Thứ Tư, 18 tháng 8, 2021

CHIẾN TRANH BÊN CẠNH TÌNH YÊU - PHẦN II

CHIẾN TRANH BÊN CẠNH TÌNH YÊU

 

Chương IV:

Dưới chân đỉnh Lâm Viên

 

Tốt nghiệp sĩ quan trừ bị Thủ Đức, tôi nhận đơn vị mới, Trường Võ Bị Đà Lạt. Tôi có cái may mắn được ở hai quân trường lớn đào tạo nhiều sĩ quan tài giỏi cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Mỗi quân trường là một thế giới hoàn toàn khác biệt nhau, từ hình thức đến nội dung. Trường Võ Bị Đà Lạt lấy Học viện West Point của Hoa Kỳ làm khuôn mẫu, trong khi Trường Bộ Binh Thủ Đức đào tạo sĩ quan dựa theo mẫu mực của Trường Fort Benning Hoa Kỳ.

 

Nếu muốn tìm hiểu tỉ mỉ, tường tận về sự khác biệt của hai quân trường này, tôi e rằng mình không đủ kiến thức cũng như khả năng phân tích, tổng hợp rồi đưa đến kết luận chính xác đầy đủ. Tôi chỉ muốn nói đến một vài khía cạnh dị biệt nho nhỏ có liên quan đến mình.

 

Với Trường Bộ Binh Thủ Đức, thời gian đào tạo sĩ quan tùy theo tình hình chiến sự ở bên ngoài sôi động hay lắng dịu. Vào những năm cuối thập niên sáu mươi vì nhu cầu khẩn cấp của chiến trường, thời gian thụ huấn của Sinh viên sĩ quan Thủ Đức bị rút ngắn lại, chỉ còn hai tháng học làm lính ở Trung tâm huấn luyện Quang Trung, bốn tháng học cách chỉ huy một trung đội ở Trường Bộ Binh Thủ Đức, tổng cộng thời gian ở quân trường chỉ vỏn vẹn có sáu tháng. So với bốn năm huấn luyện của Trường Võ Bị Đà Lạt, thời gian ở quân trường của chúng tôi chỉ bằng một phần tám thời gian của Sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt. Hậu quả của việc đốt giai đoạn, tháng 3 năm 1969, khóa của tôi có khoảng hai ngàn sĩ quan tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn úy, ba năm rưỡi sau, nghị định thăng cấp trung úy chỉ còn lại khoảng một ngàn rưỡi, năm trăm chuẩn úy và thiếu úy đã đền nợ nước.

 

Trường Võ Bị Đà Lạt là quân trường đào tạo sĩ quan hiện dịch cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, kể từ khóa 22B chương trình đào tạo sĩ quan kéo dài bốn năm. Vì quan niệm rằng, sĩ quan tốt nghiệp Võ Bị Đà Lạt sẽ là thành phần nòng cốt, rường cột của quốc gia sau này nên Tổng Thống Đệ nhất Cộng Hòa đã dành nhiều ưu tiên cho trường, chẳng hạn về phần cơ sở vật chất, công trình xây cất Trường Võ Bị Đà Lạt mới được hoàn tất vào năm 1961, kiến trúc theo kiểu Mỹ với những tòa nhà cao bốn tầng, rộng rãi, khang trang bề thế, đầy đủ tiện nghi cho hơn một ngàn sinh viên sĩ quan sinh sống và học tập. Thêm một điểm nhỏ nhưng cũng được lưu ý kỹ càng là cách ăn mặc. Sinh viên sĩ quan Đà Lạt có tất cả hơn chục bộ quần áo đủ loại, đó là:

 

Một bộ đồ đại lễ màu trắng, mũ kết màu trắng, dây biểu chương màu vàng, gù vai Alpha màu đỏ hình con rồng.

Mùa hè gồm có một bộ làm việc, một bộ dạo phố một bộ tiểu lễ, một bộ đại lễ.

Mùa đông có một bộ làm việc, một bộ dạo phố, một bộ tiểu lễ, một bộ đại lễ.

Một bộ vest dân sự, sinh viên năm thứ tư mặc lúc đi phép.

 

Chi tiết về hàng chục bộ quần áo, lễ phục của sinh viên, không biết tôi nhớ như vậy có đúng hay không?

 

Về phần huấn luyện, Sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt trong một năm có ba tháng học về quân sự, chín tháng học văn hóa, chương trình học kéo dài bốn năm, sinh viên sĩ quan tốt nghiệp được cấp văn bằng Cử Nhân Khoa Học ứng Dụng. Để rèn luyện thể chất, Sinh viên sĩ quan Võ Bị còn học thêm về Taekwondo và Aikido. Riêng về Aikido được đặc biệt chú trọng, vì Thiếu tướng Chỉ huy trưởng mang huyền đai đệ nhị đẳng Aikido. Mồi kỳ thi lên đai đều do ông chấm điểm. Khi tốt nghiệp 4 năm, Sinh viên sĩ quan Võ BỊ thường đã có đai nâu hoặc huyền đai đệ nhất đẳng Taekwondo.

 

Văn võ toàn tài, đó là lý do khiến cho sĩ quan tốt nghiệp Võ BỊ Đà Lạt, lúc nào cũng hãnh diện về ngôi trường của mình.

 

Để điều hành, Trường Võ Bị Đà Lạt được chia ra làm ba khối: Văn hóa, Quân sự và Tham mưu.

 

Khối Quân sự, đa số sĩ quan thuộc khối này là những sĩ quan đã tốt nghiệp Trường Võ Bị Đà Lạt.

 

Khối Văn hóa, ngoại trừ những sĩ quan có bằng Cao học, Tiến sĩ, tốt nghiệp ở ngoại quốc, số còn lại là sĩ quan tốt nghiệp Trường Bộ Binh Thủ Đức để Sinh viên sĩ quan Thủ Đức sau khi tốt nghiệp, muốn về Trường Võ Bị Đà Lạt, một trong nhiều điều kiện là phải có văn bằng Cử nhân hoặc cao hơn.

 

Tôi, tốt nghiệp Trường Bộ Binh Thủ Đức, chỉ có cái Tú tài II. Khi về Trường Võ Bị Đà Lạt, chốn dung thân duy nhất cho tôi là Khối Tham mưu.

 

Ngày xưa khi đậu Tú tài II, tôi tự đánh giá là mình ngu cho nên không chịu tiếp tục việc học. Quan niệm đó xem ra đã lỗi thời, vì sau một thời gian làm việc ở Trường Võ Bị Đà Lạt, sống trong một môi trường mà sĩ quan Văn hóa vụ hay Quân sự vụ đều lấy văn bằng Cử nhân làm căn bản. Nhìn quanh mình, ông sĩ quan nào cũng gắn cái bằng Cử nhân trước ngực khiến tôi tự cảm thấy xấu hổ, mang nặng mặc cảm. Chuyện đời, gần mực thì đen gần đèn thì sáng, sau vài năm lông bông, thấy không được cái tích sự gì, tôi ghi danh học ở Viện đại học Đà Lạt với quyết tâm phải lấy cho được cái bằng Cử nhân.

 

Tôi làm việc ở Trung tâm hành quân của Trường Võ Bị Đà Lạt. Ở đây, sĩ quan trực hai mươi bốn giờ sau đó nghỉ hai mươi bốn giờ, có nghĩa là làm việc một ngày rồi nghỉ một ngày, nếu làm một phép tính đơn giản một năm chỉ làm việc có 182 ngày rưỡi, 182 ngày rưỡi còn lại, tôi được tự do hoàn toàn, đi học hay đi chơi tùy mình quyết định.Tôi ghi danh vào Đại học Văn khoa, bởi vì trong tất cả các phân khoa ở Viện đại học Đà Lạt, Văn khoa là nơi dễ dàng nhất trong việc điểm danh.

Chương V:

Hai ngày trong đời của một sĩ quan trực

Trung tâm hành quân Trường Võ Bị Đà Lạt.

 

Ngày thứ nhất: Đời sống quân ngũ, “An Lộc trong bão lửa”.

 

Sáu giờ sáng, tôi thức dậy, vệ sinh cá nhân, tắm rửa.

 

Sáu giờ rưỡi, hôm nay thứ Hai đầu tuần, tôi mặc bộ đồ làm việc mùa đông để đi làm, bộ đồ này giống như bộ tiểu lễ mùa đông chỉ khác là không mang dây biểu chương, khi mùa nóng đến, trường sẽ có thông báo thay quân phục mùa hè. Tôi đang ở cư xá sĩ quan độc thân Thủy Tiên II của Trường Võ Bị Đà Lạt. Cư xá nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ ngay trung tâm thành phố, cách khu phố Hòa Bình chừng mười phút đi bộ.

