Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

PHỤ NỮ THÔNG MINH VÀ KHỜ DẠI

 

1. Phụ nữ khờ dại chăm chăm vào khuyết điểm của đàn ông. Phụ nữ thông minh tán thưởng ưu điểm của đàn ông.


2. Phụ nữ khờ dại cãi nhau với đàn ông mọi lúc mọi nơi, khiến cho đàn ông mất mặt. Phụ nữ thông minh giữ thể diện cho đàn ông trước mặt người ngoài.


3. Phụ nữ khờ dại không ngừng bới móc quá khứ. Phụ nữ thông minh cùng đàn ông tạo dựng tương lai.


4. Phụ nữ khờ dại hạ thấp đàn ông. Cô ta quên rằng hạ thấp đàn ông cũng chính là hạ thấp bản thân. Phụ nữ thông minh tán thưởng đàn ông. Cô ta hiểu rằng tán thưởng đàn ông cũng chính là tán thưởng bản thân.


5. Phụ nữ khờ dại sẽ nói : ” Anh cút đi ”. Phụ nữ thông minh sẽ nói : ”Anh không được phép rời bỏ em ”.


6. Phụ nữ khờ dại xem đàn ông như cung tên, kéo càng căng, mũi tên bay càng xa. Phụ nữ thông minh xem đàn ông như cánh diều, thong thả giữ lấy dây diều trong tay.


7. Phụ nữ khờ dại không rời đàn ông nửa bước. Phụ nữ thông minh hiểu được lúc gần lúc xa.


8. Phụ nữ khờ dại mang đến cho đàn ông áp lực và kiềm nén. Phụ nữ thông minh đem đến cho đàn ông động lực và hứng thú.


9. Phụ nữ khờ dại khiến đàn ông thất bại trong những giọt nước mắt của cô ta. Phụ nữ thông minh khiến đàn ông thành công trong nụ cười rạng rỡ của cô ta.


10. Phụ nữ khờ dại đả kích đàn ông. Phụ nữ thông minh cổ vũ đàn ông.
 
Source Internet.

