tư, ngưng đọng của lịch sử, lưu giữ không gian
hùng tráng của sử thi đá Angkor. Trong cách ứng xử đó của người dân
Campuchia với di sản Angkor có dấu ấn năng lực, có tầm văn hóa của
những nhà quản lí đất nước Campuchia và tôi càng khâm
phục những nhà quản lí đó.
Tầm văn hóa của người
quản lí đất nước đã nâng tầm văn hóa của cả dân tộc Campuchia lên.
Trong vòng bán kính ba mươi nhăm cây số quanh đền đài Angkor, người dân
không xây cất những công trình mới, không làm thay đổi một gò đất, một
gốc cây. Khu vực đền đài không có nhà hàng, tiệm buôn. Không có người
bán đồ lưu niệm đeo bám khách viếng di sản. Không có rác âm thanh trong
không gian và rác vật chất trên mặt đất, trong rừng cây. Không có một
hàng chữ quảng cáo kinh doanh. Không có cả những khẩu hiệu lên gân
chính trị. Chỉ có sự tĩnh lặng của tư duy, sự thao thức của lịch sử, sự
hiển hiện của văn hóa nâng tâm hồn con người lên.
Trong không khí tĩnh lặng và trong lành nguyên sơ đó, tôi đi trong
đền đài Angkor Thom, Angkor Wat như đi vào thăm thẳm lịch sử thời lập
nước Khmer để rồi lại xót xa nhớ đến những đền đài của lịch sử Việt
Nam, những mảnh đất tâm linh của tâm hồn Việt Nam đang bị hủy hoại,
đang bị vơi hụt, mất mát trên đất nước Việt Nam thân yêu của tôi cũng
đã từng có một lịch sử dựng nước huy hoàng và một nền văn minh rực rỡ.
Núi Nghĩa Lĩnh linh thiêng ở trên đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng
nơi Vua Hùng đặt thủ đô đầu tiên của nhà nước Việt Nam đầu tiên từ hai
ngàn năm trước, nơi có đền thờ nước, đền thờ tổ tiên người Việt mà ngày
nay người dân vô tư đến bạt sườn núi thiêng Nghĩa Lĩnh ngay sát ngôi
đền thờ nước, san nền làm nhà ở, làm chuồng trâu, chuồng lợn! Đất núi
thiêng Nghĩa
Lĩnh bị xâm phạm, không gian linh thiêng của ngôi đền nước bị hủy hoại,
lỗi không phải ở người dân mà là lỗi ở tầm văn hóa quá thấp của người
quản lí xã hội dù những người này đều có bằng cấp, học hàm, học vị cao
chót vót, những người được nhà văn Phạm Toàn gọi chính xác là
Những–Giáo–Sư–Mù–Chữ! Những giáo sư tiến sĩ mù chữ đó đang ở vị trí
đường đường phương diện quốc gia nên nước Việt Nam văn hiến mới đến
nông nỗi hôm nay!
Suốt mấy ngàn năm tồn tại, dân tộc Việt Nam phải liên tục chiến
đấu chống giặc bành trướng phương Bắc. Các thế hệ trai tráng phải nối
tiếp nhau ra trận để cho những người phụ nữ hết đời nay đến đời khác
trở thành góa bụa suốt đời khắc khoải ngóng trông người ra
trận. Trời ơi sinh giặc làm chi / Cho chồng tôi phải ra đi chiến trường (Ca
dao). Thực tế lịch sử nghiệt ngã đó đã trở thành tiềm thức trong lòng
người dân rồi trở thành huyền thoại, truyền thuyết, ca dao, dân ca.
Giặc từ phương Bắc tràn tới vì thế biên cương phía Bắc là nơi những
người phụ nữ khắc khoải hướng tới ngóng chồng. Và một ngọn núi chênh
vênh, lắt lẻo ở biên cương phía Bắc đã được mang truyền thuyết là bóng
dáng, là bức tượng đài nàng Tô Thị ôm con ngóng chồng hóa đá.Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa / Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh (Ca
dao), ngọn núi Tô Thị mang hồn lịch sử, mang thân phận dân tộc, bức
tượng đài người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử chống ngoại xâm nay đã bị
nổ mìn đánh sập
lấy đá nung vôi rồi! Để nàng Tô Thị của văn hóa dân gian bị nung vôi mà
người quản lí xã hội vẫn vô can thì xã hội đã tụt xuống đáy của văn
hóa, của kỉ cương và nhân cách, liêm sỉ người quản lí xã hội cũng đã
tụt xuống tận đáy!
Nếu đền đài Angkor Campuchia là trường ca mà tổ tiên người
Campuchia viết bằng đá để chứng minh tài năng, chứng minh sự lao động
sáng tạo kì diệu của con người và diễn tả thế giới tâm linh của dân tộc
Campuchia thì Vịnh Hạ Long Việt Nam là trường ca mà tạo hóa viết bằng
núi và nước, viết bằng đảo và biển chứng minh sự sáng tạo phi thường
của tự nhiên, phô diễn vẻ đẹp lộng lẫy của thiên nhiên. Đến đền đài
Angkor thấy những người quản lí xã hội Campuchia chín chắn, từ tốn, dè
dặt,
thận trọng nâng niu trường ca đá Angkor của họ bao nhiêu tôi lại thấy
những người quản lí xã hội của chúng ta nông nổi, thô bạo, sỗ sàng,
chụp giật với trường ca núi và nước Hạ Long bấy nhiêu. Cách ửng xử với
đền đài Angkor cho thấy người quản lí xã hội Campuchia vì giá trị văn
hóa lâu dài, vì giá trị tâm linh thăm thẳm của Angkor. Cách ứng xử với
Hạ Long cho thấy người quản lí xã hội của chúng ta chỉ vì lợi ích vật
chất, chỉ vì lợi nhuận tiền bạc tức thì mà họ có phần trong đó.
Từ xa nhìn thấy những tháp đá giăng giăng như bức tường thành đá
do con người tạo nên, lập tức sự uy nghi của những tháp đá và hồn của
những tượng đá đã hút hồn con người nên hầu như không ai để ý đến ngay
bên con đường dẫn vào đền
đài Angkor một tấm bảng đá nhỏ đặt trên giá thấp khắc chìm khiêm nhường
hàng chữ WORLD HERITAGE (DI SẢN THẾ GIỚI) mà UNESCO đã đánh giá xếp
hạng đền đài Angkor. Không cần biết đến Angkor đã được UNESCO công nhận
là Di sản Thế giới thì người từ mọi nẻo đường thế giới, mọi màu da
chủng tộc đến Angkor cũng phải nghiêng mình khâm phục và biết ơn dân
tộc Campuchia đã sáng tạo cho loài người một Angkor kì vĩ, nghiêng mình
kính trọng lịch sử dựng nước huy hoàng của dân tộc Campuchia. Nói như
nhà văn Pháp Jean-Paul Sartre khi từ chối giải thưởng Nobel: Nobel cần Sartre chứ Sartre không cần Nobel thì UNESCO công nhận đền đài Angkor là di sản thế giới không làm tăng giá trị của Angkor mà chỉ làm tăng giá trị của UNESCO.
Hữu xạ
tự nhiên hương. Người thực sự có trí tuệ, có văn hóa cao thì chẳng cần
phải xác nhận bằng học hàm, học vị, bằng cấp mà chính việc làm, cách
sống đã xác nhận nền tảng văn hóa trí tuệ của họ. Các quan chức của ta
hối hả, đôn đáo, quyết liệt, cố sống cố chết chạy bằng cấp, mua học
hàm, học vị chính là để che đậy nền tảng văn hóa trống rỗng, tầm vóc
trí tuệ thiếu hụt của họ.
Con người có bằng cấp cao mà trí tuệ trống rỗng thì sự tử tế, sự
lương thiện cũng trống rỗng. Vì thế họ làm đâu lụn bại đấy, làm đâu
phơi bày sự bất lương, đê tiện ở đó. Vì thế mới có sự đổ vỡ thê thảm
của Vinashin, Vinalines, mới có sự thua lỗ cay đắng của điện lực, của
dầu khí, mới có các công trình giao thông giá thành
đắt nhất thế giới nhưng chất lượng công trình lại tồi tệ cũng nhất thế
giới. Vì thế mới có những quan tham nhân danh chính quyền nhà nước cướp
đất của dân giữa ban ngày diễn ra khắp nơi trên cả nước và vừa dồn dập
diễn ra ở Tiên Lãng, Hải Phòng, ở Văn Giang, Hưng Yên, ở Vụ Bản, Nam
Định… Và kinh tế đất nước cứ trầy trật, nghèo khó triền miên, đời sống
người dân cứ khốn đốn kéo dài mà người có trách nhiệm vẫn thản nhiên
tại vị, vẫn nhơn nhơn ban phát những lời dạy bảo đạo đức!
