Thứ Ba, 4 tháng 2, 2014

Cây Quạt trong Thơ Pháp


Khổng Đức


Dưới  mắt của Mallarmé, chữ viết và  đọc tạo thành một trò chơi bác học, chứng tỏ cái mà ông gọi là “dáng điệu của ý niệm” (les gestes de l’idée) và là “ hành vi thi tính (l’acte poétique), gồm có sự bắt gặp  một ý niệm tương tợ phân chia thành một số những mô-típ có giá trị để tập họp nó lại, lằn xếp của cây quạt phù hợp với thi pháp lặp lại (reflets réciproques). Người ta có thể nói rằng đó là nhịp của ý nghĩa. Nó tạo thành những câu thơ và những đoạn tập hợp lại, những ý tưởng chia nhỏ ra như hình lăng trụ (subdivisions prismatiques). Cái thi tính lấp lánh, gấp xếp và những láy lại thành cặp với tư tưởng vừa tập hợp vừa phân chia ra.  Nếu cây quạt là  phương trượng đặc trưng của nữ giới, giá trị của nó là bộ  phận đột khởi  một quá trình của bài thơ không có gì là nam tính, kết nối với sự mất mát năng lượng. Baudelaire nhấn mạnh về sự lưỡng tính của thi nhân, trong khi Mallarmé lại nhấn mạnh về nữ tính. Người ta biết rằng  những phục trang tủn mủn theo sở thích mang danh hiệu nữ giới.
Mallarmé viết nhiều vế cây quạt  dưới dạng bốn câu, chỉ có ba bài dài là phác họa  ba khuôn mặt tượng trưng cho ba mối tình : tình vợ chồng,  con cái và tình riêng tư. Đó là ba nhân vật : BàMarie là vợ, con gái là Geneviève, và người tình là Mery.
Cây quạt cho Méry Laurent, là một sonnet viết  năm 1890, mang màu sắc của tính ái; ở đó Mallarmé  trước  hết là dừng lại ở sự tô điểm đối tượng, vẽ nên những hoa hồng trắng, mà hơi thở của người yêu đánh thức sự hiển hiện của tính lạnh lùng, tuy nhiên cử chỉ của nó lại giải thoát cái quán tính của sự tô điểm, vẽ ra những đài hoa trắng. Chúng ta hãy đọc vài đoạn nguyên văn bài thơ Cây quạt  (tạm dịch lấy ý):
Ajeter le ciel en détail                 Thiên thần tung ra chi tiết
Voilà comme bon éventail           Đúng như cây quạt mỹ miều
Tu conviens mieux qu’une friole  Em trở thành một bình pha lê quí
Nul n’enfermant à l’émeri          Như viên ngọc thạch vở tung
Sans qu’il y perdre ou le viole   Nó không mất mát hay cưỡng hiếp
L’arôme émané de Mery.          Hương vương bốc từ Mery
Bài thơ viết về cây quạt của bà Mallarmé ghi ngày 1-1-1891; chắc đó là quà tặng  trong năm mới theo các nhà chú thích, rất khó diễn giảng. Theo Bertrand Marchal, dường như là ca tụng bà Marie về nội trợ, quét dọn bụi bặm trong nhà như đó là cây quạt. Ông đề cao sự hoạt động rất là bình dị và kết nối nó như một bài thơ.

Aile tout bas la courrìère                    Cánh thấp nhỏ của sứ giả
Cet éventail si c’est  lui                      Chính bà là cây quạt
Le même par qui  derrìere                 Nó ở cả phía sau
Toi quelque miroir a lui                       Như một cái gương cho em

Cây quạt của Mallarmé là cây quạt của nghệ thuật, vẫn mang hình ảnh  chân thực của nữ giới, nhưng là nữ giới được che kín bằng trang phục, hóa trang bằng phấn son, rằng đẹp thì có đẹp như một họa phẩm, một giai nhân làm thỏa mãn thị giác và xúc giác thế thôi. Nó không giống như cây quạt của Hồ Xuân Hương, có thể nói là cây  quạt bằng xương bằng thịt, nó  có thể làm cho tế bào xúc động...
Hồ Xuân Hương (ước chừng 1765-1822) ra đời trước Mallarmé(1842-1898) gần một thế kỷ, kẻ ở phương đông , người ở phương tây; hoàn toàn xa lạ. Cùng một chủ đề “cây quạt”, nhưng hai cách diễn tả hoàn toàn khác nhau. Hồ Xuân Hương như nhà thơ tả chân, tả đúng hình ảnh của cây quạt, mà cũng  chính là hình ảnh quí báu của nữ giới, không  rụt rè, không che đậy như phơi trần trước mặt mọi người, còn rêu rao cả cái tác dụng  như một công cụ cần thiết :
Chành ra ba góc da còn thiếu / Khép lại  đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng  khi tắt gió / Che đầu quân tử lúc sa mưa
Cái tài tình của thơ Đông phương là ít chữ mà ý nhiều. Mallarmé là thủy tổ của trường phái tương trưng thơ Pháp, chữ dùng đầy ẩn dụ và cô đọng, được suy tôn  như thi hào. Đề tài cây quạt làm đến ba bài cho ba đối tượng, dài lê thê vẫn không sao lột tả được hai mặt tĩnh và động tức cây quạt thực bằng giấy hay bằng vải và cây quạt sống chính thân, vũ khí chủ yếu của nữ giới như Hồ Xuân Hương. Càng đọc hai câu :
Chành ra ba góc da còn thiếu / Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
Càng phục tài quan sát và diễn tả của Hồ Xuân Hương vượt cả cổ kim đông tây. Nhưng thơ mà chỉ nhắm vào việc quan sát với diễn tả không thôi thì tầm thường quá, nó phải vươn lên cao, hay lặn ngụp vào hố thẳm, nó là chân cảnh, là tiếng nói của tâm linh, nó là kết tinh  phản ứng của thời đại…Nhưng do đâu mà nó đạt được những  yếu tố kỳ đặc như thế?.