NGUYỄN NGỌC NGẠN - ngoài đời và trên Video



1. Nguyễn Ngọc Ngạn ngoài đời...
Nguyễn Ngọc Ngạn là một người nổi tiếng, trong lãnh vực văn chương cũng như trong vai trò MC. Điều đó ai cũng biết. Sự nổi tiếng của anh đưa tới lòng yêu thích nơi nhiều người và ngược lại cũng không tránh được tình trạng trái ngược hoặc có khi là sự dửng dưng. Một người được coi là “người của đám đông” chắc chắn không sao tránh khỏi những dị biệt nơi vấn đề tình cảm ở phiá độc giả hoặc khán thính giả dành cho mình. Ái mộ anh hoặc không là một chuyện khác, tưởng chẳng nên đề cập tới.
Nhưng dù thế nào, không ai phủ nhận được những đóng góp của anh trong giới chữ nghĩa.. Và nhất là từ 12 năm qua, anh đã trở thành một người điều khiển chương trình – thường được gọi là MC – vững vàng với một con đường đi riêng biệt.
Tuy nhiên, cuộc sống ngoài đời của anh cùng những sinh hoạt của anh, đặc biệt trong những sinh hoạt trình diễn có những điều ít hoặc chưa được biết tới. Có lẽ đây là thời điểm để có được một số khám phá về Nguyễn Ngọc Ngạn, do chính anh kể...
“Tôi không có e-mail, không có computer và là người nghệ sĩ duy nhất trên thế gian này không có Cell phone. Tôi không biết computer là gì. Người ta cứ bảo tôi là e-mail, tôi không hiểu e-mail là gì . Người ta hỏi ông có vào internet không? Tôi bảo không biết internet là cái gì mà vào”.
Lời Nguyễn Ngọc Ngạn vừa nói hẳn cũng đáng được coi như một khám phá thú vị về một người được coi như ở trong thành phần những nghệ sĩ nổi tiếng nhất, không những ở hải ngoại mà còn ở cả trong nước.
Việc không sử dụng những phương tiện hiện đại trong một xã hội văn minh, tân tiến của Nguyễn Ngọc Ngạn cũng đã khiến cho ban giám đốc trung tâm anh hợp tác từ 12 năm nay là Thúy Nga lưu ý, khi có việc cần liên lạc gấp.. Tuy nhiên, Nguyễn Ngọc Ngạn có một lý do xác đáng cho việc không dùng điện thoại di động chẳng hạn:“Thủy với ông Lai bảo tôi là làm việc hàng ngày mà sao không có e-mail, không có Cell phone. Tôi trả lời là thứ nhất tôi không ra khỏi nhà, tôi xài cell phone làm chi?”
Như vậy, những khán thính giả của Nguyễn Ngọc Ngạn còn có được thêm một khám phá về một con người mà họ cho rằng rất bận rộn trong việc giao tế và có những tiếp xúc rất rộng rãi.. Nhưng thật ra con người đó sống một cách gần như biệt lập cùng vợ và một con trai trong một ngôi nhà khang trang tại thành phố Toronto , là nơi chỉ tiếp đón những bạn bè thân.
Ngoài những chuyến lưu diễn cho các “live shows” hoặc thu hình cho trung tâm Thúy Nga, Nguyễn Ngọc Ngạn chỉ dành thì giờ cho việc đọc sách, viết sách hoặc coi phim: “Nhất là phim thì tôi phải coi thường xuyên, gần như ngày nào cũng phải coi những shows Mỹ để có thể học hỏi ở đó rất nhiều“.
Chính nhờ sự học hỏi và tìm tòi đó, Nguyễn Ngọc Ngạn đã có thêm được nhiều kinh nghiệm để bổ sung cho hai nghề nghiệp chính của anh từ nhiều năm qua là viết văn và điều khiển chương trình.. Nghề sau này càng ngày càng tỏ ra lấn lướt nghề trước là nghề anh bắt đầu theo đuổi từ năm 1979...
Nguyễn Ngọc Ngạn sinh ngày 9 tháng 3 năm 1946 tại Sơn Tây và là người con thứ ba trong một gia đình có 6 người con, 5 trai và một gái. Năm lên 8, anh theo gia đình xuống Hà Nội, sau đó ra Hải Phòng để theo “tầu há mồm” di cư vào Nam năm 1954. Những năm đầu tiên, gia đình anh cư ngụ trong một xóm Công Giáo gần Củ Chi.
Nhờ có một trí nhớ tốt cùng với một đầu óc quan sát tinh tế từ khi còn nhỏ, nên những sinh hoạt diễn ra trong cái giáo xứ nhỏ bé và nghèo nàn thời đó đã in sâu trong đầu một cậu thiếu niên chưa quá 10 tuổi. Bối cảnh đó sau này đã được Nguyễn Ngọc Ngạn khai thác để viết thành tiểu thuyết “Xóm Đạo”:“ Trời sinh cho tôi được một trí nhớ rất là đặc biệt tức là có những chuyện gì tôi đọc qua hoặc tôi nghe người ta kể qua một lần thì có thể mấy chục năm sau tôi vẫn nhớ “.
Mặc dù không nuôi giấc mơ đến với lãnh vực văn chương, nhưng Nguyễn Ngọc Ngạn công nhận là do sự mê đọc sách từ khi còn nhỏ đã giúp anh rất nhiều trong nghề viết văn mà anh bước vào một cách thật tình cờ sau khi rời Việt Nam:“Đặc biệt là tôi mê đọc tiểu thuyết từ nhỏ. Bố mẹ cấm, tôi cũng trùm mền đọc. Thí dụ những cuốn đầu tiên là của Tự Lực Văn Đoàn trong khi tôi học năm đệ Thất, đệ Lục. Dù bố mẹ có cấm cũng đi ra lề đường Lê Văn Duyệt để mua sách đọc. Nhiều khi gia đình ngủ rồi,tôi vẫn ra ngoài hè đọc sách một mình dưới trời sáng trăng hay thắp ngọn đèn dầu ngồi đọc lén. Thời bấy giờ bố mẹ khó khăn, cấm đọc tiểu thuyết mà! Phải công nhận là tôi đã có năng khiếu về văn chương từ nhỏ “.
Cũng do có một khả năng ghi nhận đặc biệt, cộng với một trí nhớ tốt, mặc dù không sống nhiều ở Việt Nam sau biến cố tháng 4 năm 75, nhưng qua những chuyện kể lại từ những người quen biết về những trường hợp “đổi đời” mang nhiều nét châm biếm trong một xã hội đổi thay, cùng với 3 năm đi tù cải tạo, Nguyễn Ngọc Ngạn đã có một số vốn liếng tích lũy – về ngôn từ cũng như những câu chuyện thật được kể lại hay do chính mắt thấy tai nghe - dồi dào để đưa vào những tác phẩm của anh sau này.
Đó là do “sự quan sát, do những tiếp xúc, do đọc báo và từ 3 năm ở trại cải tạo. 3 năm ở trại cải tạo thì hàng ngày mình lên lớp, phải nghe cán bộ giảng thì để ý tới những từ đó nhiều hơn. Tôi về được có mấy tháng rồi vượt biển, đâu có sống ở trong nước”.
Với cách sử dụng ngôn ngữ dí dỏm và lối hành văn gọn gàng và xúc tích, Nguyễn Ngọc Ngạn đã gây được nhiều cbú ý ngay từ tập sách được phát hành đầu tiên của anh tại hải ngoại là “Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Ngạn”.
Vào năm 57, gia đình Nguyễn Ngọc Ngạn di chuyển vào Sài Gòn và cư ngụ trên đường Thoại Ngọc Hầu, vùng ngã ba Ông Tạ. Những năm trung học, Nguyễn Ngọc Ngạn theo học trường Nguyễn Bá Tòng đến năm đệ nhị. Nhờ đậu cao kỳ thi Tú Tài 1, anh được nhận vào trường Chu Văn An và lấy được mảnh bằng Tú Tài 2 tại đây.
Một điểm đặc biệt là trong những năm theo học trường Nguyễn Bá Tòng, anh luôn được giữ vai trò trưởng ban kịch của lớp. Ít người ngờ rằng một nhà văn, một MC nổi tiếng như Nguyễn Ngọc Ngạn khi còn trẻ lại nuôi một giấc mơ là bước vào lãnh vực kịch mặc dù tự nhận có năng khiếu về văn chương“Lúc trẻ tôi có 2 giấc mộng. Thứ nhất là kịch, tôi mong trở thành một người viết kịch hay một người diễn kịch, chứ giấc mộng nhà văn nó mờ nhạt lắm.”
Khi lên đệ Tam, Nguyễn Ngọc Ngạn chuyển qua ban Văn Chương để được giáo sư Pháp Văn là nhạc sĩ Lê Thương chú ý đến khả năng đóng kịch nên đã khuyến khích anh theo học bộ môn này tại trường Quốc Gia Âm Nhạc. Do sự khuyến khích đó, Nguyễn Ngọc Ngạn đã ghi danh theo học kịch vào năm đệ Nhị, là thời kỳ mà hai nghệ sĩ Trần Quang và Bích Thủy vừa tốt nghiệp về kịch nghệ.
Nhưng sau hai tháng theo học, anh nhận ra mình bị hạn chế rất nhiều do bị cận thị nặng, trong khi thời đó chưa có sự xuất hiện của “contact lens”. Sau khi quan sát những vai trò trên sân khấu, anh cho rằng nếu có đóng kịch thì chỉ có vai trò... thầy giáo là thích hợp nhất đối với mình do cặp kính cận dầy cộm. Trong khi đó thân phụ anh - cùng với thân mẫu anh mở một tiệm bán tạp hoá ngay tại nhà - khuyên anh nên để tâm vào việc học hành để phải lấy cho được mảnh bằng Tú Tài toàn phần hơn là đi theo con đường văn nghệ..
Nhưng trước khi giã từ trường Quốc Gia Âm Nhạc, Nguyễn Ngọc Ngạn còn chuyển qua lớp chèo cổ một thời gian ngắn “Là vì có mấy cô gái học chèo cổ rủ tôi sang, tôi cũng sang, cũng học vài câu chèo cổ như “ông Giăng khuyết chứ ông Giăng lại tròn này kia! Tôi học chèo cổ thêm được mấy tháng nữa. Rồi bố tôi bảo sắp thi thì đi về, tôi mới đành về đấy chứ !”
Cũng vì yêu thích văn nghệ, Nguyễn Ngọc Ngạn đã tự học nhạc lấy qua sách vở, để có một thời gian được mời dạy nhạc cho các trường Lê Bảo Tịnh và Saint Thomas .
Hết trung học, Nguyễn Ngọc Ngạn theo học đại học Văn Khoa và sau đó trở thành giáo sư ngoại ngạch cho một số trường công.
Ngoài giấc mơ trở thành một diễn viên hay một nhà viết kịch lúc còn trẻ, Nguyễn Ngọc Ngạn còn mong muốn thực hiện được những công tác xã hội “Thí dụ như thích xây một ngôi trường hoặc xây một cái cô nhi viện. Ngay từ nhỏ tôi đã thích làm được những việc như vậy...”
Nhưng riêng về việc làm MC thì anh chưa bao giờ nghĩ tới. Nhất là thời đó chưa có nghề MC hay làm talk show tại Việt Nam ngoài những người được gọi là hoạt náo viên hay giới thiệu chương trình.
Năm 1970, Nguyễn Ngọc Ngạn bước vào đời sống quân ngũ, sau khi lập gia đình với một nữ sinh trường Saint Thomas tên Lê Thị Tuyết Lan. Đầu tiên anh ở Sư Đoàn 9 Bộ Binh, sau đó được đổi về Tiểu Khu Định Tường, nhưng không về tiểu khu mà về tiểu đoàn tác chiến ở quận Cái Bè.
Đến năm 74 , khi anh mới có con được nửa năm thì được bộ giáo dục biệt phái về dạy học tiếp với cấp bậc trung úy. Sau khi dạy được đúng một niên khoá thì xẩy ra biến cố tháng 4 năm 75.
Nhớ lại cuộc đời quân ngũ, Nguyễn Ngọc Ngạn có rất nhiều kỷ niệm, nhưng anh nhớ nhất là những kỷ niệm trong thời gian phục vụ tại Tiểu Đoàn Địa Phương Quân Tác Chiến: ”Gần như cả một tiểu đoàn không có một người nào là người Bắc cả. Cho nên ông tiểu đoàn trưởng không cần nhớ tên tôi. Ông ấy cứ kêu tôi là thiếu úy Bắc Kỳ”.
Tại đây, “thiếu úy Bắc Kỳ” giữ chức vụ trung đội trưởng vũ khí nặng, coi về súng cối và đại bác 75 ly không giật, mặc dù cận thị nặng 5 độ rưỡi và nhất là ốm yếu “như Hoài Linh bây giờ”, như lời anh nói đùa.
Thời gian này là năm 1972. sau đó anh được làm đại đội phó và một thời gian sau được chuyển về bộ chỉ huy và cuối cùng được làm sĩ quan quản trị nhân viên, coi quân số của tiểu đoàn.
Và cũng như tất cả những sĩ quan khác, sau biến cố tháng 4 năm 75, Nguyễn Ngọc Ngạn phải đi tù, tại những nơi được goi là “trại cải tạo”. Anh được trả tự do sau 3 năm. Trở về vào năm 78, Nguyễn Ngọc Ngạn tìm đường vượt biên ngay với người vợ đầu tiên cùng con trai lúc đó được hơn 4 tuổi.
Nguyễn Ngọc Ngạn là người đầu tiên trong gia đình vượt biển một cách bán chính thức vào muà Giáng Sinh năm 78 đúng vào mùa có nhiều bão lớn, với vợ lúc đó mới 26 tuổi với một con tên Nguyễn Trần Lê Chân, được đặt tên theo địa danh Tống Lê Chân, nơi xẩy ra những trận đánh khốc liệt vào năm 74 “Lúc đó là những ngày mà đài phát thanh quân đội loan những tin về vụ đánh đồn ở Lê Chân. Tôi cứ nghe đài phát thanh suốt ngày nói về Tống Lê Chân. Để nhớ cái thời gian mà tôi trong quân đội và lúc đang có biến cố về đồn Lê Chân nên tôi đặt tên cháu là Lê Chân”.
Khi chiếc tầu chở khoảng 300 người, trong đó có tiểu gia đình Nguyễn Ngọc Ngạn, đến gần Mã Lai thì bị cảnh sát Mã Lai ở trong bắn ra. Do tình trạng cuống quít của tài công nên đã loay hoay khiến tầu bị lật úp do bị sóng lớn khiến 161 người bị chết, trong số có vợ và con anh. Anh chỉ nhìn thấy được xác đứa con thân yêu bị sóng cuốn đi, trong khi không được thấy tận mắt hình ảnh cuối cùng của người vợ trẻ.
Những người sống sót của chiếc tầu định mệnh đó được đưa vào trại tỵ nạn trên đảo Kota Baru ở Mã Lai. Tại đây, Nguyễn Ngọc Ngạn được bầu làm phó trưởng trại, từ tháng 12 năm 78 đến tháng 5 năm 79. Trong thời gian này cái chết của vợ và con đã là một nỗi ám ảnh ghê gớm với Nguyễn Ngọc Ngạn, để từ đó mang nhiều suy tư khi hồi tưởng về thân phận những người phụ nữ.