 

Bảy giờ kém, tôi đi bộ ra trước rạp ciné Hòa Bình, xe bus của trường đã đậu sẵn ở đó để chở nhân viên dân chính và quân nhân đi làm. Sáng mùa đông, trời Đà Lạt lạnh buốt, tôi thường đi làm bằng xe bus của trường vì trên xe bus đông người, cửa đóng kín cho nên bầu không khí trong xe ấm hơn. Nếu không thích đi xe bus, tôi có thể dùng chiếc xe Honda hai bánh cũ rích, tróc sơn, mòn vỏ của mình để đi làm.

 

Tám giờ kém mười, xe bus đổ tại tòa nhà Bộ chỉ huy.

 

Tám giờ, tôi vào Trung tâm hành quân, nhận bàn giao phiên trực với trung úy Hàn, sĩ quan hạ phiên. Lệ thường, Trung tâm hành quân của một đơn vị phải được đặt ở nơi an toàn tối đa, chìm sâu dưới mặt đất với nhiều lớp bao cát bao phủ ở bên trên. Chỉ riêng Trung tâm hành quân của Trường Võ Bị Đà Lạt hơi khác thường, đó là một căn phòng rộng khoảng ba chục thước vuông, trang trí gọn gàng sạch sẽ năm ở tầng hai của tòa nhà Bộ chỉ huy, chung quanh là cửa kính sáng loáng bao bọc nhìn ra Vũ Đình Trường Lê Lợi. Ở đây, người ta có thể quan sát rõ ràng, tất cả những diễn tiến của lễ mãn khóa được tổ chức thường xuyên hàng năm. Đó là lý do tại sao Trung tâm hành quân của Trường Võ Bị Đà Lạt được đặt ở một nơi hớ hênh như vậy. Gặp khi chiến trận xảy ra, chỉ cần một trái đạn pháo 82 ly của Việt Cộng rơi vào là Trung tâm hành quân sẽ bị tê liệt, bị phá hủy hoàn toàn. Nơi góc phòng của Trung tâm hành quân có hai giường nệm, một dành cho sĩ quan trực và một dành cho hạ sĩ quan. Trong phòng còn có hai bàn làm việc, với hơn chục cái điện thoại đủ loại, từ điện thoại liên lạc nội bộ, điện thoại liên lạc trong tỉnh cho đến điện thoại viễn liên có thể liên lạc khắp miền nam Việt Nam. Một bản đồ trường Võ Bị và một bản đồ thị xã Đà Lạt gắn trên tường.

 

Tám giờ đến mười một giờ sáng, tất cả giấy tờ liên hệ đến Trung tâm hành quân đã có hạ sĩ quan trực lo liệu. Tôi ngồi vào bàn làm việc của mình, chép lại bài học của ngày hôm trước. Những bài học này, tôi mượn của người bạn gái học chung lớp ở Viện đại học Đà Lạt. Thiếu tá trưởng phòng không thắc mắc gì về chuyện tôi học bài trong giờ làm việc. Ông chỉ cần biết là tôi đã chu toàn bổn phận được giao phó.

 

Mười một giờ, tôi thả bộ qua Câu lạc bộ sĩ quan cách đó vài trăm thước ăn cơm trưa, đi bộ cho giãn gân giãn cốt sau mấy giờ ngồi một chỗ. Nếu lười biếng tôi có thể nhấc điện thoại lên, bữa cơm trưa từ Câu lạc bộ sẽ được đem tới phòng làm việc của tôi, lẽ dĩ nhiên ăn cơm Câu lạc bộ thì phải trả tiền.

 

Mười hai giờ tới một giờ, tòa nhà chỉ huy ngưng hoạt động, mọi phòng ban đều đóng cửa nghỉ trưa. Tất cả những cú điện thoại từ bên ngoài gọi vào trường đều đi qua Trung tâm hành quân. Tôi là người trả lời điện thoại.

Một giờ chiều, tôi lấy chiếc xe Jeep của phòng đi qua Quân Trấn họp. Trung tâm hành quân lúc ấy chỉ còn người hạ sĩ quan trực. Giải quyết mọi vấn đề trong thời gian này là thiếu tá trưởng phòng, ông ấy có phòng riêng ở bên cạnh Trung tâm hành quân.

 

Thông thường, khi sử dụng quân xa, tài xế sẽ lái xe còn sĩ quan ngồi ở ghế trưởng xa bên tay phải, đó là luật thế nhưng hầu hết những ông sĩ quan cấp úy tuổi trẻ, háo thắng thường làm ngược lại. Sĩ quan lái xe, tài xế ngồi ghế trưởng xa hóng mát. Tôi còn ngon hơn nhiều, cho tài xế ở nhà ngủ trưa luôn cho khỏe, bởi vì anh tài xế thường hay cằn nhằn, khi tôi sang số xe không được êm cho lắm, và nhất là đã mấy lần suýt lọt xuống hố khi qua một khúc cua gắt. Không có tài xế ngồi một bên, tôi cảm thấy thoải mái hơn. Một mình tôi lái xe, muốn đi đâu cũng được, ghé chỗ nào cũng xong, lỡ có rớt xuống hố cũng chỉ một mình tôi chịu.

 

Trên đường qua Quân Trấn, lợi dụng thời cơ gọi là đi họp, tôi ghé cà phê Thủy Tạ, uống ly cà phê, hút vài điếu thuốc, ngắm hồ Xuân Hương trong nắng hanh vàng của mùa đông, luôn tiện khoe với mọi người là tôi biết lái xe hơi mặc dầu mình không có bằng lái. Nếu không thích ngắm cảnh, tôi có thể ghé quán Hạnh Tâm gần vòi phun nước ở chợ Đà Lạt, uống ly cà phê nghe vài bản nhạc tình, nhìn cô thu ngân tên Huệ với vẻ đẹp

 

Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn.

Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa.

 

Tôi, trung úy Trường Võ Bị Đà Lạt, độc thân, bốn năm qua sống lao đao lận đận với mối tình đầu, một đôi lúc cảm thấy buồn đến não ruột. Có một lần, nhân lúc trả tiền ly cà phê khi đứng gần cô Huệ, tôi buông lời chọc ghẹo để rồi nhận được cái liếc mắt sắc như lưỡi dao. Cô không nói gì, chỉ cố ý đưa bàn tay cho tôi thấy chiếc nhẫn nơi ngón tay áp út. Cô Huệ từ tốn thối lại cho tôi một mớ bạc lẻ, rồi dịu dàng nói:

 

-Ba đồng một mớ trầu cay.

 

Tôi giật mình đánh thót, cô nàng này bên ngoài coi bộ yểu điệu, dịu hiền nhưng không ngờ cũng lãng mạn dữ.

 

Cô Huệ trông chỉ chừng hai mươi tuổi, đã mang nhẫn cưới trên tay. Mối tình đầu của tôi, bốn năm qua rồi giờ đây chắc cũng đã tay bồng tay bế. Từ đó về sau, tôi ghé cà phê Hạnh Tâm chỉ ngồi yên một góc nhâm nhi ly cà phê đen, nghe nhạc, nhìn người đẹp trong tiếc nuối muộn màng.

 

Có những ngày, mặc dù lệnh cấm trại một trăm phần trăm, trên đường đi qua Quân Trấn tôi cũng ghé cà phê Hạnh Tâm. Đang cấm quân mà có một ông trung úy của Trường Võ Bị Đà Lạt ung dung, thoải mái ngồi uống cà phê quả là chuyện lạ, Quân Cảnh đời nào mà tha cho một con mồi béo bở như vậy. Hai ông Quân Cảnh liền vào tận nơi, lịch sự mời tôi ra ngoài để xét giấy tờ. Khi nhìn thấy sự vụ lệnh đi họp Quân Trấn, vũ khí mang theo là cây súng colt 45 với con dấu nổi của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị ký, mấy ông Quân Cảnh lật đật xin lỗi rồi dông mất.

 

Ba giờ chiều, tôi tới Quân Trấn, họp với sĩ quan trực, lấy mật khẩu, mật hiệu phòng thủ trong đêm đựng trong một phong bì niêm kín. Sau đó, tôi quành xe ra chợ mua một phần cơm sườn cho buổi ăn tối, cơm ở Câu lạc bộ sĩ quan trong Trường Võ Bị làm sao có thể sánh với cơm sườn nướng ở chợ Đà Lạt. Mọi chuyện coi như đã xong xuôi, tôi lái xe về trường.

 

Năm giờ chiều, tôi về đến trường. Kể từ giờ phút này mọi hoạt động của tất cả các phòng ban trong trường đều chấm dứt. Thiếu tá trưởng phòng của tôi cũng sửa soạn ra về. Tôi chính thức lo tất cả mọi chuyện phòng thủ ban đêm của trường. Ngoài vòng đai xa của trường đã có binh sĩ của Tiểu khu Tuyên Đức; bên ngoài hàng rào phòng thủ của trường, đã có Tiểu đoàn An Ninh canh giữ cũng như phân bố mấy chục điểm kích; phía Đồi Bắc có Đại đội Thao Diễn trấn giữ. Tất cả tọa độ của những điểm kích này đều được ghi rõ trên phóng đồ hành quân chuyển cho pháo binh và những đơn vị bạn. Mọi cổng ra vào của trường, từ cổng Thái Phiên, cổng Nam Quan cho tới cổng Lý Thường Kiệt đều đã nhận mật khẩu, mật hiệu trong đêm.

