Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014

TẢN MẠN VỀ DỤC TÍNH VÀ NỮ QUYỀN

NGUYỄN VY KHANH

Người xưa như tác giả Truyện Kiều, viết về chuyện tình dục là với điển tích (Ra tuồng trên Bộc trong dâu; Vòng ngoài bảy chữ vành trong tám nghề), hay dùng nghĩa bóng (Tiếc thay! Một đóa trà mi / Con ong đã mở đường đi lối về). Dục tính không thật có với văn chương cổ điển vì những tính cách ước lệ, trí thức và hình thức. Không có sáng tạo, cá tính, do đó không cần cả tác giả, phải chăng đó là một lý do của hiện tượng vô danh của tác phẩm thời xưa? 
Dục tính khác thô tục, tục tĩu, như áo mỏng dính với trần truồng, dâm thư dĩ nhiên không phải là tác phẩm văn chương. Henry Miller mà tác phẩm từng bị cấm ở quê hương của ông, trong Obscenity and the Law of Reflection đã xem dâm tục (obscenity) xuất hiện trong văn chương như một kỹ thuật, không liên hệ gì đến dâm thư (pornography). Dục tính như một giá trị chỉ nhắm đánh thức, khêu dậy, dẫn nhập, đem ý nghĩa đến cho thực tại cuộc sống . Đối với Việt Nam, dục tính chỉ thực sự xuất hiện trong văn học ở thế kỷ XX, bước đầu bởi nam giới và dục tính luôn chỉ có ý nghĩa trong một văn hóa, trong một xã hội. Dâm tính trở thành yếu tố tiểu thuyết, gia vị hấp dẫn cho tác phẩm. Thời Nhất Linh, dâm tính chỉ chớm thoáng qua, như trong truyện ngắn Tháng Ngày Qua, nhân vật Giao trọ học nhà bạn, đã dám ... để ý đến vợ bạn, "bốn mắt gặp nhau (...) cặp môi nàng mấp máy, dưới tấm áo mỏng, ngực nàng phập phồng, hai con mắt nhìn đăm đăm vào chàng có vẻ lẳng lơ, nồng nàn như đắm tình..." (1). 