Hạ Long buổi sáng khác Hạ Long buổi chiều. Hạ Long trưa mùa hè
chói nắng khác Hạ Long sớm mùa đông mù sương. Vẻ đẹp kiêu sa, huyền bí,
luôn biến đổi bất ngờ của Hạ Long không cần đến sự bình chọn, xếp hạng
của một tổ chức
vô danh như cái tổ chức kiếm chác bằng kinh doanh tin nhắn điện thoại
vừa bình chọn bằng tin nhắn xếp hạng Vịnh Hạ Long là kì quan thiên
nhiên mới của thế giới. Vậy mà ông Bộ trưởng Bộ Văn hóa của Nhà nước
Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa đã lôi cả đứa cháu còn ẵm ngửa ra cầm tay nó
nhấn số điện thoại nhắn tin bình chọn cho Vịnh Hạ Long, góp tiền làm
giầu cho cái công ty vô danh kia. Rồi ông Bộ trưởng của cái bộ được gọi
là Văn hóa đó lại đổ tiền thuế của dân ra tổ chức buổi lễ linh đình ở
giữa thủ đô đón nhận danh hiệu Vịnh Hạ Long kì quan thiên nhiên thế giới,
một danh hiệu có được bằng sự nhập nhèm, gian lận. Một người có thể
bình chọn bằng hàng chục, hàng trăm tin nhắn, một đứa bé còn ngậm vú mẹ
cũng
được người lớn cầm tay dí vào máy điện thoại nhắn tin bình chọn thì sự
bình chọn đó không thể đàng hoàng, không văn hóa, không có giá trị gì.
Sự
bình chọn xô bồ, gian lận đó chẳng mang lại vẻ vang gì cho Vịnh Hạ Long
kiêu sa của chúng ta mà chỉ mang lại lợi nhuận cho công ty vô danh kia
và làm thiệt thòi cho người dân Việt Nam. Ngay sau khi có cái danh hiệu
hão đó, giá vé đến với Vịnh Hạ Long liền bị đẩy lên cao. Thiên nhiên kì
thú Vịnh Hạ Long, vẻ đẹp diễm lệ Vịnh Hạ Long là tài sản của đất nước
Việt Nam, tài sản của nhân dân Việt Nam. Nhân dân Việt Nam, những người
chủ thực sự của Vịnh Hạ Long phải được khám phá, chiêm ngưỡng Vịnh Hạ
Long. Nhưng với giá vé đến Vịnh Hạ Long vừa bị đẩy lên cao, từ nay
những người dân
lao động nghèo không còn dám bén mảng đến Vịnh Hạ Long nữa rồi!
Ấn
tượng sâu sắc về di sản Angkor, mảnh đất lịch sử của dân tộc Khmer, ấn
tượng tốt đẹp về sự thành kính, trân trọng của những người quản lí đất
nước Campuchia đối với từng phiến đá của tổ tiên dân tộc Khmer để lại,
đối với từng ngọn cỏ, từng cây rừng của đất đai Campuchia, tôi lại tê
tái nhớ đến một mảnh đất thiêng, một mảnh đất của lịch sử, của tổ tiên
Việt Nam đã bị những người quản lí đất nước Việt Nam hôm nay nhẫn tâm
thí bỏ, cắt nhượng cho phương Bắc.
Năm 1407, quan Tư nghiệp Quốc tử giám Nguyễn Phi Khanh, một trí
tuệ, một nhân cách Việt Nam bị giặc Tàu thời nhà Minh xâm lược Việt Nam
bắt giải về Tàu. Nguyễn Trãi đi theo
cha đến mảnh đất Việt Nam cuối cùng ở phía Bắc, nơi có tòa thành cổng
nước Việt ở Lạng Sơn, đành dừng lại. Từ tòa thành cổng nước ở Lạng Sơn,
người cha, trí tuệ Việt Nam Nguyễn Phi Khanh lặng lẽ rơi nước mắt xa
con, xa nước, lầm lũi đi vào đất giặc sống kiếp đời tù tội. Người con,
anh hùng của lịch sử Việt Nam, nhà thơ lớn của văn hóa Việt Nam Nguyễn
Trãi nhìn theo cha, nước mắt lã chã rơi xuống nền đất tòa thành cổng
nước. Nước mắt cha con Nguyễn Trãi cũng là nước mắt nước mất nhà tan
của dân tộc Việt Nam suốt ngàn năm đau đớn dưới ách Bắc thuộc. Những
giọt nước mắt đó còn lại mãi trong lịch sử Việt Nam, còn lại mãi nơi
cổng nước phía Bắc, Lạng Sơn.
Năm 1979, trong cuộc chiến đấu chống giặc bành trướng
phương Bắc xâm lược Việt Nam, máu của hàng ngàn chiến sĩ sư đoàn 337 và
người dân Lạng Sơn đã đổ xuống thấm đẫm mảnh đất đã thấm nước mắt cha
con người anh hùng Việt Nam, nhà văn hóa Việt Nam Nguyễn Trãi.
Mảnh
đất của lịch sử Việt Nam đó, mảnh đất của máu và nước mắt Việt Nam đó
nay không còn trong bản đồ Việt Nam, không còn là đất đai Việt Nam. Từ
khi những người quản lí đất nước Việt Nam hôm nay kí hiệp định biên
giới với phương Bắc, ngày ba mươi, tháng Mười Hai, năm 1999, tòa thành
cổng nước sừng sững hiên ngang của lịch sử Việt Nam ở Lạng Sơn, tòa
thành cổng nước bi tráng của dân tộc Việt Nam ở Lạng Sơn đã thấm đẫm
máu và nước mắt lớp lớp thế hệ người Việt Nam đã thuộc về đất Đại
Hán phương
Bắc rồi!
Kí hiệp định cắt nhượng mảnh đất của tổ tiên, của
lịch sử Việt Nam, của máu và nước mắt Việt Nam cho Phương Bắc, những
người quản lí đất nước Việt Nam hôm nay đã không hề có một chút ý chí
của dân tộc Việt Nam!
2. Khúc hồi tưởng
Khúc hồi tưởng của một người dân Campuchia
Đưa
chúng tôi đi trên những nẻo đường của đất nước mình, người chủ nhà
Campuchia, ông Ym Na Toly, người đàn ông năm mươi tuổi, kể về gia đình
ông trong tai họa Khmer Đỏ.
Ba mẹ Toly đều là giáo viên sống ở Phnom Penh. Khmer Đỏ vào Phnom
Penh sáng ngày mười bảy tháng Tư năm 1975, chỉ ba giờ sau họ gọi loa
thúc các gia đình mang theo ba ngày lương thực đến ngôi chùa gần nhất
tập trung
học tập làm công dân mới của nước Campuchia Dân chủ. Những tên lính
Khmer Đỏ mang súng AK Trung Hoa đến từng nhà lùa dân ra khỏi nhà và chỉ
đường đến chùa. Đến các ngôi chùa lại có những họng súng AK chặn cổng
chùa, lùa dân ra đường. Trên đường, những họng súng AK lùa dân đi về
một hướng ra ngoại thành.
Nhìn về phía sau dòng người nối dài như vô tận, nhìn về phía trước
cũng nhấp nhô vô tận dòng người trên đường số Năm đi về phía Tây, ba
Toly hiểu rằng đây chỉ là cú lừa đầu tiên của Khmer Đỏ. Họ bảo dân mang
ba ngày gạo đến ngôi chùa gần nhà nhất để dân yên tâm là chỉ tạm rời
nhà ba ngày rồi lại trở về sống yên ổn nên cứ để lại nhà tất cả của cải
quí giá cho quân Khmer Đỏ đến vơ vét. Họ đã lệnh ra khỏi
nhà, không ra cũng không được. Dưới họng súng của họ, đến chùa hay đến
đâu cũng vậy thôi. Cú lừa này người dân dù mất sạch của cải, tài sản
quí giá nhưng vẫn còn giữ được mạng sống. Rồi sẽ còn nhiều cú lừa làm
mất cả mạng sống nữa. Phải giấu mình thật kĩ để họ không biết mình là
ai và chớ có tin những điều họ nói. Rút ra cách ứng xử đó với Khmer Đỏ,
ba Toly liền đổi tên của ba, mẹ và bảo ba anh em Toly phải quên tên cũ
của ba mẹ đi, phải nhớ tên mới của ba mẹ mà gọi. Để nhắc nhở ba đứa con
còn quá nhỏ, ba mẹ Toly luôn thì thầm gọi nhau bằng tên mới. Tiếng gọi
nhỏ nhẹ chỉ đủ để anh em Toly nghe được.