Và cũng từ đó, anh đã không ngờ là mình bắt đầu bước vào nghề viết văn, trước đó rất mờ nhạt trong đầu óc, với tiểu thuyết đầu tay “Những Người Đàn Bà Còn Ở Lại”, theo lời anh kể “Khi bà xã tôi mất với lại cháu mất thì tôi ngồi trên đảo thì tương đối tôi cũng nhàn vì là phó trưởng trại. Tôi mới ngồi tôi nghĩ lại một điều quan trọng trong đầu tôi lúc đó là trong cuộc chiến VN thì hoá ra người đàn ông không khổ bằng người đàn bà. Là bởi rằng đàn ông dù sao tuy là ra mặt trận, kề cận cái chết nhưng không như người phụ nữ ở hậu phương vừa nuôi con, vừa, lương của chồng lại ít quá. Đôi khi lại phải làm dâu, nhiều khi lại chạy loạn vì chiến tranh. Rồi sau đó khi người chồng đi vào cải tạo thì người vợ ở nhà lại phải đi tiếp tế chồng ở trong trại cải tạo. Sau đó chồng được thả về thì có nhiều người đàn bà lại phải hy sinh, dành dụm lo cho chồng vượt biên trước, mình ở lại sau là bởi biết rằng chồng ở lại thì vất vả hơn. Thì tôi mới nghĩ lại là trong cuộc chiến và hậu chiến của mình thì người đàn bà VN là khổ nhất chứ không phải là đàn ông, cho nên vì cái ý nghĩ đó tôi mới xin giấy bút để viết truyện dài đầu tiên mà tôi chưa viết bao giờ. Tôi xin giấy bút của bà Sơ trong trại để viết truyện dài đầu tiên lấy tên là “Những Người Đàn Bà Còn Ở Lại “.
Tiểu thuyết “Những Người Đàn Bà Còn Ở Lại“ được viết liên tục trong vòng 3 tháng, dưới cái nóng như thiêu đốt trên đảo Kota Baru. Nguyễn Ngọc Ngạn cho biết anh viết tác phẩm đầu tay này vừa để tưởng niệm cái chết của vợ và con, vừa để thông cảm với những người đàn bà còn ở trong nước.
Khi mang bản thảo tiểu thuyết này sang hải ngoại, anh cho nhiều người đọc và họ rất thích thú. Vì vào thời đó những chuyện về VN còn lạ đối với những người ở hải ngoại, ra đi từ những ngày đầu vì được viết trong bối cảnh sau năm 75. Nhiều người có ý ủng hộ anh để xuất bản, trong số có ông Nguyễn Thế Năng, chủ nhân tiệm vàng nổi tiếng ở Sài Gòn trước kia.. Ông Nguyễn Thế Năng viết thơ cho nhà xuất bản Dziên Hồng đề nghị xuất bản, nhưng được những người chủ trương là các giáo sư Lê Bá Kông và Lê Bá Khanh trả lời là còn người thân ở VN nên không tiện xuất bản mặc dù rất thích.
Sau đó anh giao đưá con tinh thần của mình cho nhà báo Quốc Nam, nhưng mãi đến năm 87 mới ra mắt độc giả, sau khi một số tác phẩm của anh đã thành hình và đã tạo được tên tuổi cho Nguyễn Ngọc Ngạn. Đó là những tác phẩm: Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Ngạn, Nước Đục, Biển Vẫn Đợi Chờ, vv... Tổng cộng cho đến nay đã có 32 tựa sách được phát hành, phần lớn là truyện dài, mang tên tác giả là Nguyễn Ngọc Ngạn.
Trả lời cho câu hỏi tại sao chọn Canada làm nơi cư trú, Nguyễn Ngọc Ngạn cho biết ”Nhưng mà tôi thấy tôi ngồi lâu quá tôi cũng sốt ruột. Mà thứ hai nữa là buồn bã. Coi như hàng tuần tôi phải tiếp các phái đoàn thì tôi thấy phái đoàn Canada rất là lịch sự. Họ hỏi tôi là có muốn đi Canada không thì chúng tôi bốc ông đi ngay. Thì tôi nói là vâng, ông kiếm cho tôi một vùng nào ấm, thì họ bảo vậy thì ông đi Vancouver , có vậy thôi.“
Thế là Nguyễn Ngọc Ngạn được đưa về một đảo gần Vancouver là Prince Rupert cho đến năm 86, anh chuyển về sống tại Toronto cho đến nay. Sau khi đặt chân đến thành phố này, anh dành ra hai năm để ôn lại Anh Ngữ vì được một số thân hữu có ý định giới thiệu anh vào làm cho đài VOA tại Washington, D.C. và BBB ở Luân Đôn. Cuối cùng vì có những quan hệ ở Toronto nên anh quyết định lưu lại đây để đi làm cho công ty bảo hiểm Canada Life, ngoài việc viết sách và hoạt động trong lãnh vực văn chương, báo chí cho đến khi được mời cộng tác với trung tâm Thúy Nga vào năm 1992...
2. Nguyễn Ngọc Ngạn trên video...
Nguyễn Ngọc Ngạn đến với trung tâm Thúy Nga trong một trường hợp rất bất ngờ, đến chính anh cũng không biết lý do: ”Tôi không hiểu tại sao một hôm 10 tháng 5 năm 92 khi đi làm về thì thấy ở trong máy nhắn có một người nói là trung tâm Thúy Nga mời tôi sang Paris giới thiệu chương trình. Về sau tôi mới biết đó là ông Tô Văn Lai...“
Thật ra, Nguyễn Ngọc Ngạn được ban giám đốc của trung tâm Thúy Nga để ý và muốn mời cộng tác vì lúc đó anh đã là một người viết văn nổi tiếng, có được một số độc giả đông đảo. Cùng một lúc, họ muốn tìm một đường hướng mới cho vai trò MC mà trước đó qua những chương trình video chưa được đặt lên hàng quan trọng.
Thời gian này Nguyễn Ngọc Ngạn đang đi làm cho một công ty bảo hiểm. Ngoài ra anh còn làm thêm về thông dịch và cùng với người vợ sau tại một thư viện ở Toronto . Trước lời mời bất ngờ trong một lãnh vực quá mới lạ đối với anh, Nguyễn Ngọc Ngạn trả lời cần có thời gian suy nghĩ. Trước đó từ năm 87 ngoài việc sáng tác, Nguyễn Ngọc Ngạn còn hợp tác với một người Đài Loan tên Chiêu, làm tại thư viện trung ương Toronto, để viết truyện song ngữ thiếu nhi Anh Việt như Hoa Mộc Lan, Tôn Ngộ Không, vv...
Ông Chiêu nhận thấy sách của Nguyễn Ngọc Ngạn được hỏi mượn rất nhiều ở thư viện nên nẩy ra ý định mời anh cộng tác. Tổng cộng anh đã viết được khoảng 50 quyển sách loại này, hiện vẫn được lưu giữ trong các thư viện... Trước khi đến với Thuý Nga, Nguyễn Ngọc Ngạn đã chính thức bước vào nghề viết văn khi còn ở đảo Prince Rupert , tại Vancouver , Canada . Anh cũng là người tỵ nạn đầu tiên có sách viết bằng tiếng Anh được xuất bản. Ngoài ra anh còn giữ chức chủ tịch đầu tiên của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại.
Trong lãnh vực văn chương, chỉ trong một thời gian ngắn, Nguyễn Ngọc Ngạn đã trở thành “nổi đình nổi đám “ với những Nước Đục, Cõi Đêm, vv.... và được rất nhiều báo chí và nhà xuất bản mời viết. Chủ nhiệm tờ Phụ Nữ Diễn Đàn thời đó là nhà báo Chử Bá Anh từng ngỏ ý muốn lo giấy tờ cho anh qua Mỹ để giữ vai trò chủ bút cho tờ báo này. Ngoài ra chủ nhiệm tờ Ngày Nay là Lê Hồng Long cũng đưa ra cùng đề nghị, nhưng anh đã từ chối tất cả những lời mời đó vì còn “rụt rè lắm” như lời anh nói.
Nguyễn Ngọc Ngạn cho biết thêm có lẽ anh ảnh hưởng tính không thích bon chen của thân phụ nên đã có quyết định như vậy. Nhưng số mệnh đã đưa đẩy Nguyễn Ngọc Ngạn đến một lãnh vực hoàn toàn xa lạ, chắc chắn anh không bao giờ nghĩ tới, ngoài sự đưa đẩy của số mệnh để “tôi nằm ở đây mà có người bưng tôi lên sân khấu chứ tôi không có tìm, thành thử về sau, tôi mới tin người ta phải có số”.
Nguyễn Ngọc Ngạn tâm sự thêm: “Thật sự ra trước khi tôi làm Paris By Night và nhất là trước khi xẩy ra vụ cuốn video Mẹ thì tôi không tin lắm... Nhưng sau, tôi nhờ những ông thầy giỏi coi tử vi cho thì tôi thấy y chang”.
Cũng về số mệnh, Nguyễn Ngọc Ngạn có lần tình cờ hỏi nhạc phụ anh là một người giỏi về khoa tử vi về tương lai của mình và được cho biết là “tên tuổi như vậy có ăn thua gì đâu, vài năm nữa sẽ lừng lẫy”, trong khi anh cho là nổi tiếng như anh vào thời đó đã là quá đủ. Nhưng sau khi cộng tác với trung tâm Thúy Nga, Nguyễn Ngọc Ngạn mới nghiệm thấy rất đúng vì dù sao viết văn cũng chỉ có một số độc giả cũng hạn chế, không sao so được với khán thính giả đông đảo của những chương trình Paris By Night.
Cũng theo sự giải đoán của nhạc phụ anh, thời kỳ cung mệnh của Nguyễn Ngọc Ngạn gặp hạn Thái Tuế, là giai đoạn anh rất nổi tiếng, nhưng sẽ rất vất vả bởi những điều thị phi nên sẽ gặp phải những tranh luận, cãi vã đưa đến vấn đề pháp luật. Nghiệm lại, anh thấy rất phù hợp với giai đoạn xẩy ra vụ video “Mẹ” (Paris By Night 40), từng gây nhiều sôi nổi...
Đúng 10 năm trước khi cộng tác với trung tâm Thúy Nga, Nguyễn Ngọc Ngạn lập gia đình lần thứ hai vào ngày 19 tháng 6 năm 1982 với một thiếu nữ tên Diệp, khi đó 28 tuổi. Diệp vượt biển và được đoàn tụ tại Paris với gia đình gồm bố mẹ và các em vào năm 80. Người anh cả của chị cùng đi với gia đình sang trại tỵ nạn ở Hoa Kỳ từ năm 75, nhờ làm việc cho cơ quan D.A.O của Mỹ nên được mang theo 10 người trong gia đình. Diệp phải ở lại với người chị đã có chồng. Từ trại tỵ nạn, song thân chị sang Pháp định cư, trong khi các em chọn Mỹ và người anh chọn Calgary , Canada làm nơi cư ngụ. Người anh cả sau đó đã qua đời do ung thư khi được đúng 40 tuổi.
Sau khi tới Paris , Diệp được thân mẫu đưa sang Calgary để thăm mộ anh.. Và chính tại đây, Nguyễn Ngọc Ngạn gặp người vợ tương lai của mình lần đầu tiên, qua sự giới thiệu của một người bạn đi cùng tầu vượt biển với Diệp, nhờ anh đi đón giùm hai mẹ con vì cả hai còn quá xa lạ với nơi đặt chân tới.
Nguyễn Ngọc Ngạn đã đi đến một quyết định rất nhanh: khi mới quen Diệp vào ngày thứ Sáu, qua đến ngày Chúa Nhật đã ngỏ lời xin cưới “tại vì tôi nghĩ là bây giờ hai người ở hai phương trời cách biệt. Bà ấy ở Paris , tôi ở Canada dễ gì gặp lại nhau. Mà lúc đó thì nghèo rớt mồng tơi, mới sang đâu có đồng bạc nào. Làm bao nhiêu thì lại phải tuôn về Việt Nam hết thành thử đâu có tiền mà đi tới đi lui. Nhân dịp có bà già ở đây thì hỏi béng cho rồi”.
Thân mẫu Diệp cho biết sẽ về hỏi ý kiến chồng, trong khi Diệp đã nhận lời cầu hôn của Nguyễn Ngọc Ngạn. Nên dù ở Paris có nhiều người theo đuổi chị vẫn không đổi ý, dù mẹ chị không tán thành. Ý bà không muốn con gái lấy một người ở tận Canada vì sẽ khó lòng khi muốn gặp sau này.. Nhưng Diệp vẫn giữ lời hứa để cùng Nguyễn Ngọc Ngạn chung sống cho đến nay và có với nhau một con trai, năm nay 21 tuổi.
Sau khi thành hôn, Nguyễn Ngọc Ngạn bảo lãnh vợ sang Canada , về Prince Rupert ( Vancouver ) sinh sống. Trong 10 năm kế, năm nào chị Diệp cũng đưa con về Paris thăm Mẹ, nhưng Nguyễn Ngọc Ngạn không đi theo bao giờ vì bận công việc, nhất là trong thời gian đầu cần giúp đỡ gia đình còn lại Việt Nam . Cho đến năm 92, nhân dịp Thúy Nga mời sang Paris , lúc đó anh mới đi cùng với vợ về thăm gia đình bên ngoại.
Dịp này, Nguyễn Ngọc Ngạn mới tìm đến trung tâm Thúy Nga – là một cửa tiệm bán băng nhạc ở quận 13 Paris, trong khi trung tâm chính được đặt tại nam California từ lâu mà anh không biết - với mục đích cám ơn ông Tô Văn Lai đã gửi tặng một số video, trong khi anh vẫn chưa quyết định có nhận lời cộng tác hay không.
Khi vào đến tiệm, anh cũng không hề biết mặt vợ chồng người điều hành trung tâm. Anh hỏi muốn gặp ông Lai qua bà Thúy, vợ ông. Anh tự giới thiệu là người đã được mời làm MC cho một chương trình video sắp tới.. Nguyễn Ngọc Ngạn nhận thấy sự mừng rỡ trong ánh mắt của ông Tô Văn Lai trong lần gặp gỡ đầu tiên, ít ra là qua cách ăn mặc tươm tất, tóc tai gọn ghẻ, có thể khác với sự hình dung về một nhà văn trước đó của ông giám đốc trung tâm Thuý Nga, “Rồi tôi thấy ống ấy chạy vô nói nhỏ với bà Thúy là “Thúy ơi, ông này coi còn được”. Sau khi thảo luận trong bữa ăn tối, Nguyễn Ngọc Ngạn vẫn còn lưỡng lự trước lời mời làm người điều khiển chương trình, “vì trong văn giới đã có tiếng, bây giờ làm MC mà không được thì kỳ.”
Với lý do đó, Nguyễn Ngọc Ngạn khất ông Lai thêm một thời gian. Trong khi đó, anh dò hỏi ý kiến những người cháu trong gia đình cùng một số học trò cũ gặp tại Paris thì tất cả đều phản đối. Ngay cả mấy người em vợ và chính vợ anh cũng không ủng hộ cho việc nhận lời làm MC của anh...
Nhưng chỉ có một người duy nhất ủng hộ anh là nhạc sĩ Ngọc Trọng, người em út trong gia đình, với lý do muốn bố còn ở Việt Nam thấy mặt anh, dù là qua hình ảnh và chỉ cần xuất hiện trên một chương trình video, rồi sau đó ngưng luôn cũng được. Vợ anh, trước lý do xác đáng đó cũng đã khuyên anh nên nhận lời.
Từ những khuyến khích với lý do nặng về tình cảm đó, Nguyễn Ngọc Ngạn gọi điện thoại cho ông Tô Văn Lai, đồng ý xuất hiện trong chương trình Paris By Night 17, thu hình tại Paris, ”Nhưng không biết có làm lâu dài hay không, nên tôi dứt khoát không may quần áo mới, tôi mặc bộ đồ tôi vẫn đi làm ở thư viện thường ngày. Tôi vẫn mang cái kính cũ, tôi đi đôi giầy cũ, tôi không có thay một cái gì cả. Và tóc tai là tôi cũng tự chải chứ không để ai chải đầu, làm tóc hết. Vì không biết người ta có mướn mình làm nưã hay không và mình cũng không có ý định làm lâu, thành ra tôi không có gì thay đổi”.