Các tác giả thời này kể chuyện tình yêu, nhưng ít người đi vào chi tiết làm tình hay tả chân thân thể người nam hay nữ. Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang,... từng bị kết án là khiêu dâm, thực ra họ chỉ có ý trình bày bộ mặt khác, trái, của xã hội, nêu lên những tệ hại, có ý giáo dục, hướng thượng. Phùng Nguyễn trong Bia Ôm (2) tả "đôi vú nhỏ mềm nhũn và âm hộ nhầu nát"  hình như cũng không có mục đích viết dâm thư! Trước 1975, Lê Xuyên đã bị tố viết văn khiêu dâm, trong thực tế tiểu thuyết của ông chỉ tả cảnh tả tình những hẹn hò, những ăn chơi trắc tréo dài dòng nhưng không mấy tả chi tiết cảnh làm tình; kẻ lên án chỉ chứng tỏ đạo đức giả hoặc chưa từng đọc qua.
Tạp chí Sáng-Tạo vào thập niên 1960 ở miền Nam, đã đăng nhiều truyện đầy dục tính của các tác giả về sau không đi tiếp nghiệp văn, như Duy Thanh (Khép Cửa, Thằng Khởi, Chiếc Lá,...), Thạch Chương (Tinh Cầu,..). Giải phóng tình dục “hôm nay” là một trong những chủ trương văn nghệ của nhóm. Thạch Chương tức nhạc sĩ Cung Tiến sau này lúc bấy giờ viết truyện ngắn "hiện sinh" và là lý thuyết gia cho khai phá này, trong bài "Giới thiệu một nhận thức siêu thực về nghệ thuật" đã viết :"... Chúng tôi muốn quay lại vũ trụ hoang sơ dục tình nguyên vẹn mà tâm hồn mỗi kẻ còn trinh như sữa. Nhưng là cái tinh khiết đáng sợ của con bò rừng. Nghệ thuật hôm nay là sự biểu lộ một "furie du total", một tiếng gọi quay trở về rừng sâu thẳm mà ở đó còn vẳng lên những tiếng cười điên mê, những tiếng la cuồng dại vọng về từ trăm thế kỷ của bản năng thuần túy. (...). Nghệ thuật hôm nay còn được biểu tỏ mãnh liệt trong tình yêu ngọt ngào của xác thịt, hay "tình điên". Dục tình, như có người đã nói trên mặt báo này, là động lực độc nhất của thế giới. Đọc .. phần lớn những tác phẩm của D.H. Lawrence, ai mà không cảm thấy vật dục mình xao xuyến, một thứ xao xuyến rất nghệ thuật, rất siêu thực, rất trắng, rất tinh khôi...". Lý do ông đưa ra vì sống trong một thời đại "sống trong cái thế trên đe dưới búa, một bên là tự do tuyệt đối cá nhân, một bên là áp bức chính đáng..." (3).
Trong truyện Thằng Khởi, Duy Thanh để cho nhân vật xưng Tôi, một cô gái 16 tuổi, muốn ngủ và rồi ra tay "hiếp dâm" một thằng gánh nước người Chàm: "Tôi đã để ý đến nó năm tôi 16 tuổi. Cái vẻ đẹp man rợ ngu xuẩn ấy mang cho tôi nhiều ý nghĩ dâm dục. Tôi chắc rằng thằng Khởi chưa hề ngủ với ai bao giờ (...) Thằng Khởi vẫn ngủ trong lều. Đôi môi dầy của thằng Khởi mấp máy và vị nước bọt của nó sền sệt nhạt nhẽo. Tôi lay nó dậy. Thằng Khởi chồm lên chắc định la làng nhưng tôi bít miệng nó lại. Mắt nó mở to có vẻ ngạc nhiên lắm, nhưng cũng ngồi im. Rồi đưa tay quờ vào người tôi. Hơi thở của nó và của tôi hừng hực trong đêm tối..." (Sáng Tạo, 21). Cũng Duy Thanh trong truyện Chiếc Lá để nhân vật là cô gái 18 tuổi "thích thay đổi, từ vấn đề ái tình, sinh lý, không khí, đồ ăn,..." và không thích cái gì quen hoặc vô nếp cả. Khi còn là cô bé 15 tuổi, cô ta đã ngủ với anh rể vừa để trả thù chị mình vừa tìm cảm giác: "Tôi muốn đo cái độ dục của hắn khi hắn ngủ với chị ấy thế nào. Cũng lạ, cái cảm xúc ấy lúc đề phòng trước thì thấy tầm thường hết sức. Tôi thấy cái hình thù sát cạnh mình đến vô nghĩa..." (4).
Nhưng người tả cảnh thật sự dục tính đầu tiên có thể là Lê Hoằng Mưu, chủ bút Lục Tỉnh Tân-văn, tác giả Hà Hương Phong Nguyệt (1915), Oán Hồng Quần (tức Phùng Kim Huê Ngoại Sử, 1920), nhất là với Người Bán Ngọc (1930-31), dù văn còn ảnh hưởng biền ngẫu và câu chuyện xảy ra ở Trung Hoa nhưng nhân vật và khung cảnh rất Việt Nam. Một câu chuyện tình cổ điển gần 400 trang, nhưng suy nghĩ, ngôn ngữ và hành cử của nhân vật cũng như cách diễn tả tiểu thuyết có tính thật của đời sống lúc bấy giờ. Người bán ngọc đây là Tô Thương Hậu giả phụ nữ bán ngọc để gần gũi và trờ thành tình nhân của Hồ phu nhân"trững mỡ" trong hai năm chồng đi buôn xa, trước là đồng tình luyến ái, sau trai gái thật khi Thương Hậu không cầm lòng được đã để lộ cái "oan gia".
"Vén mùng rồi vừa gạt chưn để lên giường, xẩy thấy một tòa thiên nhiên, lịch sự như tiên giáng thế, làm cho người bán ngọc mảng mê nhan sắc trố mắt đứng nhìn, quên bổn phận mình, mưu sự tệ tình, bất cẩn, ... Thấy Hồ phu nhân mê mẩn giấc nồng sổ đầu, nằm bỏ tóc, xấp xả khó gìn cho đặng. Bèn sẽ lén lấy mền đắp bụng cho Hồ phu nhân; rồi lại muốn đưa tay rờ rẫm vuốt ve cho thỏa. Không dè, mới thò tay vừa tới bụng sợ phập phồng nó làm cho tấc dạ bồi hồi, tay rung lập cập. Người bán ngọc không dám rờ! Lật đật thục tay vào rồi xây mặt ngó quanh quẩn bên mình, ... Vuốt qua vuốt lại, rờ xuống rờ lên đôi ba phen mà Hồ phu nhân mê mẩn không hay, người bán ngọc thấy vậy mới dễ ngươi, ái tình lại dồi long tà dục... muốn kề má hôn cho phỉ dạ. Có một điều là rờ rẫm vuốt ve thì không sao, chớ hễ muốn kề má xuống hun, thì lại hườn cựu lệ, trống ngực đánh rầm rầm, chân tay run lẩy bẩy... đổ mồ hôi ướt đẫm như người bị cảm mạo phong sương... dục thúc quá dằn long không tiện, ngườI bán ngọc bèn gượng đưa tay ra rờ cái ngọc cốt phi phàm ... Rờ tới đâu chết điếng tới đó,..." (5).
                                                                 *
Văn chương dục tính có khuynh hướng đi với nữ quyền. Hồ Xuân Hương - giả dụ có một Hồ Xuân Hương thật, tác giả những bài thơ Nôm tục lưỡng nghĩa, bà đã phải gò bó trong lối thơ hai nghĩa thời bấy giờ, đê nói lên những dồn nén và những đòi hỏi nữ quyền, "chém cha cái kiếp lấy chồng chung". Ở Việt Nam, cho đến giữa thập niên 1960, tác phẩm của các nhà văn nữ đã là những đóng góp làm đẹp cho đời, cho thế giới văn chương dù với tính cách bên lề, ngoại lệ. Thật vậy, đối với văn học chữ quốc ngữ thì năm 1927, bà Tương Phố với Giọt Lệ Thu đã thật sự khởi đánh dấu sự có mặt của nữ giới trên văn đàn chữ nghĩa. Thụy An với Một Linh Hồn (1942), Bốn Mớ Tóc (1950, ký Lưu Thị Yến) nhìn ra cuộc đời, Anh Thơ với Răng Đen (1943) rồi Nguyễn Thị Vinh với Thương Yêu (1953) đã bắt đầu nói đến thân phận người đàn bà trong đời sống đại gia đình, trong khuôn khổ phong hóa - họ không sống cho cá nhân mình. Thụy An, Nguyễn Thị Vinh nói đến số phận những thế hệ phụ nữ đã phải sống trong đứt đoạn, nghịch lý khó khăn giữa giáo dục thời thiếu nữ và thực tế ở đời khi trở thành phụ nữ ! Linh Bảo với Những Đêm Mưa, Tàu Ngựa Cũ xuất bản cùng năm 1961, đã nhẹ nhàng khởi nêu vai trò người phụ nữ. Đến Nhã Ca, người nữ tình yêu đã lãng mạn và mạnh mẽ nhưng chiến tranh và trách nhiệm đã khiến đôi lứa và gia đình quan trọng hơn cá nhân. Nói như Virginia Woolf, họ vẫn quanh quẩn trong "những hành lang tối ám của lịch sử".  Người đàn bà sinh ra sống cho gia đình, lo cho cha mẹ, cho em, rồi khi rời gia đình thì rơi vào gia đình khác, lo cho chồng, cho con rồi cho cháu, ăn ở có đức, rồi chết ... theo đúng lễ nghi, phong tục! Người phụ nữ cho đến giai đoạn này chỉ đi tìm hạnh phúc!
Phải đến Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy-Vũ và Trùng Dương, văn chương mới trở thành phương tiện cho nữ quyền và quyền sống. Thật vậy, từ cuối thập niên 1960, người viết nữ đã mạnh bạo đi xa hơn, tự tin hơn và những vấn đề phụ nữ được chính thức trương lên chữ nghĩa. Cái Tôi, nhân vật chính, nội dung, tình cảm, tình yêu, tình dục, ... không còn là của riêng những nhà văn thơ phái nam. Hơn là những "hình ảnh người nữ" trong tác phẩm viết bởi nhà văn nữ hay nam, từ Khái Hưng, Nhất Linh,.. đến Hồ Trường An, Nguyễn Thị Phong-Dinh,v.v.
Lê Thị Thấm Vân, một nhà văn hải ngoại đã phát biểu rằng:"Trong quá khứ, văn chương tình dục đa phần viết bởi ngòi bút đàn ông. Văn thơ kể, nói, chỉ, "dạy", diễn tả, ... những cảm xúc, "cách thức" rung động, thèm muốn, bày tỏ (thay cho) người đàn bà" (6). Văn chương dục tính hay có dâm tính lại do người nữ viết hình như hấp dẫn hơn vì cũng hình như có tính tự thuật nhiều hơn. Vì từ nay, người nữ làm chủ con người, tư duy, tình cảm và cuộc đời của họ trong văn chương. Làm người nữ, với văn chương! Simone de Beauvoir trong Le Deuxième Sexe (1949) đã phát động cái ý thức nữ quyền đó khi hô hào "On ne nait pas femme, on le devient". Trong văn chương, trong ngôn ngữ vì là cái có thực, có sự sống. Như vậy, viết trở thành hành động tự xác định của người phụ nữ, trở thành phát ngôn viên chính thức của con người phụ nữ, tiếng nói chính thức và từ tình dục.
Từ thuở tạo thiên lập địa, nếu theo truyền thuyết sáng thế từ Adam Eva thì Eva đã phạm tội ở vườn địa đàng, Adam dại gái nên bị cám dỗ; thân phận phụ nữ gãy đổ ở gốc cây táo từ đó. Đến lúc xảy ra phong trào đòi nữ quyền, người ta bắt đầu thấy phụ nữ lộ diện trên mọi sân khấu và đến cuối thế kỷ XX thì sân khấu gần như nhường hết cho các bà. Từ thập niên 1960, họ "lấn" thêm chuyện cái giường và thân xác. Họ gạt bỏ vòng cương tỏa tình dục nam quyền để làm lại thế giới với hình ảnh và dục vọng phái tính của họ. Marguerite Duras đã cho nhân vật nữ chủ động trong tình yêu: "Il a arraché la robe, il la jette, il a arraché le petit slip de coton blanc et il la porte ainsi nue jusqu’au lit. Et alors il se tourne de l’autre côté du lit et il pleure. Et elle, lente, patiente, elle le ramène vers elle et elle commence à le déshabiller" (7). Không xa nơi cô đầm Sadec, thập niên 1960 đã có một thế hệ nhà văn nữ như Trùng Dương đã tỏ tinh thần độc lập, dứt khoát tự giải thoát khỏi những ràng buộc của chế độ phụ hệ, cả trong động tác làm tình: "Một lúc nàng nới lỏng tay ra , thôi hôn tôi, mắt say đắm. Tôi nghe tiếng nàng nói qua hơi thở : Em lên anh nhé? Tôi khẽ gật đầu. Diệu xô tôi nằm xuống giường và lên người tôi. Diệu thường mở màn bằng cách đó. Hình như nàng tìm thấy cái thú nằm trên người tôi, một cái thú khá man dại và cũng chóng tàn"(8). Thử so với Loan của Đoạn Tuyệt chỉ muốn được đọc sách tiếp rồi ngủ sau đã phải đưa đến án mạng!
Hoặc các nhà văn nữ lên tiếng chống lại những thân phận tùng thuộc, nhận chịu, chờ đợi. Họ vạch mặt những qưyền lực đàn áp của định chế chính trị, của xã hội, của đồng lõa phái nam. Cái Tôi trước cái "anh, mày" tức người đối diện, trước cái Ta, cái chúng ta! Cái Moi của Simone de Beauvoir là cái Tôi xồ xề, sung túc ! Từ đó tình yêu có thêm nhiều hình dung từ, ngoài những tình yêu lý tưởng, cao thượng, đau khổ, ... lỗi thời, nay thêm tình yêu bản năng, tình dục, tự do, đổi chác, khoái lạc, cả tình yêu phút chốc, bồng bột, hiểm nghèo, ...  Về điểm này, người viết nữ thời nay như muốn trở lại thời bán khai, tự nhiên, giải phóng tình dục khỏi những quy ước của hôn nhân, phong hóa. Đi xa hơn, không chỉ đòi bình quyền, còn tự chứng minh tự xác tín cái cá biệt "nữ", khác biệt về tình dục, về xúc cảm thân xác, về kinh nghiệm và cả ngôn ngữ. Họ làm chủ cơ thể, cảm xúc và tư duy. Trùng Dương trong Mưa Không Ướt Đất chẳng hạn cho nhân vật lý luận triết lý, truyện có tính cách lý luận hơn là sống nếu muốn gọi đó là hiện sinh. Xưa kia nhà văn nam viết, phân tích tâm lý mọi người thì nay các nhà văn nữ muốn phân tâm đàn ông và tự phân tâm! Một loại "văn hóa" mới, năng động và cách tân phái tính. Họ không ngừng ở thể loại nhật ký, thi ca, tiểu thuyết , mà đi xa hơn, làm chủ cơ quan văn nghệ, lên tiếng phỏng vấn, thuyết trình, ... Nhưng chính với văn chương, với tiểu thuyết và thi ca như phương tiện, mà người nữ lên tiếng, phát biểu, làm chứng.
Lệ Hằng thời trẻ xảnh xoẹ đi tìm hạnh phúc, hạnh phúc là ái ân, da chạm da, nói như Phượng Uyên trong Thung Lũng Tình Yêu chỉ muốn "thiên đường chính là vòng tay, là mùi hương đàn ông, là hơi thở của chàng. Tôi không tìm nữa một cảnh bồng lai, vì đôi môi người yêu, giọng nói người yêu, và đôi mắt chàng, là giòng sông tình ái, là rừng say sưa là suối bất tử đời đời tắm mát tình yêu " (9). Sẽ đòi hỏi hơn với Sóc Nâu là chuyện tình yêu khả thể với một người bạn nam Dũng, kiểu " Em thèm được làm một người đàn bà. Dưới tay anh, dưới thân thể anh, và dưới tình yêu của anh nữa...  Dũng ơi ... Hãy trở thành một người đàn ông với em đi" (10).
Với Túy Hồng trước 1975, nhân vật nữ luôn đầy sức sống vùng vẫy trong một xã hội tù túng, ngộp thở. Họ luôn muốn phá đổ những lễ nghi, cung cách, những nếp sống phụ hệ, gia phong theo họ đã lỗi thời. Dục tính, mà một số nhà văn nam phê bình bà trước 1975, đã bị gán ghép, đồng hóa với thái độ và lối sống tự do, theo bản năng giấu dưới những mỹ từ tình yêu, tình bạn. Hãy còn bóng bẩy, rụt rè hiện thực, cùng lắm qua lời nói, ý nghĩ như nhân vật nữ trong Vết Thương Dậy Thì(1967): "Hãy ngậm em giữa hai môi dầy trác táng, uống em đi, nuốt em đi ừng ực. Chỉ vẽ cho em cách chế cà phê và cách chui vào lòng anh để thao thức cồn cào tỉnh người bỏ ngủ vì đã liếm em trên đầu môi chót lưỡi, đã ngậm, đã nuốt ực em vào anh rồi"(11). Người nữ đi thẳng, nói trắng : "nếu yêu em thì đừng đi quanh nữa (...). Anh hãy cho em đi con đường ngắn nhất, con đường độc đạo của tình yêu" nói như bạn cô giáo Cam Thảo, nhân vật Thở Dài, trong khi cô thì viết thư thúc người yêu cưới mình!