 

Khoảng sáu giờ tới bảy giờ tối, các toán kích canh giữ những điểm trọng yếu trong trường do sinh viên sĩ quan đảm nhận, sinh viên trưởng toán đến Trung tâm hành quân lấy mật khẩu. Đây là mật khẩu nội bộ, khác với mật khẩu bên Quân Trấn.

 

Bảy giờ tối, công việc phòng thủ trường hoàn tất, tôi nhấc điện thoại báo cáo với đại úy trực Phòng hành quân tại tư dinh của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng. Tuy ở ngoài tư dinh, nhưng Thiếu tướng Chỉ huy trưởng vẫn nắm vững tình hình an ninh trong trường, qua Phòng hành quân bỏ túi tại tư dinh của ông.

 

Xong xuôi mọi việc, tôi bắt đầu bữa ăn tối, vừa ăn cơm tôi vừa lấy bài vở ở trường ra ôn lại. Nếu cần tham khảo tài liệu, tôi có thể ghé thư viện của trường để mượn.

 

Mười giờ tối, tôi lên giường.

 

Chiều nay, lúc vừa từ Quân Trấn về, tôi thấy một bức thư do bưu tín viên đem đến để trên bàn làm việc của tôi. Tên người gửi là Trung úy Nguyễn Đức. Tên người nhận là tôi, Trung úy Nguyễn Trọng Quân, Trung tâm hành quân Trường Võ Bị Đà Lạt, KBC 4027.

 

Tôi tắt đèn neon trên trần rồi mở ngọn đèn đọc sách ở đầu giường.

 

Tháng 11, 1972.

 

Quân,

 

Tao là Trung úy Đức, Trung đoàn 8, Sư đoàn 5 Bộ binh, bạn học cùng lớp với mày ở trung học Trần Hưng Đạo Đà Lạt, không biết mày còn nhớ tao không? Nếu mày không nhớ để tao nhắc cho. Hồi đó tụi mày đặt cho tao cái biệt danh là Đứt thắng rồi thi nhau chọc ghẹo tao “Ở Đà Lạt, đi xe xuống dốc mà Đứt thắng chỉ có tàn đời thôi em ơi ” Mày nhớ tao chưa? Nếu đã nhớ rồi hãy đọc tiếp, tao sẽ kể cho mày nghe về những gì mà tao được biết đã xảy ra ở An Lộc trong mùa hè vừa qua.

 

Chuyện như thế nàv, nếu tao nhớ không lầm, ngày 11 tháng 4 năm 1972 Trung đoàn 8 của tụi tao được trực thăng vận từ Dầu Tiếng vào An Lộc trấn giữ mặt Bắc của thị trấn. Ba mặt khác do Nhảy Dù, Biệt Động Quản, Trung đoàn 7 và Địa Phương Quân của Tiểu khu Bình Long trấn giữ. Năm ngày sau, Liên đoàn 81 Biệt Kích Dù cũng được trực thăng vận đến phía Đông nam của thị xã, sau đó họ di chuyển lên tuyến đầu ở phía bắc phối hợp với Trung đoàn 8 của tụi tao để tử thủ An Lộc. Nói là phối hợp chứ thật ra mỗi đơn vị chịu trách nhiệm một khu vực. Biệt Kích 81 có lối đánh giặc riêng của họ, lối đánh đặc biệt của từng toán nhỏ, di chuyển trong im lặng, xuất hiện rồi biến mất như những bóng ma, phòng thủ đối với Biệt Kích 81 có nghĩa là tấn công. Từ khi có Biệt Kích 81 phối hợp, tinh thần binh sĩ của tụi tao lên cao thấy rõ. Tao biết địa chỉ của mày là nhờ thẳng Đạt học cùng lớp với tụi mình, nó là trung úy Biệt Kích 81. Tụi tao gặp nhau thật bất ngờ, khi tao đang chạy vắt giò lên cổ trong một trận mưa pháo của địch.

 

Trung đoàn 8 của tao với quân số khoảng một ngàn rưỡi người, cùng với sáu ngàn quân nhân của các binh chủng khác đã tử thủ trong An Lộc, chống lại hơn bốn chục ngàn quân Cộng Sản . Bốn chục ngàn quân Cộng Sản, với hàng trăm chiếc xe tăng T54 tụi tao không sợ, chỉ ngán cái giàn pháo của tụi nó. Hàng ngày ở đây tụi tao lãnh hơn một ngàn trái đạn pháo đủ loại là chuyện thường tình, từ cái thứ đạn pháo tép riu của súng cối 82 ly, cho đến đại bác hạng nặng 130 ly. Vài trăm trái đạn pháo một ngày, tụi tao gọi là pháo quấy rối. Trên hai ngàn cho đến tám ngàn trái mới coi đó là pháo thật sự, khi pháo kích lơi dần là lúc Việt Cộng bắt đầu tấn công. Trước tiên, bọn chúng dùng xe tăng T54 tràn qua mọi chướng ngại vật đi vào trong thị xã An Lộc. Mấy chục chiếc xe tăng này như là vật tế thần, sau khỉ lãnh đủ hàng trăm trái đạn M72 của Biệt Kích 81, của tụi tao và những đơn vị bạn khác, chiếc cháy đen thui, chiếc đứt xích nằm ngổn ngang trong thị xã. Sau mỗi lần tấn công của Cộng Sản, tao lại dùng lưỡi lê khắc một gạch trên báng súng, cuối tháng Tư, sau gần hai mươi ngày tử thủ, tao đếm được bốn cái gạch trên cây súng M16 của tao. Mỗi một gạch là một trận đánh khốc liệt, tàn bạo, đẫm máu.

 

Ngày 11 tháng 5, tám ngàn trái đạn pháo chụp xuống An Lộc, địch pháo liên tục tưởng như không bao giờ dứt. Suốt đêm cả bầu trời được soi sáng bằng những tia chớp của đạn pháo, khi nhịp pháo thưa dần cũng là lúc Cộng Sản bắt đầu tấn công. Tụi tao ở hố cá nhân với súng M16, đại liên M60, súng phóng lựu M79, cuối cùng là lựu đạn ném tay chống trả hết đợt xung phong này đến đợt xung phong khác. Nhờ những trái lựu đạn này, đã cản được nhiều đợt xung phong của Việt Cộng, cho đến khi trời hừng sáng bọn Cộng Sản mới chịu rút lui, trả lại an lành cho An Lộc. Khi trận đánh kết thúc hàng trăm xác chết của Việt Cộng, của lính mình, của thường dân nằm la liệt, những người còn sống, lợi dụng lúc im tiếng súng vội vàng kéo nhau đi chôn xác chết, bất kể ta hay địch. Xác chết nhiều đến nỗi không có thì giờ đào huyệt, người ta phải dùng xe ủi đất đào một đuờng rãnh dài vài chục mét, sâu độ ba mét, sau đó hàng trăm xác người không phân biệt Việt Cộng hay thường dân, già trẻ lớn bé được xếp chồng lên nhau rồi lấp đất lại. Cảnh chôn người giống hệt như trong ciné thời Đệ nhị thế chiến, khi Đức Quốc Xã chôn dân Do Thái ở những trại tập trung.

 

Bảy giờ sáng, tao đánh răng bằng một nắp bi đông nước, rồi đổ nước vào bao gạo sấy làm bữa ăn sáng, sau đó là chuyện tu bổ hầm hố, coi lại súng ống, đạn dược chuẩn bị cho trận đánh kế tiếp.

 

Có một chuyện khá khôi hài, sau nàv mỗi lần nhớ lại tao vẫn không hiểu tại sao hơn sáu mươi ngàv tử thủ trong An Lộc, tao không biết tắm là gì. Hình như, tắm không phải là nhu cầu sống chết như cơm để ăn, nước để uống. Cũng có thể, vì lúc nào cũng tựa lưng vào cái chết nên quên tắm, cuối cùng đành phải vin vào cái cớ nước không đủ uống lấy đâu mà tắm.

 

Nước uống được lấy từ những cái giếng cạn trong thị trấn. Mày thử nghĩ coi, với hàng ngàn xác chết vừa chôn được vài tuần, nguồn nước giếng ở đây có còn trong sạch hay không? Dù nước giếng có ô nhiễm vẫn phải uống, nếu không muốn chết khát.