Chỉ sau khi nói vài lời mở đầu và sau đó giới thiệu nhạc phẩm “Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội” của Phạm Đình Chương do Ái Vân và Hương Lan trình bầy trên Paris By Night 17, ban giám đốc trung tâm Thúy Nga đã đề nghị Nguyễn Ngọc Ngạn cộng tác độc quyền.
Với một giọng nói “ăn micro” cùng một đường hướng khác biệt với những người đi trước, Nguyễn Ngọc Ngạn đã ít nhiều gây được một ấn tượng tốt. Anh kể: ”Tôi chỉ biết là khi lên sân khấu, tôi chỉ mới nói mấy câu mở đầu thôi, nhờ cái giọng tôi ăn micro lắm nên gây được ấn tượng cho người ta. Thứ hai là lối nói của tôi có vẻ thầy giáo. Tôi nghĩ trong đầu là những người MC trước họ cười nhiều quá. Bây giờ mình phải làm ngược là không cười. Họ nói những chuyện bình thường trong đời sống, bây giờ tôi phải đưa một chút văn chương và một chút triết học vào”.
Ngay trong chương trình video đầu tiên, Nguyễn Ngọc Ngạn đã đưa vào phần giới thiệu chương trình một số câu thơ của Thanh Tâm Tuyền vì muốn làm một điều gì khác biệt với trước đó như anh đã nói, nhất là muốn khai thác kiến thức về văn chương của mình.. Theo anh, đó là một cách thử, nhưng không ngờ lại gây được chú ý. Trước đó, chính vợ anh cũng không tỏ ra tin tưởng mấy khi anh đảm nhiệm một vai trò quá mới lạ. Khi tiễn chân Nguyễn Ngọc Ngạn ra cửa trong lần đi thu hình đầu tiên, chị Diệp cho rằng chuyến này anh đi sẽ “ôm đầu máu “ trở về, theo lời anh kể.
Sau khi video Paris By Night 17 phát hành, đã có một số trung tâm gọi đến mời anh đảm nhiệm vai trò MC, nhưng anh đều từ chối vì đã nhận lời cộng tác độc quyền với Thuý Nga vì nhận thấy trung tâm này thích hợp với đường lối của mình. Với đường lối đó, “Ông giáo làng Nguyễn Ngọc Ngạn“ đã chứng tỏ được điều “hữu chiêu thắng vô chiêu”, như nhạc sĩ Song Ngọc đã nhận xét về anh sau khi cuốn video trên phát hành trong một bài báo ngắn.
Trước khi gặp Nguyễn Ngọc Ngạn, trung tâm Thuý Nga đã mời Đỗ Văn làm MC cho video 18 với chủ đề Phạm Duy. Ngoài ra cũng đã mời Kim Anh – Trần Quốc Bảo cho chương trình đặc biệt Giáng Sinh; Lê Văn cho chương trình Phạm Duy 2 và La Thoại Tân cho một chương trình khác. Cho nên dù đã nhận lời cộng tác độc quyền nhưng anh muốn Thúy Nga giữ lời hứa với những người đã mời nên anh đã chỉ xuất hiện sau đó từ chương trình Paris By Night 20 trở đi.
Tổng cộng tính đến chương trình Paris By Night 72 anh đã có mặt trên 70 chương trình, hầu hết là đảm trách phần MC với Kỳ Duyên, ngoài một vài chương trình “độc diễn”, như chương trình 21 với chủ đề Ngô Thuỵ Miên hoặc 22 dành cho Lam Phương.
Nguyễn Ngọc Ngạn cho biết anh không hài lòng một chương trình nào một cách trọn vẹn, do đầu óc luôn căng thẳng vì những chương trình thu hình thường kéo quá dài. Nhiều khi có những chương trình được thu hình 2 xuất trong một ngày, chỉ cách nhau chừng hai tiếng với sự thay đổi về thành phần ca sĩ.
Anh luôn cố gắng làm thế nào để những khán giả tham dự xuất thứ hai có cảm tưởng mới lạ đối với những diễn biến trên sân khấu mặc dù trước đó không lâu, trong cùng một ngày, cũng chương trình đó đã được diễn ra với anh là người điều khiển chương trình, cùng với Kỳ Duyên.
Đặc biệt mỗi lần thay đổi cảnh trí đối với những chương trình thu hình “live”, Nguyễn Ngọc Ngạn luôn phải tìm cách “câu giờ”, tùy theo thời gian chuyển cảnh giữa những tiết mục, nhưng “khó ở chỗ là nói làm sao để khán giả không biết là đang câu giờ “, theo anh nói.
Thời gian ngắn nhất để chuyển cảnh khoảng 3 phút và dài nhất có khi lên đến 10 phút hoặc hơn. Không ít khán thính giả thắc mắc về việc bằng cách nào người MC biết được cảnh trí đã được dàn dựng xong, sẵn sàng cho tiết mục kế tiếp, để ngưng câu chuyện đang kể trên sân khấu.
Điều này được Nguyễn Ngọc Ngạn giải thích: ”Ở giữa hoặc ở cuối rạp có một người cầm đèn pin mà khán giả không nhìn thấy. Người ta cho mình biết anh đó sẽ ngồi ở đâu. Thí dụ ngồi ở chân camera nào hay là ở hàng ghế thứ mấy. Anh ta đeo một headphone và trên sân khấu có stage manager cũng đeo một headphones. Khi nào trên stage manager dọn xong sân khấu ở sau bức màn, sẽ báo cho đạo diễn biết để ở trên sẽ nói xuống cho anh cầm đèn pin. Anh cầm đèn pin sẽ bấm hai cái thì tôi với cô Kỳ Duyên nhìn thấy. Nếu đang kể chuyện dở dang thì mình gấp rút kết luận để chuyển mục. Cho nên có nhiều chuyện định kể hoặc chưa kịp nói thì bỗng dưng thấy chớp đèn rồi thì mình mừng quá, mình vào luôn”.
Qua lời kể của Nguyễn Ngọc Ngạn, khán giả đã nhận biết được tầm mức quan trọng của một người được gọi là MC trong một chương trình video hoặc một “live show”. Ngoài tài ứng biến nhậm lẹ, thích ứng tức khắc với những thay đổi chương trình vào giờ chót cùng những lời đối đáp duyên dáng, vv...; người MC cần có một số vốn kiến thức về nhiều lãnh vực liên quan đến thời sự, xã hội, văn chương, vv... qua sự để tâm tìm tòi và nghiên cứu nhằm tạo thành “bài bản” để tạo cho người theo dõi những giây phút thích thú hay những nụ cười thoải mái.
Sau 12 năm lăn lộn trong nghề, không ai phủ nhận là Nguyễn Ngọc Ngạn có được đầy đủ những yếu tố đó. Nhưng không phải từng có nhiều kinh nghiệm mà anh không còn cảm thấy khó khăn với một số chương trình: ”Có nhiều cuốn tôi không hài lòng là những cuốn nói chung không có đề tài để nói, chẳng hạn như chương trình gồm Thế Sơn-Nguyễn Hưng-Don Ho.. Tức là chủ đề chỉ có 3 ca sĩ đó thôi, mà ba ca sĩ đó thì bao nhiêu lời mình giới thiệu trong 10 năm nó đã đủ quá rồi, bây giờ không thể nhắc lại được nữa. Những cái cuốn đại khái như vậy là những cuốn khó khăn nhất cho tôi. Nói chung là những cuốn mà không có đề tài để nói là những cuốn khó khăn nhất”.
Ngược lại, Nguyễn Ngọc Ngạn cảm thấy dễ dàng hơn trong vai trò MC với những chương trình video có một chủ đề rõ ràng như: ”chủ đề về Tình Yêu hay là Chúng Ta Đi Mang Theo Quê Hương, Cây Đa Bến Cũ, vv... đại khái như vậy hoặc những chủ đề rõ ràng như Tiền, hay Đàn Bà, hay là 20 Năm Nhìn Lại ,vv... Những cuốn đó thì dễ soạn bài”.
Với người đồng đảm nhiệm phần MC với anh là Kỳ Duyên, Nguyễn Ngọc Ngạn thường bỏ ra nguyên một ngày để cùng soạn “script” cho một chương trình thu hình: “Tụi này có thói quen là cứ thứ Bẩy trình diễn thì bắt buộc phải dành trọn ngày thứ Tư làm việc. Qua đến thứ Năm, thứ Sáu ai rảnh thì ngồi coi. Coi để thêm đuợc cái gì thì thêm. Nhưng dĩ nhiên gọi là làm mất một ngày đó thì trong cái đầu mình phải tìm tòi, gom góp những chất liệu... Kiến thức đâu có phải là cái một sớm một chiều mà xong, nó là cái chuyện tích tụ từ lâu rồi. Rồi đến lúc gặp một tình huống hay một cái gì vui vui thì trong đầu mình nẩy ngay ra ý tưởng thích hợp”.
Tuy nhiên có những trường hợp tuy đã soạn “script” sẵn, nhưng khi lên sân khấu lại phải thay đổi để thích nghi với diễn biến trên sân khấu vì “có khi đổi cảnh nhanh quá, mình chưa kịp nói thì đã đổi xong. Khi đèn pin nó chớp tức là đổi cảnh xong thì phải giới thiệu ngay vào tiết mục kế tiếp”.
Đối với Nguyễn Ngọc Ngạn, mỗi khi hoàn tất vai trò MC cho một chương trình, anh đều cảm thấy “nhẹ bụng như đẻ xong đứa con”, vì đã phải trải qua những giây phút quá nặng nề khiến đầu óc luôn bị căng thẳng. Nhất là những chương trình lớn như “Thuý Nga 20th Anniversary” thực hiện ở San Jose vào tháng 8 năm 2003. Như trong trường hợp quay bằng hình thức MTV thì nếu hư thì sẽ thu hình lại dễ dàng, nhưng đây là một buổi thu hình có sự tham dự của khán giả nên rất khó khăn.
Nhất là khán giả tham dự một chương trình thu hình “live” có tính cách tổng hợp gồm nhiều thành phần với những thị hiếu về nghệ thuật khác biệt: ”Theo tôi, khán giả tham dự những buổi trình diễn văn nghệ là một sự tổng hợp. Thí dụ có những người chỉ thích loại nhạc do Khánh Hà, Khánh Ly, Ý Lan, vv... trình bầy, thì khi nghe những ca sĩ khác thì coi như họ đành ngồi nghe thôi. Ngược lại, có những người chỉ thích loại nhạc trình bày bởi Trường Vũ, Như Quỳnh, Phi Nhung, Mạnh Quỳnh mà không thích loại nhạc tiền chiến. Nên khi những ca sĩ hát loại nhạc tiền chiến ra thì họ cũng phải chịu đựng, ngồi đó thôi. Cho nên chen vào giữa các bài hát mà mình không làm được cái gì để cho không khí vui lên thì sẽ làm khổ khán giả”.
Những gì Nguyễn Ngọc Ngạn phải thực hiện khi làm MC không chỉ dừng lại ở đó mà anh còn được giao phó một số vai trò khác “như tôi phải làm ảo thuật, phải làm xiệc thì phải tập dượt trước. Rồi những màn như trước đây tôi đu trực thăng hay là nhảy xuống Niagara Falls , vv... Bên cạnh đó, tôi và cô Kỳ Duyên cũng có khi đóng những tiểu phẩm nhỏ. Thí dụ như Phi Nhung-Mạnh Quỳnh hát cải lương xong kêu tôi bằng ba, tôi phải đi ra. Có nhiều thứ lắm, không phải MC của Thuý Nga chỉ đứng giới thiệu không mà thôi. Thành ra chiếm rất nhiều thì giờ và đầu óc của mình”.
Ngoài Kỳ Duyên, trong những lần tham dự những chương trình “live show” tại khắp nơi, Nguyễn Ngọc Ngạn đã từng làm MC bên cạnh Thụy Trinh, Mai Phương, Quỳnh Hương, Khánh Ly, vv...Với bất cứ ai, anh cũng có khả năng tạo được một sự ăn khớp nhịp nhàng, nhờ biết nương theo cách ứng xử của từng người.. Hiện nay, ngoài phần làm MC độc quyền cho những chương trình video Paris By Night, Nguyễn Ngọc Ngạn thường xuyên nhận được lời mời đi show khắp nơi tại Bắc Mỹ, Âu Châu cũng như Úc Châu.
So với những ca sĩ nổi tiếng, anh đi show không nhiều bằng - mặc dù có những tháng anh nhận tới 5 shows - vì có những vũ trường hay những chương trình nhỏ của các hội đoàn không cần đến vai trò MC. Nhưng anh nhận được rất nhiều lời mời làm MC cho những tiệc cưới, tiệc kỷ niệm thành hôn, vv... nhưng anh không nhận lời, ngoài một vài chương trình do những bạn bè thân tổ chức mà không đòi hỏi một khoản thù lao nào. Đặc biệt hơn cả là có lần anh được mời làm MC cho một... đám ma, theo lời trối trăn của người quá cố, muốn anh đọc điếu văn, nhưng anh cũng không nhận lời. Anh nói đùa thêm là “thật sự nếu làm MC cho đám ma thì sướng hơn vì không phải kể jokes !”
Đối với người MC nhiều năm kinh nghiệm này, vấn đề khó khăn nhất hiện nay chính là vấn đề tìm kiếm để có được những mẩu chuyện vui để kể trên sân khấu, vì những câu chuyện thích hợp với khán thính giả Việt Nam càng ngày càng cạn. Tuy anh có cả một tủ sách truyện vui cười của Mỹ, nhưng khi dịch sang tiếng Việt đã không áp dụng được với khán giả người Việt do cách chơi chữ đặc biệt hoặc mang tính cách thời sự, không thích hợp với các khán thính giả Việt Nam . Cũng đã từng có rất nhiều người đóng góp những chuyện vui cười với anh, qua trung tâm Thuý Nga, nhưng vấn đề tuyển chọn không phải là dễ dàng để hoạ hoằn mới có một chuyện được dùng.
Vai trò MC nổi bật của Nguyễn Ngọc Ngạn hầu như đã khiến vai trò một người cầm bút của anh bị lu mờ phần nào. Mặc dù hiện nay anh vẫn viết đều, nhất là những chuyện được thu vào những “audio books” mà không ai ngờ là những sản phẩm được tiêu thụ rất mạnh hiện nay.
Sau 12 năm vui buồn với nghề ăn nói, Nguyễn Ngọc Ngạn không còn bao lâu sẽ bước vào lớp tuổi 60. Anh cho rằng cũng chẳng còn bao lâu nữa, sẽ đến lúc anh bước xuống sân khấu, từ giã ánh đèn mầu, bỏ lại phiá sau nghề MC cùng cái thế giới nghệ sĩ đối với anh có nhiều gắn bó. Anh luôn mang hy vọng trong thế hệ những MC tiếp nối con đường của mình sẽ có những khuôn mặt, những giọng nói nâng cao được giá trị của cái nghề xét ra không phải dễ dàng này...