Trần Thị Ng.H. qua Lạc Đạn - viết năm 1973, và một số truyện ngắn đăng báo trước 1975 cũng đã, qua văn chương, tự xác nhận, ra tay để phá đổ huyền thoại phụ nữ như là đối tượng, xây dựng lại tương quan với người khác giống, đảm nhận tự do, một cách lạnh lùng, dứt khoát, dù vẫn cho thấy một loại bất mãn, dồn nén! Nơi thái độ, như hối hận sau liên hệ đồng tính với Thắm, sau khi đã "ôm nhau như đôi tình thân. Thắm rà đôi môi nhỏ trong cổ tôi, đôi vú non căng nở phập phồng, hốt hoảng. Tôi kinh hãi xúc động dầm dề. Tôi muốn la lớn trong cơn khoái cảm mộng mị và kì cục...". Như sau khi chấp nhận trò chơi "đau xé nổ tung đầm đìa. .. đỏ lòm oan uổng" với "người đàn ông lạ mặt", rồi phải "dỗ dành chỗ mềm yếu nhất, dỗ ngọt, săn sóc" đã xác tín - trong ý tưởng, với người mẹ âu lo rằng "con trinh bạch không tội lỗi, con nguyên vẹn của má" (12). Tình yêu, tình người ở đây, không là những bất ngờ! Trong các truyện ngắn khác ở tập này và tập Tập Truyện Ngắn Trần Thi Ng.H. (1999), bà còn nói đến những mặt trái, tội ác, cái chết tự xử, cái chết người khác, những cái chết dàn cảnh!
Cách mạng tình dục tiếp tục với văn học hải ngoại : Đỗ Kh., Khánh Trường, Trần Vũ, Trân Sa, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Hoàng Bắc,... Bài này chúng tôi nhìn qua phía các nhà văn nữ, họ lên tiếng về những âu lo, tâm tình mà lâu nay nhất là ở Việt Nam ít thấy. Những âu lo của Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan thanh cao quá, trừu tượng quá, Hồ Xuân Hương nếu là tác giả thật những bài thơ về tính giống và tác động phòng the, cũng vẫn ở ẩn dụ, bóng gió, không trực tiếp, trốn trong cách thế nho nhã! Nhà văn nữ Việt Nam ở hải ngoại nói thẳng những lo âu thực tế, sờ được, cảm  được, không cần nhiều ngõ quanh, đi vòng. Sinh lý hết được xem như cấm đoán, lại được xem như đòi hỏi chính đáng, tình dục trở thành nhu cầu tự nhiên, phải có, không thiên kiến và mặc cảm phạm tội, cả có khi ngây thơ trong tìm kiếm. Tự nhiên và chấp nhận trò chơi trăm phần trăm, với tấm thân sẵn đó, như đó!
Nói chung, phụ nữ chống văn minh, văn hóa dựa trên quyền hành đàn ông, phụ quyền, chống Tây phương kỹ nghệ định nghĩa đàn ông ở khả năng sáng tạo và chế biến sự vật. Phụ nữ  chống văn chương như một nền chế, họ thích mặt trận "ngôn ngữ" hơn, thích phổ dương liên hệ trực tiếp với chữ viết cũng như với thân xác. Phụ nữ  Mỹ châu đòi quyền lợi, họ dấn thân, xuống đường, lập nghiệp đoàn,... ít cho người đọc thấy dây dưa tình cảm. Ngôn ngữ không quan trọng, cái quan trọng là chống đàn áp, đô hộ của đàn ông . Trong khi đó ở Pháp và Âu châu, ngôn ngữ được đặt lại vị trí, thẩm mỹ học, một loại phản văn hóa đặt nền trên sự đè nén. Người viết nữ xây lại nội dung, cấu trúc lại những ngõ thoát, lối ra của ngôn ngữ. Sướng khoái thể chất đi với sướng khoái lời nói, chữ dùng. Thêm vào, những khuynh hướng mới về tiểu thuyết như hậu thuộc địa (postcolonial) là một loại diễn văn muốn thay thế những quan điểm đã được thiết lập trước về lệ thuộc và vâng lời bằng quan điểm hoàn toàn ngược lại, đề cao tự lập cá nhân và tự chủ. Xây dựng lại nội dung bằng đường thoát ngôn ngữ. Lạc thú thân xác đi liền với lạc thú ngôn ngữ, đến sau lạc thú ngôn ngữ. Người nam đi vào văn để tìm hoặc nếu đã thấy, trình bày lý thuyết, triết lý hay một "nghiệp", người nữ thì đến để thực hiện cái tôi, xác định cái tôi, cá nhân. Và họ đi vào tình dục. Sex được dịch là hữu-tính (tự điển Thanh Nghị), làm như không sex là số không to tướng! Đưa đến những cuộc sống ...ngoại lệ: đàn bà không sanh con, đồng tính luyến ái, lãnh cảm (Jane Austen, chị em Emily và Charlotte Bronte, Simone de Beauvoir, George Eliot, ...). Sống đời thế tục, tận hưởng phút giây, lãng mạn tình yêu đến tự do tình dục!
Người nữ sống đời hải ngoại hội nhập, choáng ngợp giữa những lạ-lẫm (exotic), đầy ắp và choáng ngợp trước tự do ở xứ người, tự do tuyệt đối và cá nhân chủ nghĩa, từ vật chất, thân xác, tình cảm,.. Có thể họ muốn giả vờ, trưởng giả , nhưng lại không giữ lề, thích tự do ngoại tình,.. Có người đi đến thái độ hài hước đen, ngầm nữ quyền. Người nữ những thập niên cuối thế kỷ XX choáng ngợp tự do, tình dục, đi xa hơn cô giáo Hoàng. Cái giường hết còn là ám ảnh chính như với Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Túy Hồng (từng viết "cái giường là đồ vật tội lỗi nhất trong những đồ vật" trong Vết Thương Dậy Thì),... Sau chiến tranh, nhân vật Túy Hòng sống trong chia cách và đời sống mới, trở nên yếu ớt, căng thẳng, vô định trước tương lai, lại tăng dâm tính, tình dục trở nên cách hành xử hoặc tác động xác thân lên trên tình cảm. Đây là một hiện tượng từng chứng minh với những biến động lớn như vụ không tặc Tháp Đôi ở New York ngày 11-9-01. Để xóa căng thẳng và tái xác nhận đời đáng sống, cái sống đáng trân trọng, một tâm trạng sống sót, cho nên buông thả tình dục, với cả người mới quen. Cứ Tay Che Thời Tiết  "có thể chờ chồng nhưng tôi không thể thủ tiết được" cho nên cứ "xoạc mông xoãi đùi đu bay lẫn lộn trong bát ngát tự do rì chặt chữ tình làm cứu cánh" (tr. 73), cuối cùng mới thấy chỉ là ảo tưởng, lãng mạn. Ảo mộng vun trồng vẫn hóa ra mộng ảo, con người không dễ thay đổi lớn !
Nhân vật Mưa của Lệ Hằng trong Bên Kia Là Núi (1998) một khi ra được ốc vỏ văn hóa cũ (cô giáo, vai chị), đã lồng lộn thụ hưởng đời sống tình dục hơn cả người tình Phi châu Saba của Hãn. "... Cô bỗng khùng lên, cánh đồng khô khát của cô ghì lấy Hãn. Chưa một lần nào, Hãn thấy cô tả xông hữu đột truy bức thân thể Hãn dữ dằn hơn. Gầm gừ mê mỏi, hào hển đứt hơi. Cuồng lên vì lạc thú, cô làm Hãn kích ngất vì những rung cảm khốc liệt của cô... "(13).
Như vậy, nay chính thân xác là đối tượng, là đề tài chính! Với Trân Sa và một vài nhà văn nữ, tôn giáo ngưng lại ở chỗ tình dục; tình dục không những tháo gỡ cấm đoán mà còn vô hiệu hóa cấm đoán. Tình yêu khác tình dục, cái sau cũng làm ... tình nhưng hết mình, chính xác, một chuyện. Làm tình phức tạp hơn, đòi hỏi con tim, lời nói, cử chỉ, cả văn hóa. Làm tình, trò chơi thân xác, tựu trung là một khoảng trống cần thiết, một chiến thuật đầy đủ, cũng là cách thức sống, một cách biểu tỏ, một phương tiện hiện hữu thể chất, máy móc - là những thứ nếu thiếu, thì cái còn lại chỉ là phó sản, hiện tượng phụ. Làm tình cũng là một cách học hỏi bằng tự xóa. Tình dục trước khi là hiện tượng xã hội, văn hóa, đã là thân xác.
Khi tay anh xoa xoa  xà phòng vào “nơi ấy”,
nắng bên ngoài rực sáng thêm một chút nữa.
“Nơi ấy” giờ thì mềm xìu, bé tí, bình thường như vành tai, chóp mũi, khuỷu tay, đầu gối, gót chân… như bất cứ phần nào trên thân thể anh.
Trước đấy một giờ. Nó cương cứng, nóng hổi, hùng hổ
trong miệng em, giữa rãnh ngực em, trên mông em. Nó cố đâm thấu-xuyên-sâu-qua bao lớp da thịt để vào trong em. (Là nó, chẳng thuộc về ai).
(Lê Thị Thấm Vân,  Căn Phòng 2.2  Âm Thanh Sóng) (14).
"... Suốt một buổi chiều /  Yêu dọc từ dưới lên - và xuống / Từng lằn chỉ - khớp - từng phân li thịt da / Nhập một / ấm áp - rịn - ướt / Suốt một buổi chiều / Không ngớt / Nghiêng - xoay - cong - mềm mại / Cọ - trườn - lướt / Sau - trước / Những điệu thuần nữ / Có khi là một / Hai - ba - hoặc cả năm / Yêu khắp cùng lòng kia ưỡn ngã xuống như sóng / Và lượn úp lên - uốn chụp xuống / Đan khít mười / Không rời / Không một kẻ hở / Tuần tự - tất cả / Ngoài và trong - không một bỏ trống / Gò và trũng / Suốt một buổi chiều / Hai bàn tay lần đầu yêu nhau / Suốt buổi chiều / Trong căn phòng..." (Trân Sa, Động Tác Yêu) (15).
Thế giới ẩm ướt, trò tình dục không được một số nhà văn nữ Lệ Hằng, Trần Thị NgH, Trân Sa, ... coi là cấm đoán hay lớp áo mỏng che. Broadway ở New York còn đưa lên sân khấu vở Độc thoại của cái l. (Vagina Monologues) của Eve Ensler trong ngày được gọi là V-day, địa đàng trở nên ẩm ướt mà đối với một số nhà văn nữ, cái ẩm ướt cũng là căn cước của họ. Với họ, tình dục là tự nhiên và những hành cử tình dục cũng như bộ phận sinh dục bị bêu xấu hay không nói đến chắc là để làm dơ, làm xấu, làm mờ phai chính hành cử đó, đối tượng đó. Nên họ làm ngược lại!
Dương Như Nguyện đưa vào đời sống hội nhập Mùi Hương Quế (2000), một mùi thơm của tiềm thức và một thân xác của-lạ để đối phó với thực tại vật chất của xứ người. Một cái nhìn xuyên suốt tâm thức văn hóa gốc khi sống đời hội nhập và thành công ở xứ người. Nhân vật Trâm Kha chẳng hạn hội nhập nhanh: "Trong giai đoạn đầu, tôi tình nguyện ngủ với hắn" (tr. 138), chạy theo tình dục như lâm trận tranh đấu cho nữ quyền, và trên ngay phần đất cơ thể chính mình.  Tâm thức về cái thân phận nữ phái, qua những nhân vật thân thích gia đình của bà. Qua nhiều thế hệ: bà ngoại, Tĩnh Tâm, ... Cũng là mùi thơm của oan khiên, tiếc nuối. Trong một truyện ngắn, Như Mưa, Nắng...?, Nguyễn Thị Hoàng Bắc kể một chuyện tình đồng tính giữa hai người phụ nữ như một chớm nở pha lẫn nghi ngờ:
"Tôi không lesbian, nhưng yêu (...)
Tôi run động ngẩn ngườị Ai là tôi, khi tôi/ai thích chuyện này, khi tôi/ai mê cái khác? Tôi/ai biết quá đại khái về ai/tôỉ Như mưa nằng tầm phàỏ" (16).
Rồi những khám phá như S. Hite về điểm cực khoái của thân xác phụ nữ năm 1976, người nữ hết phải chờ, hết cần được cho; muốn là tìm cho được, hối thức, vồ vập... Người nữ vô tình đánh mất tình cảm đã đành mà mất luôn "ngây thơ tình dục", gia vị thiết yếu cho đam mê, tình yêu, gây quyến rủ. Người viết nữ giới từ ý muốn làm chủ văn chương về phái nữ, đã đi đến chổ làm chủ ảo mộng cho người nữ bởi người nữ. Naomi Worlf, một người tranh đấu nữ quyền Hoa Kỳ nổi tiếng, sau những đòi hỏi triệt để đã quay 180 độ, trở về tự nhiên, chủ trương "nữ quyền làm mẹ" (motherhood feminism) trong mấy cuốn như Fire with Fire, Misconceptions đòi hỏi quyền làm việc đồng thời làm mẹ. Vì hai hình ảnh chính của văn chương nữ phải là người mẹ và người nữ, nên thành đề tài, lý do và thể loại xử dụng và ngay cả việc tận dụng ngôn ngữ.
Trên đà đấu tranh bình quyền, thuốc ngừa thai, của thập niên 1960, người phụ nữ đã bớt hoặc không còn làm mẹ. Thuốc ngừa thai khiến người phụ nữ không phải mặc cảm tội lỗi ! Ngay có con đã có cách cấy giống khỏi cần yếu tố dương, nghĩa là xa hơn thái độ của nhân vật của Trần Thị Ng.H. trong truyện Sinh Nhật (17) định nghĩa một người mẹ/người nữ mới, một mình nuôi con, không cứ phải qua định chế hôn nhân. Và rồi bộ phận có tuyệt vời đến mấy cũng chỉ là một ... cơ quan, cái thiếu vẫn là liên hệ, luật âm dương kinh dịch từng nói đến! Cách mạng tình dục đã là hậu quả của cách mạng nữ quyền, nhưng đã đảo lộn mục đích-đối tượng. Thập niên 1960 họ đòi trả thân xác cho họ nhưng khi thân xác trở thành chính cái Tôi thì thân xác lại chiếm nhiều chỗ quá. Nhục dục từ chỗ bị dồn nén, trở thành khuôn mẫu, khoái lạc, là cấm kỵ trở thành totem (tổ vật), không sanh đẻ, trục trặc nhục dục (libido), cái giống trở nên buồn thiu sau khi tả tơi máy móc hóa, tầm thường hóa (chương trình truyền hình Sex and the City ở Mỹ). Thân xác không tình yêu, từ đối tượng trở nên chủ thể của nhục dục! 
Chống đề cao giống mạnh, nam quyền macho, phong trào nữ nêu khẩu hiệu "đàn bà là tương lai nhân loại, thế kỷ XXI là thế kỷ đàn bà". Mỗi giống tính không thể rút vào vỏ cô đơn tình dục, trí thức và luân lý, cuộc sống còn gì thú vị và tương lai! Nay có thể nói người nữ còn lại bốn ám ảnh chính: tình dục, sợ hãi, bạo lực và khinh rẽ. Nữ quyền đòi hỏi đến một lúc nào đó sẽ rơi vào chán nản, tình dục cũng thành buồn thiu. Saba, nhân vật trong Bên Kia Là Núi của Lệ Hằng, sống buông thả và bạo động tình dục như để chứng minh nữ quyền, cuối cùng đâm ra sợ cả tự do tình dục. Chưa kể đến hiện tượng tiểu thuyết dành cho độc giả phụ nữ, có khuynh hướng xem như những tranh đấu nữ quyền đã qua, nay đưa ra những hoàn cảnh nhân vật nữ bị tiếng sét ái tình hoặc tô điểm một hình ảnh "hoàng tử của lòng em", mà nếu gặp, người vai nữ dám bỏ hết tương lai sự nghiệp để đi theo - như trước kia, nhưng khác là nay do nhà văn nữ viết ra! Và cứ thế, những trào lưu tiếp nối, hết nữ-lưu luận sẽ thuyết lý gì khác?
Không đóng vai luân lý, đạo đức nhưng đối với văn chương dục tính, thiển nghĩ tính văn chương sẽ không ở lâu với những quẩn quanh tình dục không lối thoát. Không bắt buộc phải hướng thượng, nhưng nếu nhân vật, hành động và nội dung của văn chương cứ bị tình dục, thân xác giam hãm tù đày, định nghĩa về văn chương hình như đã bị hãm hiếp một cách tội nghiệp vậy! Đây là chỗ khép lại của nhiều thập niên thử nghiệm kể từ khi nhóm Sáng-Tạo đề nghị buông thả và khai phá tình dục trong văn chương. Cuối cùng, cũng cần nói thêm là dục tính trong văn chương phải chăng một phần do ở người đọc - một thứ "cây sậy biết suy nghĩ"; người đọc trở thành đồng lõa với loại văn chương dục tính ?./.
- - - - - - - - -
Chú-thích:
1.   Nhất Linh & Khái Hưng. Anh Phải Sống (Sài Gòn : Đời Nay, 1961?), tr. 19.
2.   Phùng Nguyễn. Tháp Ký Ức (Westminster CA: Văn, 1998), tr. 97.
3.   Sáng Tạo b.m., 5, 11-1960, tr. 97-102.
4.   Sáng-Tạo b.m., 1, 7-1960, tr. 26-32.
5.   Sài Gòn : Đức Lưu Phương, 1931. Trích theo bản chụp lại.
6.   Văn học CA, 124, 8-1996.
7.   L’Amant. Paris : Minuit, 1984.
8.   "Miền Chân Trời". Văn (SG), 31, 1965, tr. 76.
9.   Sài Gòn : Gió, 1973, tr. 276-277.
10. Lệ Hằng. Sóc Nâu, XT tb, tr. 242.
11. Sài Gòn : Kim Anh, 1967, tr. 87.
12. Trần Thị Ng.H. Lạc Đạn Và Mười Truyện Ngắn (Toronto: Thời Mới, 2000), Tr. 67, 43 và 47.
13. San Francisco CA: Mõ Làng, 1998, tr. 183.
14. Tạp chí Thơ CA, số mùa đông 1999.
15. Nhánh Nhỏ (www.nhanhnho.org), 27, 1-2001.
16. Nguyễn Thị Hoàng Bắc. "Như Mưa, Nắng...?". Việt, 6, 2000, tr. 181&182.
17. Một truyện Trần Thị Ng.H. khác, viết năm 1998, in trong Lạc Đạn... Sđd.
 NGUYỄN VY KHANH