 

Xong phần nước uống, đến phần nhận tiếp tế thực phấm và đạn dược. Chuyện tiếp tế là cả một vấn đề nhiêu khê phức tạp, vì máy bay phải bay thấp để tránh cao xạ cũng như hỏa tiễn phòng không của Việt Cộng. Khi những kiện hàng tiếp tế từ phi cơ C123 thả xuống An Lộc, những gì rớt vào bên trong vòng đai phòng thủ đó là phần của mình, nếu rớt ngoài vòng đai là của Việt Cộng. Thường thì những kiện hàng tiếp tế rớt vào trong vòng đai, ít hơn những kiện hàng rớt ngoài vòng đai, có nghĩa là tiếp tế cho phe mình nhưng Việt Cộng lãnh gần hết. Phần thực phẩm mình nhận được phải chia bớt cho dân để cùng nhau chịu đựng pháo kích, sống tiếp những ngày gian nan, đói khổ, đầy chết chóc. Có một lần, tình cờ tao chứng kiến một chiếc vận tải cơ C123 của Không Quân Việt Nam bay vào An Lộc mà như là thách đố với tử thần. Chiếc phi cơ bay thấp thật thấp, thấp đến độ tao có thể thấy được lá cờ vàng ba sọc đỏ sơn ở nơi đuôi. Khi đã vào đúng vị trí để thả dù, mấy kiện hàng tiếp tế từ đuôi tuôn ra. Chỉ trong vòng vài giây đồng hồ, năm cánh hoa dù tròn xoe bọc gió trôi lững lờ giữa không trung. Thay vì nhìn những kiện hàng có rơi vào trong An Lộc hay không, tao dõi mắt nhìn theo phi cơ đang bay lảo đảo, trồi lên rồi hụp xuống giữa những lằn đạn phòng không dày như đan lưới của Việt Cộng. Chiếc phi cơ bay chậm và thấp, phơi cái bụng phệ dùng để chứa hàng tiếp liệu rõ mồn một. Tao nghĩ thầm, chỉ cần dùng mấy khẩu đại liên M60 của đại đội, tao bắn cũng trúng huống chi cả Trung đoàn súng phòng không của Việt Cộng, thi nhau nhả đạn tới tấp. Tao nín thở nhìn theo chiếc phi cơ, cho đến khi hình dáng của nó nhỏ dần, nhỏ dần rồi mất hút nơi cuối chân trời, lúc bấy giờ tao mới thở phào nhẹ nhõm, mừng cho phi hành đoàn của chiếc C123 ngày hôm đó đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Tao chùi hai bàn tay đẫm mồ hôi của mình vào vạt áo rồi nhìn những giọt mồ hôi chảy dài trên trán của người lính ngồi bên cạnh. Tao hỏi anh ta:

 

-Sợ hả bạn?

 

-Dạ, sợ quá đến nỗi toát mồ hôi cục mà không biết đó thiếu úy.

 

Té ra, đâu có phải chỉ một mình tao lo sợ cho mạng sống phi hành đoàn của chiếc phi cơ C123.

 

Đưa tay quẹt những giọt mồ hôi trên trán, người lính hỏi tao:

 

-Thiếu úy nè, mình đánh nhau với Việt Cộng, đem sinh mạng ra đánh cuộc với sống chết mà không biết sợ. Tại sao, khi nhìn chiếc máy bay chao đảo giữa những lằn đạn mình lại thấy sợ?

 

Tao trả lời với người lính, không biết câu trả lời có đúng hay không.

 

-Bởi vì mình là khán giả, rảnh rỗi ngồi xem mấy ông phi công Việt Nam Cộng Hòa đem mạng sống của họ thách đố với tử thần, với mục đích là thả cho được những kiện hàng tiếp tế vào bên trong An Lộc. Phi cơ có thể nổ tan xác như một quả cầu lửa vì trúng hỏa tiễn phòng không SA 7, cũng có thể đâm chúi đầu xuống đất tan nát thành muôn ngàn mảnh vụn vì trúng cao xạ phòng không của Việt Cộng. Những cái chết khủng khiếp như vậy có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Không sợ sao được.

 

Người lính nhìn tao gật đầu như đồng ý.

 

Chuyện rảnh rỗi ngồi khơi khơi trên mặt đất xem phi cơ C123 thả hàng tiếp tế, chỉ là chuyên ngàn năm mới có một lần. Thực ra, ở đây lúc nào bọn tao cũng sống dưới hầm, dưới hố cá nhân có nắp đậy để tránh pháo kích. Một đôi lần, tao ngồi dưới hố cá nhân nghe tiếng nổ của bom B52 cách xa một vài cây số dội lại mà cứ tưởng như sấm động trên đầu. Nhiều khi tao nghĩ dại, nếu vì một lý do nào đó như trục trặc kỹ thuật chẳng hạn, một loạt bom B52 lọt vào bên trong An Lộc, khoảng tám ngàn lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và dân An Lộc sẽ chết không còn một mống.

 

Chuyện sống chết của phi hành đoàn chiếc phi cơ C123, và những chấn động khủng khiếp khi B52 trải thảm tuy vậy nó không ám ảnh tao bằng chuyện hai anh em thẳng bé bị thất lạc cha mẹ.

 

Ngay chỗ tụi tao trấn giữ, cứ lúc im tiếng súng, tao lại thấy mấy đứa nhỏ đến gần lính mình xin gạo sấy và thịt hộp. Trong đám trẻ con ấy, tao chú ý đến một đứa bé trai đâu chừng mười tuối, lúc nào nó cũng địu đứa em nhỏ trên lưng, thằng bé mặt mày lem luốc, thân hình ốm đói với bộ quần áo không thể dơ hơn được nữa rụt rè ngửa bàn tay xương xẩu, đen đúa xin nhúm gạo sấy. Thoạt nhìn tao đã mềm lòng, muốn chảy nước mắt, con cái nhà ai chạy loạn để rồi lạc loài tới đây. Tao không dám hỏi ba má nó ở đâu, bởi vì tao sợ câu trả lời của nó. Lính có khẩu phần lương khô của lính, còn dân chúng ai tiếp tế thực phẩm cho họ đây? Dĩ nhiên tao vui vẻ chia làm hai phần gạo mình đang có cho thằng bé, ăn để sống cầm hơi chờ đợi tiếp tế. Cũng có một đôi lần tao nhịn phần trái cây hộp của mình đem cho anh em thằng bé, mặc dầu cơ thể của tao rất cần chút chất ngọt của hộp trái cây. Có một điều khiến tao mềm lòng, là bất cứ khi nào xin được thức ăn, thằng bé cũng đút cho em nó ăn trước. Cho đến khi đứa em của nó lắc đầu, thằng bé mới chịu ăn. Mấy ngày sau đó, khi không thấy thằng bẻ đến xin gạo sấy; tao hỏi lũ nhỏ về anh em thằng bé mới biết rằng cả hai đứa đều bị chết vì đạn pháo của Việt Cộng. Tội nghiệp, một đứa bé mười tuổi làm sao biết cách đào hố cá nhân để ẩn núp khi bị Việt Cộng pháo kích. Mạng sống của tao giống như chỉ mành treo chuông, chuyện không có gì phải nói vì tao là lính, nhưng sinh mạng của hai đứa bé cùng với hàng ngàn người dân An Lộc vừa chết trong mấy ngày qua thì sao? Chẳng lẽ cũng phải chịu chung số phận như lính? Năm 1968 trong chiến dịch Tổng công kích của Việt Cộng, năm, bảy ngàn thường dân bị họ chôn sống trong Tết Mậu Thân ở Huế. Bốn năm sau, thảm họa lại tái diễn tại An Lộc, lần này là cảnh người dân An Lộc bị chôn tập thể, bằng hàng chục ngàn trái đạn pháo đủ loại của Việt Cộng. Có quốc gia nào trên thế giới đứng ra tố cáo, hay phản đối chuyện Việt Cộng pháo kích giết hại dân lành không? Câu trả lời, hoàn toàn không có. Tự dưng tao cảm thấy thương cho cái địa ngục An Lộc này quá chừng.

 

Khi màn đêm buông xuống, An Lộc chìm vào bóng tối mênh mông, một vài trái đạn pháo lẻ loi xé toạc màn đêm, âm thanh vang dội khắp núi rừng như nhắc nhở rằng chiến trường chỉ tạm thời yên tĩnh. Dưới ánh sáng của một trái hỏa châu không biết do đơn vị nào bắn lên, tao thấy vài con chó đói, đang chúi đầu bươi mấy cái xác chết vừa được chôn sơ sài, vội vàng lúc ban ngày. An Lộc đổ nát, hoang tàn như một bãi tha ma. Một ngày tử thủ An Lộc vừa trôi qua.