Source www.vietinternet.com.au

Thứ Hai, 23 tháng 2, 2015

Cái bẫy chuột ...

 


Một chú chuột nhìn qua vách nhà, thấy bác nông dân và vợ đang hí hoáy mở một cái hộp. Chú hí hửng chắc hẳn trong hộp là món đồ ăn rất ngon.
Nhưng ngay sau đó, chú hốt hoảng khi phát hiện ra đó là một chiếc bẫy chuột. Chú lao ra sân la toáng lên:
- Có một cái bẫy chuột trong nhà, có một cái bẫy chuột trong nhà!
Chị gà mái đang thủng thẳng bới giun trong vườn nghe thấy chỉ nghếch đầu lên và nói:
- Này chuột, cái bẫy chuột ấy quả thật là rất ghê gớm. Nhưng nó chỉ ghê gớm với cậu thôi. Còn với tôi thì nó chẳng có liên quan gì. Làm sao tôi có thể bị sa chân vào một cái bẫy chuột được.
Chú chuột liền chạy đi kể lể về cái bẫy với chị heo trong chuồng:
- Chị heo, có một cái bẫy chuột trong nhà. Nó thật là khủng khiếp!
Chị heo ôm bụng cười ngặt nghẽo:
- Ta rất hiểu cho cậu, nhưng chuột này, nó thì có ảnh hưởng gì đến ta? Ta sẽ cầu nguyện cho cậu không bị vướng vào cái bẫy đó.
Cậu buồn bã đến gặp bác bò, nhưng cũng chỉ nhận được thái độ tương tự: “Bác rất hiểu cháu đang lo sợ như thế nào. Nhưng mà ta cũng chẳng giúp được gì. Hãy đi đứng cẩn thận con trai”.

Chú chuột thở dài một tiếng, rồi lặng lẽ quay vào nhà, nằm đối diện chiếc bẫy nguy hiểm. Chú miên man trong những suy nghĩ về chiếc bẫy, về một ngày nào đó chẳng may mình bị bẹp dí trong chiếc bẫy kia… rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Bỗng nửa đêm, một tiếng la thất thanh khiến chú giật mình tỉnh giấc, trước đó là tiếng của chiếc bẫy sập lại. “Ôi trời, có người anh em nào của ta đã gặp nạn rồi sao?”, chú nghĩ bụng.
Thì ra đó là tiếng hét của vợ người nông dân. Nghe tiếng động, bác gái vội vàng xuống nhà xem có con chuột nào bị dính bẫy. Nhưng trời tối quá, bác không ngờ rằng, kẻ bị sập bẫy lại là một con rắn độc. Trong lúc mon men đến gần cái bẫy bác gái đã bị nó cắn vào chân.
Bác nông dân vội vàng đưa vợ đến bệnh viện. Khi trở về, báo bác gái bị lên cơn sốt.Bác trai nhớ là ăn cháo có thể hạ sốt nên ra vườn cắt tiết chị gà mái để lấy nấu cháo cho vợ ăn. Nhưng bệnh tình của bác gái vẫn không giảm chút nào. Bạn bè, hàng xóm đến hỏi thăm. Bác trai phải thịt chị heo để lấy thức ăn mời mọi người dùng cơm.
Thật không may, sau nhiều ngày chống chọi với bệnh tật, vợ bác nông dân đã qua đời.Vì họ hàng đến hỏi thăm, phúng viếng rất đông nên bác phải mổ bác bò để có đủ thức ăn đãi khách.
————–
LỜI BÌNH: Cuộc sống là những vòng dây kết nối chặt chẽ giữa người với người. Đôi khi bạn nghĩ, khó khăn, rắc rối của người này chẳng liên quan đến mình; nhưng rất có thể, nó sẽ liên lụy đến bạn theo một cách nào đấy. Vậy nên, đừng thờ ơ, lãnh cảm hay vô tâm trước khó khăn của người khác, vì giúp người cũng là giúp chính mình.
Nguồn: CLB Người Tử Tế
 
Source Internet.

Đàn Nhị








VIDEO



Đàn Nhị

1-Bầu cộng hưởng: đường kính vòng ngoài bầu cộng hưởng nơi có bịt da khoảng 6,5cm dài khoảng 13,5cm. Ðầu không bịt da trăn đường kính vòng ngoài khoảng 6,2cm vòng trong khoảng 5,8cm, bầu cộng hưởng có chu vi khoảng 14,8cm.
 
2-Dọc đàn (cần đàn): làm bằng gỗ cứng, gụ hay trắc để có sức chịu khi lên dây, cần đàn thân tròn hoặc vuông (15mmx15mm) chiều dài khoảng 80,5cm phần đầu cần đàn thẳng, phía dưới cần đàn xuyên thủng bầu cộng hưởng khoảng 2,5cm về phía mặt da.
 
3-Trục đàn: dùng để lên dây còn gọi là trục dây, cả hai trục đều cắm xuyên qua đầu cần đàn, nằm theo hướng của bầu cộng hưởng. Trục đàn dài khoảng 14,5cm bằng gỗ hình tròn (một đầu lớn, một đầu nhỏ) trục được gọt thành những múi hình lục lăng để lên dây, có khi được chạm bằng xương hay xà cừ.
 
4-Ngựa đàn: làm bằng tre hay gỗ dài khoảng 1,2cm, cao khoảng 0,9cm và dày khoảng 0,6cm, ngựa đàn đặt trên khoảng giữa mặt da (màng rung).
 
5-Dây đàn: có 2 dây, trước kia làm bằng sợi tơ xe, ngày nay hay dùng dây nylông nhưng tốt nhất là dây kim khí vì dây kim khí tiếng đàn bảo đảm chuẩn xác tuy nhiên tiếng đàn hơi kém mềm mại.
 
6-Khuyết đàn (nơ đàn): còn gọi là "cữ đàn" là một sợi tơ xe néo 2 dây đàn vào gần sát cần đàn ở đoạn phía dưới các trục dây. Có người dùng khuy nút áo, xỏ 2 dây đàn vào 2 lỗ khuy rồi buộc khuy vào gần sát cần đàn làm cái khuyết đàn. Tác dụng của bộ phận này là để điều chỉnh độ cao thấp của âm thanh đàn Cò lòn. Khi đưa khuyết đàn (nơ đàn) xuống làm ngắn quãng dây phát âm (do đó dây đàn có âm thanh cao) Khi đẩy nơ đàn lên, làm dài quãng phát âm (do đó dây đàn có âm thanh trầm).
 
7-Cung vĩ (Archet): làm bằng tre, cành hóp hay bằng gỗ, có mắc lông đuôi ngựa, cung vĩ uốn cong hình cánh cung, tương xứng với cần đàn dài khoảng 75,5cm, được nằm giữa hai dây đàn (không lấy cung vĩ ra ngoài được). Khi đàn cọ sát vào dây và kéo, đẩy để phát ra âm thanh.
 
 
Đàn Cò Líu 

Đàn Cò Líu còn gọi là Ðàn Cò Chỉ, cấu tạo gồm 7 bộ phận nhưng kích thước nhỏ hơn Ðàn Cò (Nhị), âm thanh cao hơn Ðàn Cò (Nhị) khoảng 1 quãng 8.    
1-Bầu cộng hưởng: đường kính vòng ngoài bầu cộng hưởng nơi có bịt da khoảng 4,3cm, dài khoảng 13,8cm. Ðầu không bịt da trăn đường kính vòng ngoài khoảng 3,8cm, vòng trong khoảng 3,4cm, chỗ uốn cong của bầu cộng hưởng có chu vi khoảng 12,8cm.
 
2-Dọc đàn (cần đàn): làm bằng gỗ cứng, gụ hay trắc để có sức chịu khi lên dây, cần đàn thân tròn hoặc vuông (13mmx13mm) chiều dài khoảng 72,5cm phần đầu cần đàn thẳng, phía dưới cần đàn xuyên thủng bầu cộng hưởng khoảng 2cm gần về phía mặt da.

3-Trục đàn: dùng để lên dây còn gọi là trục dây, cả hai trục đều cắm xuyên qua đầu cần đàn, nằm theo hướng của bầu cộng hưởng. Trục đàn dài khoảng 16cm bằng gỗ hình tròn (một đầu lớn, một đầu nhỏ) trục được gọt thành những múi hình lục lăng để lên dây, có khi được chạm bằng xương hay xà cừ.

4-Ngựa đàn: làm bằng tre hay gỗ dài khoảng 1,2cm, cao khoảng 0,9cm và dày khoảng 0,6cm, ngựa đàn đặt trên khoảng giữa mặt da (màng rung).

5-Dây đàn: có 2 dây, trước kia làm bằng sợi tơ xe, ngày nay hay dùng dây nylông nhưng tốt nhất là dây kim khí vì dây kim khí tiếng đàn bảo đảm chuẩn xác tuy nhiên tiếng đàn hơi kém mềm mại. Ðàn Cò Líu lên dây cách nhau một quãng 5 đúng, so dây theo các kiểu: (g1 - d2 hoặc a1 - e2 hoặc d1 - a1) 

Source Internet.