Source Internet.

Cộng Đồng ...

Trần Trung Đạo


Nhà tôi có trồng hai cây mai trong chậu. Vợ tôi thích trồng vài cây cảnh nhỏ trong nhà nhưng trồng gì cũng khó sống ngoại trừ trồng mai. Khoảng mười năm trước khi đến thăm Montreal, nhà thơ Thủy Trang cho chúng tôi một cây mai nhỏ. Cây mai chị cho nhỏ đến nỗi tôi để ngay trước chỗ tay lái mà cảnh sát biên giới cả Mỹ lẫn Canada đều không thắc mắc là cây gì mặc dù luật mang cây trái sang biên giới rất nghiêm khắc.

Cây mai lớn rất nhanh cho đến ngày nọ một người bạn ghé chơi và phán rằng Tết sắp đến nên nhặt lá để cây mai trổ bông. Chúng tôi dại dột nghe lời nhặt hết lá mai dù nhiều lá vẫn còn xanh và thậm chí còn non. Vài hôm sau cây mai chết.

Từ bài học cay đắng đó, sau này khi mua cây mai khác từ vùng Florida nắng ấm, chúng tôi để mặc mai chọn lựa thời gian rụng lá và trổ bông bất cứ lúc nào chúng thích. Công việc của chúng tôi là canh chừng nhiệt độ, giữ cho mai được đủ ánh sáng, mùa hè đem ra sân, mùa đông đem vô nhà, bón phân và tưới nước. Năm nay cũng thế. Tôi không nhặt lá nhưng tháng qua hai cây mai lần lượt tự rụng lá, mọc lên những chồi non màu tím và những nụ màu xanh. Nếu ở chợ hoa nào đó trong nước hai cây mai nhà tôi dù đem biếu không chưa chắc có người nhận nhưng ở miền Đông giá rét của nước Mỹ, chúng được coi quý chẳng khác gì là linh chi ngàn năm. Mai nở trong khung cảnh chẳng có gì gọi là xuân. Mùa xuân ở đây và cả bên nhà đều chưa đến. Trời mới sắp vào đông. Boston lạnh sớm hơn mọi năm. Nhiều đêm nhiệt độ đã xuống đến mức đông đá. Buổi sáng đoạn đường ngắn từ nhà bước ra xe đã đóng thành băng. Hôm nay chỉ mới cuối tháng 11. Tháng 11 đối với tôi là một tháng nhiều kỷ niệm. Tôi xem ngày 20 tháng 11 như là ngày lễ lớn vì cách đây 27 năm, 8 giờ tối ngày 20 tháng 11 năm 1981, tôi đặt chân đến thành phố “có tôi đây xa lạ” nhưng nay trở thành thân thiết này.

Những năm trước rảnh rỗi hơn, tôi thường dành ngày 20 tháng 11 để lái xe về thăm con đường Parkvale ở Allston, nơi bác Tôn Thất Ân, ngày đó còn làm việc cho cơ quan bảo trợ, đưa tôi về sống những ngày đầu tiên với những người cùng cảnh ngộ. Dù bác chỉ làm công việc của một nhân viên, tôi cũng biết ơn bác vì sau bao nhiêu chuyến đi xa của đời mình lần đầu tiên có một người đến đón.

Khi có dịp đi lên hướng bắc của thành phố, tôi thường trở lại thăm con đường Commonwealth. Con đường có hai hàng hoa Mộc Lan xinh đẹp thường được in trong các bưu thiệp để giới thiệu về thành phố Boston. Đường Commonwealth có trường đại học Boston, nơi tôi ghi danh học môn ngôn ngữ điện toán đầu tiên hết sức khó, đêm ngủ thường chiêm bao thấy mặt ông thầy. Thời đó, mỗi sinh viên dù chuyên ngành cũng chỉ được xử dụng máy mỗi tuần 8 giờ ngoại trừ sau 11 giờ tối đến 5 giờ sáng. Những kẻ đánh máy theo kiểu “nhất dương chỉ” như tôi thường phải ngủ sớm để khuya thức dậy đi làm bài. Trên đường Commonwealth còn có trụ sở của International Institute of Boston, cơ quan thiện nguyện đã bảo trợ tôi trong những ngày mới đến.

Tôi cũng thích ghé ngang qua công ty Teradyne, một công ty điện tử quen thuôc với người Việt, nơi lần đầu trong một buổi chiều mưa, tôi đã gặp gỡ một người sau này trở thành vợ tôi. Những người quen, có người còn người mất và những con đường, căn nhà, hàng cây, qua mấy chục năm đã thay hình đổi dạng nhưng trong lòng tôi kỷ niệm vẫn màu xanh.

Kỷ niệm, dù vui hay buồn, dù ngọt ngào hay cay đắng, nếu biết chiêm nghiệm, cũng giúp thăng hoa cho cuộc sống con người.

Trời năm nay cũng mưa nhiều hơn năm trước. Mưa và mưa. Những cơn mưa lạnh kéo dài suốt cuối tuần qua. Mưa nhiều đến mức Thống Đốc tiểu bang Massachusetts phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp để phòng chống lụt. Những chặng đường của đời tôi đi qua cũng được đánh dấu bằng những cơn mưa. Tôi rời làng Mã Châu một mình khi còn rất nhỏ và đêm đầu tiên ở Đà Nẵng là một đêm mưa. Tôi vào Sài Gòn trong một chiều mưa và đêm từ giã Sài Gòn cũng trong cơn mưa lớn. Và bao nhiêu cơn mưa khác. Mưa khi lái xe rời thành phố có ánh trăng mười sáu soi đường, mưa khi xa sân trường trung học có hàng phượng vĩ, mưa khi lần cuối đạp xe qua con đường Duy Tân có bóng me xanh. Và bao nhiêu kỷ niệm, dù một ngày, một năm hay một đời, dù còn ở lại hay ra đi vội vàng như những chiếc lá cuối thu, âm hưởng của chúng vẫn còn vang trong tâm hồn tôi bất tận.

Mưa làm tôi nhớ lại những cơn mưa tuyết chào đón tôi 27 năm về trước cũng vào cuối tháng 11 này. Tôi quen đi và đến một mình nhưng phải công nhận khi rời Manila để đến Boston là một trong những thay đổi lớn nhất. Sáng 17 tháng 11 năm 1981, đại diện Cao Ủy Tỵ Nạn phát cho chúng tôi mỗi người một tờ giấy có ghi những chuyến bay đi và đến. Tấm giấy của tôi có ghi phi trường tôi sẽ đến bằng chữ BOS. Tôi không hiểu đó là đâu vì chưa quen với cách viết tắt các phi trường Mỹ. Nhân viên Cao Ủy giải thích trạm cuối cùng của tôi là Boston. Đứng trong góc phòng tôi nghĩ về thành phố mang tên của một điệu nhạc buồn. Boston xa xôi quá. Phần lớn người trong đoàn sẽ về California nắng ấm vì họ có thân nhân. Tôi thuộc diện “mồ côi”, hiểu theo nghĩa tỵ nạn là không có thân nhân ở Mỹ, sẽ đi về xứ lạnh.

Và như thế, đoàn người tỵ nạn chúng tôi lên xe bus ra phi trường. Gia tài của tôi, dăm bài thơ dang dở và một bộ áo quần. Hôm rời trại Palawan, tôi mang dép ra phi trường đi Manila. Một người nhắc tôi nên lên chỗ Sơ Pascal xin một đôi giày. Tôi không đi, tự nghĩ Sơ còn phải lo chăm sóc cho đám trẻ em, mình lớn rồi nên tự lo liệu lấy. Ở Manila, một người quen cho tôi một đôi giày nhưng số nhỏ hơn bàn chân tôi nhiều. Đôi giày chật chội làm mấy ngón chân tôi chảy máu.

Và như thế, tôi tạm biệt trại Palawan thân thương, tạm biệt thủ đô Manila kỷ niệm, tạm biệt cảng Subic Bay nơi chiến hạm White Plains có thể đang nhả neo, tạm biệt đất nước Philippines với lòng biết ơn bảo bọc, tạm biệt Thái Bình Dương bao la nơi đồng bào tôi đang lênh lênh trong dòng nước đó và tạm biệt phương đông, tôi mang thơ đi về phương tây bằng đôi chân đang rỉ máu, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Không ai đưa tiễn, như trong thơ Nguyễn Bính, tôi “một mình làm cả cuộc phân ly”.

Ngồi trên máy bay mà lòng miên man tưởng tượng những gì đang chờ đón mình. Hồi còn nhỏ tôi nhiều lần đi xa nhưng không ý thức hết sự quan trọng của mỗi chuyến đi. Ngày đó tôi đi như con chim nhỏ cuốn theo dòng định nghiệp. Với đôi cánh nhỏ nhoi và sức bay yếu ớt của mình, tôi chỉ biết nương theo chiều gió mà sống sót. Có khi đậu trúng bãi cát nóng Sơn Chà, có khi rớt xuống trại cây khô Đà Nẵng, có khi rơi dưới gốc đa già ở Hội An, nhưng dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, tôi cũng đã cố gắng bay lên để hót vang giữa núi rừng đầy bất trắc.

Không phải bây giờ mà ngày xưa cũng thế, không ai biết tôi một mình. Tôi có con người của xã hội và con người của riêng tôi, hòa hợp và tương phản, im lặng và sôi nỗi, luôn cố gắng làm điều tốt nhưng cũng phạm nhiều lỗi lầm. Tôi luôn sống rất vui, rất lạc quan và rất yêu đời. Tôi luôn tìm được những điều tích cực ngay cả trong những hoàn cảnh vô cùng tuyệt vọng như khi đứng trên bờ kinh Chu Hải một buổi sáng tháng 6 năm 1981 chẳng hạn. Nhưng bay đến Boston thì khác. Năm 1981 tôi đã ở tuổi trưởng thành và ngọn núi đang chờ tôi ở Boston cũng cao hơn nhiều so với những ngọn núi thời thơ ấu. Tôi không chỉ phải chọn lựa cách vượt qua mà còn phải vượt qua bằng con đường ngắn nhất và nhanh nhất.