Nhìn thấy một người cao gày từ phía sau đi lên đến ngay bên cạnh,
ba Toly nhận ra đó là thầy giáo trẻ
cùng trường. Thầy giáo đó cũng vừa nhìn thấy ba Toly, ba Toly vội nhìn
lảng đi như không hề quen biết rồi ba kéo cả gia đình đi tụt lại phía
sau, lẩn trốn.
Không
tin điều Khmer Đỏ nói, nhiều lần Khmer Đỏ thông báo rằng ai làm gì
trong chế độ cũ thì khai báo để Khmer Đỏ sắp xếp về làm công việc cũ,
ba Toly đều không khai báo. Khmer Đỏ hỏi, ba Toly cũng nói rằng không
có nghề nghiệp gì, chỉ mang sức đi làm mướn kiếm sống. Nhờ thế ba Toly
mới sống sót đến ngày trốn vào rừng. Tin lời Khmer Đỏ, thầy giáo trẻ
cao gày cùng trường với ba Toly đã khai với Khmer Đỏ nghề nghiệp dạy
học của thầy và xin trở về trường cũ liền bị Khmer Đỏ đưa đi mất tích
và bị thủ tiêu ở đâu đó, không bao giờ ba Toly còn gặp lại thầy
nữa.
Trong
không khí ảm đạm, não nề, thỉnh thoảng lại đột ngột rộ lên tiếng súng
lính Khmer Đỏ bắn chết người chạy trốn, bắn chết người vốn là dân thành
phố không quen đi bộ, bây giờ chân đau, không lê chân nổi nữa, bắn chết
người trái ý Khmer Đỏ. Trong hốt hoảng, náo loạn, hai đứa em trai của
Toly, đứa tám tuổi, đứa sáu tuổi bị lạc và cũng đã chết đói chết khát ở
đâu đó không bao giờ trở về nữa. Không được đi tìm con, mẹ Toly chỉ dấm
dứt khóc cũng bị lính Khmer Đỏ dí súng vào sườn không cho khóc.
Đến điểm dừng, một cánh đồng bỏ hoang đã lâu, các gia đình đều bị
xé ra, đều bị xóa sổ, không có đơn vị gia đình nữa, chỉ có những đơn vị
là đội sản xuất. Ba Toly về đội đàn ông. Mẹ Toly về đội đàn bà. Toly
mười
ba tuổi về đội trẻ con đi chăn bò. Mười bốn tuổi, Toly được chuyển lên
đội người lớn phải làm ruộng nặng nhọc hơn nhưng Toly mừng lắm vì là
người lớn, Toly có thể được tuyển vào lính Khmer Đỏ, được ăn cơm no,
còn chăn bò hay làm ruộng đều chỉ được ngày hai bữa cháo, đói lả vẫn
phải làm đủ định mức. Mong trở thành lính Khmer Đỏ chỉ để được ăn no
chứ Toly không thể ác, không thể bắn giết dân như những tên lính ác ôn
áo đen mù chữ.
Ở đội chăn bò hay đội sản xuất, luôn có những người bị Khmer Đỏ
đưa đi mất tích. Đứa bạn của Toly làm mất một con bò, liền bị Khmer Đỏ
gọi đi không bao giờ trở về nữa. Ở đội sản xuất có ông trắng trẻo, bị
cận thị nặng mà không dám mang kính, ông chỉ nói là bị đau mắt.
Mang kính trắng ắt hẳn là trí thức sẽ bị Khmer Đỏ lôi đi thủ tiêu ngay.
Năm giờ sáng báo thức, ông cáo bệnh không dậy được, lính Khmer Đỏ cho
ông nằm lại lán. Hôm sau lính Khmer Đỏ đưa ông đi khám bệnh và ông biến
luôn khỏi cõi đời từ đó.
Toly chưa được ăn bữa cơm nào của Khmer Đỏ vì chưa trở thành lính
Khmer Đỏ thì quân đội Việt Nam đến, quân Khmer Đỏ diệt chủng tháo chạy
đến tận biên giới Thái Lan. Toly đến đội phụ nữ tìm mẹ. Hai mẹ con Toly
về nhà ở Phnom Penh hôm trước thì hôm sau ba Toly cũng về. Ba trốn vào
rừng tham gia kháng chiến chống Khmer Đỏ nay cùng đội quân cách mạng
trở về giải phóng Phnom Penh. Nhưng ở đoạn phố nhà Toly có rất nhiều
nhà không còn người nào sống sót trở về. Trước tháng tư năm 1975,
Campuchia
có bảy triệu dân. Thống kê dân số sau khi Campuchia thoát khỏi tai họa
Khmer Đỏ, Campuchia chỉ còn hơn ba triệu dân. Chỉ ba năm rưỡi dưới họng
súng Khmer Đỏ, hơn ba triệu dân Campuchia đã bị giết.
Khúc hồi tưởng của một người lính Việt Nam
Trong chiến dịch giải phóng Campuchia khỏi họa diệt chủng Pol Pot,
tháng giêng năm 1979, Tổng cục Chính trị cử tôi thuộc tạp chí Văn nghệ Quân đội và
hai họa sĩ của xưởng Mĩ thuật Quân đội, trung úy họa sĩ Nguyễn Cương và
trung úy họa sĩ Đỗ Sơn đi với mũi tiến quân của Hải quân đánh chiếm
cảng Sihanoukville.
Chở hết lực lượng chiến đấu tập kết ở đảo Phú Quốc rồi một chiếc
tàu chiến nhỏ mới chở ba chúng tôi đi từ bến Bạch Đằng ở Sài Gòn.
Chiều 7.1.1979 chúng tôi đến quân cảng An Thới ở phía nam đảo Phú Quốc.
Tôi nhận ra ba chiếc tàu của đoàn tàu không số chở vũ khí vào miền Nam
thời chiến tranh Nam – Bắc đang ăn hàng ở cầu cảng. Những người đàn ông
dân sự cởi trần vác những bao gạo, những hòm đạn từ những chiếc ô tô
vận tải cũng của dân sự, chạy rầm rập xuống tàu. Ở cầu cảng bên cạnh,
mấy chiếc tàu chiến neo đậu. Tôi chú ý đến chiếc tàu 215 vì ở mũi tàu
có vết đạn xuyên thủng toác và những vết đạn nhỏ đục lấm chấm trên
thành tàu.
Cuộc chiến đấu trên đất Kampong Saom nơi có cảng Sihanoukville
đang diễn ra ác liệt. Nhưng chưa có tàu sang vùng đất chiến sự, chúng
tôi phải về Bộ Tư lệnh vùng Năm Hải quân trên đảo Phú Quốc chờ đợi. Ba
ngày ở lại
Bộ Tư lệnh vùng Năm tôi đã gặp thượng tá Tuấn, Phó Tư lệnh vùng Năm nắm
bắt diễn biến chiến sự. Khi biết tàu 215 vừa tham chiến trở về tôi liền
xuống tàu gặp những người lính biển vừa đọ sức với tàu chiến hiện đại
của Trung Quốc trang bị cho Khmer Đỏ.
Thuyền phó, trung úy Nguyễn Hồng Sâm sau khi kể lại trận đánh
nhiều mất mát của tàu 215 đã giữ tôi ở lại bằng được ăn với những người
lính sống sót trên tàu một bữa cơm cho bữa cơm trên tàu đỡ vắng. Trung
úy Sâm nói rằng anh vẫn chưa quen được sự trống hụt quá nhiều vị trí
trên tàu. Đến bữa cơm, cả tàu quây quần, sự trống hụt càng lớn nên anh
cứ thấy chống chếnh, dù đói cũng không muốn ăn. Bốn người hi sinh đã
đưa lên nghĩa trang An Thới. Năm người bị thương
nặng, cả thuyền trưởng, thuyền phó thứ nhất, chính trị viên, ngành
trưởng cơ điện, đều bị thương đã chuyển lên viện quân y vùng Năm. Cơm
nóng thơm mùi gạo mới. Cá thu kho với hạt tiêu tươi để cả chùm cũng
thơm lừng nhưng bữa ăn lặng lẽ và kết thúc nhanh chóng. Tôi muốn mở lời
xóa đi không khí nặng trịch mà không mở lời nổi. Bữa cơm trên tàu 215
đã cho tôi cảm nhận được sự ác liệt của mặt trận Sihanoukville.