KIẾP NGƯỜI



Giới thiệu người viết: Nguyễn Trà sinh quán tại Triệu Phong, Quảng Trị, vào học ở Huế, gia nhập quân đội năm 1968, Thủ Đức khóa 9/68. Thặng dư sau vào khóa 3/69 đã có hồ sơ gia nhập không quân trước, nên về không quân SVSQ, tốt nghiệp hoa tiêu trực thăng cuối năm 1970 tại Hoa Kỳ.  Học bổ túc khóa quân sự tại SĐIKQ/ Đà Nẵng, tốt nghiệp cấp bậc thiếu úy, giữ chức Flight  phó phi đội gunship của phi đoàn, Hoàng Ưng Skyhawk 239/KĐ51/CT SĐIKQ Đà Nẵng. Cuối năm 1972 lên trung úy, đầu năm 1975 đặc cách lên đại úy nhiệm chức lúc 26 tuổi.  Định cư tại Hoa Kỳ năm 1975, vợ và 3 con đang hưu trí tại Nam Florida USA.
                                                KIẾP NGƯỜI
   Mỗi người chào đời có một vận mệnh khác nhau có người sung sướng kẻ nghèo khó, người gặp may mắn kẻ rủi ro không ai giống ai tuy nhiên phần đông rơi vào cảnh khổ cho nên mỗi khi đứa bé vừa ra khỏi bụng mẹ là phải khóc. Ngày xưa ông bà thường giải thích sinh ra trước hết là thấy khổ nên phải khóc nếu đứa bé nào không khóc thì e rằng nó không thể tồn tại trên cõi đời (giải thích theo kinh nghiệm nhưng lại thiếu khoa học). Mỗi người một hoàn cảnh trong nhiều trạng thái khác nhau lớn dần rồi tự chấp nhận và an ủi  gặp nhiều gian nan trách số phận hẫm hiu, suốt đời bị ám ảnh dày vò tâm hồn, dẫn đến thể xác cằn cỗi và héo mòn.
     Kể từ khi được sinh ra con người đã phải bắt buộc chấp nhận sự an bài của quy luật tự nhiên, bởi con người là sản phẩm của tự nhiên, nghĩa là quy luật tự nhiên quyết định sự sinh tồn và phát triển của con người suốt trong cuộc đời cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Con người từ xưa đã có tham vọng tìm hiểu về vận mệnh của mình diễn biến qua từng thời gian mà có thể tạm gọi chung là tử vi.
     Mệnh tức là sinh mệnh, mệnh của con người ấn định ngay từ khi người mẹ thụ thai đang còn trong bụng chịu chi phối số phận định sẵn cho một kiếp người, là một loại thế lực mà khả năng con người không thể nào chống cự laị được, mệnh mang quyền lực của quy luật tự nhiên, to lớn, bao la vĩnh hằng, con người mãi mãi vẫn chỉ là một trẻ thơ trung thực của tự nhiên. Nếu ai định vượt qua, hoặc không tuân thủ quy luật tự nhiên thì chỉ chuốc lấy tai hoạ bi thảm.
    Tôi sinh ra nhằm ngôi sao xấu, tại một làng ở miền quê xa xôi hẻo lánh của tỉnh Quảng Trị mồ côi cha mẹ từ thủa lên ba, cha mẹ qua đời để lại ba anh chị em. Tôi là người em út, cha bị lính Pháp hành quân lùng bắt lớp thanh niên cùng những vùng lân cạnh mà người Pháp gọi là phản động chống lại thực dân Pháp, bắt tập thể hàng trăm người trong đó có cha tôi ra Cửa Việt nhận chìm dưới đáy biển. Mẹ thì bị việt minh nghi ngờ làm gián điệp cho Pháp bắt đi chỉnh huấn ở chiến khu Ba Lòng, thuộc tỉnh Quảng Trị, với vùng núi non rừng sâu nước độc rồi bị lâm bệnh và chết ở đấy. Cha chết dưới biển, mẹ chết trên rừng cả hai coi như mất tích không tìm được thi thể, lúc chưa tròn ba tuổi tôi lớn lên trong cái bất hạnh của con người chưa hình dung khuôn mặt của cha và mẹ. Mẹ tôi mất quá sớm, tôi chưa hề có "Bông hồng cài áo" bởi thế trở nên bơ vơ lạc lõng như một đứa con hoang. Mỗi lần lễ Vu Lan báo hiếu lại về, nghe những lời dịu hiền ngọt ngào nói về mẹ, mà thiền sư Nhất Hạnh tả trong bài thơ về mẹ.     
                      Năm xưa tôi còn nhỏ
                      Mẹ tôi đã qua đời !
                      Lần đầu tiên tôi hiểu
                      Thân phận trẻ mồ côi
                      Quanh tôi ai cũng khóc
                      Im lặng tôi sầu thôi
                      Ðể dòng nước mắt chảy
                      Là bớt khổ đi rồi...
                    Hoàng hôn phủ trên mộ
                    Chuông chùa nhẹ rơi rơi
                    Tôi thấy tôi mất mẹ
                    Mất cả một bầu trời.
       Chị tôi là con đầu chị cả, đời con gái chỉ có một thời như cái hoa đang nở vào ban mai, đến tuổi đôi mươi lập gia đình đi lấy chồng xa, là chuyện thường tình và ngay cả anh em trong gia đình không một lời than phiền trách móc, mà lại còn khuyến khích chị đi lấy chồng. Còn lại hai đứa em hôm sớm mai khuya hẫm hiu trong gia đình, anh tôi khoảng mười lăm tuổi nhưng khôn ngoan lanh lợi đảm đang công việc trong gia đình như người lớn, dùng gia tài của cha mẹ để lại tiếp tục đùm bọc lẫn nhau.
  Giữa thập niên năm mươi TT Ngô đình Diệm mở chương trình chống nạn mù chữ, mở trường  học ở các vùng quê ở  địa phương xã, ấp lại có trường tiểu học vừa được xây cất nên tôi có cơ hội và phương tiện đi học. Sau khi xong bậc tiểu học, tôi lại ở nhà giúp anh theo việc đồng áng. Bốn năm sau, số phận đưa đẩy có ân nhân cứu giúp xin cho vào Viện Bảo Anh Huế ăn học, năm đầu học đệ thất trường tư, năm sau thi vào đệ lục trường trung học công lập Kiểu Mẫu, gặp may mắn hàng ngàn thí sinh dự thi chỉ lấy võn vẹn tám chục em vào bốn lớp đệ lục mà tôi trúng tuyển. Trời Phật đã phù hộ cho kẻ nghèo khó, học được ba năm đến năm đệ tứ tôi lại thi băng tú tài không ngờ lại trúng tuyển vào học đệ nhất một thời gian chán nản nên đầu đơn vào lính. Mặc dù học hành không giỏi, không cao nhưng mang đến cho tôi một tương lai đầy hy vọng và sáng lạng, con đường học vấn suông sẻ bằng lòng và toại nguyện .
   Gia nhập quân đội cũng gặp thời đúng lúc và khi quân đội Hoa Kỳ sắp bàn giao lại cho Việt Nam Cộng Hòa ( Việt Nam hóa) là cơ hội tốt được xuất ngoại theo học khóa hoa tiêu trực thăng gần hai năm trở về Việt Nam phục vụ tại Sư Đoàn I Không Quân đồn trú tại Đà Nẵng. Trong thời gian tôi ở trong quân đội, anh tôi lại hy sinh ngoài chiến trường tại Long Khánh. Vào đầu thập niên bảy mươi quê làng Việt Cộng chiếm giữ, bà con thôn xóm không ai biết tin tức manh mối về tôi vì xa quê lâu quá. Một vài lần trở về quê trên những phi vụ yểm trợ cho Thủy Quân Lục Chiến ở Quảng Trị nhìn làng xóm xơ xác điêu tàn như bãi chiến trường, trong trận chiến bao niềm đau, bao nỗi nhớ niềm thương của thời thơ ấu hiện về trong trí. Đây cũng là lần cuối cùng tôi quan sát thăm quê làng và từ giả không một lời chào bà con thôn xóm, chỉ có vài cái vẫy tay trên bầu trời bao la xanh cao ngất, tuy âm thầm lẵng lặng trên không trung laị cuồn cuộn chảy vào con tim rồi âm thầm giữ kín hơn cả nửa cuộc đời nơi quê người, tạm biệt lũy tre xanh, bến đò không khách qua lại, dòng sông Thạch Hãn nước vẫn chảy xuôi dòng không thuyền lui tới. Gần năm mươi năm dài đằng đẵng đốt cháy tuổi thanh niên, ngăn cách tình người, nơi thôn quê gắn bó mang nặng lòng nhân từ, ái ngại day dứt trong tâm hồn, biến cố cuộc đời chồng chất ưu tư thân phận nỗi buồn man mát, đã khơi dậy một niềm đau nhắc lại một nỗi nhớ những ngày tháng hẩm hiu trôi qua bao nhiêu bạn bè nằm xuống khi cuộc chiến tang thương và đẫm máu sắp đến hồi kết thúc.
   Tất cả đã mất rồi cả một bầu trời xanh bao la với bao nhiêu ước vọng thủa nào không bao giờ tìm lại được, đôi khi đầu óc mơ hồ tưởng mình đang đi tìm dấu vết tuổi thơ... giấc mơ xưa ngắn ngủi vỡ tan như bọt biển đại dương mênh mông xa thẳm không tìm thấy chân trời. Nhiều lần tôi đã bật khóc không cầm nỗi những niềm đau về bà con thôn xóm. Đời quân ngũ trải qua bao nhiêu hiểm nguy, hàng ngày phải đối diện với tử thần nhưng rồi Trời Phật phù hộ, may mắn thân thể không bị một chút mảy may thương tích con người vẫn nguyên vẹn đến ngày cuối cùng của cuộc chiến, bạn bè đã nằm xuống gần hết cũng có người may mắn trở thành thương phế binh.
      Những biến động lịch sử dồn dập xảy ra, ngày miền Nam thất thủ không một lời giã từ, tôi đành đoạn mang theo vợ ra đi lưu lạc nơi xứ người đã bốn mươi năm ròng rã trôi qua, xa cách hơn nữa quả địa cầu rồi dần dần khuây nguôi, làm quen nơi xứ lạ quê người xây dựng một đời sống mới hoàn toàn xa lạ mà chưa một lần nghĩ tới đời sống phiêu lưu. Một con người muốn tìm lại những tình cảm chân thành về lại chốn xưa, gặp lại người thân, cùng nhắc lại những ước mơ thủa nhỏ cùng bạn học nhớ bao chuyện vui thời trai trẻ, có như vậy mới tìm được cảm giác của một thời đầy sức sống quý trọng và được đắm mình trong những tình cảm chân thành là một niềm vui lớn khi tuổi xế chiều đang sống nơi xứ lạ quê người.
       Muôn vàn lưu luyến, niềm vui và nỗi háo hức bồn chồn trang nhã và âu yếm đôi khi pha chút phong trần muốn quên lãng một quãng đời đầy u ám và thất vọng rồi chỉ còn lại một hoài niệm, một kỷ niệm. Hòa hợp lân mẫn với bà con họ hàng bằng giới đức và lòng khiêm ái, cảm hoá chinh phục bà con bằng hạnh lợi tha và lòng bi mẫn, khi cứng thì sừng sững như núi không gì lay chuyển, khi cần uyển chuyển thì nhu thuận hiền hòa như nước chảy mây bay, một lòng từ bi trang trải đến dòng máu gia tộc.
  Cuộc đời của tôi đã thành tựu về học vấn, về tình duyên và gia đạo thành công sự nghiệp tiền tài và danh vọng, nhưng rồi vẫn vô phúc bởi mất tình thương, tình máu mủ cha mẹ. Ở trên đời có nhiều khi phải chọn lựa, mà không có sự chọn lựa nào mà không khổ đau, có những mất mát suốt cả cuộc đời lúc nào cũng ám ảnh dang díu và ràng buộc vào tình nghĩa ruột thịt  gia đình cha mẹ. Văn chương Việt Nam mang những danh từ cụ thể ý nghĩa bình dân chắc thật để diễn tả người mẹ, mẹ là chuối, là xôi là đường, là mật là ngọt ngào là tình thương. Nhưng rồi đời sống cũng phải tranh đấu, buôn chải lý trí tâm hồn sẽ hỗ trợ tăng sức cho sự sống, nhận thức và hiểu biết, ở đời khi được người khen cũng không lấy đó làm vui, và khi bị người chê cũng không lấy đó làm buồn.
    Tôi mạnh dạn dấn bước vào cuộc đời và xã hội trước kia cũng như đương thời nhiều khó khăn vất vả, những bước đi luôn hướng về đằng trước chắc chắn và vững vàng, cống hiến một trái tim quả cảm và lòng hoài bão yêu thương đồng bào. Bỏ lại đằng sau dấu tích của cả phần đời, mà tất cả vui buồn bây giờ đã trở thành kỷ niệm nằm sâu chôn chặt tận đáy lòng, tôi lại tiếp tục lưu lạc tha phương vô hạn định, nhưng cuộc đời chỉ là một chuỗi ngày giới hạn. Khi tuổi già bóng xế đã lấp ló sẽ phủ lên thân xác tạm bợ này mặc dù con cháu đùm đề không lo no đói nhưng rồi vẫn ưu tư khắc khoải dằn vặt trong tâm tư, một bài thơ có lẽ nói về thiền quán của nhà Phật không có tên tác giả tôi cảm thấy tâm đắc và đón nhận: 
Hỏi tôi quê quán ở mô
Trần gian cõi tạm, hư vô là nhà
Hỏi tên trong cõi ta bà
A, B, C đó chỉ là giả danh
Hỏi tôi góc gác ngọn ngành
Vô danh tiểu tốt có thành danh đâu
Cuộc đời cũng lắm bể dâu
             Thuyền trôi sóng dập biết đâu bến bờ.
 Hạnh phúc và tình yêu khó giải cho đúng nghĩa, hạnh phúc là cái gì quý nhất ở trên đời, là cái đích cuối cùng mà con người mong muốn cũng như sự sung sướng, niềm đau khổ, giọt nước mắt, những nụ cười...Thành đạt và hạnh phúc, không phải ai sinh ra ai cũng là may mắn hay cũng có cơ hội trở thành may mắn, hoặc lọt vào trong một gia đình giàu có. May mắn là không cần phải một thiên tài hoặc một người đặc biệt giàu có mới có hạnh phúc. Thậm chí trong nhiều trường hợp có nghĩa là người đặc biệt nổi tiếng hoặc giàu có nhiều khi vẫn không có hạnh phúc, hoặc đang đi tìm kiếm hạnh phúc. Điều này còn ngược lại lý do là, hạnh phúc là cảm nhận chủ quan của mình đối với những gì đã làm đã có, và những gì xung quanh, hạnh phúc không phải là một khái niệm vật lý với những công thức cằn cỗi khô cứng. Nó là thứ thuộc về con người, vì thế nó có vẻ đẹp và sự bí ẩn mà chỉ có chính mình mới giải mã. Nếu biết cách giải mã, hạnh phúc đến từ những điều nhỏ nhặt nhất . Trong bước đường sắp tới tôi sẽ không bám đuổi trong những cuộc lục lọi tìm kiếm danh lợi, tục ngữ có câu "Trong lên thì chẳng bằng ai, trông xuống thì chẳng ai bằng mình" đó là quan niệm sống hạnh phúc, an nhiên tự tại mà cha ông ta để lại cho hậu thế. Hãy đừng lại đừng để nó cuốn theo, hãy biết dừng lại dành thời gian để cảm nhận và tự vui với những gì đã có.
  Đã biết dừng lại, đặt thêm được một dấu mốc hết sức quan trọng trong cuộc đời, trời đất, quỷ thần thiên địa đã ban cho ta, nhưng rồi bàn xa tán gần cuộc sống vô thường ngắn ngủi, chẳng biết sống chết lúc nào, ai cũng biết thế nhưng đời sống luôn có những điều phải lo toan tính, những khó khăn lăn lộn trên con đường mưu sinh và khẳng định quãng đuờng đang đến. Nhưng ngay lúc này, chính lúc này đây, ta có quyền dừng lại, danh lợi cũng chỉ là một đoản kỳ tạm hư vinh có quyền tự hào vì những gì đã làm được  vui chơi, sắm sửa đồ xịn sẽ đi du lịch đó đây mừng vui thành tựu của mình, đừng lo sợ nghèo đói khi về già, lại còn có tiền nghỉ hưu nữa, đừng lo chuyện trơi ơi đất hỡi, Không một ai sống thay cuộc sống của mình, cũng không cần phải sống thay cuộc sống của ai, vì thế không ai có quyền đánh giá hay nghi ngờ những nỗ lực mà con người đã phải trải qua để đến với thời khắc này. Trăm năm trong cõi người thật là dài mà con người mong ước ai đạt được thành quả tốt là diễm phúc, tà dương ẩn núp rình rập đâu đó, đã là người không một ai đi tìm cái chết chỉ có cái chết tìm đến người, hãy chuẩn bị hành trang để lên đường. Chúng ta có thể hưởng thụ được sự tốt đẹp của đoạn cuối con đường nhân sinh của chính mình, mà không phải lưu lại bất cứ một điều gì hối tiếc.
    Với con người bằng da, bằng thịt trải qua hai cuộc chiến tương tàn chống thực dân Pháp và tranh giành chủ quyền của đất nước Việt Nam con người đã lão thành trở nên già dặn, là một người con nước Việt ai cũng mong muốn sống trên cõi đời phải làm gì đối với núi sông hãy xây dựng cho xã hội tiến hóa, cho dân tộc trường tồn, có lẽ ban đầu tạo hoá đã ban cho con người một đời sống giống nhau, nhưng dần dần con người lại có nhiều mưu mô, xảo quyệt nên sinh ra kẻ giàu người nghèo, kẻ sung sướng người khổ cực, giàu nghèo sang hèn tôi đã trải qua bảy mươi năm sống, thời thiếu niên, thời trung niên và thời lão niên.
      Ngoài cửa một cơn gió se se lạnh chợt vụt qua, mùa đông west palm beach của vùng nắng ấm, ánh nắng chan hòa quanh năm suốt tháng, mùa đông năm nay hơi lành lạnh lại nỗi lên những cơn gió mạnh những vạt nắng lấp ló qua những đám mây thưa thớt ban trưa treo lơ lững với tiếng đập xào xạt của những lá dừa xiêm xanh ngát.
                                                                                            Nguyễn Trà
                                                                               Đầu xuân Ất Mùi 2015
Source Internet.

