Lễ Cưới Cổ Truyền Việt Nam
Traditional Vietnamese Wedding
***
Lễ cưới – Wikipedia tiếng Việt
Lễ cưới người Việt – Wikipedia
Traditional Vietnamese Wedding - Wikipedia
VIDEO
(in the South)
Trước đây (và cả bây giờ) người Việt gọi lễ cưới là là hôn lễ. Theo giải thích của Đào Duy Anh, chữ "hôn" nguyên nghĩa là chiều hôm, theo lễ tục xưa người ta làm lễ cưới vào buổi chiều tối.
Dân gian coi cưới xin là một trong ba việc lớn của đời người (sự nghiệp, làm nhà và cưới vợ) khi nhấn mạnh trong câu ca dao: "tậu trâu cưới vợ làm nhà..."
Hôn nhân của người Việt xưa có sáu lễ chính. Để tiến đến lễ cưới, hai gia đình phải thực hiện những lễ chính sau:
1.Lễ nạp thái: sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp "nhạn" để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.
2.Lễ vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người con gái.
3.Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi.
4.Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa hôn chắc chắn.
5.Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới.
6.Lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để rước dâu về.
Hình vẽ lễ gia tiên tại Lễ cưới Trung Kỳ năm 1894
Lễ rước dâu tại miền Trung vào đầu thế kỷ 20
Trầu cau trong đám cưới người Việt
***
VIDEO: Ý nghĩa của sính lễ ngày cưới
Từ bao đời nay trong phong tục của người Việt Nam miếng trầu luôn đi đầu câu chuyện. Đối với câu chuyện cả đời của một con người cũng vậy, không thể nào thiếu được khay trầu.
Đám cưới lớn, chuẩn bị chu đáo thì trong quả lễ đầy ắp buồng cau trăm quả, trầu trăm lá; đám cưới nhỏ, chuẩn bị đơn sơ cũng chẳng thể thiếu chùm cau với mớ trầu đặt vừa đĩa.
Từ ngàn xưa cho đến tận bây giờ, dù đám cưới theo phong tục miền Bắc – Trung – Nam hay thậm chí cưới nhau tận bên tây thì đám cưới người Việt cũng không thể thiếu mâm trầu cau.
Từ xưa
Người xưa cho rằng, cây cau có thân tròn, chắc, thẳng đứng là biểu tượng của người con trai, còn lá trầu hình tam giác bầu bĩnh xoè ngang trên mặt đất như biểu tượng của người con gái. Dây trầu leo quấn quít quanh thân cau cũng là biểu tượng cho tình yêu bền chặt. Trầu cau ăn với một chút vôi thì tạo được một màu đỏ hồng như màu máu, màu son – màu đỏ biểu tượng cho sự thuỷ chung.
Từ xa xưa đám cưới người Việt không thể thiếu mâm trầu cau
Trong dân gian vẫn truyền khẩu với nhau: “Miếng trầu ăn kết làm đôi/Lá trầu là vợ, cau tươi là chồng/Trầu xanh, cau trắng, chay hồng/Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên...”. Với người con gái, cau trầu còn được coi là biểu tượng của sự tiếp đón danh giá để họ tự hào suốt đời, để họ được danh chính – ngôn thuận dạy bảo con cháu, người dưới và kể cả những bà “vợ lẽ sau này”. Những cô gái được hỏi cưới với “tay mang trầu, đầu đội lễ” có quyền và có trách nhiệm với nghĩa vụ vợ hiền, dâu thảo.
Ở những làng quê xưa, sau lễ ăn hỏi, nhà gái thường dùng cau trầu, trà bánh mà nhà trai đã mang sang, chia ra từng gói nhỏ để làm quà biếu cho họ hàng, bè bạn, xóm giềng... như một lời loan báo: con gái trong nhà đã có nơi có chỗ.
Đến nay
Cau trầu ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi lối sống, suy nghĩ và phong cách của người hiện đại. Khi chuẩn bị đám cưới, gần như sự lo lắng chỉ dành cho phần “vật chất” như đặt tiệc nhà hàng, chụp hình, thuê áo, thuê xe, in thiệp…
Một dĩa trầu têm hình cánh phượng
Bà Bích Ngọc, chủ sạp 1113 chuyên bán cau trầu Bà Điểm ở chợ Bến Thành, gia đình đã có ba đời chuyên nghề têm trầu, kết buồng cau cho lễ dạm ngõ – hỏi – cưới từ những năm 1940 đến nay cho biết: “Giờ đây người ta làm lễ trầu cau theo hình thức ước lệ là chủ yếu, vì ít người ăn, nên gần như mâm quả cho các lễ đều giao khoán hẳn cho dịch vụ”.
Vậy thế nào là quả lễ cau trầu hiện đại mà vẫn đúng theo lễ? Bà Bích Ngọc, lấy kinh nghiệm từ những khách hàng và truyền thống bán hàng của gia đình chỉ dẫn: do người Sài Gòn hiện nay đã không còn tục lệ chia quà của nhà trai cho họ hàng, xóm giềng nên khay cau trầu chỉ cần 6 miếng trầu têm và quả cau bổ làm 6. Đáng chú ý là theo tục lệ miền Bắc, trầu phải têm cánh phượng, lá trầu phải là loại trầu cay màu xanh dày lá, vôi dùng loại vôi Bắc màu trắng và thuốc thường dùng kèm là thuốc lào, và loại vỏ đỏ. Theo tục lệ miền Nam trầu têm kiểu bánh ú, lá trầu là loại trầu ngọt (thường dùng trầu Bà Điểm) đi với vôi đỏ, thuốc lá và vỏ giấy.
Nếu lễ hỏi tổ chức có đông người tham dự, và để quay phim chụp hình cho đẹp, đi kèm theo khay trầu têm còn có một quả lễ gồm buồng cau và trầu đầy ắp, có thể từ vài chục đến vài trăm quả – nhưng phải là số chẵn – có đôi có cặp. Cách tính số lượng cau trầu: 1 quả cau = 2 lá trầu. Ngoài ra, người miền Bắc theo kiểu hiện đại đang chuộng buồng cau 105 quả theo cách nói “trăm năm hạnh phúc”. Người miền Nam chọn buồng cau 60 quả theo cách ví von “60 năm cuộc đời”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.