Hôm sau chúng tôi mới đi theo chiếc tàu chở đạn sang Sihanoukville đã thuộc quyền kiểm soát của Quân đội Việt Nam.
Phía
ngoài cảng biển Sihanoukville là chuỗi đảo san sát, nhấp nhô. Màu xanh
lá cây của đảo nối liền thành vệt dài làm cho cảng biển Sihanoukville
như một cảng sông kín đáo và phẳng lặng. Trên cảng,
mặt bê tông của cầu cảng rộng dài còn mới nguyên, sạch bong, không một
vết bụi. Bộ chỉ huy tiền phương của Hải quân Việt Nam đặt trên chiếc
tàu vận tải lớn HQ501 neo ở cầu cảng. Trên cột cờ cao nhất giữa tàu,
phần phật bay lá cờ đỏ có hình năm ngọn tháp vàng. Chúng tôi đeo ba lô
về ở với bộ sậu đông đảo giúp việc Bộ Chỉ huy Tiền phương là các cơ
quan tham mưu, chính trị, hậu cần ở cả trong nhà kho mới xây rộng mênh
mông trên cảng. Những túm sợi bông trắng phau vương tung tóe trong nhà
kho. Một nửa nhà kho chất đầy những bao bông nén thành khối đợi xuống
tàu xuất khẩu. Trên bãi cảng thênh thang, quân Khmer Đỏ còn để lại
những chiếc xe tăng mới nguyên, những khẩu pháo lớn còn phủ lớp mỡ dày
mới bốc từ dưới tàu lên. Trên tăng,
trên pháo đều in rõ những hàng chữ Hán. Cảng Sihanoukville như vừa được
xây mới hoàn toàn cho những con tàu lớn chở vũ khí viện trợ của Trung
Quốc cấp tập cập cảng.
Tuy
đã làm chủ được Sihanoukville nhưng một không khí âm thầm lặng lẽ bao
trùm Bộ Chỉ huy Tiền phương Hải quân. Trận đánh vào Sihanoukville, Hải
quân Việt Nam bị tổn thất lớn. Thượng tá Luật, chính ủy lữ đoàn lính
thủy đánh bộ 126 và nhiều sĩ quan, chiến sĩ hải quân đang còn mất tích,
thất lạc trong rừng. Bộ Chỉ huy Tiền phương đang tổ chức nhiều mũi
chiến đấu thọc sâu vào rừng tìm kiếm. Quân Khmer Đỏ chỉ bị đánh bật
khỏi Sihanoukville, bị đánh bật khỏi những căn cứ tập trung, chúng chỉ
tan rã chứ chưa bị tiêu diệt. Dải rừng bạt ngàn hai bên
đường số Bốn,
bao quanh Sihanoukville vẫn là đất của chúng. Những mũi chiến đấu nhỏ
lẻ thọc sâu trong rừng, thọc sâu vào nơi quân Khmer Đỏ lẩn trốn, thực
sự là những mũi cảm tử. Ở Bộ Chỉ huy, những đài vô tuyến điện giữ liên
lạc với các mũi cảm tử luôn phải nín thở lắng nghe và nét mặt từ quan
đến lính ở Bộ Chỉ huy đều lộ rõ sự căng thẳng. Tuy vậy thượng tá Phó
Chủ nhiệm chính trị quân chủng Hải quân Lê Văn Xuân cũng dành thời gian
cho tôi được hỏi ông nhiều điều.
Từ cảng Sihanoukville, chiếc xe jeep của trung đoàn 66 đưa tôi vào
thị xã Kampong Saom, đến sư đoàn 304. Đại úy Điều, trưởng ban tuyên
huấn sư đoàn kể với tôi chặng đường đến Sihanoukville của sư đoàn. Ngày
20.12.1978, từ Đà Nẵng, sư đoàn đi theo hai ngả. Ngả
đường không: Máy bay AN26 đưa sư đoàn bộ và trung đoàn 9 từ Đà Nẵng vào
Cần Thơ. Ô tô của quân khu 9 đưa tiếp vào Ba Chúc, Bảy Núi. Ngả đường
bộ: Ô tô tải của sư đoàn chở trung đoàn 24, trung đoàn 66, trung đoàn
pháo, tiểu đoàn thông tin, tiểu đoàn công binh, theo đường số Một bon
bon về phía Nam. Ngày 26.12.1978, sư đoàn có mặt đầy đủ ở Ba Chúc. Ngày
1.1.1979 sư đoàn nổ súng đánh Khmer Đỏ ở chân núi Tượng sát biên giới.
Ngày 9.1.1979 vào Sihanoukville.
Những thông tin xác thực từ thượng tá Tuấn, thượng tá Xuân, đại úy
Điều, chuyện kể của trung úy, thuyền phó Nguyễn Hồng Sâm tàu 215 đã cho
tôi hình dung được đầy đủ, chân thực trận đánh khó khăn, nhiều mất mát
để giành Sihanoukville từ tay Khmer Đỏ.
Đêm 6.1.1979, mở màn
chiến dịch đánh Sihanoukville bằng tiếng súng của đại đội đặc công đánh
chiếm trận địa pháo bảo vệ bờ biển của Khmer Đỏ và tiếng nổ của pháo
130 nòng dài từ bắc đảo Phú Quốc bắn sang những căn cứ Khmer Đỏ ở
Kampong Som. Ngoài biển, lực lượng tàu chiến đấu tạo thành vành đai
ngăn chặn tàu Khmer Đỏ từ quân cảng Ream, từ cảng Sihanoukville đánh
ra, bảo vệ bãi đổ quân của lữ đoàn 126 và lữ đoàn 101 lính thủy đánh
bộ. Tàu 215 và tàu 203 chốt chặn hướng chủ yếu. Tàu 199 và tàu 613 còn
là đài trinh sát pháo binh, quan sát điểm rơi của đạn pháo để trận địa
pháo trên đảo Phú Quốc điều chỉnh tầm bắn. Tàu HQ05 chốt ở ngoài cùng.
Sự cố xảy ra khi mới đổ được ba tiểu đoàn lính thủy đánh bộ cùng
một số xe tăng, xe lội
nước lên chân núi Bokor thì nước triều lên ngập bãi đổ quân, tàu đổ
quân đành rút ra. Còn lữ đoàn 101, ba tiểu đoàn của lữ đoàn 126 và số
lớn xe, pháo, ô tô chở quân chưa lên được.
Cuộc
đổ quân đang diễn ra thì cuộc đụng độ trên biển bắt đầu. 22 giờ 30, kì
hạm 203 chỉ thị mục tiêu và tàu 215 cũng phát hiện bốn tàu Khmer Đỏ từ
hướng quân cảng Ream lao đến. Nhìn hướng tiến, biết chúng có ý định đột
phá vào khoảng giữa tàu 215 và kì hạm 203 để vào bãi đổ bộ của lực
lượng lính thủy đánh bộ Việt Nam. Đến cự li tầm bắn có hiệu quả, chiếc
đi đầu xối xả nã đạn về phía tàu 215 và tàu 203. Kì hạm 203 lệnh cho
tàu 215 di chuyển để lưới lửa của tàu 203 và tàu 215 đan chéo cánh xẻ
vào chiếc tàu Khmer
Đỏ đi đầu.
Một loạt đạn 37 li của tàu 215 quất trúng mục tiêu, chiếc tàu Khmer Đỏ
chạy chậm lại và không ổn định hướng rồi chìm nghỉm. Ba chiếc còn lại
quay đầu tháo chạy.
Gần
sáng ngày 7.1.1979, nhiều tiếng nổ dữ dội ở hướng tàu HQ05 chốt chặn.