Chủ Nhật, 22 tháng 2, 2015

Từ chính lược đến chiến thuật




Nguyễn đạt Thịnh
300px-Patton
George Smith Patton, Jr.,
Từ chính lược đến chiến thuật là con đường đi xuống, chính lược là cấp chỉ huy cao nhất trong chiến tranh, dưới chính lược là chiến lược, rồi đến chiến thuật, thấp nhất là cấp chỉ huy chiến trường.
Trong Thế Chiến Thứ Nhì (TCTN), Trung tướng George Smith Patton, Jr., chỉ huy Lộ Quân thứ 7 -quân số trên 300,000 người- đổ bộ vào Sicily, là biểu tượng cho một vị chỉ huy chiến trường; trên Patton một cấp là Đại tướng Dwight David “Ike” Eisenhower, Tư lệnh mặt trận Âu Châu, thống lãnh lực lượng đồng minh tấn công quân Đức Quốc Xã. Eisenhower là cấp chỉ huy chiến thuật, ông ấn định thời điểm, phương thức, quân số và hỏa lực cần sử dụng để vượt biển Manche tấn công Hitler.
Ngang cấp với Eisenhower là Đại tướng Douglas MacArthur, vị chỉ huy chiến thuật mang trọng trách đánh thắng quân Nhật trên mặt trận Á Châu.
Người chịu trách nhiệm chiến lược và chính lược toàn bộ cuộc TCTN là Tổng thống Franklin D. Roosevelt, Tổng tư lệnh quân đội Hoa Kỳ. Với tư cách một chính lược gia ông quyết định đẩy cánh quân Mỹ tiến vào Bá Linh trước, trong lúc trì hoãn việc tiếp tế cho cánh quân Nga, khiến quân Nga đến Bá Linh sau quân Mỹ; quyết định đó là chiến lược dành ưu tiên chiến thắng Đức Quốc Xã cho quân đội Mỹ, và cũng là chính lược đối phó với Nga những năm sau này; năm đó -1945- Nga còn là đồng minh của Mỹ, nhưng chính lược gia Roosevelt đã nhìn thấy thái độ của Nga -sẽ thù nghịch và đối đầu với Mỹ- ngay sau khi đồng minh thắng Đức.
Roosevelt từ trần ngày 4/12/1945, trách nhiệm tổng tư lệnh chuyển qua ông Harry S. Truman, vị tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ. Quyết định chiến lược của tổng tư lệnh Truman là thả quả bom nguyên tử đầu tiên xuống Okinawa ngày 8/6/1945, để tránh một cuộc đổ bộ khó khăn và nhiều tổn thất cho quân đội Mỹ.
Từ ngày lập quốc cho đến hôm thứ Tư 11 tháng Hai 2015, trách nhiệm chiến tranh của vị đương kim tổng thống Hoa Kỳ luôn luôn nằm trên địa hạt chiến lược và chính lược. Thay đổi xẩy ra ngày hôm đó là Tổng thống Obama bước xuống địa hạt chiến thuật và đi thẳng vào chiến trường, ấn định từng chi tiết giao tranh; ông yêu cầu Quốc Hội ủy quyền cho ông giải quyết cuộc chiến tranh chống lực lượng Hồi Giáo IS bằng bộ binh, tấn công địch với chiến thuật biệt kích, phối hợp với hỏa lực không quân -những cuộc giao tranh nhỏ hơn cấp tiểu đoàn mà chính tướng Patton, vị chỉ huy chiến trường năm 1944 cũng không quan tâm quá đáng.
Ký giả Peter Baker nhận xét, “việc ông Obama làm là việc chưa một vị tiền nhiệm nào của ông làm: ông xin Quốc Hội giới hạn khả năng gây chiến của vị tổng tư lệnh quân đội Hoa Kỳ với một kẻ thù ở quốc ngoại. Ông còn xin Quốc Hội giới hạn cuộc chiến ông đang giao tranh (dù chưa được Quốc Hội cho phép) với lực lượng IS vào một khoảng thời gian 3 năm, giới hạn giao tranh vào những đơn vị nhỏ, đánh ngắn hạn, và đánh bằng chiến thuật biệt kích để thực hiện 2 công tác, một là giải cứu, và hai là bắt hay giết một lãnh tụ IS”.
Vài quan sát viên cho là Obama chỉ cần xin Quốc Hội cho phép ông tuyên chiến với IS, còn giao tranh cách nào, trong bao lâu là thẩm quyền tổng tư lệnh của ông. Có người lại cho là ông không muốn để chiến tranh bị mở rộng sau ngày ông mãn nhiệm kỳ tổng thống. Dĩ nhiên tất cả những điều đó chỉ là phỏng đoán.
Tuy tự giới hạn, và giới hạn quyền lực chiến tranh của những vị tổng tư lệnh tiếp nối sau ông, nhưng Obama vẫn còn để ngỏ một lối thoát rất lớn: ông không xin hủy bỏ đạo luật 2001 cho phép tổng thống Hoa Kỳ -lúc đó là ông Bush con- nhân danh chiến tranh chống khủng bố, tấn công quân sự tổ chức Al Qaeda và tấn công những lực lượng liên hệ.
Điều Obama xin là quốc hội Ủy Quyền Sử Dụng Quân Lực (Authorization for Use of Military Force-AUMF) cho ông, để đối phó với tổ chức IS đang tung hoành trên lãnh thổ Iraq và Syria, giết hại nhiều con tin bị chúng bắt giữ. Ông đã dùng hỏa lực không quân tấn công IS từ tháng Tám năm ngoái, với quyền lực của một vị tổng thống tổng tư lệnh và với hai nghị quyết AUMF 2001, AUMF 2002 ủy thác cho Tổng thống Bush con và những vị tổng thống kế tiếp.
Obama nói, “Mặc dù tôi vẫn có quyền sử dụng quân lực để đối phó với khủng bố, nhưng nghị quyết ban hành một AUMF sẽ khiến thế giới nhìn thấy quyết tâm của người Mỹ chống IS”.
Truyền thông ghi nhận 3 đặc điểm trong đề nghị của Obama:
Đặc điểm thứ nhất là ông tự cấm đoán không biến cuộc tấn công IS thành một cuộc chiến tranh mới ở Trung Đông mà quân Mỹ phải tham chiến; cấm đoán bằng cách không được sử dụng bộ binh vào những cuộc “hành quân tấn công kéo dài”.
Những cuộc đột kích thực hiện theo kiểu đưa biệt kích nhẩy vào Abbottabad, Pakistan, giết Osama bin Laden tối mùng 2 tháng 5/2011, có thể thành công, hay thất bại, nhưng không thể gây ra cảnh sa lầy cho quân đội Hoa Kỳ, như những cuộc “hành quân tấn công kéo dài”, tiến chiếm lãnh thổ A Phú Hãn hoặc Iraq.
Đặc điểm thứ nhì là quyết định AUMF của Quốc Hội lần này có giới hạn thời gian: 3 năm. Nếu sau 3 năm mà vẫn chưa dẹp xong IS, vị tổng thống kế vị Obama lại phải xin Quốc Hội ban hành thêm một quyết định ủy quyền khác.
Đặc điểm thứ ba là quyền sử dụng quân đội của Obama bị giới hạn vào lãnh thổ 2 quốc gia Iraq và Syria, chứ không mông lung như nghị quyết AUMF 2001, khiến chính quyền Bush có thể hành quân tại nhiều quốc gia như Afghanistan, Phillipines, Georgia, Yemen, Djibouti, Kenya, Ethiopia, Eritrea, Iraq và Somalia.
Phản ứng của Quốc Hội cũng khá phức tạp; cô Athena Jones của CNN phỏng vấn nhiều nghị sĩ, dân biểu, các chính khách Cộng Hòa cho là ông Obama tự trói tay, và trói những vị tổng thống sau ông, quá chặt, chặt đến mức khó đối phó với nhiều hình thái biến đổi của chiến trường.
Chủ tịch Hạ Viện John Boehner và thủ lãnh nhóm dân biểu đa số Kevin McCarthy đòi nới rộng quyền chiến tranh của tổng thống. Nghị sĩ Lindsey Graham (CH -S.C.) tuyên bố, “tôi chủ trương không ai có quyền gây trở ngại cho những nỗ lực chiến tranh; mà ban hành một AUMF giới hạn cơ may chiến thắng IS chính là hành động gây trở ngại cho chiến tranh.”
Nhiều chính khách thắc mắc về những giới hạn sử dụng bộ binh tấn công IS, mặc dù Tổng thống Obama đã trình bầy là ông không muốn đưa quân đội Mỹ vào một trận chiến tranh khác nữa tại Trung Đông.
Nghị sĩ Bob Corker (CH-Tenn.), chủ tịch tiểu ban Liên Hệ Ngoại Giao, cho biết trong vòng 2 tuần nữa ông sẽ tổ chức một buổi điều trần đòi tổng tham mưu trưởng Martin Dempsey trình bầy về chiến thuật chống IS của Hoa Kỳ.
Trong chương trình “Morning Joe” của đài MSNBC, Corker nói, “Tôi nghĩ là mọi người đều nhìn thấy tầm quan trọng của cuộc chiến tranh chống quân khủng bố IS. Các nghị sĩ, dân biểu cũng ý thức được tầm quan trọng của lá phiếu họ biểu quyết. Chúng ta sẽ rất thận trọng thảo luận việc ủy quyền cho tổng thống thực hiện và chiến thắng cuộc chiến tranh này.”
Khác biệt đầu tiên giữa hành pháp Dân Chủ và quốc hội Cộng Hòa là tầm vóc chiến tranh; Obama muốn bóp nhỏ cuộc chiến chống IS vào tầm vóc của một chiến dịch; việc ông không dùng bộ binh để tấn công dài hạn quân IS mang 2 mục đích: một là để tránh Mỹ hóa chiến tranh sau nhiều nỗ lực để hoàn trả trách nhiệm quốc phòng lại cho 2 quốc gia A Phú Hãn và Iraq; và hai là để tiết kiệm sinh mạng của binh sĩ Hoa Kỳ.
Hơn nữa, hình thức Mỹ tấn công bằng không lực trong 6 tháng vừa rồi khiến quân IS không còn khả năng hoạt động tập trung được nữa, mà phải phân tán thành từng toán nhỏ, thuận lợi cho chiến thuật biệt kích để giải cứu con tin và sát hại bọn lãnh tụ IS.
Đó là lý do Obama không chủ trương sử dụng bộ binh tấn công quân IS dài ngày; ông muốn dùng drones, dùng biệt kích đánh vỡ hệ thống đầu não của IS, như ông đã thành công trong việc đánh vỡ hệ thống đầu não của Al-Qaeda.
Từ vị trí chính lược, chỉ huy đạo quân hùng mạnh nhất thế giới, Obama đang quyết định những cuộc hành quân nhỏ -có thể nhỏ đến cấp trung đội 36 người lính biệt kích- nhưng đó là chiến thuật đúng để thắng cuộc chiến chống IS.
Với uy tín của vị tổng tư lệnh đã từng chiến thắng lớn nhất từ 70 năm nay, và với thành tích đánh tan tổ chức khủng bố Al Qaeda, đề nghị AUMF của ông sẽ được chấp thuận, dù Quốc Hội có nhiều chống đối.
Nguyễn đạt Thịnh
Source Internet.