Sau 27 năm, ngọn núi vẫn còn đó, thử thách vẫn còn đó, bao nhiêu việc muốn làm vẫn chưa làm xong, mơ ước thời tuổi trẻ vẫn còn là mơ ước, nhưng ít ra, nhân ngày đánh dấu 27 năm định cư trên nưóc Mỹ, nhìn lại đời mình, tôi nghĩ mình đã làm được một vài việc có ích cho xã hội, đã đi một đoạn đường, đã gieo trên mảnh đất cằn khô mà tôi đặt chân qua vài hạt giống tôi tin là tốt cho tương lai. Và tất cả những điều tôi đã làm sẽ không thành nếu thiếu đi một chất liệu căn bản. Đó là tình người.

Tình người trong những ngày ở ngoài nước không bắt đầu từ đâu xa mà ngay trong cộng đồng tôi đang sống. Một cái bắt tay, một lời chào, một lời an ủi, một tiếng cười và nhiều khi cả những giọt nước mắt chia buồn đã tạo trên xứ người xa lạ này một góc quê hương. Chúng tôi nương tựa vào nhau, gần gũi nhau hơn cả những người thân thiết trong gia đình. Đất nước nằm bên kia trái đất xa xôi nhưng tình người có ở khắp nơi và vô cùng gần gũi. Khái niệm cộng đồng không phải là khái niệm mới mà đã có trong tự điển từ ấn bản đầu tiên nhưng giá trị thật sự của khái niêm nầy chỉ thể hiện trong sự hình thành của cộng đồng người Việt hải ngoại sau 1975.

Ở Boston trong những năm đầu thập niên 1980, tôi biết có nhiều người chuyên đi tìm trường dạy nghề, các hãng xưởng, các lớp tiếng Anh miễn phí hay những chỗ cho mướn nhà rẻ để giới thiệu lại cho bà con còn gặp khó khăn. Mỗi tuần chúng tôi gặp nhau để nghe các anh chị đó thông báo những tin tức họ vừa tìm hiểu được. Họ không làm cho cơ quan thiện nguyện nào cả nhưng chỉ nhờ nói được tiếng Anh tốt hơn nhiều người khác. Tôi cũng biết một anh suốt nhiều năm trời đã tận tụy với công việc đi đón người mới đến, từ thế hệ vượt biên cho đến các đợt HO sau nầy. Dù khuya khoắt bao nhiêu, tuyết rơi ngập lối hay giá rét căm căm anh vẫn đứng chờ trên hành lang phi trường để mang đến cho bà con vừa đặt chân xuống máy bay những lời thăm hỏi đầu tiên vô cùng cần thiết. Như bầy chim tránh bão, chúng tôi đã nương tựa nhau mà sống dưới tàn cây phong và sưởi ấm đời nhau bằng que củi tinh thần.

Những đồng hương có lòng tốt như thế không phải chỉ có ở Boston mà chắc chắn cũng có ở Montreal, Toronto, Chicago, San Jose, Santa Ana, Paris, Sydney, Berlin và khắp nơi tại hải ngoại. Tên tuổi của họ có thể không được vinh danh trong những tiệc tùng sang trọng, không được nêu trong danh sách của những anh hùng làm rạng danh cộng đồng người Việt. Không, họ không phải là những khoa học gia có nhiều bằng sáng chế, những trí thức học nhiều hiểu rộng, những chủ công ty lớn, những dân cử được bầu bán, những thương gia giàu có nhưng nếu thiếu họ cộng đồng chúng ta đã phải khó khăn vất vả biết bao nhiêu. Con đường nào, đại lộ nào cũng có tên nhưng của con đường trưởng thành của cộng đồng Việt Nam phải được mang tên họ, những đồng hương Việt Nam làm việc trong âm thầm nhưng đầy lòng nhân ái.

Nếu không có tình cộng đồng có thể tôi vẫn sống, cũng học ra trường, cưới vợ, có con và đi làm để xây dựng cho mái ấm cho riêng của mình, nhưng tình cộng đồng đã mang đến những điều tôi không có. Tình cộng đồng là mùa xuân của cuộc đời tỵ nạn, đã giúp tôi mang cái riêng vào cái chung, giúp tôi hiểu ý nghĩa giọt nước mà tôi đang uống, chén cơm mà tôi đang ăn. Tình cộng đồng là nguồn suối của rất nhiều thơ và văn tôi.

Tháng 8 năm nay, tôi in một cuốn sách mới nhưng cố ý dành đến gần ngày kỷ niệm 20 tháng 11 để giới thiệu đến bà con Boston trước khi đi giới thiệu vài nơi khác. Như tôi có thưa với bà con có mặt hôm đó, họ không phải là độc giả hay là những người thưởng ngoạn văn học nghệ thuật nhưng là một phần trong đời sống tinh thần, là nội dung và tâm hồn của cuốn sách tôi vừa viết. Tôi đi nhiều nơi nhưng bao giờ cũng muốn về lại Boston, thành phố thân yêu nơi tôi sống lâu hơn thời gian tôi đã sống ở Việt Nam. Không có đời sống tỵ nạn, hẳn nhiên vẫn có tôi nhưng sẽ không có Trần Trung Đạo, bút hiệu mà tôi đặt cho bài thơ đầu tiên viết ngoài Việt Nam.

Boston gắn liền với tình cảm của tôi như một người anh văn nghệ, nhà văn Trần Hoài Thư có lần đã viết: “Con đường Dorchester qua những tiệm ăn, tạp hóa Việt Nam. Và một khu Việt. Và những gương mặt da vàng. Và những lời trao đổi bằng tiếng mẹ đẻ vang trên bãi đậu xe. Đời sống vẫn bận rộn. Cõi lòng vẫn quay quắt. Nhớ nhung vẫn bão bùng. Bạn hữu mấy thằng trôi thất tán. Mấy thằng đợi một chuyến đò ngang…Cái mẫu số chung ấy là mẫu số của bất cứ người tị nạn nào trong chúng ta…Cám ơn Boston với những con tim kỳ diệu. Nếu không có những con tim này, tôi nghĩ, chắc chắn sẽ không có Trần Trung Đạo”.

Thật vậy, có lần, sau khi bán căn nhà ở Dorchester nhưng lại không di chuyển về thành phố khác, vợ chồng tôi phải đi tìm mua căn nhà mới. Chúng tôi đến phía nam tiểu bang Massachusetts và tìm được một căn nhà rất khang trang nhưng giá cả phải chăng vì khá xa thành phố. Trên đường lái xe về, vợ tôi đoan chắc là tôi sẽ không mua căn nhà đó, lý do đơn giản vì xa cách với cộng đồng người Việt Boston. Vợ tôi nói đúng. Tôi không thể sống xa cộng đồng Việt Nam. Tôi chỉ có thể ở những nơi nào mà trong vòng 20 hay 30 phút tôi phải có mặt khi cộng đồng cần đến tôi. Tôi không có phòng mạch ở Boston, không có nhà hàng ở Boston, không có văn phòng luật sư ở Boston và tôi cũng chưa bao giờ đảm nhiệm một chức vụ gì trong ban chấp hành cộng đồng nhưng khi nghĩ đến cộng đồng, tôi luôn nghĩ đó là cộng đồng của tôi, giống như nhà tôi bây giờ hay chùa tôi, cây đa thân thiết của tôi ngày trước. Câu nói “Cộng đồng của tôi” thể hiện một quyền sở hữu nhưng không phải sở hữu tài sản vật chất là một thứ sở hữu tình cảm, một mối tình đã gắn bó thủy chung với tôi suốt 27 năm qua.

Cách nhà tôi khoảng 20 dặm về phía nam là một thành phổ nhỏ nhưng rất nỗi tiếng bởi vì đó là một trong những trạm khởi hành của lịch sử Mỹ, thành phố Plymouth. Nhóm người đâu tiên đã trải qua nhiều khó khăn nhưng ít ra họ hơn cộng đồng người Việt một điều là khi ngồi trên chiếc tàu Mayflower họ biết rằng họ đang giăng buồm đến Mỹ. Người Việt Nam thì khác, ra đi như chỉ để ra đi. Khi đứng trên boong chiến hạm USS White Plains nhìn biển cả mênh mông và những cụm mây bay xa tít cuối chân trời, tôi không biết đời mình rồi sẽ ra sao. Tôi tin, ngoại trừ một số ít có thân nhân, những người ra đi như tôi đều chia sẻ một tâm trạng buồn giống nhau như thế. Làm người chỉ có một quê hương, vâng, nhưng quê hương không bao giờ đủ nghĩa và trọn vẹn nếu quê hương không có tự do. Tôi thán phục câu nói của Tổng Thống Abraham Lincoln “Nơi nào có tự do, nơi đó là quê hương tôi” và từ suy nghĩ đó tôi đi.

Không phải chỉ Boston thôi, mà tôi tìm thấy tình người trong tất cả những nơi tôi đã đến. Nhiều mùa hè, tôi dành gần như tất cả cuối tuần để đi đến các thành phố lớn nơi có cộng đồng Việt Nam và bạn bè tôi đang sống như Orange County, San Jose, Atlanta, Washing DC, Seattle, Sacramento, San Diego, Denver, Tampa, Miami, Chicago, Houston, Dallas, Montreal v.v. và ở đâu tôi cũng tìm thấy sức sống mỗi ngày thêm mạnh của cộng đồng người Việt, một tình đồng hương đầm ấm, thiết tha. Tôi đã đến với những cộng đồng nhỏ đến mức vào ngày Tết tập trung hết cũng chỉ có vài chục gia đình như ở Cary, North Carolina và tôi cũng đã đến với những cộng đồng rất lớn có cả hàng chục, hàng trăm nghìn người như Santa Ana, San Jose, Houston, Dallas. Và dù ở đâu tôi vẫn bắt gặp giòng suối tình thương Việt Nam đang chảy và hàng cây hy vọng mỗi ngày một thêm cao lớn. Tháng trước tôi trở lại thăm Atlanta. Mười năm tôi mới có dịp ghé qua đó một đêm. Trong chương trình thơ nhạc, tôi vẫn còn được các chú bác anh chị ở Atlanta gọi một cách thân thương là “nhà thơ trẻ”. Thật ra tôi không còn trẻ nữa nhưng vì hầu hết những người từng gọi tôi như thế trong lần đọc thơ mười năm trước cũng có mặt trong buổi chiều đọc thơ lần nầy. Mái tóc họ bạc hơn và những bước đi chậm hơn nhiều nhưng họ vẫn giữ trong tâm hồn một tình cảm và một hình ảnh mến thương nguyên vẹn như trong lần đầu tôi đã ghé thăm.

Ba mươi ba năm, từ những ngày đầu tiên khi ánh mắt còn ngỡ ngàng, bước chân còn ngần ngại, câu nói còn vụng về, cộng đồng Việt Nam đã trưởng thành về mọi phương diện. Những siêu thị mỗi ngày một đông hơn, thương xá rộng hơn, nhà cửa cao hơn, xe cộ mới hơn. Hẳn nhiên, cộng đồng Việt Nam chưa phải là một cộng đồng tuyệt vời, hoàn hảo như mỗi chúng ta có thể đang mơ ước. Có những điều chưa trọn vẹn, nhiều hiện tượng tiêu cực và nhiều ước mơ chưa trở thành hiện thực.

Mồi khi lật trang quảng cáo của một tờ báo, ở bất cứ tiểu bang nào, ở bất cứ nước nào, chúng ta cũng thầm tự hỏi phải chi tất cả ông bà bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, luật sư, thương gia đang quảng cáo đầy kín tờ báo kia, dành một ngày, một ngày thôi, để đến với nhau trong lễ Giổ Tổ Hùng Vương hay Tết Dân Tộc thì cộng đồng chúng ta sẽ đẹp hơn, sẽ mạnh hơn, sẽ ấm cúng hơn biết bao nhiêu.