Kì hạm 203 lệnh cho tàu 215 cùng tiến về phía tiếng súng. Trời sáng rõ,
tàu 215 nhận ra bốn tàu 100 tấn cao tốc của Khmer Đỏ quây đánh tàu
HQ05. Tàu cao tốc của Khmer Đỏ có tốc độ 38 hải lí giờ, gần gấp đôi tốc
độ tàu HQ05 của Việt Nam chỉ 20 hải lí giờ. Tàu 215 và 203 cùng nổ súng
thu hút tàu Khmer Đỏ. Bị đánh trả từ hai hướng, tàu Khmer Đỏ không còn
ở thế chủ động tấn công, tốc độ cao không còn là ưu thế nữa. Bây giờ
hỏa lực sẽ quyết định mà hỏa lự
c thì các tàu Hải
quân Việt
Nam áp đảo. Hai tàu Khmer Đỏ bị trúng đạn bỏ chạy, hai chiếc còn lại
phải chạy theo. Kì hạm 203 lệnh cho 215 truy kích. Đang tăng tốc đuổi
theo chiếc tàu Khmer Đỏ dính đạn chạy sau thì tàu 215 chết máy khựng
lại. Lập tức, hai tàu Khmer Đỏ quay lại quây đánh tàu 215. Khi tàu 203
giải cứu, đánh đuổi tàu Khmer Đỏ thì tàu 215 đã bị thương tích nặng nề.
Hai pháo thủ của khẩu 37 li, một hàng hải và một cơ điện hi sinh.
Thuyền trưởng Nguyễn Thiện Doanh, thuyền phó Đỗ Văn Thành, chính trị
viên Lê Đình Khuyến, hai cơ điện Tạ Văn Chương, Lê Hồng Quyên bị thương
nặng.
Nhưng thương vong nặng nhất lại là cuộc chiến trên đất bằng. Ba
tiểu đoàn của lữ đoàn 126 cùng một phần sở chỉ huy lữ đoàn vừa đổ bộ
lên chân núi Bokor, chưa kịp tập
hợp đội hình thì pháo Khmer Đỏ dập xuống. Từ trong bóng đêm của dải
rừng bao quanh, những tên lính áo đen của man rợ, của chết chóc, như từ
bóng đêm trung cổ ào ra. Thiếu tá tham mưu trưởng lữ đoàn, đại úy
trưởng ban tác chiến, trung úy Vũ Hiến phóng viên báo Hải quân hi
sinh. Cả tổ đài thông tin vô tuyến điện của sở chỉ huy đều bị thương
vong. Thượng tá Luật chính ủy lữ đoàn 126 bị thương được những người
lính thân cận bên ông dìu chạy vào rừng.
Trong tình thế nếu cứ chôn chân ở chân núi Bokor đợi đổ xong quân,
đợi xe pháo, đợi có chỉ huy thì sẽ là tấm bia sống cho những nòng súng
Khmer Đỏ, vì thế rạng sáng ngày 7.1.1979, một tiểu đoàn trưởng của lữ
đoàn 126 đã đưa quân lên 12 xe tăng và xe bọc thép đơn
độc tiến đánh Sihanoukville. Một ngày một đêm chiến đấu, chỉ còn vài
người sống sót chạy vào rừng, tiểu đoàn bị xóa sổ.
Theo
phương án tác chiến, lực lượng mạnh của hải quân gồm lữ đoàn 126 và lữ
đoàn 101 lính thủy đánh bộ từ chân núi Bokor theo con đường số Ba ven
biển đánh chiếm Veal Renh rồi theo đường số Bốn đánh vào cảng
Sihanoukville và quân cảng Ream. Nay cuộc chiến đang quyết liệt mà lực
lượng Hải quân Việt Nam tham chiến vẫn chưa đổ bộ xong quân mà lại phải
chia lực lượng đi tìm quân thương vong tan tác trong rừng, lại không
còn nắm thế chủ động nữa! Sư đoàn bộ binh 304 được tung vào trận đánh
Sihanoukville trong tình thế đó.
Trong đội hình Quân đoàn 2 ở hướng thứ yếu, sư đoàn 304 là lực
lượng dự bị
chiến dịch. Sư đoàn sẽ là lực lượng đánh vào Phnom Penh trong đợt hai,
đợt ba, nếu cuộc chiến ở Phnom Penh phải kéo dài. Trước sức tấn công
của các sư đoàn thiện chiến Việt Nam, quân Khmer Đỏ ở hướng phòng thủ
phía Đông nhanh chóng vỡ trận, Quân đoàn 4 Việt Nam tiến rất nhanh vào
Phnom Penh. Ngày 7.1.1979 Quân đoàn 4 đã làm chủ Phnom Penh. Sư đoàn
304 liền được điều đi chi viện cho mặt trận Kampong Saom. Ngày 8.1.1979
trung đoàn bộ binh 9 cùng lữ đoàn xe tăng 203 giải phóng Ream. Ngày
9.1.1979, trung đoàn bộ binh 66 cùng với Hải quân đánh chiếm xong
Sihanoukville. Ngày hôm sau, 10.1.1979, chiếc xe jeep của trung đoàn 66
đã đưa tôi từ Sihanoukville lên sở chỉ huy sư đoàn 304 ở thị xã Kampong
Saom.
Hai ông bạn họa sĩ cùng đi chiến dịch với tôi đã về Sài Gòn
trước rồi. Tối 30.1.1979, tôi đeo ba lô xuống tàu 683 khi những người
lính vẫn đang hối hả chuyển những hòm đạn từ tàu lên cảng. Bốc hết đạn
lúc nào, tàu sẽ nhổ neo về Sài Gòn lúc đó. Đến nửa đêm, còn gần 100 tấn
đạn dưới tàu nhưng tàu được lệnh dừng bốc đạn để đưa thi thể thượng tá
chính ủy Luật về nước ngay trong đêm. Thi thể thượng tá Luật cùng thi
thể hai chiến sĩ được bọc trong nhiều lớp túi ni lông đặt ở mũi tàu. 1
giờ 30 đêm, tàu rời cảng Sihanoukville. Chiều hôm trước, 29.1.1979, mũi
xục xạo trong rừng của trung tá Trịch tìm thấy nhóm người đi với thượng
tá Luật nhưng thượng tá Luật đã chết trước đó mười ngày, từ ngày
19.1.1979.
Tàu không về Sài Gòn mà về Phú Quốc. Nằm trong buồng hàng hải trên tàu,
tôi đã thức trọn đêm. Gió biển ù ù vật vã thổi vào căn buồng hẹp tôi nằm đưa tôi trở về với tiếng gió ù ù thổi trong câu thơ Chinh phụ ngâm, ù ù thổi trong lịch sử Việt Nam: Hồn tử sĩ gió ù ù thổi / Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi. Tự nhiên tôi thấy cay cay nơi sống mũi và nước mắt lấp xấp ướt mi. Những người lính Việt Nam thời Chinh phụ ngâm đổ
máu để giữ gìn mảnh đất Việt Nam yêu thương. Những người lính Việt Nam
hôm nay còn đổ máu vì sự bình yên của cây thốt nốt, vì những giá trị
của sử thi đá thăm thẳm ở đền đài Angkor.
Mờ sáng, tôi lại nhìn thấy cảng An Thới nhưng không thấy con tàu
215 thương tích đầy mình ở cầu cảng nữa. Ba người lính hi sinh được đưa
lên bờ
khâm liệm nhưng chỉ có thượng tá Luật trong chiếc quan tài mộc không
sơn vẽ, còn tươi màu gỗ rừng Phú Quốc cùng về Sài Gòn với chúng tôi
trong chuyến máy bay lên thẳng bay từ sân bay dã chiến An Thới về sân
bay Tân Sơn Nhất.
3. Thương thân cây, thương phận người
Chân tôi
thong thả đi dạo trên đường phố Phnom Penh mà tâm tưởng tôi bồi hồi đi
dạo trong kí ức về những năm tháng cuộc đời tôi để lại ở đất nước này.
Ở tuổi ngoài sáu mươi tìm về tuổi ngoài hai mươi để nhận ra nhiều điều
trước đây chưa thể nhận ra. Ở nơi xứ người nhớ về một thời lịch sử
nghiệt ngã của đất nước mình để cứ phải ngậm ngùi liên tưởng chuyện xứ
người, chuyện xứ mình.