 

Đại đội của tao, quân số lúc mới vào An Lộc trên một trăm người, ngày về còn chưa tới bảy chục. Trung úv đại đội trưởng và ba ông chuẩn úy trung đội trưởng của tao lần lượt rủ nhau giã từ vũ khí, tao là thằng thiếu úy duy nhất trong đại đội còn sống sót. Tao lên nắm đại đội trưởng, trông coi mấy chục người lính còn lại của đại đội. Từ khi trở về từ cõi chết, tao nghiệm ra một điều, sống hay chết không phải do mình lựa chọn mà do ở số trời định đoạt. Tao tin như vậy.

 

Mày có biết tại sao tao viết thư cho mày không? Tao đang nằm tái khám ở Tổng y viện Cộng Hòa. Tao nhớ lại, ngày xưa trước đêm lễ gắn Alpha, truyền thống của Sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt là phải chinh phục đỉnh Lâm Viên, vì nó là đỉnh núi cao nhất của cao nguyên Lâm Viên, chinh phục được ngọn núi này, chứng tỏ người Sinh viên sĩ quan đã Tự Thắng được mình. Tao biết, dấu chân của tao hãy còn hằn sâu trên đỉnh núi mờ sương đó. Vậy mà, khi tao vào An Lộc rồi trở ra, không có vết chân của tao để lại trong cái hỏa ngục hừng hực lửa đỏ đó, bởi vì hai chân của tao đã bỏ lại ở An Lộc.

 

Hôm nay chiến trường đã im tiếng súng, An Lộc hiên ngang, oai hùng đi vào lịch sử. Riêng tao, một con chim gãy cánh, lạc bầy, mất bạn, nước mắt rưng rưng khi nhớ về trường mẹ. Tao tốt nghiệp Võ Bị Đà Lạt, mày đang làm việc ở đó.

 

Lá thư chấm dứt ngang xương, không một lời tạm biệt cũng chẳng có lấy một câu hẹn tái ngộ, tôi nhắm mắt chìm vào giấc ngủ, trái tim của tôi vẫn đập bình thường, trong khi những giọt nước mắt nóng hổi của mình tưởng có thể cuốn trôi cả một thị trấn An Lộc ở tận biên giới Việt Miên xa xôi ngàn dặm. Trường Võ Bị Đà Lạt vẫn an bình, yên ổn không một tiếng súng.

 

Ngày thứ hai: Đời sống dân sự, “Cổ thành nhuộm máu”.

 

Sáu giờ sáng, tôi thức dậy. Sau khi làm vệ sinh cá nhân, tôi ngồi vào bàn làm việc, điền vào tờ báo cáo tình hình trong đêm. Cuối tờ trình, bên tay phải, tôi viết thêm hàng chữ:

 

Sĩ quan trực Trung tâm hành quân .

Trung úy Nguyễn Trọng Quân ký tên.

 

Tôi đem tờ trình qua phòng làm việc của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng, nằm đối diện với Trung tâm hành quân, đặt tờ tường trình vào chỗ công văn đến.

 

Tám giờ sáng, tôi bàn giao phiên trực cho Trung úy Hàn, sĩ quan thượng phiên rồi trở về cư xá sĩ quan. Sau khi tắm rửa xong xuôi, tôi thay bộ đồ dân sự lên xe Honda chạy đến nhà Vân, cô bạn gái học cùng lớp với tôi ở Viện đại học Đà Lạt. Vân thua tôi hai tuổi, học giỏi, gia đình Vân có tiệm tạp hóa nho nhỏ ở chợ Đà Lạt. Tôi là tài xế không công của Vân với nhiệm vụ đưa đón nàng đi học, bù lại, Vân cho tôi mượn sách vở để ghi chép bài. Đó là mối giao tình mà đôi bên cùng có lợi, quan hệ giữa chúng tôi chỉ là tình bạn thuần túy, tin hay không còn tùy vào sự suy luận của mỗi người. Bạn bè trong lớp đương nhiên nghi ngờ về cái tình bạn thiêng liêng cao quý ấy, có người hỏi Vân, cô nàng làm ra vẻ bí mật trả lời: “Hỏi anh ấy”. Hỏi tôi, câu trả lời là : “Tôi đã có người yêu và chúng tôi sắp làm đám cưới, Vân chỉ là bạn của tôi”.  Sở dĩ tôi nói như vậy bởi vì từ mấy năm qua khi gặp bất cứ một cô gái nào, điều đầu tiên là tôi so sánh cô gái ấy với Dung. Sau đó trái tim tôi sẽ nói với tôi rằng, cho dù tôi đi tới chân trời góc biển cũng chẳng bao giờ tìm được ai hơn Dung. Trái tim của tôi đã ngủ quên, chỉ biết có một mình Dung kể từ ngày đầu tiên tôi gặp Dung tại nhà nàng, ngôi nhà có hai cây vú sữa.

Vừa gặp mặt Vân, tôi chưa kịp chào hỏi Vân đã lẹ miệng nói :

 

-Anh Quân, tụi mình có nên ăn tô phở trước khi đi học hay không?

 

Vì muốn tiết kiệm tiền, tôi hơi lưỡng lự một chút không biết nên chọn khúc bánh mì hay tô phở? Cuối cùng tôi trả lời theo ý của Vân:

 

-Nên lắm chứ.

 

Chúng tôi ghé tiệm phở Tùng ở đường Hàm Nghi. Tôi vừa ăn phở vừa ngắm Vân, rồi thầm nghĩ phải chi mình thương được cô Vân này thì khỏe biết mấy. Vân đâu có xấu, nhan sắc trên trung bình lại ăn nói có duyên, thiên hạ bu theo Vân cũng lắm nhưng tại sao mình không một mảy may rung động. Hình như Vân cũng có một trái tim bằng sắt, Vân coi tôi như là bạn gái của cô ta, mặc dầu hai đứa thường xuyên gặp gỡ, tiếp xúc. Tôi ngẫm nghĩ hoài vẫn không tìm ra câu trả lời. Hai năm rồi bạn vẫn là bạn, không có gì thay đổi.

 

Tụi tôi đến giảng đường Minh Thành trễ ba mươi phút, hai đứa lén vào chỗ ngồi. Vân hỏi người bạn:

 

-Thầy có điểm danh không?

 

-Không.

 

Lớp học kéo dài đến mười hai giờ trưa, hết giờ học, tôi chở Vân đến quán cơm sinh viên ở đường Võ Tánh cách Viện đại học khoảng hơn một cây số. Chúng tôi thường ăn cơm trưa tại đây bởi vì thuận đường, rẻ và ngon.

 

Cơm nước xong xuôi tôi chở Vân trở lại trường, mới hơn một giờ, hãy còn sớm chúng tôi lên Trung tâm sinh viên, mỗi đứa làm một ly cà phê, chuẩn bị bài vở cho lớp học sắp tới. Hôm nay thứ Ba, từ hai giờ đến sáu giờ chiều tụi tôi có lớp ở giảng đường Thượng Chí, bốn tiếng đồng hồ dài đăng đẳng, nghe giảng ghi chép rồi cũng qua đi.

 

Tan học thay vì chở Vân về nhà, tôi ghé cà phê Hạnh Tâm. Vân hỏi:

 

-Mình uống cà phê nữa hả anh?

 

Trong lòng nhẹ nhàng, khoan khoái, tôi trả lời Vân:

 

-Uống mừng đã học xong một ngày.

 

Tôi là một thằng ba phải, khi ăn uống, tôi thường so đo, tính toán nhung khi vô quán cà phê, tôi lại dễ dãi với mình, không đắn đo, không suy nghĩ.

 

Đang chăm chú nhìn những giọt cà phê đen quánh rơi chầm chậm xuống cái ly thủy tinh trong vắt, đột nhiên tôi cảm được bàn chân của Vân đang đạp nhẹ lên chân tôi.

 

Vân nói nhỏ với tôi:

 

-Anh Quân, có ông lính ngồi bên kia cứ nhìn anh đăm đăm.

 

Tôi nói:

 

-Kệ nó, cho nó nhìn. Nó nhìn em chứ không phải nhìn anh đâu. Ai biểu đẹp làm chi, phải ráng mà chịu.

 

Đâu chừng một phút sau, Vân lại nói:

 

-Hình như ông ta muốn nói gì đó.

 

Tôi quay đầu lại, khi nhìn thấy người lính tôi giật mình như chạm phải một luồng điện.

 

-Mày đó hả?

 

-Ừ, tao đây. Nhân đầu bạc đây.

 

Tôi vẫy tay:

 

-Qua đây ngồi cho vui.

 

Nhân đầu bạc tay bưng ly cà phê, tay cầm gói thuốc lá đi qua bàn của tôi. Tôi bắt tay Nhân rồi giới thiệu:

 

-Đây là Vân, bạn học cùng lớp với tao ở Viện đại học Đà Lạt.

 

Nhân đầu bạc khẽ gật đầu:

 

-Hân hạnh được biết Vân.

 

Quay qua Vân, tôi giới thiệu tiếp:

 

-Còn đây là Nhân, bạn cùng lớp với anh thời trung học.