Ngoại trừ một số ít có tinh thần dấn thân, một số khác đông hơn vẫn còn xa cách, vẫn xem cộng đồng người Việt đơn giản chỉ là những khách hàng không khác gì người Hoa, người Mễ. Họ quên rồi chăng? Trong ký ức chưa phai của những lưu dân vừa bỏ nước ra đi, có họ trong những người từng sắp hàng trước cơ quan an sinh xã hội để lãnh tiền trợ cấp, có họ trong những đoàn người chân ướt chân ráo, lạc đường, lạc nẽo giữa phố người. Hàng cây phong còn đó nhưng bầy chim đã sớm bỏ nhau đi khi mùa đông đến. Tôi mong có một ngày họ sẽ đến, đúng ra là sẽ trở về, để tìm lại chính mình trong cộng đồng người Việt với tư cách là thành viên của một đại gia đình, nơi chính họ đã nhờ đó mà thành công.

Không giống như các tình trạng rẽ chia, hận thù và phân hóa thường thể hiện qua những hiện tượng tiêu cực trong đời sống hàng ngày mà ai cũng dễ dàng nhận thấy, tình thương là dòng suối mát nhưng nhiều khi chảy rất âm thầm, như sáng nay trong nhà tôi những búp mai xanh đã âm thầm nở thành những cánh hoa vàng rực rờ. Mùa xuân đang lần nữa qua đây."


Source Internet.



Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

Thầy của Khổng Tử


Phạm Lưu Vũ

Tục nhân lỡ một người thầy thì ôm hận suốt đời. Thánh nhân lỡ một người thầy thì ôm hận nghìn thu. Tục nhân ôm hận vì không gặp cơ hội được trên người. Thánh nhân ôm hận vì cảm thấy có lỗi nặng với những đời sau. Việc hôm nay, té ra có nguyên do từ bao đời trước nữa. Ví dụ cái chuyện thật, giả của muôn đời. Muôn đời thật thà là món trang sức rẻ tiền của dối trá, dối trá là chủ nhân đích thực của thật thà. Than ôi! cái đạo nói thật chẳng phải tầm thường. Đến thánh nhân cũng muốn cầu còn chẳng được. Thế gian xưa nay vẫn leo lẻo đấy, cứ tưởng mọi chuyện rồi sẽ rõ như ban ngày. Vậy mà rốt cuộc, tìm mãi có thấy tí sự thật nào đâu. Chung quy cũng tại một bận lỡ làng của bậc Vạn Thế Sư mà sinh ra cả…
***
Khổng Tử có lúc dạy tới ba ngàn học trò. Vậy mà vẫn lũ lượt người đến xin học. Vì thế mới đặt ra lệ phải kiểm tra, phỏng vấn trước khi nhận, đại khái cũng hao hao như thi đại học hoặc cao đẳng bây giờ. Phụ trách khâu tuyển sinh này gồm các thầy Tử Cống, Tử Nạp, Tử Hối, Tử Lộ, Tử Thâm, Tử Thượng, Tử Hạ. Toàn những thầy mà đời sau xếp vào bậc Tiên hiền cả. Từ khi đặt ra lệ ấy, thiên hạ càng đua nhau đến xin nhập học, công việc giáo dục phát đạt lên trông thấy. Bận rộn nhất là các thầy Tử Cống, Tử Nạp, Tử Hối, Tử Lộ. Các thầy thay nhau bán hồ sơ, xét duyệt hồ sơ, kiểm tra thí sinh..., kẻ thì cho nhập học, kẻ thì đuổi thẳng cổ. Chung quy cái việc thi tuyển thì xưa nay đều có trong, có đục cả, không có gì đáng chép lại. Chỉ xin chép ra đây mấy chuyện lạ xảy ra trong lúc tuyển sinh ấy. Không hiểu sao lại chỉ rơi vào các thầy Tử Thâm, Tử Thượng và Tử Hạ.
Một hôm, có một lão già nom hơi cổ quái, gương mặt tuy gồ ghề song hai mắt rất long lanh, dáng đi nhanh nhẹn, hoạt bát đến gõ cửa xin nhập học. Tử Thâm được phân công ra tiếp. Tử Thâm hỏi: “Cụ già thế này, sắp xuống lỗ rồi còn học làm gì nữa cho mệt?”.
Lão kia trả lời: “Lão chẳng học cái gì khác. Song trước khi xuống lỗ cũng muốn học cho được mỗi cái cách nói thật đó mà thôi”.
Tử Thâm ngạc nhiên hỏi lại: “Tại sao cụ phải học cách nói thật?”.
Lão kia trả lời: “Lão từng nghe cổ nhân truyền lại rằng nói thật một câu sẽ kinh động đến cả trời đất, quỷ thần. Vậy mà lão sống ngần này tuổi đầu rồi, tuyệt chẳng bao giờ thấy trời đất, quỷ thần động lòng gì cả. Điều đó phải chăng vì thiên hạ toàn kẻ nói dối. Tất nhiên trong đó có cả lão nữa. Vì thế lão mới phải đến đây để học cái đạo nói thật. Rất mong Phu Tử chiếu cố chỉ giáo cho, dẫu lão nói thật được một câu rồi chui xuống lỗ cũng hả lòng”.
Tử Thâm nghe ra bèn bảo: “Rất tiếc ở đây chỉ dạy Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Không dạy nói thật. Cụ đi tìm nơi khác mà học thôi”.
Lão kia nghe Tử Thâm nói thì có vẻ hơi thất vọng, song vẫn cố vớt vát: “Lão nghe tiếng Phu Tử nức nở cả thiên hạ. Vậy ngoài Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín ra, Phu Tử còn dạy cái gì nữa?“.
Tử Thâm trả lời: “Dạy đủ lục nghệ. Từ làm chính trị đến đi buôn, từ làm hàng thật đến hàng giả, từ chế đồ xịn đến đồ lô… Học đến đâu sáng ra đến đó. Cứ gọi là vua ra vua, tôi ra tôi. Bố ra bố, con ra con. Chồng ra chồng, vợ ra vợ. Thầy ra thầy, trò ra trò. Trên đời này động đến môn nào Phu Tử cũng tuyệt đối tinh thông cả. Duy có cái môn nói thật ấy thì bản sự đây quả chưa nghe nói đến bao giờ”.
Lão kia nghe thấy thế thì thất vọng quá, bèn thở dài một tiếng rồi than: “Thế mà lão phu đây cứ tưởng bở. Ôi! Đến cửa này cũng không học được cách nói thật nữa thì lão đành nói dối cho trọn kiếp cùng với thiên hạ thôi”.
Than xong, lão ta vái Tử Thâm một cái rồi đi ra. Tử Thâm bèn vào kể lại toàn bộ đầu đuôi với Khổng Tử. Khổng Tử nghe kể đến đâu ngạc nhiên đến đấy. Nghe xong, Ngài trầm ngâm một lát rồi bảo: “Ngươi chưa nghe nói đến cái môn nói thật bao giờ cũng phải. Học thuyết của ta toàn thị là chính trị. Mà đã gọi là chính trị thì cần gì phải biết cách nói thật. Thời thế này mà vẫn còn người muốn học cái đạo nói thật ư? Thì chính ta cũng đang muốn tìm thầy để học cái môn đệ nhất ngu ngốc ấy mà chưa tìm ra đấy”.
Một hôm khác, có người ăn mặc sang trọng ra dáng một vị quan to, xe cộ rình rang, tiền hô hậu ủng đến xin học. Tử Thượng được phân công ra tiếp. Tử Thượng lễ phép hỏi: “Dám xin hỏi ông làm chức quan gì?”.
Ông kia trả lời: “Chức gì lớn nhất mà thầy có thể nghĩ tới được”.
Tử Thượng hỏi tiếp: “Vậy ông còn muốn học Phu Tử để làm gì nữa?”.
Ông kia trả lời: “Ta học để bịt mõm thiên hạ”.
Tử Thượng nghe thấy hơi lạ tai. Bèn hỏi tiếp: “Thế nào là bịt mõm thiên hạ?”.
Ông kia trả lời: “Thầy còn giả đò không biết ư? Ta vốn xuất thân làm nghề hoạn lợn, song từ khi thành đạt thì chẳng thiếu thứ gì. Tước vị, bổng lộc, quyền hành, vây cánh… đủ cả. Chỉ phải cái bọn kẻ sĩ trong thiên hạ thấy ta không học hành gì, cứ chửi vụng ta là đồ thượng đẳng vô học. Ta thì không thèm chấp, song vợ con, cháu chắt ta thì không khỏi có lúc phiền lòng. Nay ta đến đây cốt để bù cái chỗ khiếm khuyết duy nhất ấy của mình mà thôi, để chúng nó không còn chửi vào đâu được nữa”.
Tử Thượng nghe ông ta nói, lưỡng lự không biết giải quyết ra sao. Cũng đành phải vào thưa lại với Khổng Tử. Khổng Tử thản nhiên phán ngay: “Kẻ ấy đâu có cần học hành gì. Hắn đến đây chỉ cốt cho thiên hạ trông thấy hắn cũng từ cửa ta mà đi ra giống như những kẻ sĩ khác đó thôi”.
Tử Thượng nghe thầy nói chợt tỉnh ngộ, bèn lập tức trở ra. Quả nhiên thấy ông kia cùng đám lâu la, xe cộ đã rầm rĩ quay ra đến cổng, vừa đi vừa quảng cáo oang oang, cố tình cho thiên hạ chú ý. Chẳng thèm nói gì đến chuyện xin học nữa. Tử Thượng phục Khổng Tử quá, chỉ biết vừa nhìn theo vừa lẩm bẩm: “Ta ở ngay trong nhà thầy, đọc sách thầy, nghe thầy giảng… Mà đến bây giờ mới hiểu được ý nghĩa của hai chữ: Cửa Khổng”.
Lại một hôm khác, có người đội nón tơi, đi chân đất, dáng như ăn mày đến xin nhập học. Cố nhiên là Tử Hạ được phân công ra tiếp. Tử Hạ hỏi: “Anh muốn làm học trò của Phu Tử với mục đích gì?”.
Bất ngờ người ấy không trả lời mà hỏi lại: “Thầy hãy cho tôi hỏi trước. Thầy học Phu Tử để làm gì?”.
Tử Hạ thấy thế thì hơi cáu, song vẫn nhã nhặn trả lời: “Bình sinh ta học Phu Tử chỉ cốt để làm người”.
Người ấy hỏi tiếp: “Thế đã làm người được chưa?”.
Tử Hạ vẫn cố gắng nhã nhặn: “Tất nhiên là chưa. Vậy cho nên vẫn đang phải học tiếp”.
Người ấy bảo: “Thì ra thiên hạ đều cùng một giuộc cả. Kẻ nào cũng chỉ được cái leo lẻo cái lỗ mồm. Có biết đâu rằng làm người mà dở dang thì chi bằng làm vật quách cho rồi. Còn tôi muốn làm học trò của Ngài chỉ cốt được ăn thịt”.
Tử Hạ tròn mắt ngạc nhiên, bởi chưa nghe ai trả lời như thế bao giờ. Bèn hỏi tiếp: “Tại sao anh lại nghĩ rằng làm học trò của Phu Tử thì sẽ được ăn thịt?”.
Người ấy trả lời: “Tôi nghe nói Phu Tử thịt thái không vuông thì không ăn. Mà con lợn, con gà, con dê, con bò… có con nào vuông đâu. Thế thì dứt khoát sẽ có nhiều chỗ phải bỏ đi. Tôi chỉ xin được chén những chỗ bỏ đi ấy mà thôi”.
Tử Hạ nghe nói cảm thấy hơi có lý. Song cũng chẳng biết quyết định ra sao, đành phải vào thưa lại nguyên văn với Khổng Tử. Khổng Tử ngẩn người ra một lát rồi mừng quớ lên bảo: “Kẻ ấy chính là thầy ta đó. Ta vốn đã để ý dò tìm bấy lâu nay mà chưa tìm thấy. Ngươi mau mau ra mời y vào đây, để chính ta phải làm lễ bái sư”. Tử Hạ vội vàng chạy ra thì người kia đã bỏ đi đâu mất. Làm cho không những Khổng Tử, mà những đời sau, cho đến tận bây giờ, ai nghe đến câu chuyện này cũng than thở, tiếc rẻ mãi.
Về sau, cũng nhân chuyện này, có ông Mục Công người đất Kinh còn bình luận một câu đại ý:“Chỗ bỏ đi hay là phần còn lại. Thế gian này, trừ thánh nhân ra, chính cái phần còn lại ấy của thiên hạ mới là thầy của thánh nhân vậy”. (Trích Luận ngữ Tân thư). 