Phụ trách một cụm đài vô tuyến
điện thuộc Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên thời chiến tranh Việt Nam,
tôi đã nhiều lần qua lại mảnh đất đông bắc Campuchia, vùng Mondolkiri,
Katanakiri, Stung Treng, nhiều lần tắm sông Serepok, sông Sesan, những
dòng sông khởi nguồn từ dãy Trường Sơn, chảy về phía tây, đổ nước vào
sông Mekong, hàng ngày uống nước những dòng suối đầu nguồn của sông
Serepok, sông Sesan. Nhiều sáng thức dậy ra sông Serepok thấy cá nổi
phơi bụng trắng xóa dạt vào mép nước trên khúc sông dài hàng trăm mét.
Nhìn cá chết biết được mức độ bom Mĩ đánh phá những bến sông trên
thượng nguồn đêm trước. Sau chuyến theo tàu Hải quân đi từ đảo Phú Quốc
đến cảng Sihanoukville, tôi lại có chuyến ngồi xe ca quân sự của Cục
Vận tải, Tổng cục Hậu cần xuất phát từ đường
Ngô Quyền, quận Năm, Sài Gòn đến Phnom Penh.
Tôi
đã sống với đất nước Campuchia cả những ngày bom đạn, cả những ngày
bình yên nhưng những kỉ niệm sâu sắc nhất của tôi về đất nước của những
cây thốt nốt hiền hòa đều là những kỉ niệm không bao giờ phai mờ về
những ngày chiến tranh khốc liệt vậy mà đất nước này vẫn để lại cho tôi
cảm giác về sự hiền hòa, bình yên. Những can qua máu lửa đều từ bên
ngoài đưa đến cho người dân Khmer hiền lành, hồn hậu, cởi mở, giàu lòng
yêu thương. Thời Việt Nam mịt mù bom đạn, những người lính chúng tôi
phải dạt sang nương náu dưới những cánh rừng đông bắc Campuchia cũng là
nương náu trong sự hồn hậu, cởi mở đó.
Định mệnh đã đưa hai dân tộc Việt Nam và Campuchia chậm
chân trên con đường phát triển cùng chung số phận là thuộc địa của nước
Pháp phát triển. Số phận chung đó đã đưa những người đấu tranh giành
độc lập của hai dân tộc Việt Nam và Campuchia đến với nhau và cùng lạc
vào chủ nghĩa cộng sản thời chủ nghĩa cộng sản như hi vọng, như mở ra
cánh cửa đến thiên đường tưởng là có thật của loài người khổ đau. Những
người đấu tranh giành độc lập cho Campuchia bị Pháp bắt giam chung với
những người cộng sản Việt Nam trong nhà tù khắc nghiệt Côn Đảo đã tiếp
thu lí thuyết cộng sản đầy hấp dẫn: xóa bỏ bất công và bóc lột, qua
những người cộng sản Việt Nam và họ là những người Campuchia hiếm hoi
đầu tiên trở thành những đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương.
Đầu năm 1951, trong
rừng Việt Bắc, những người cộng sản Việt Nam đổi tên Đảng Cộng sản Đông
Dương thành Đảng Lao động Việt Nam thì tháng Chín, năm đó, những người
cộng sản Campuchia thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer và nhà sư
Achar Mean, còn có tên là Sơn Ngọc Minh, trở thành Chủ tịch đảng. Ở
Việt Nam đã có vài cơ sở công nghiệp sơ khai, vài mỏ than, vài xưởng
dệt, xưởng cơ khí sửa chữa, tạo ra một đội ngũ thợ thuyền nhỏ bé, nghèo
khổ thì Đảng Lao động Việt Nam tự nhận là đảng tiền phong của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Campuchia chưa có cơ sở công nghiệp,
chưa có bóng dáng đội ngũ công nhân nhưng theo “bài văn mẫu” là Cương
lĩnh Đảng Lao động Việt Nam, Cương lĩnh Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer
cũng tuyên xưng: Đảng không
phải là đảng tiên phong của giai cấp công nhân nhưng là đảng tiên phong của những người yêu nước và tiến bộ.
Nhưng
những người cộng sản Khmer còn quá ít ỏi lại từ những nguồn khác biệt
nhau, mang tư tưởng, hướng nhìn khác nhau, nguồn sư sãi, trí thức trong
nước, nguồn đi học từ nước ngoài trở về, tạo thành những nhóm, những
vùng hoạt động khác nhau, không có sự phối hợp, kết nối, chia sẻ, tổ
chức cộng sản Khmer chưa trở thành một lực lượng chính trị của xã hội
Campuchia. Vì thế Hiệp định Genève năm 1954 đã dành cho những người
cộng sản Việt Nam nửa đất nước ở miền Bắc, những người cộng sản Lào
được hai tỉnh Sầm Nưa và Phong Sa Ly, còn những người cộng sản
Campuchia thì trắng tay, không thước
đất đứng chân.
Chủ tịch đảng Sơn Ngọc Minh cùng đội quân vũ trang nhỏ bé của ông có
một quá trình gắn bó với những người cộng sản Việt Nam phải theo đội
quân chống Pháp ở Nam Việt Nam tập kết ra miền Bắc Việt Nam.
Số
người cộng sản Campuchia ở lại trong nước đều là những người ở tầng lớp
trên, phần lớn đều đã sang Pháp học hành trở về như Saloth Sar, Ieng
Sary… Sau này Saloth Sar được gọi với tên Pol Pot nổi tiếng. Tư tưởng
không đồng điệu, số lượng đã ít ỏi, sau Hiệp định Genève năm 1954 lại
có những người quay đầu về với chính quyền của nhà vua Norodom
Sihanouk, hưởng bổng lộc Hoàng gia. Số người còn lại phải tổ chức lại
đảng. Trong hai ngày cuối cùng của tháng Chín năm 1960, đại hội thành
lập Đảng Cộng sản Campuchia đưa Tou
Samoth lên Tổng Bí thư, Pol Pot, Ieng Sary đều trong nhóm nắm quyền lực
cao nhất của đảng là Ban Thường vụ. Năm 1963 Tổng Bí thư Tou Samoth mất
tích bí ẩn trên đường từ Hà Nội trở về. Lập tức vị trí Tổng Bí thư đảng
về tay Pol Pot.
Với cớ củng cố đảng, Pol Pot, Ieng Sary thúc giục Việt Nam đưa Sơn
Ngọc Minh sang Trung Hoa chữa căn bệnh mãn tính bình thường mà nhiều
người có tuổi vẫn mang là bệnh huyết áp đôi lúc cao lên chút ít, để Sơn
Ngọc Minh có sức khỏe trở về Campuchia tham gia lãnh đạo Đảng Cộng sản
Campuchia. Nhưng ngày trở về Campuchia của người sáng lập Đảng Nhân dân
Cách mạng Campuchia Sơn Ngọc Minh không bao giờ có! Sang Trung Hoa chỉ
ít ngày sau Sơn Ngọc Minh phải nhận cái chết âm thầm khi mới 52 tuổi,
một cái chết oan nghiệt
như cái chết không tăm tích của Tổng Bí thư Tou Samoth!
Từ
đây, những người lãnh đạo cộng sản Campuchia gần gũi, gắn bó với Việt
Nam đều lần lượt bị thủ tiêu, những người đi với Sơn Ngọc Minh sớm muộn
đều bị Pol Pot, Ieng Sary giết hại. Vân Minh theo Sơn Ngọc Minh ra Hà
Nội được đi học trường điện ảnh thành nhà quay phim và anh đã làm việc
nhiều năm ở xưởng phim Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong cao trào kháng
chiến của lực lượng Pol Pot được gọi là Khmer Đỏ chống lại chính quyền
Phnom Penh của Non Nol, Vân Minh trở về Campuchia tham gia kháng chiến
trong đội quân Khmer Đỏ nhưng khi Khmer Đỏ giành được chính quyền, Vân
Minh liền bị tống vào ngục Tuol Sleng. Nhờ biết quay phim chụp ảnh, anh
được chúa ngục Khang Khek Ieu giao
cho việc chụp
ảnh những người tù trước khi họ bị giết. Nhờ thế anh còn sống sót và
nhà ngục Tuol Sleng ngày nay còn bộ ảnh tố cáo tội ác Khmer Đỏ.