 

-Dạ chào anh.

 

Tôi nhìn bộ quân phục Thủỵ Quân Lục Chiến với cặp lon đeo trên vai của Nhân rồi nói:

 

-Hơn năm năm rồi bây giờ mới gặp lại nhau, mày là trung úy Thủy Quân Lục Chiến ?

 

Nhân trả lời:

 

-Đúng.

 

Hắn hỏi tiếp:

 

-Mày vẫn đi học sao Quân? Nhìn bộ đồ dân sự mày bận mà tao phát thèm.

 

Tôi nói:

 

-Đừng có thèm, tao cũng là lính như mày thôi. Tao hiện là trung úy Trường Võ Bị Đà Lạt.

 

Nhân đầu bạc trố mắt nhìn tôi:

 

-Mày đi Võ Bị Đà Lạt? Ngon dữ há!

 

-Tao tốt nghiệp Thủ Đức, ra trường được chuyển về Trường Võ Bị Đà Lạt, làm việc ở Trung tâm hành quân. Ở đó làm việc một ngày nghỉ một ngày, lợi dụng ngày nghỉ tao đi học thêm ở Viện đại học Đà Lạt.

 

Nhân đầu bạc nhíu mày, với giọng nói tựa như nghi ngờ.

 

-Làm một ngày rồi nghỉ một ngày?

 

Tôi đáp:

 

-Đúng.

 

Nhân lắc mạnh đầu:

 

-Mẹ nó, tao đi lính năm năm rồi, dù có nằm mơ tao cũng không tin được chuyện có thứ lính kỳ lạ như mày. Bọn tao bắn nhau với Việt Cộng trong rừng sâu núi thẳm, từ ngày này qua tháng nọ, hết năm này tới năm khác vùi đầu trong chiến trận, hôm nay sống ngày mai có thể chết. Một năm được mươi ngày phép, mừng thấy mẹ, đã vậy khi đưa giấy phép cho mình, tiểu đoàn trưởng còn chần chừ như tiếc rẻ không muốn đưa. Mày biết không, sếp đưa tờ giấy phép cho mình mà tay không muốn rời tờ giấy, cứ như là Thúc Sinh bịn rịn không nỡ chia tay Thúy Kiều. Nhờ biết gia đình mày từ trước, nếu không tao sẽ nghĩ chỗ mày làm việc chỉ dành cho con ông cháu cha.

 

Tôi nói với Nhân đầu bạc:

 

-Tao biết, mày cũng tốt nghiệp Thủ Đức như tao nhưng mặc bộ đồ binh chủng Thủy Quân Lục Chiến như mày, tao làm không được. Thực lòng mà nói, lúc nào tao cũng ngưỡng mộ những thằng như mày.

 

Nhân đầu bạc chậm rãi mồi thuốc, hắn trả lời tôi với giọng trầm trầm.

 

-Mày bơm tao cũng vừa thôi.

 

-Mày muốn nghĩ sao cũng được. Có chuyện này tao muốn hỏi, mày đang đi phép phải không?

 

Nhân đầu bạc gật đầu, hắn kéo cái ống quần rằn ri lên cao, chỉ vào vết thương trên bắp chân hãy còn quấn băng trắng.

 

– Cổ thành Quảng Trị.

 

Vân bất ngờ nói chen vào:

 

-Có đau không anh?

 

Nhân bật cười nhìn Vân:

 

-Lẽ ra thì hết đau rồi, nhưng khi nghe Vân hỏi tôi lại thấy đau đau.

 

Vân xua tay đính chính:

 

-Vân không có đụng chạm gì tới vết thương của anh, tại sao anh lại thấy đau?

 

-Vết thương nơi thằng Quân, cô Vân mới lo phải không?

 

-Cũng không luôn, em với anh Quân chỉ là bạn.

 

Tôi xen vô.

 

-Có nặng không?

 

-Bác sĩ nói chuyện nhỏ, tuần tới tao có thể trở lại đơn vị.

 

Gương mặt Nhân lộ vẻ đăm chiêu khi nhắc đến hai chữ đơn vị, khiến mái tóc muối tiêu của hắn vốn đã bạc, trông càng bạc hơn, hắn nói:

 

-Không biết giờ này đại đội của tao còn được bao nhiêu người, có còn đang ở nơi Cổ thành hay đã di chuyển đến một mặt trận mới?

 

Vân hỏi:

 

-Cổ thành với đơn vị của anh có gì hấp dẫn, khiến anh đang nghỉ dưỡng thương vẫn nhớ hoài tới nó. Nói cho Vân nghe chút xíu về Cổ thành Quảng Trị, được không?

 

-Được quá đi chứ, cô Vân hỏi ai mà dám chối từ.

 

Nhân đầu bạc nhíu mày, vừng trán cao và rộng của hắn hơi nhăn lại.

 

-Đâu khoảng, à..à…ngày hai mươi bảy tháng bảy, Thủy Quân Lục Chiến của tụi tôi được lệnh thay thế Nhảy Dù, tiếp tục tấn công Việt Cộng đang cố thủ trong thị xã và Cổ thành Đinh Công Tráng.

 

Vân thắc mắc:

 

-Tại sao không dùng cả Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến, cùng tấn công vào Cổ thành.

 

-Cô Vân nè, đừng có hỏi tại sao. Một thằng sĩ quan cấp nhỏ như tôi làm sao biết được, mới gặp thiếu tá tiểu đoàn trưởng tôi đã run huống gì hỏi chuyện này nọ với ông ta. Lính chỉ biết thi hành lệnh của cấp trên giao phó. Hình như trong ngôn ngữ của lính, không có cái chữ “hỏi”. Để trả lời câu hỏi của Vân, theo sự suy nghĩ của tôi, sau một tháng trường đánh nhau, giành giựt từng tấc đất với Việt Cộng quanh Cổ thành, lực lượng Nhảy Dù hao hụt cũng bộn cần phải được thay thế để nghỉ ngơi, bổ sung quân số. Vào lúc đó, Thủy Quân Lục Chiến bọn tôi, quân số, đạn dược vẫn còn đầy đủ.

 

Nhân đầu bạc ngừng nói, hắn mồi thêm một điếu thuốc nữa, thả khói bay đầy phòng.

 

-Vân đã thấy Cổ thành Quảng Trị bao giờ chưa?

 

Vân trả lời:

 

-Chưa anh ạ.

 

Quay qua nhìn tôi, Nhân đầu bạc hỏi:

 

-Còn mày?

 

-Cũng chưa.

 

-Đó là một cái thành cổ hình vuông, xây bằng gạch, hình như là được trùng tu lại vào cái thời vua Minh Mạng thì phải. Mỗi cạnh của Cổ thành dài khoảng nửa cây số, tường thành cao khoảng năm mét, bề rộng trên mặt thành dư sức cho xe hơi chạy. Chung quanh thành có hào sâu, nước lên tới cổ, bề rộng của cái hào này rộng chừng mười mét. Bốn góc thành có bốn cái pháo đài.

 

Nhân đầu bạc nhìn Vân.

 

-Cô Vân đã hình dung được Cổ thành Quảng Trị như thế nào chưa?

 

-Dạ được.

 

-Lực lượng của địch bên trong Cổ thành, được trang bị đầy đủ vũ khí và đạn dược với hệ thống phòng thủ kiên cố, vững chắc, đang cố thủ trong đó.

 

Nhân hỏi tôi:

 

-Mày nghĩ gì về trận chiến tử thủ An Lộc của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mấy tháng trước đây.

 

Tôi ngần ngừ.

 

-Khoảng bốn chục ngàn quân Cộng Sản, vây tám ngàn quân Việt Nam Cộng Hòa trong An Lộc.

 

-Mày nói đúng, như vậy quân bao vây phải bằng năm lần quân cố thủ.

 

Tôi nói:

 

-Đúng vậy.

 

Nhân lắc đầu,

 

– Cổ thành Quảng Trị không phải như An Lộc mà nó ngược lại. Lực lượng của địch gồm có Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn 320 của Việt Cộng, một tiểu đoàn của Sư đoàn 325, một tiểu đoàn địa phương, tất cả nằm tử thủ bên trong Cổ thành. Chỉ có một Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến của tụi tao, vừa phải đương đầu với Việt Cộng ở Quảng Trị, vừa phải chia quân với mục đích cuối cùng là phải tái chiếm Cổ thành bằng mọi giá. Để đánh vào đó, chuyện trước tiên là hàng trăm khẩu pháo của mình bắn tập trung vào trong Cổ thành. Khi Pháo binh chấm dứt, Không quân Việt, Mỹ lại tiếp tục dội bom liên tục hai mươi bốn trên hai mươi bốn. Bọn Việt Cộng cũng lì lợm không kém, tụi nó chống trả mãnh liệt, nhờ vào những công sự phòng thủ chắc chắn bên trong thành. Thủy Quân Lục Chiến bao quanh Cổ thành nhưng không làm sao tiến vào được bên trong.