Bộ ảnh về Việt Nam 120 năm trước


 
Bộ ảnh độc về Việt Nam 120 năm trước
Bờ hồ Hoàn Kiếm, gần lối vào đền Ngọc Sơn, Hà Nội 1896. 20 năm sau, một trạm tàu điện đã được xây dựng tại khu vực này.
Cầu Thê Húc trên hồ Hoàn Kiếm năm 1896 trông khá thô sơ. Trong lịch sử tồn tại, cây cầu này đã nhiều lần bị gãy do quá tải và được dựng lại.
Đình Trấn Ba, một công trình thanh thoát trong đền Ngọc Sơn, 1896.
Tháp Rùa năm 1896, nhìn kĩ sẽ thấy trên đỉnh tháp có một bức tượng Nữ thần Tự do phiên bản thu nhỏ.
Ngôi đền phía Bắc trong quần thể đền Ngọc Sơn là nơi thờ danh tướng Trần Hưng Đạo, 1896.
Mặt tiền của đền Quán Thánh cạnh Hồ Tây, Hà Nội năm 1896.
Bờ Hồ Tây, phía trước đền Quán Thánh, ngày nay là nơi đường Thanh Niên chạy qua.
Bốn trụ cột ở lối vào Văn Miếu - Quốc Tử Giám, 1896. Người Pháp gọi công trình này là "chùa Quạ", vì có rất nhiều quạ làm tổ ở đây.
Hồ nước đối diện Khuê Văn Các trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Khuê Văn Các nằm ở bên phải bức ảnh.
Đôi hạc ở hai bên bàn thờ trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Chùa Một Cột năm 1896.
Khung cảnh nhìn từ trên cầu thang của chùa Một Cột, năm 1896.
Chùa Một Cột năm 1898, trông khá tàn tạ so với bức ảnh chụp 2 năm trước đó.
Nghệ nhân thêu Phan Van Khoan vẽ hình Chùa Một cột để thêu, Hà Nội 1898.
Thợ thêu Phan Văn Khoan tại nhà mình ở Hà Nội trong ngày Tết, 1898.
Chân dung chụp năm 1896 của chàng trai 17 tuổi Vi Văn Định - con trai của Tổng đốc Lạng Sơn Vi Văn Lý. Sau này ông Vi Văn Định trở thành Tổng đốc tỉnh Thái Bình (1929-1937) và tỉnh Hà Đông (1937-1941).
Ông Vi Văn Định cũng là bố vợ của hai người nổi tiếng, đó là Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên và GS Hồ Đắc Di - Hiệu trưởng trường ĐH Y Hà Nội.
Ba người con khác của Tổng đốc Lạng Sơn (ngồi và đứng trên ghế).
Tam quan của đền Kiếp Bạc, Hải Dương năm 1904.
Đàm đông tụ tập nghe xướng danh người trúng tuyển trong kỳ thi Hương Nam Định năm 1897. Dưới triều Nguyễn, cứ 3 năm triều đình lại mở khóa thi Hương ở các tỉnh lớn dành cho mọi đối tượng, người thi đỗ năm sau sẽ lên kinh đô để thi Hội và thi Ðình.
Công bố tên người trúng tuyển kỳ thi Hương, Nam Định năm 1897. Người có nhiệm vụ xướng danh các sĩ tử đỗ đạt sẽ cầm một chiếc loa, đứng trên cao và đọc to họ tên, quê quán của từng người.
Thí sinh trúng tuyển diễu hành qua các giám khảo, Nam Định năm 1897.
Ông Cao Xuân Dục, Tổng đốc Nam Định có mặt trong buổi lễ vinh danh những người đỗ đạt, 1897.
Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn năm 1895.
Tòa nhà bưu điện Sài Gòn, 1895.
Tòa nhà pháp đình ở Sài Gòn năm 1896
Dinh Toàn quyền ở Sài Gòn, 1896. Công trình này  bị hai phi công ném bom phá hủy năm 1962, được xây dựng lại và khánh thành năm 1966 (lúc này gọi là Dinh Độc Lập), sau năm 1975 thì đổi tên thành Hội trường Thống Nhất.
Đại lộ Norodo  ở Sài Gòn năm 1896. Phía xa là bức tượng Gambetta.
Thảo Cầm Viên Sài Gòn, 1895.
Một khách sạn ở Sài Gòn, 1895.
Rạch Bến Nghé, Sài Gòn năm 1904.
Trên sông Sài Gòn, 1904.
Cảng Sài Gòn, 1954.
Phong cảnh Vũng Tàu, 1904.

Hình ảnh do nhiếp ảnh gia Pháp Firmin André Salles (1860-1929) thực hiện.


Source Internet.