Từ
đây, toàn bộ quyền lực Đảng Cộng sản Campuchia, quyền lực Khmer Đỏ đã
nằm gọn trong tay những người Khmer gốc Hoa: Pol Pot, Ieng Sary, Khieu
Samphan, Nuon Chea, Ta Mok, Khang Khek Ieu…
Với dòng máu Trung Hoa trong người, với súng đạn Trung Hoa trong
tay, với tư tưởng Trung Hoa thời Mao Trạch Đông trong nhận thức: Lấy
nông thôn bao vây thành thị, lấy nông dân tiêu diệt trí thức, tiêu diệt
tư sản thành phố, Pol Pot, Ieng Sary đã đưa dân tộc Campuchia vào địa
ngục tự hủy diệt. Hủy diệt dân tộc Campuchia. Hủy diệt nền văn minh
Angkor. Gieo thảm họa diệt chủng cho dân tộc Campuchia đều là những
người Campuchia,
những thủ lĩnh cộng sản Khmer và đội quân Khmer Đỏ mặc áo đen nhưng họ
chỉ là công cụ, là con rối dưới sự điều khiển từ nước ngoài.
Là
trung đoàn phó quân Khmer Đỏ, Hun Sen nhận ra được bụng dạ, đầu óc của
lãnh đạo Khmer Đỏ, đó chính là bụng dạ, đầu óc của những người làm Cách
mạng Văn hóa ở Trung Hoa. Khmer Đỏ chính là những người mang Cách mạng
Văn hóa ở Trung Hoa về thực hiện ở Campuchia nhưng ở mức độ sâu rộng
hơn, man rợ hơn, đẫm máu hơn. Cách mạng Văn hóa ở Trung Hoa chỉ là cuộc
thanh trừng nội bộ trong giới lãnh đạo, trong bộ máy đảng và nhà nước.
Phe phái cầm quyền phát động sức mạnh quần chúng diệt trừ phe phái
khác. Khmer Đỏ ở Campuchia vừa sắt máu thanh trừng nội bộ, vừa tàn bạo
thanh
trừng cả dân
tộc để dân tộc Khmer chỉ còn một loại người là nông dân và xã hội
Campuchia trở về thời cổ đại, không trường học, không buôn bán, không
chợ búa, không tiền tệ. Với Khmer Đỏ, dân trí thức, dân công chức, dân
thành thị chỉ là loại người ăn bám vào giọt mồ hôi của người nông dân,
phải đưa loại người ăn bám đó về nông thôn lao động cải tạo và loại bỏ,
thủ tiêu dần. Cả đất nước Campuchia hiền hòa trở thành một trại cải tạo
khổng lồ, một địa ngục thời trung cổ, một cánh đồng chết mênh mông. Cái
chết từng giờ từng phút đến với người dân Campuchia hiền hậu đang lao
động khổ sai trên cánh đồng chết đó.
Hàng ngày trung đoàn phó Hun Sen phải chứng kiến lũ lính trẻ mười
ba, mười bốn tuổi, mù chữ, vừa rời đồng
ruộng cầm khẩu súng trở thành lính Khmer Đỏ, thản nhiên dùng rìu, dùng
cuốc bổ xuống đầu người dân, say mê, thích thú như một trò chơi. Dù
giấu kín thái độ, tình cảm ghê tởm tội ác Khmer Đỏ nhưng trung đoàn phó
Hun Sen cũng biết rằng cuộc thanh trừng nội bộ đẫm máu của Khmer Đỏ sớm
muộn cũng nhằm vào anh. Đã có nhiều chỉ huy trung đoàn, sư đoàn đột
ngột bị điều đi học, đi công tác rồi mất tích luôn. Phải tìm đường cứu
bản thân và cứu nhân dân Campuchia, ngày 21, tháng sáu, năm 1977, Hun
Sen chia tay người vợ trẻ Bun Rany đang mang thai tháng thứ năm, chạy
sang Việt Nam.
125 người Campuchia cùng cảnh ngộ như Hun Sen gặp nhau ở Việt Nam
thành lập nên Đoàn 125, tổ chức ban đầu của lực lượng vũ trang cứu nước
Campuchia. Đoàn 125 do Hun Sen
làm chỉ huy trưởng là ý chí khao khát sống của dân tộc Campuchia đã cất
lên tiếng kêu cứu của dân tộc Campuchia với loài người trước họa diệt
chủng của Khmer Đỏ, trước sự hủy diệt của Cách mạng Văn hóa ở
Campuchia. Việt Nam đã nuôi dưỡng, trang bị cho Đoàn 125. Việt Nam đã
lắng nghe và đáp ứng tiếng kêu cứu của dân tộc Campuchia, tiếng kêu cứu
của nền văn minh Angkor.
Cùng quân đội Việt Nam, Hun Sen trở về quê hương giải phóng
Campuchia khỏi họa Khmer Đỏ diệt chủng khi Hor Namhong, một quan chức
ngoại giao của chính quyền Non Nol đang là người tù của Khmer Đỏ đợi
ngày nhận cái chết. Ngày nay Hun Sen là Thủ tướng Chính phủ Vương quốc
Campuchia và Hor Namhong là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Không phải chỉ có Hun
Sen và Hor Namhong, tất cả những người đang nắm giữ những vị trí trọng
yếu trong Đảng Nhân dân Campuchia cầm quyền, trong chính quyền nhà nước
và trong lực lượng vũ trang Campuchia đều có cảnh ngộ cuộc đời, có xuất
xứ như Thủ tướng Hun Sen và Phó Thủ tướng Hor Namhong. Nhắc lại điều
này để thấy rằng trên thế giới ngày nay không có nhà nước nào, không có
nhân dân nước nào gắn bó máu thịt với nhân dân Việt Nam, với đất nước
Việt Nam như nhà nước và nhân dân Campuchia hôm nay. Nhà nước đó đã ra
đời, nhân dân đất nước đó đã sống lại từ máu người lính Việt Nam, từ sự
nhường cơm, sẻ áo của nhân dân Việt Nam. Nhắc lại điều này cũng không
nhằm kể lể công lênh của nhân dân Việt Nam với nhân dân Campuchia mà để
nhận ra tầm
vóc, bản lĩnh, nhận ra tấm lòng của những người lãnh đạo nhà nước
Campuchia hôm nay với nhân dân, với đất nước của họ.
Dù
nhà nước Campuchia hôm nay ra đời từ máu của những người lính Việt Nam,
dù nhà nước Campuchia hôm nay gắn bó và biết ơn những người cộng sản
Việt Nam thì nhà nước Campuchia trước hết vẫn phải vì người dân
Campuchia, vì đất nước Campuchia, vì nền văn minh Angkor rực rỡ.
Vì nhân dân Campuchia hiền hòa, vì đất nước Campuchia thanh bình,
từ năm 1991, những người lãnh đạo Campuchia đã đổi tên đảng sôi sục
cách mạng, Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, thành Đảng Nhân dân
Campuchia, một tên gọi bình dị, quen thuộc, thân thiết với người dân
Campuchia. Trả cách mạng về với những tham vọng, những mưu đồ, nơi đã
mang can qua đến cho nhân dân Campuchia. Có một nhà nước vì dân, nhân
dân Campuchia hiền hòa không cần cách mạng đổ máu, không cần đấu tranh
giai cấp, phân chia người dân hiền lanh ra thành những giai cấp đối
kháng, đưa hận thù giai cấp vào cuộc sống bình yên.
Vì quyền con người của nhân dân Campuchia, vì cuộc sống muôn màu,
muôn vẻ của đất nước Campuchia, từ năm 1993, những người lãnh đạo
Campuchia chấp nhận phần khó về mình, chấp nhận cạnh tranh chính trị để
cuộc sống phát triển lành mạnh, từ đó Campuchia có đa đảng. 57 đảng nói
tiếng nói của 14 triệu dân, tiếng nói của tất cả các khuynh hướng chính
trị, của mọi trào lưu tư tưởng nhưng số đông người dân Campuchia vẫn
nhận ra Đảng Nhân dân Campuchia với Chủ tịch đảng Chea Sim và
Phó Chủ tịch đảng Hun Sen là đảng của họ, đảng tồn tại vì dân tộc, vì
đất nước Campuchia nên họ đã dồn phiếu bầu cho Đảng Nhân dân Campuchia
trong những cuộc bầu cử Quốc hội và cuộc bầu cử nào Đảng Nhân dân
Campuchia cũng giành được nhiều ghế nhất để trở thành đảng cầm quyền.
Dù đa đảng nhưng với người dân Campuchia vẫn chỉ có một đảng, Đảng Nhân
dân Campuchia. Được cuộc sống chấp nhận, được nhân dân tin cậy, Đảng
Nhân dân Campuchia tồn tại tự nhiên, hài hòa cùng cuộc sống thanh bình
của nhân dân, của đất nước Campuchia, không cần sự áp đặt của điều bốn
Hiến pháp, không cần đổ quá nhiều tiền thuế của dân ra nuôi đội quân
khổng lồ “công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình” bảo kê cho
đảng.