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại Việt Nam cổ truyền


Alexei Volkow
Ngô Bắc
 dịch
alt
LNDDưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa.  Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa.  Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành.  Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa.  Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.
       Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-  
 
***
Dẫn nhập: Bối cảnh lịch sử
       Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó.  Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí.  Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427.  Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.
       Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia.  Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự.  Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản.  Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm2  Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn.  Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).
       Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam.  Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ  國 語 , “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt.  Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm.  Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát.  Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.
Chiêm tinh học Việt Nam: Các nguồn tài liệu chính yếu và văn chương thứ yếu
       Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11
       Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm.  Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002).  Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản.  Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ.  Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch.  Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”.  Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh.  Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập).  Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm).  Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự.  Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.
       Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống.  Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy dủ.
 Các cơ sở chiêm tinh và thiên văn của Việt Nam: Một tổng quan
       Theo quyển [ĐạiViệt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太  (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện乾 元 殿sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa.  Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).
       Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư      không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19
Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ (hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A), Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 (C).
Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ
(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),
Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 (C).
Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn.  Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên Phủ và Quốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học.  Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.
       Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không.  Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học.  Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.
       Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc.  Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai.  Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng.  Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu.  Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22
       Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt,Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31
Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam).  Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.
       Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20.  Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34
 Các sự quan sát thiên văn được thực hiện tại Việt Nam
       Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư      như được quan sát tại Việt Nam.  Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128).  Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN.  Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa.  Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.  Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.  Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41
Các khảo luận về chiêm tinh học: Các nhận xét dẫn nhập
Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn.  Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20.  Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệuhiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn.  Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam.  Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa.  Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luậnBách Thế Thông Kỷ Thư  百 世 通 紀  (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42
Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15.  Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43
Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học.  Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới).  Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam.  Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.
Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn.  Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.
Ba truyền thống chiêm tinh học Trung cổ của Trung Hoa và sự đón nhận chúng tại Việt Nam
Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ấtQimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren  六 壬 Lục Nhâm44
(1)   Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).
Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư).  Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn.  Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn.  Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa.47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán.  Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48
       Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39].  Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784).  Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn ThưSi ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân).  Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.
       Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số紫 微 (– 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河  壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52].  Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.
ình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數 (Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)
Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數
(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)
       Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán.  Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh.  Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại.  Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.
(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp
Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môn và dunjia  遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luậnBaopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử  được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343).  Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như  Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán ThưSui shu 隋 書 Tùy thưJiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường Thư và Xin Tang shu  新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay.  Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經  Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong DaozangĐạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52dưới thời nhà Tống.  Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn) và Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.
       Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyểnĐộn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36].  Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết.  Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法(Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms).  Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.
(2)   Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.
Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia.55
       Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56  Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640).  Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đềLục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng.  Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59
 Cải biên các van bản Trung Hoa: Thị dụ về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 匣 記 Yu xia ji
       Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng.  Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc).  Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44].  Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in.  Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJNgọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từDaozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản.  Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi  諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và (C) Fa shi xuan ze ji  法 師 選 擇 記Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ].  Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần (C), từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn.  Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶,Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản DaozangĐạo Tang.  Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) .  Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.
Các kết luận
       Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau.  Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa.  Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng.  Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó.  Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn.  Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam.  Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.
       Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn.  Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa.  Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này.  Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả.  Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì.  Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-
________
CHÚ THÍCH
  1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012.  Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.
  2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp.  Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.
  3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”.  Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].
  4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163.  Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20.  Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.
  5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).
  1. Văn 2008: 266-267.
  2. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.
  3. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.
  1. Nguyễn 2002: 245-256.
  1. Huard và Durand 1954: 65-71.
  2. Huard và Durand 1954: 66.  Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand.  Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763).  Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).
  3. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam.  Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).
  1. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388).  Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).
  1. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.
  2. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết:  前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處 : tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs  龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven).  Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147].  Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư      bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “  前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o  為  掌  刻 之 處 : tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu,   vi chủ chưởng trù khắc chi xử[TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch].  Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn.  Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.
  3. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.
  4. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam.  [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư       không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237.  Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫnibid., số 35).  Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak (“Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA’s GSFC”) tại http://eclipse.gsfc.nasa.gov/SEatlas/SEatlas.html.
  1. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305.  Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.
  1. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).
  1. Hucker 1985: 456-457, số 5780.
  1. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.
  1. Fedorin 2009.
  1. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.
  1. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004.  Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606).  Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.
  1. CM 1969: 697.
  1. CM 1969: 984.
  1. CM 1969: 1292.
  1. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle(1402-1424), tức năm 1403.
  1. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm “1472” trong sách của Han 1991: 6.
  1. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.
  1. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。
  1. Volkov 2008.
  1. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169.  Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.
  1. Xem [KTG].
  1. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.
  1. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nambởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602).  Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê.  Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.
  1. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.
  1. Ho 1964: 139, số 29.
  1. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.
  1. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198.  Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.
  1. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170.  Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083.  Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.
  1. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:
(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 , khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên.  [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng.  [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.
  1. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.
  1. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần TaiyiThái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113.  Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.
  1. Ho 2003: 36.
  1. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41).  Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.
  1. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.
  1. Ho 2003: 66-68.
  1. Trần 1937: 33.  Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới.  Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn  chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.
  1. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei  薇 vi.  Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.
  1. Ho 2003: 74-82.
  1. Ho 2003: 83-84.
  1. Kalinowski 1983.
  1. Ho 2003: 113-119.
  1. Ho 2003: 137.
  1. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông
六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.
  1. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch]  (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596).  Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệuVạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847.  Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.
  1. Trần 1938: 106-107.
  1. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.
  1. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.
  1. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.
  1. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)
———
SÁCH THAM KHẢO
  1. Các Tài liệu Chính Yếu
  1. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay
[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ.  Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng).  Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35.  Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi.  Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]
  1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge).  (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.
  1. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốc và phệ), 1848-1859.  Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ).  TG 227; L 2470.
  1. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh).  TG 440; L 2491.
  1. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh).  TG 442; L 2492.
  1. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng).  TG 443; L 2493.
  1. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân).  TG 444; L 2493.
  1. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu).  TG 447; L 2485.
  1. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.
  1. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời).  TG 449; L 2487.
  1. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời).  TG 640; L 2471.
  1. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren.  Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm.  Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh.  TG 823; L 2472.
  1. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)).  TG 736; L 2504.
  1. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.
  1. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế).  Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán).  TG 1652; L2498.
  1. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”).  TG 2010; L 2506.
  1. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp).  TG 2075; L 2507.
  1. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.
  1. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}.  TG 2078; L 2508.
  1. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}.  TG 2079; L 2477.
  1. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}.  TG 2080; L 2478.
  1. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm.  TG 2082; L 2479.
  1. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]].  TG 2083; L 2480.
  1. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm).  TG 2084; L 2481.
  1. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64
  1. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc).  Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn).  TG 4744; L 2511.
  1. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc).  TG 4745; L 2483.
  1. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc).  In năm 1926.  BNV R.2227.
  1. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.
  1. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.
  1. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.
  1. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc).  TG 2912; L 2496.
  1. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.
  1. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách).  TG 2921; L 2494.
  1. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số).  TG 2966; L 2502。
  1. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao).  Một thủ bản đề niên kỳ 1883.  TG 3192; L. 2501.
  1. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa).  TG 3078; L 2473.
  1. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji)(Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ).  Một nhan đề thay thế khác:Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai).  Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923.  Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn).  TG 4855; L 2518; BNV R.60.
  1. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch.  Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784).  TG 3290; L 2475.
  1. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất).  TG 3291; L 2482.
  1. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc).  TG 4889; L 2514.
  1. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh).  TG 3388; L 2521.
  1. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể).  TG 3543; L 2474.
  1. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống).  TG 3601; L 2497.
  1. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai).  In năm 1876.  TG 4926; L 2513.
  1. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định).  TG 3724; L 2495.
  1. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]].  TG 3797; L 2524,
  1. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi).  TG 4992; L 2515.
  1. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi).  TG 4102; L 2509.
  1. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi).  TG 4993; L 2516.
  1. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.
  1. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi).  TG 4103; L 2499.
  1. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.
  1. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám).  Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880.  TG 4044; L 2503.
  1. Các Niên Sử Việt Nam
CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱.  Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.
SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược  [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.
TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本       Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.
  1. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác
KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監.  Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.
LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn).  Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.
XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư).  Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.
YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.
_____
  1. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch
ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.
BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.
CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). “Première étude sur les sources annamites de l’histoire d’Annam.” Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient, t. 4: 617-671.
CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.
CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). “Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San] , quyển 1: 345-347, 349-372.
COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d’Annam. Saigon, Ardin.
COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l’Indochine annamite. Saigon, Ardin.
DUMOUTIER, Gustave (1899). “Études d’ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination.” Actes du XI’ Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.
DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). “L’astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l’art militaire.” Revue Indochinoise: 456-475.
DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). “L’astrologie chez les Annamites: ses applications a l’art militaire.” Revue Indochinoise: 101-126.
FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). “Лунно-солнечнЫй каленларЬ  на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант” (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam).  ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.
FRIEDSAM, Manfred (2003). “L’enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan.” In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.
GASPARDONE, Emile (1934). “Bibliographie Annamite.” BEFEO, fasc. 1: 1-173.
HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). “Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử).”Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.
Ho Peng Yoke (1964). “Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source.” Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.
Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.
HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d’Extrême-Orient.
HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).
KALINOWSKI, Marc (1983). “Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren.” Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient, tập 72: 309-419.
KALINOWSKI, Marc (1989). “La littérature divinatoire dans le Daozang.” Cahiers d’Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.
KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIèsiècle). Paris, EFEO.
KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.
KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном  (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.
LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).
LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin’s Press.
Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢  文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm).  Taibei, Academia Sinica.
MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.
MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d’une page de l’almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.
MORGAN, Carole (1987). “La divination d’après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang.” Cahiers d’Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.
NGUYỄN Đình Hòa (1959). “Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam.”Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.
NGUYỄN Đình Hòa (1990). “Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam’s demotic script.” Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.
NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.
OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].
PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.
POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) – une bureaucratie à l’épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.
POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.
REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.
SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.
TRẦN Văn Giáp (1983). “Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu.” Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.
TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.
TRỊNH Văn Thao (1995). L’École française en Indochine. Paris, Karthala.
VĂN An Vi (2008). “A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology.” Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.
VARGYAS, Gabor (2004). “Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á.  Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.
VOLKOV, Alexei (2008). “Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries.” Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science(1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.
VOLKOV, Alexei (2009). “Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam.” Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.
VOLKOV, Alexei (2012). “Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics.” Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.
WHITMORE, John. K. (1995). “Cartography in Vietnam,” trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.
_____
Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.
Source Internet.