 

Nhân ngưng nói, hắn nhìn tôi rồi quay sang Vân.

 

-Quý vị có biết tại sao không?

 

Tôi nói:

 

-Vân là học sinh, tao là lính văn phòng, làm sao tụi tao biết được. Có thể lính Việt Cộng thiện chiến, quen với trận mạc, cấp chỉ huy giỏi.

 

Nhân đầu bạc cười:

 

-Không phải như vậy đâu, lính Cộng Sản giống như là âm binh vì ban ngày họ trốn biệt, đêm đến mới xuất hiện đánh phá, còn cấp chỉ huy, lãnh đạo của họ là phù thủy, bởi vì chỉ có phù thủy mới trị được cái lũ âm binh. Đánh nhau với một đạo quân vô Tổ Quốc, cuồng tín, chỉ biết sống chết cho Bác cho Đảng như vậy, Thủy Quân Lục Chiến bọn tao không què tay cũng gãy gọng, đại đội của tao từ một trăm tám chục tay súng, còn lại khoảng một trăm. Sáu sĩ quan của đại đội chết hết ba, chỉ còn lại tao và hai chuẩn úy. Có đêm dưới nhũng tia chớp của đạn pháo xé trời, tao nhìn dòng nước đen ngòm của cái hào sâu bao quanh Cổ thành, mà cứ tưởng rằng đó là máu của lính Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Mày nói cho tao biết, những kẻ sống sót có phải là hột gạo trên sàng hay không?

 

Nhớ đến bức thư của Đức mà tôi mới đọc tối hôm qua, thay vì trả lời câu hỏi của Nhân đầu bạc, tôi hỏi lại hắn:

 

-Mày nhớ thằng Đức, học chung lớp với tụi mình không?

 

-Đức nào? Lớp mình có tới hai thằng Đức.

 

-Thằng Đứt thắng.

 

Nhân đầu bạc cười, nụ cười của thời tụi tôi còn học ở trung học.

 

-Tao nhớ rồi, xuống dốc mà đứt thắng kể như tàn đời em ơi. Mà tại sao mày lại nhắc đến nó.

 

-Nó tử thủ An Lộc, đại đội của nó có năm sĩ quan chết hết bốn, nó là thằng sĩ quan duy nhất trong đại đội còn sống sót. Tải thương về Tổng y viện Cộng Hòa, khi vào An Lộc nó là thiếu úy, khi ra khỏi An Lộc nó là trung úy nhưng hai chân của nó đã bỏ lại tại An Lộc.

 

Nhân đầu bạc nói với tôi:

 

-Lần này về Sài Gòn, tao sẽ tới Tổng y viện Cộng Hòa thăm nó, sẽ kể cho nó nghe chuyện gặp mày ở đây. Mày có nhắn gì với nó không?

 

-Nói với nó, khóa 29 Võ Bị Đà Lạt sắp nhập trường.

 

Nhân đầu bạc nhìn ra ngoài trời, hớp một ngụm cà phê rồi nói:

 

-Bọn tao sau hơn năm mươi ngày đánh nhau chí chết với Việt Cộng, cho đến khi lá cờ Quốc Gia màu vàng, ba sọc đỏ tung bay phất phới trên Cổ thành Quảng Trị, hơn ba ngàn năm trăm binh sĩ và sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến đã hy sinh, thêm hàng ngàn người bị thương khi tái chiếm Cổ thành. Đó là con số thương vong của Thủy Quân Lục Chiến mà thôi, còn Nhảy Dù và những đơn vị khác tao không biết được.

 

Tôi hỏi Nhân đầu bạc:

 

-Còn mày, bị thương vào lúc nào?

 

-Tao hả? Trong trận đánh dứt điểm vào Cổ thành, tao và Hạ sĩ Trung, người mang máy truyền tin cho tao, mỗi thằng lãnh một viên AK. Tao bị ở chân còn Hạ sĩ Trung ở ngực, đạn AK phá vỡ lồng ngực làm sao mà sống được. Tội nghiệp, trước khi chết Hạ sĩ Trung còn gắng gượng nói với tao : “Nhờ trung úy nhắn giùm vợ em, là em đã mua cho con của em đôi giày, nhưng chưa kịp gởi về”.

 

Tôi hỏi Nhân đầu bạc :

 

– Mày đã gặp vợ của người lính truyền tin tử trận chưa?

 

Nhân đầu bạc trả lời với giọng nói buồn buồn.

 

-Nhận lời ủy thác của người sắp chết, làm sao tao quên được, nhất là người đó lại là người lính đã từng vào sinh ra tử với mình suốt mấy năm liền, từng chia xẻ với nhau vài nắm cơm khi đói, dăm vốc nước khi khát. Ngày bước chân ra khỏi quân y viện, tao tìm đến nhà của Hạ sĩ Trung. Sau đó, phải dò hỏi suốt cả buối, tao mới tìm được ngôi trường tiểu học, nơi mà vợ của Hạ sĩ Trung với gánh xôi bắp đang bán cho học trò. Thằng bé con của Hạ sĩ Trung, ngồi trong một cái thúng bên cạnh gánh xôi. Khi thấy tao trong bộ đồ Thủy Quân Lục Chiến, thằng bé hỏi mẹ nó “Khi nào ba về hả má?”. Người đàn bà, với hai bàn tay đang gói xôi nhanh thoăn thoắt bỗng dưng ngừng lại, bà ta đưa cái ống tay áo lên thấm những giọt nước mắt lăn dài trên má rồi nói, giọng nói nghe như cam chịu mọi khổ đau bất hạnh: “ Ba con không về nữa đâu, ba đi theo ông nội rồi”. Tao nhìn cánh tay áo bạc màu với mấy miếng vá nơi cùi chỏ không che được bàn tay gầy ốm, sạm đen của người đàn bà mà lòng xót xa như kim châm, muối xát. Không có thì giờ suy nghĩ, chỉ hành động theo phản xạ tự nhiên, tao lén móc bóp bỏ thêm một ngàn đồng vào cái bị giấy mà tao đang xách trên tay. Tao đưa cái bị cho vợ của Hạ sĩ Trung rồi nói “Của anh Trung gửi về cho cháu”. Nói xong, tao quay người bước đi thật lẹ, không nói cho người đàn bà biết tao là ai. Tao đã làm tròn lời hứa với người đã chết, nhưng trong lòng vẫn còn áy náy, bởi vì tao không dám nói với bà ấy, đôi giày mà tao đưa cho bà là đôi giày tao vừa mới mua ngoài chợ. Còn cái đôi giày của Hạ sĩ Trung gởi cho con mình với tất cả tình thương yêu gói trọn vào trong ấy, tao không biết nó ở đâu.

 

Phố đã lên đèn từ lâu, tôi bắt tay từ biệt Nhân.

 

Vân ôm Nhân đầu bạc với đôi mắt đỏ hoe.

 

-Mau bình phục nghe anh.

 

Quen với Vân hai năm rồi, đây là lần đầu tiên tôi thấy một cô bé nhút nhát như Vân lại có hành động bạo dạn như vậy khi thể hiện tình thương với người bạn trai mới quen. Tôi tin rằng Nhân đầu bạc là mẫu người lý tưởng của Vân, mẫu người trai thời loạn, mẫu người đã từng:

 

Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.

 

Cùng là trung úy, nhưng trung úy văn phòng như tôi, nói ra chỉ thêm mắc cỡ. Tôi hiểu, tại sao giữa tôi và Vân chỉ có tình bạn thuần túy suốt mấy năm trời.

 

Tôi đứng bên lề đường, trong sương mù giá buốt lạnh lẽo của trời Đà Lạt, nhìn theo Nhân đầu bạc đưa Vân về nhà. Ánh đèn đêm soi rõ bóng của họ đổ dài trên đường phố, hai người mà chỉ có một cái bóng.

 

Tôi chạy xe men theo con dốc Lê Đại Hành đi về cư xá, ngang qua khu Hòa Bình đèn đuốc sáng rực một góc trời. Đà Lạt vẫn thanh bình, yên ổn nhờ Quảng Trị đổ nát cản đường, cản bước tiến của cộng quân.

 

Khi tôi về đến cư xá sĩ quan, kim đồng hồ trên tường chỉ mười giờ. Mới đầu Đông mà trời đã khá lạnh, tôi kéo mền đắp ngang ngực.

 

Một ngày của đời sống dân sự đã trôi qua. Ngày mai, tôi trở lại đời sống quân ngũ.

 

Chương VI:

Cũng toan, tính toán với tình

 

Tôi đang chăm chú ôn bài cho kỳ thi sắp tới, nên không biết Thiếu tá Hưng trưởng Phòng hành quân bước vào.

 

-Trung úy làm gì đó?

 

Khi nghe tiếng nói của ông, tôi mới giật mình.