Đảng
Nhân dân Campuchia cũng có cội nguồn từ Đảng Cộng sản Đông Dương, cũng
theo đuổi lí tưởng cộng sản của học thuyết Marx – Lenin và định mệnh đã
đưa những người lãnh đạo Đảng Nhân dân Campuchia hôm nay có số phận gắn
bó máu thịt với những người cộng sản Việt Nam. Nhưng họ không lú lẫn
trói chặt số phận dân tộc Campuchia vào học thuyết Marx – Lenin lầm lạc
và tội lỗi. Họ không vì ơn nghĩa mà mê muội đánh mất mình để trở thành
cái bóng của những người cộng sản Việt Nam, để số phận dân tộc
Campuchia trở nên bất trắc, bấp bênh, bé bỏng, phụ thuộc vào nước khác
như số phận dân tộc Việt Nam bị Đảng Cộng sản Việt Nam trói chặt vào
học thuyết Marx – Lenin tai ương, như Đảng Cộng sản Việt Nam bị cái
bóng của Đảng Cộng sản
Trung Hoa trùm lên để đến nỗi phải cắt đất, cắt biển dâng cho đế quốc
Trung Hoa, nhục nhã phản bội lại máu xương dựng nước của cha ông, nhu
nhược, hèn nhát bôi nhọ trang sử giữ nước hào hùng của cha ông, để đến
nỗi lính Trung Hoa tràn qua cả dải biên cương vào đất Việt Nam giết
hàng vạn dân Việt Nam, đưa tàu chiến vào biển Việt Nam bắn giết cướp
bóc dân Việt Nam mà ở thủ đô Hà Nội lãnh đạo nhà nước Việt Nam vẫn
thành kính làm lễ rập đầu nhớ ơn quân giải phóng nhân dân Trung Hoa!
Lang thang trên đường phố Phnom Penh tôi chỉ thấy bảng hiệu buôn
bán, bảng chữ quảng cáo hàng hóa, không một khẩu hiệu, không một pano
hô hào, hò hét chính trị. Đường phố thoáng đãng, nhẹ nhõm, thiên nhiên
được phô bày hết cái đặc sắc, cái
dáng vẻ riêng của một vùng đất. Ở thành phố Seam Reap tôi thấy hai hàng
thốt nốt óng ả trên đoạn phố san sát những khách sạn. Ông Toly nói rằng
cây thốt nốt là cây quí của Trời ban tặng cho người Campuchia. Sáu
tháng mùa mưa, nửa thân cây ngập trong nước lũ, thốt nốt vẫn sống khỏe
khoắn. Sáu tháng mùa khô, không một giọt nước mưa, đất khô cháy, cỏ
cũng không sống nổi, phơi mình giữa cánh đồng chang chang nắng đốt, cây
thốt nốt vẫn xanh tươi. Hoa thốt nốt vẫn nở và cây vẫn vặn mình vắt ra
dòng nước ngọt mát nuôi con người. Cây của Trời ban tặng nên cây tự
gieo hạt, tự nảy mầm mọc lên, không ai trồng. Nhưng hai hàng thốt nốt
thằng tắp, cách quãng đều nhau trên đường phố ở Seam Reap thì rõ ràng
do người trồng.
Cây thốt nốt
mọc trên cánh đồng dáng gày guộc, nhọc nhằn vươn lên cao, tán lá khô
xác như cố thu nhỏ lại tránh cái nắng đổ lửa. Cây thốt nốt mọc trên
đường phố Seam Reap dáng đậm đà, phổng phao, tán lá xanh tốt như cố xòe
rộng ra. Cây thốt nốt lặng lẽ trên cánh đồng như dáng người đàn ông
Khmer cởi trần, đen cháy, gân guốc và bền bỉ với đất đai. Cây thốt nốt
lao xao gió trên đường phố Seam Reap như cô gái Khmer dịu dàng trong
tấm xà rông nền nã, duyên dáng. Nhìn cây thốt nốt trên đường phố Seam
Reap, nhìn cây phượng vĩ trên đường phố Pnom Penh được thực sự là cây
của đất trời, được hồn nhiên khoe hết dáng uyển chuyển của cây, được
phô hết màu xanh mướt mát của sự sống, như cô gái được kiêu hãnh khoe
đường nét uyển chuyển của cơ
thể, được phô nhan sắc rực rỡ của tuổi thanh xuân, tôi lại thương cho
những hàng cây trên đường phố Việt Nam chỉ là những cái trụ để gùi, để
cõng những pano, những bảng chữ xanh đỏ của chính trị, tán lá xanh bị
che lấp, bị lấn át bởi những dải khẩu hiệu đỏ như máu, nóng bỏng như
lửa, nhức nhối mắt nhìn.
Trên những đường phố ở Việt Nam từ thủ đô nhốn nháo đến những thị
trấn miền núi heo hút nghèo xác xơ lúc nào cũng ngờm ngợp cờ quạt, ngột
ngạt pano khẩu hiệu chính trị trống rỗng và giả dối, thô bạo, sỗ sàng
lấn át màu xanh lộng lẫy của thiên nhiên Việt Nam. Những cờ quạt, pano,
khẩu hiệu xanh đỏ lòe loẹt quá nhiều như phấn son trát dày trên người
gương mặt người đàn bà tuổi xế chiều, đã không lấp liếm
được sự quá lứa lại phô bày thẩm mĩ thấp kém và tính cách thiếu trung
thực, đàng hoàng, chính chuyên. Lại chạnh nhớ mùa hè năm trước tôi đến
thành phố Hạ Long duyên dáng bên vịnh biển đẹp nhất thế giới. Đang háo
hức ngắm nhìn thành phố non trẻ tầm nhìn của tôi bỗng vướng phải dải
vải đỏ căng giữa hai lùm cây xanh, tầm mắt tôi bị chặn lại bởi những
pano hình chữ nhật dựng đứng bám trên thân cây, bám vào cột điện giăng
giăng hết phố này sang phố khác. Dải vải và pano đều mang dòng chữ: Kiên định chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa!
Vì chủ nghĩa Marx – Lenin, nền kinh tế Việt Nam đã suy sụp, nguy
khốn và Việt Nam phải trở về nên kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa như thế nào, mọi người đều biết. Vì chủ
nghĩa Marx – Lenin, những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã phải cắt
đất đai xương máu của cha ông người Việt cho đế quốc cộng sản Trung Hoa
như thế nào, mọi người đều biết. Nhưng chủ nghĩa Marx – Lenin là liều
doping kích động hận thù giai cấp, là gốc rễ của mọi cuộc thanh trừng
đẫm máu thì còn ít người nhận ra.
Nhìn hàng cây óng ả thanh thoát trên đường phố Seam Reap, trên
đường phố Phnom Penh, chạnh nhớ đến hàng cây trên đường phố Việt Nam
oằn mình mang tấm pano “Kiên định chủ nghĩa Mac – Lê nin…“, tôi bỗng
rùng mình. Người dân không có quyền con người, cuộc sống không có dân
chủ, tự do tất sẽ xuất hiện bạo chúa độc tài và bạo chúa
độc tài phải tồn tại, phải khẳng định quyền uy bằng bằng bạo lực thanh
trừng. Thanh trừng công khai như Cách mạng Văn hóa ở Trung Hoa, như
Khmer Đỏ diệt chủng ở Campuchia. Thanh trừng âm thầm như vụ Xét lại
Chống đảng, như vụ Nhân văn-Giai phẩm ở Việt Nam. Và những vụ thanh
trừng đẫm máu và nước mắt, khi rầm rộ, khi âm thầm vẫn đang diễn ra
triền miên ở những nơi vẫn còn đang kiên định chủ nghĩa Marx-Lenin! Ôi
chao! Nền kinh tế Campuchia chưa phát triển bằng nền kinh tế Việt Nam,
người dân Campuchia chưa giàu có hơn người dân Việt Nam nhưng nhìn cây
cỏ trên đất nước Campuchia, nhìn người dân Campuchia, tôi cứ ngậm ngùi
thương phận mình, thương phận người dân Việt Nam đến ứa nước mắt!
Phạm Đình
Trọng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.