Ai mua Thơ tôi bán Thơ cho


Ngô Minh

     “Bán thơ “, ở góc độ lãng tử là một từ đẹp, thậm chí rất đẹp. Tản Đà thi sĩ từng  “gánh thơ lên bán Chợ Trời” ! Hàn Mặc Tử thì rao : ” Ai mua trăng ta bán trăng cho”. Bán thơ cũng như bán trăng , là bán cái trinh tuyết của tâm hồn . Bán là cách nói cho có vẻ đời thực, chứ thơ, cũng như trăng là thứ  chỉ để ngắm, để tặng, để dâng hiến .. Ngay cả chuyện ra tiệm sách mua một tập thơ của ai đó rồi về tặng người yêu, mượn thơ người khác trao gửi tình cảm của mình cũng là chụyện bất đắc dĩ lắm . Một lần cách đây đã nhiều năm, tôi bươn bả ra hiệu sách ở đường Trần Hưng Đạo, Huế mua cuốn thơ của đại thi hào Targor kẻo sợ hết. Cô bán sách xinh đẹp nhìn tôi tủm tỉm cười rồi đột nhiên hỏi :” Anh mua thơ mần chi ?”. Trời ơi, người đã đẹp lại hỏi “chết người” như rứa, mần răng mà trả lời ! Tôi đoán chắc là sách hết liền xuống giọng cấu khẩn và biến baó :”Ờ, ơ.., tôi mua thơ để tặng cô bạn gái, chị làm ơn..”. Tôi chưa hết câu người đẹp đã cười khanh khách và phán một câu xanh rờn :” Anh phải tự làm lấy thơ mà tặng người yêu, ai lại đi mua thơ người khác để tặng, kỳ chết ” ! Dường như câu nói đó đã xui tôi làm thơ.. ! Vâng đó là một kỷ niệm thật đẹp về chuyện mua bán thơ. Còn chuyện “bán thơ” mà tôi đang “rao” đây lại hoàn toàn tục lụy trong chốn thị trường mồ hôi, nước mắt..
 Đọc lại lịch sử văn học, điều  rất thú vị là ở xứ ta chuyện bán thơ không phải đến thời kinh tế thị trường bây giờ mới có, mà đã có từ hồi xửa xưa tiền chiến ! Thời đó các nhà thơ đều tự bỏ tiền ra in thơ và tự mang thơ mình đi bán ! Nhà văn Quách Tấn kể rằng năm 1939, Hàn Mặc Tử  năn nỉ xin tiền mẹ để in tập thơ đầu tay của mình. Bà mẹ rất thương con , nhưng quyền chi tiêu trong gia đình đã trót giao cho người em định đoạt. Để có tiền in thơ, Hàn Mặc Tử đã phải dùng “ kế” giả đò hờn lẫy, đạp xô bàn ghế trong nhà, rồi đập đầu vào tường dọa chết, làm cả nhà phát hoảng . Ông em ruột “tay hòm chìa khóa” mới chịu nhả ra 200 đồng bạc ( thời đó ) là khoản tiền có thể mua được ngôi nhà sang trọng, cho Hàn in tập thơ đầu tay “ Gái quê” ! Hàn tuyên bố với gia đình là mượn, bán thơ xong sẽ bù vốn lại!
 Ba tháng sau, sau chuyến đi Hà Nội về, Hàn Mạc Tử hớn hở cầm một xấp tiền giúi vào tay mẹ, khoe:”Tiền con bán thơ đấy » ! Bà cụ cầm xấp tiền rưng rưng ! Lần đầu tiên trong đời bà được biết thêm một điều rằng: Thơ ca không chỉ là thứ để ngâm ngợi, ru hời giải sầu, mà thơ còn là thứ có thể bán lấy tiền giống như mớ rau, con cá..! Hỡi ôi, món tiền mà chàng thi sĩ tài hoa số một của chúng ta mang về cho mẹ hôm đó đếm lại chỉ có mười lăm đồng ,lại toàn tiền lẻ ! Để cho con trai được in một tập thơ người mẹ đã phải bỏ ra số tiền bằng cả một gia tài ! Nguyễn Bính trong chuyến hành phương Nam đầu những năm 40 cũng đã từng bán thơ! Gòn năm 1939, có lúc phải mà cả ngã giá bán từng câu thơ đăng báo để kiếm sống .Tiền thì ít nhưng “ Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết / Ngày mai ra sao rồi hãy hay ... ( Hành phương Nam). Tiền không có những vẫn trọng thơ hơn tiền, coi khinh bọn định giá văn chương. Theo  Hoàng Tấn, ông chủ bút tờ Dân Báo đặt Nguyễn Bính một bài thơ để đăng trên số đặc biêt Tết Giáp Thân (1944). Ông chủ bắt Nguyễn Bính phải sửa đi sửa lại  2 câu cuối đến 3 lần . Khi báo in ra, Nguyễn Bính đến đòi nhuận bút. Ông chủ báo đưa 10 đồng, Nguyễn Bính chê ít, không nhận. Ông chủ báo nói :” Với các văn sĩ nổi tiếng khác, tôi trả cao lắm cũng chỉ 5 đồng...” Nguyễn Bính lập tức ném xấp tiền  xuống đất rồi ra về . Ngay chiều hôm đó, tòa soạn phải cử người đến xin lỗi và đưa cho Nguyễn Bính 50 đồng ! Túng tiền, Nguyễn Bính còn bò ra 5 ngày chép tay tập thơ Lỡ bước sang ngang với chữ ký của mình để “bán đấu giá”... Nhà thơ không chỉ bán cả tập thơ chép tay mà mà bán từng câu thơ cho một tay chủ báo để có tiền sống ở chốn phồn hoa Sài Gòn ! Tay chủ báo cũng cò kè bớt một, thêm hai, cho tới khi ngả giá một câu hai đồng ( tiền thời đó) . Giá cả y ốt rồi thì cứ đếm câu mà lấy tiền!
Nhà thơ Việt Nam ta sướng nhất là giai đoạn bao cấp. Thời kỳ này, các nhà thơ không phải bỏ tiền ra in thơ, cũng không phải khổ sở mang thơ đi bán ! Nhà thơ “có thẻ bài” của nhà nước nhiều không nhớ hết ! Họ được Nhà nước in thơ theo chế độ bao cấp. Tùy theo chức vụ, tuổi tá , “cây đa” hay “cây đề” trong làng văn..mà “xếp hàng” lần lượt ! Có nhà thơ 60 tuổi rồi mà tính vòng quay xếp hàng thì phải 60 năm nữa may ra mình mới được in nửa tập thơ! Còn có nhà thơ thì cứ in sồn sồn một năm một tập. Bù lại, các nhà thơ chẳng ai phải bận tâm hay xót xa với số vốn Nhà nước bỏ ra in thơ cho mình . Nhà nước bỏ tiền ra in thơ, rồi Nhà nước lại bỏ tiền ra mua số thơ ấy bỏ vào năm bảy nghìn cái thư viện lớn nhỏ, như là các kho lưu trữ sách ! Thật là tiện lợi và sang trọng. Chả thế mà cuốn thơ nào cũng có số lượng in tới năm, bảy nghìn bản, hoặc một vài vạn bản vẫn  không đủ sách để “bán”! Có không ít người do vị trí công tác thuận lợi, được bao in tới gần chục tập thơ, tưởng đã nên lão trong làng, ai dè khi hỏi đến tên, người yêu thơ nào cũng bóp trán, lắc dầu.. “không biết ông này làm nghề gì” ! Dẫu sao đó cũng là thời vương giả nhất của thơ ca, trên góc độ thơ là cái đẹp, phải được nâng niu, chiều chuộng ! Các nhà văn quân đội bây giờ cũng được bao cấp, cũng sung sướng  như vậy. Chả ai phải lo vay vốn in sách. Tất cả đã có Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Tiền là tiền phục vụ tuyên truyền trong quân đội. Đầu ra thì đã có hàng mấy ngàn cái thư viện, tủ sách quân đội trong toàn quốc. Hồi tôi ở bộ đội, sách báo được  cấp kinh phó mua hoặc Sư đoàn đặt mua cho từng đại đội. Mà tính đến đại đội thì ở ta không biết mấy vạn cuốn cho đủ.
Từ khi đất nước đổi mới đến nay, cuộc sống thơ ca sôi động hơn, thực chất hơn trước. Nhiều tập thơ của các nhà thơ nổi tiếng thời tiền chiến như Nguyễn Bính, Hàn Mạc Tử.v.v..được tái bản . Truyện Kiều Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Bính, thơ Hàn Mặc Tử.v.v.. in bao nhiêu bán cũng hết. Còn các nhà thơ Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam số người được các nhà xuất bản bao sân in thơ có lẽ chỉ đếm trên dầu ngón tay. Sau đó các nhà xuất bản nghĩ ra một hình thức gọi là « liên kết xuất bản », tức là tác giải bỏ vốn ra, nhà xuất bản cấp giấy phép, in xong các nhà thơ tự mang thơ mình đi bán như hồi tiền chiến. Đó là một điềm lành .Thơ in ra nhiều sẽ kích thích sáng tạo ! Sự kiểm chứng khắt khe của “thị trường ” sẽ cảnh tỉnh biết bao người đang đi nhầm đường vào “vương quốc” thơ. Nó tiết kiệm cho Nhà nước, xã hội và các gia đình biết bao công sức, giấy má , thời gian và tiền bạc ! Nhà thơ quá cố Hải Bằng làm thơ từ năm 1948 trong chiến khu Ba Lòng, thế mà mãi dến năm 1980, khi ông 50 tuổi mới được in bao cấp nửa tập thơ ! Từ 1988 đến 1998, nhờ phương châm ‘lấy thơ nuôi thơ’’ ông đã liên tục xuất bản được mười hai tập thơ. Khổ nỗi là nhà thơ phải đến từng cơ quan, trường học, liên hệ với thủ trưởng để bán thơ mình cũng mướt mồ hôi.
 Mười mấy chục năm qua, nhờ cách tự bỏ vốn in, tự phát hành, hàng trăm nhà thơ trẻ trong cả nước đã sớm trình làng những tập thơ với thi pháp mới mẻ, rất được bạn đọc tán thưởng, nhờ đó mà sớm khẳng định tên tuổi người viết trên thi đàn khi còn rất trẻ, chứ không như thời bao cấp, năm muơi tuổi đầu, có hai mươi năm năm làm th , mà vẫn  bị gọi là “ Nhà văn trẻ”, chỉ vì một lý do duy nhất là anh chưa có tập thơ trình làng !
 Tuy nhiên việc tự bỏ vốn in thơ, và tự bán thơ hôm nay cũng có quá nhiều điều cười ra nước mắt ! Mỗi năm cả nước có tới 600 - 700 hoặc cả nghìn tập thơ được in ra, nghĩa là mỗi ngày bình quân hai tập thơ được ấn hành .Tổng Công ty phát hành sách Việt Nam cũng như các công ty con ở các tỉnh lúc đầu có nhận phát hành chút ít cho các tác giả, về sau chỉ nhận ký gửi, đến vài năm lại đây thì ký gửi cũng bị từ chối với lý do thơ bán không được lại chiếm mất chỗ của các ấn phẩm khác ! Do không được phát hành rộng rãi nên thơ tác giả Huế thì Huế đọc, Hà Nội thì Hà Nội đọc, tỉnh lẻ thì tỉnh lẻ đọc. Từ đó dẫn đến sự bình giá thơ của các nhà phê bình cũng theo kiểu “ếch ngồi đáy giếng”, chỉ thấy, chỉ đọc, chỉ phán về năm bảy tập thơ xung quanh mình ! Từ đó dẫn đến các giải thưởng thơ hàng năm của Hội Nhà Văn, của Uỷ Ban toàn quốc...cũng được chọn từ số tập thơ ít ỏi mà Ban giám khảo có trong tay. Còn thơ của các tỉnh thì xin ‘kinh nhi viễn chi’’ !
Ngành phát hành sách không nhận bán, nên các tác giả phải tự đi bán thơ mình !   Có lần, nhà thơ Vĩnh Nguyên ở Huế, vào nam đi rao bán tập thơ “Tình yêu đâu có muộn màng” vừa mới in của mình. Anh mang theo một ba-lô thơ như người bán thuốc dạo . Anh chọn QL 20, tuyến xe đường dài Sài Gòn- Đà Lạt vì cho rằng đây là tuyến đường nên thơ nhất. Bán thơ rong là một lối du ca tài tử và thi vị ! Nhà thơ vừa đọc những bài thơ vừa rao bán. Có khoảng mươi lăm người rút hầu bao mua thơ.Tốt quá!  Nhưng đến đoạn Phương Lâm ( gần Bảo Lộc ) bỗng có người vỗ vai nhà thơ rồi ghé tai bảo rằng, anh nên thôi bán thơ hoặc chuyển qua xe khác để nhường “đất” cho một người bán báo dạo đang rất cần tiền cho bữa cơm trưa xứ mộng! Vĩnh Nguyên ngừng bán, đưa mắt tìm người bạn cùng cảnh ngộ. Tưởng ai xa lạ hóa ra là Trần Phá Nhạc, cũng một nhà thơ xứ Huế lưu lạc vào Nam từ mấy năm trước! Ở Đà Nẵng người đi bán thơ mình giỏi nhất là nhà thơ Hoàng Minh Nhân. Anh có khiếu nói, anh đi nói chuyện thơ ở các trường rồi bán thơ mình. Thế mà cũng nhiều người mua lắm.Nhà bán được thơ anh lấy lại được vốn, rồi đầu tư in tập khác.Năm 1988, nhà văn Hồng Nhu từ Nghệ An chuyển công tác về công tác ở Huế, hăng hái bỏ tiền in tập thơ “Ngẫu hứng về chiều”. Một tập thơ rất hay. Một công ty phát hành sách ở phía Nam thương nhà thơ, nhận phát hành giúp trăm cuốn (hoa hồng ba mươi phần trăm số sách in), nhưng phải bằng cách “đổi thơ lấy tiểu thuyết” ! Thế là thay bằng  nhận tiền bán thơ, Hồng Nhu phấn khởi khuân về mấy chục cuốn tiểu thuyết thời thượng nghệ thuật huyền ảo của Mỹ La Tinh vừa mới dịch ! Bán tiểu thuyết dẫu sao còn đễ hơn bán thơ - Nhà phát hành sách bảo vậy . Nhưng hỡi ôi, khi nhà văn già khệ nệ khuân sách lên xe đò , đi  110 cây số, ra tới Huế thì cuốn tiểu thuyết trên đã bão hòa trên các quầy sách, nhà thơ đạp xe đi bỏ khắp phố cũng chẳng ai nhận bán . Dẫu phải chạy ăn từng bữa, nhà thơ cũng không làm sao nhận được khoản tiền bán thơ khốn khổ của mình !
Có lần đã lâu, tôi ra Hà Nội, ghé Hội Nhà Văn. Gặp nhau chưa kịp hỏi thăm sức khỏe, nhà thơ Nguyễn Hoa đã chào bán ngay tập thơ “ Mưa Thuận Thành “ của Hoàng Cầm . Tôi chưa kịp mừng vì mua được tập thơ ưng ý, đã nghe Nguyễn Hoa than:”Anh Hoàng Cầm phải gò lưng ký tặng vào từng cuốn một, bán vẫn khó chạy ! Bán thơ là thế đấy! Ra văn mà bán chẳng ra tiền - Cái nghiệp văn chương nghĩ thật phiền !( Tản Đà)
 Do thơ ế, nhiều tác giả chỉ in vài ba trăm bản mỗi tập, chỉ để tặng bạn bè, như là một cách chơi . Nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch ở Huế chỉ  in lụa 200 cuốn một tập thơ của mình, vì ‘in làm gì nhiều, bán cho ai ?’. Hoặc có người in cho có đầu sách để xin vào Hội Nhà văn, chẳng cần biết thơ mình có độc giả hay không ! Chuyện in thơ để biếu này cũng không hiếm hoàn cảnh tội nghiệp . Một lần dự Đại hội nhà văn, tôi thấy ở hành lang Hội trường Ba Đình để cả chồng cao tập thơ “ Hoa tự đặt tên” của một tác giả . Tôi là người yêu thơ, thấy tác giải lạ thì định mua một cuốn fddeer đọc cho biết, nhưng không thấy người bán. Hỏi mới biết muốn lấy bao nhiêu cuốn cũng được. Đây là “tình cho không biếu không “! Cho không như thế mà tôi thấy chẳng mấy người để ý !
 Năm mười năm lại đây, các nhà thơ Việt dường như đã phát hiện ra một phương thức bán thơ mới,” hiệu qủa” hơn . Đó là cách mang thơ đến các doanh nghiệp, cơ quan, trường học..” bỏ mối” mỗi nơi mươi mười lăm cuốn, ép các thủ trưởng trả tiền ! Không mua thì tác giải ngồi lỳ, mất thời gian làm việc, cũng gay. Thương các nhà thơ nghèo, chẳng thủ trưởng nào từ chối một vài trăm ngàn đồng tiền túi của mình để mua dăm bảy tập thơ. Mỗi tỉnh nhỏ tính sơ sơ cũng tới vài ba trăm cơ quan, doanh nghiệp, .. một “thị trường” ngon lành cho thơ!  Khổ nỗi thơ mua xong thủ trưởng liền cho thơ vào tủ, không biết có đọc câu nào không!? . Nhiều nhà thơ in thơ ra chủ để tặng, không chịu bán thơ theo kiểu ép uổng như thế. Một tập thơ in ra tặng  vài ba năm chưa hết !
 Thấy tình cảnh thơ in ra nhiều, thơ bán bị ế phải bán ép, nhiều người, trong đó có không ít nhà thơ đã hoảng hốt kêu lên :” Đây là thời loạn thơ”! Theo thiển ý của tôi thì đây là thời thơ “trăm hoa đua nở” rất đáng khích lệ . Nếu các nhà biên tập ở các nhà xuất bản đọc thơ khắt khe hơn, hẳn sẽ bớt đi được nhiều tập thơ dở trên thị trường. Nhưng không sao, bạn đọc thơ còn khắt khe hơn cả nhà biên tập kia ! Họ sẽ tự chọn lọc lấy cho mình những câu thơ, bài thơ hay nhà thơ tâm đắc của mình. Tôi thường tự nhủ rằng, từ trong nguồn cội, thơ là thứ không phải để bán. Đối tượng của thơ thường rất hẹp .Vì đã là tiếng lòng bao gìờ cũng thì thầm. Nhưng sinh ra nhà thơ lại sinh ra những người đồng cảm. Thế là sinh chụyện in thơ để bán. Một người làm thơ có đươc vài ba trăm người yêu thơ mình , mua thơ mình đã là quí lắm ! Đừng buồn chuyện thơ ế. Đừng nên sĩ diện chuyện tia-ra ít hay nhiều. Chỉ cần một bản thôi, thơ cũng có cách đến được với bạn tri âm nếu nó là thơ đích thực ! Ngược lại đem thơ rao bán chợ đời cũng không vì thế mà thơ, hay nhà thơ trở nên kém  cỏi, nhếch nhác ! Bởi thơ là thứ mở vô cùng mà cũng khép vô cùng ! Thơ không bao giờ ế ! Thơ là tình yêu vĩnh hằng ! Chỉ những hư danh sống bám, sống dựa vào thơ mới là ế ẩm , mới bị đời nguyền rủa!... Nào, ai mua Thơ ta bán Thơ cho...

Source Internet.