Cái rủi ro của HXHương là sinh ra trong một thời đại, trong một đất nước đầy nhiễu nhương. Thời đại vua Lê chúa Trịnh, một thời đại đầy thối nát, đầy kinh dị; vua hư vị, chúa hoang dâm, quan lại xôi thịt. sĩ phu hèn mạt. binh lính kiêu căng… Nhân dân lúc nào cũng lo sợ, sống giữa trần gian mà chẳng khác nào tự giam mình trong địa ngục. Mỗi một công trình, một tác phẩm văn học nghệ thuật kỳ vĩ ra đời đều phải có một nguyên nhân một lý do xác đáng chứ đâu có phải như các loài thực vật động vật bậy bạ. Một bài thơ bốn câu hay tám câu, dù gọi là ứng khẩu đi nữa cũng phải có sự thai nghén uẩn nhưỡng lâu dài, chứ có` phải đụng đâu nói đó mà được sao. Bài “cây quạt” của Hồ Xuân Hương cũng vậy, có phải tự nhiên mà có đâu, nó chính là con đẻ của hiện tượng Đặng Thị Huệ, từ một cô gái hái chè, một nữ tỳ bổng dưng trở thành đối tượng mê hoặc một ông chúa vốn cũng không phải tầm thường như Trịnh Sâm, làm đảo điên sụp đổ cả một triều đình. Một ông tướng từng khuấy động  ở biên cương như Hoàng Đình Bảo, cuối cùng cũng phải chết thảm vì cái váy của vương phi. Đã hết đâu, lại còn thêm một đứa em tàn bạo là Đặng Mậu Lân, dựa vào hơi hướm của chị mà quậy nát cả kinh thành, chỉ mấy chục đứa tay chân đầu trâu mặt ngựa cầm gươm giáo nghênh ngang khắp kinh ấp, gặp đàn bà con gái giữa đường vừa mắt, tức thi Lân sai bộ hạ quay màn trướng ngay tai chỗ rồi lôi vào hảm hiếp; ai phản đối thi cho cắt ngay đầu vú, chồng hay cha nào kêu ca thi cho bẻ răng, hoặc đánh đập đến chết. Đứng trước những cảnh áp bức và uy hiếp như vậy, đã là người ai mà không  cảm xúc, không đau khổ, không phản ứng, nhất là đối với những người giàu lương tri có học thức; nhưng trước bạo lực hung tàn ai mà dám mở miệng, hay phải  né tránh quay mặt đi nơi khác. Với người thường, thì vì cuộc sống vì hoàn cảnh  có thể lơ đi. Nhưng với nhà thơ thì hình ảnh uy hiếp đó lắng sâu vào tiềm thức, nó biền thành xung động bản năng đề kháng chống đối. Nhưng với kẻ yếu đuối lép vế thì lấy phương tiện gì mà chống đối, ôm trong lòng nhẫn nhục chịu đựng theo  các nhà tâm lý hiện đại thì đó là hiện tượng ức chế lâu ngày thành bệnh. Do đó mà bản năng chống đối đề kháng của phái yếu là nguyền rủa chưởi bới ở sau lưng kẻ thù, thường là nói tục. Nên cây quạt của XHương cũng là một sự phản ứng hào hùng mà thôi. Cái thời đại mà nữ giới  luôn luôn  cam phần nô lệ “Ngựa anh đi trước võng nàng theo sau “ Lễ nghi chúng ta thường cấm kị đề cập đến các bộ phận sinh dục của nam cũng như nữ, cho đó là tục là dơ nhớp. mà dơ thật vì đó cũng là nơi bài tiết tinh khí, nước tiểu, nữ còn  có cả kinh kỳ…. Lại dùng nó  làm đề tài cho thơ thì đó là sự chưởi bới cho hả hê, là phản ứng  của kẻ yếu, sự phản ứng tồi tệ khi con người chịu nhẫn nhục hết nổi, tuy rằng vẫn tự biết là vũ khí qui giá nên phải che đậy. Cây quạt đúng là hình ảnh của âm hộ : Chành ra ba góc…, nhưng lại  có khả năng  mát mặt anh hùng ….hay Cho quân tử đội đầu…Ít ra phải sống dười thời đại của Trịnh Sâm – Đặng Thị Huệ mới  có thể hạ bút viết được những câu như vừa nêu , hay Chúa dấu vua yêu một cái này. Thơ của Hồ Xuân Hương hay nói tục chính là  vi bị ức hiếp quá đổi mà  phải phản ứng đó thôi, có hiểu như vậy thí mới thấy Bà là một nữ anh kiệt. Tôi có thể nói thêm một chút là bài thơ “ Chàng cóc ơi, Chàng Cóc ơi … là thay mặt cho Đặng thị Huệ khóc Trịnh Sâm, chú chẳng phải Tổng Cóc , tổng kiết gì cả. Người ta thường coi trọng yếu tố  tính cách cá nhân mà quên yếu tố tình cảnh (situation); đa số khi giải thích hành vi của người khác đều có khuynh hướng  quy nguyên nhân là tính cách. Nhưng khi giải thích hành vi của chính mình lại có khuynh hướng quy nguyên nhân về tình cảnh.
Có thể nói Hồ Xuân Hương là một thiên tài hiếm có, bà là người đã vượt qua thời đại, là kẻ tiên phong đề cao giá trị của phụ nữ, coi thường giới sĩ phu, tư tưởng của bà  vượt cả không gian và  thời gian... Là con người của  cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 mà giống như con  người của thế kỷ 21.

Source Internet.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.