 

-Thưa thiếu tá, tôi đang học bài.

 

Thiếu tá Hưng kéo ghế ngồi đổi diện với tôi, rồi nói:

 

-Gốc của trung úy cũng bự dữ.

 

-Thưa thiếu tá, tôi không hiểu ông nói gì.

 

-Về trường Võ Bị, làm ở khối tham mưu không có gốc, không chạy chọt làm sao về được.

 

-Thưa thiếu tá, ngày còn học ở Trung tâm huấn luyện Quang Trung, với bài trắc nghiệm định hướng không biết tôi làm như thế nào mà khi ra trường được đưa về Trường Võ Bị Đà Lạt. Chuyện đó, tôi hoàn toàn không biết được.

 

-Gia đình trung úy ở đâu.

 

-Dạ Đà Lạt.

 

-Ba trung úy ở trong quân đội?

 

-Thưa không, ba tôi là thợ mộc.

 

-Chắc trung úy có bà con làm lớn trong quân đội?

 

-Thưa không.

 

-Như vậy, gia đình trung úy quen biết thế nào với Đại tá Tham mưu trưởng.

 

-Ba tôi là thợ mộc, làm sao quen với Đại tá Tham mưu trưởng được.

 

-Có chuyện hơi lạ, tao không hiểu được.

 

-Chuyện gì vậy, thiếu tá?

 

Thiếu tá Hưng lắc đầu, đưa hai tay lên trời rồi ông móc trong túi ra tấm giấy.

 

-Đây là tờ giấy phép bảy ngày, cấp cho Trung úy Nguyễn Trọng Quân với chữ ký của Đại tá Tham mưu trưởng.

 

Tôi như từ trên trời rót xuống.

 

-Thưa thiếu tá, nếu tôi muốn xin nghỉ phép phải làm đơn chuyển theo hệ thống quân giai, đơn của tôi phải qua ý kiến của thiếu tá. Tôi đâu có làm đơn xin nghỉ phép.

 

-Tao cũng nghĩ như vậy, nhưng tại sao lại có tờ giấy phép này?

 

Tôi góp ý với ông:

 

-Hay là phòng nhân viên làm lộn. Thiếu tá trình với Đại tá Tham mưu trưởng coi lại đi, lộn là cái chắc.

 

Thiếu tá Hưng cười hớn hở.

 

-Chú mày có lý, để tao đi hỏi lại.

 

Tôi để ý, hình như ở trong trường chỉ có một mình Thiếu tá Hưng thường xưng hô mày tao với tôi. Tôi vừa tiếp tục ôn bài vừa lẩm bẩm, lâu lâu cũng phải có lầm lẫn, điều chỉnh mấy hồi.

 

Chừng mười lăm phút sau, Thiếu tá Hưng bước vào phòng với gương mặt không được vui cho lắm.

 

-Tao vừa gặp Đại tá Tham mưu trưởng, ổng nhìn tờ giấp phép rồi gằn giọng khiến tao muốn chết đứng “Đúng rồi, tôi ký tờ giấy phép đó”.

 

Thiếu tá Hưng nói mà như là năn nỉ tôi:

 

-Chú mày làm ơn đi phép giùm tao, đừng có lôi thôi hỏi tới, hỏi lui. Mày càng hỏi nhiều, tao càng dễ có cơ hội ôm ba lô ra Quảng Trị phòng thủ Cổ thành. Quân đội mà mày, thi hành trước, khiếu nại sau.

 

Tôi cầm tờ giấy phép rồi nói:

 

-Thưa thiếu tá, đang làm việc mà bỏ ngang, ai trực hành quân thay tôi?

 

-Chuyện đó tao lo, chuyện chú mày bây giờ là đi phép.

 

Đang làm việc bị đi phép, không biết làm gì tôi bèn về cư xá để thay đồ rồi lên Viện đại học. Gần bảy giờ tối tôi mới trở lại cư xá sĩ quan, ba tôi đã đợi ở đó từ lúc nào, gương mặt ông có vẻ giận dữ.

 

-Con đi đâu mà bây giờ mới về?

 

-Con đi học.

 

Khi nghe tôi nói đến hai chữ đi học gương mặt ông liền đổi sắc.

 

-Vậy hả, ba đâu có biết.

 

Tôi vừa mở cửa phòng vừa hỏi ba tôi.

 

-Ba tìm con làm gì?

 

-Ba có chuyện quan trọng muốn nói với con.

 

-Ba ăn cơm chưa?

 

-Chưa.

 

-Vậy ba với con ra quán bánh xèo, vừa ăn vừa nói chuyện được không?

 

Sau khi cất sách vở, tôi cùng ba tôi đi bộ ra khu Hòa Bình, quẹo xuống ngã ba đường Minh Mạng và Tăng Bạt Hổ, nơi có quán bánh xèo bình dân, nằm bên hông của một tiệm bán đồ sắt. Đây là quán bánh xèo ngon nổi tiếng của Đà Lạt.

 

Ông chủ quán bánh xèo tên Năm, vui vẻ hỏi tôi:

 

-Trung úy mạnh giỏi.

 

Tôi trả lời:

 

-Quá mạnh giỏi, còn chú Năm khỏe không?

 

-Không khỏe làm sao đổ bánh xèo cho trung úy ăn.

 

Quay sang nhìn ba tôi, chú Năm hỏi:

 

-Bác đây là gì của trung úy?

 

-Ba tôi đó chú Năm.

 

-Hèn gì trông giống trung úy quá sức. Bác với trung úy ăn bánh lớn hay nhỏ.

 

Tôi nói:

 

-Bánh lớn.

 

Chú Năm nói với ba tôi:

 

-Ông bác thật là có phúc, trung úy đây trẻ tuổi, lại làm ở Trường Võ Bị. Suốt đời, tôi chỉ ao ước được vô thăm trường một lần cho thỏa chí mà không được.

 

Tôi vỗ vai chú Năm.

 

-Hôm nào Võ Bị có lễ mãn khóa, tôi sẽ mời chú vô trường.

 

Chú Năm cười khoái chí.

 

-Trung úy nhớ đó nghe.

 

-Tôi nhớ mà, chú yên chí đi.

 

Chú Năm, đưa hai dĩa rau sống đầy vun tới trước mặt ba tôi và tôi. Ông nói nhỏ với tôi:

 

-Mỗi dĩa bánh của trung úy, tôi bỏ vô ba con tôm thứ bự, ngon khỏi chê.

 

Ba tôi chỉ ăn một cái bánh xèo rồi buông đũa, ông vừa uống nước trà vừa kể:

 

-Cái năm Nhật đảo chánh, ba với bác Bảy bỏ xứ vô Nam. Con không biết bác Bảy đâu, ổng với ba là bạn từ thủa hai đứa còn mặc quần lủng đáy, đi chăn trâu ở ngoài xứ. Khi xe lửa tới ga Tháp Chàm, thay vì lên Đà Lạt với ba, bác Bảy lại đổi ý đi vô Sài Gòn. Dễ chừng hai mươi bảy hay hai mươi tám năm rồi ba không có tin tức gì của bác ấy. Tuần rồi, ba tình cờ gặp lại bác Bảy ở chợ hoa Đà Lạt. Bác Bảy bây giờ có khác lúc xưa, nhưng ba vẫn nhận ra bác ấy nhờ bước đi hơi khập khểnh vì bị con trâu của ông Hương Bộ Hoạch húc hồi nhỏ. Vợ chồng bác Bảy lên Đà Lạt chơi, nhân tiện thăm cô con gái tên là Cúc đang học ở Viện đại học Đà Lạt. Cô ấy đang ở nội trú trong trường. Con có biết cô Cúc không?

 

-Ba à, trên Viện đại học có cả chục ngàn sinh viên, làm sao con biết ai là ai, cô nào là cô Cúc.

 

Ba tôi không buồn nghe tôi nói, ông kể tiếp:

 

-Khi biết con là trung úy trong Trường Võ Bị, lại đang tiếp tục học đại học bác ấy mừng lắm, khen con là người học giỏi, có chí.

 

Chuyện gì chứ khoe tôi học giỏi, không ai bằng ba tôi.

 

-Làm sao bác ấy biết con học giỏi.

 

-Ba nói cho bác ấy biết.

 

-Bác có tin không?

 

-Không tin mà ngày hôm sau bác Bảy và vợ xuống Trại Hầm thăm ba, ổng nhờ con đưa giùm cô Cúc, con của bác ấy về Sài Gòn.

 

Ba tôi lần trong túi quần lấy ra hai tấm giấy.

 

-Đây là hai cái vé máy bay, ngày mai con đưa cô Cúc về Sài Gòn, ở nhà bác ấy chơi vài ngày. Bác Bảy muốn coi mặt con, hỏi con vài chuyện.

 

Tôi cứ nghĩ là ba tôi đùa, mặc dầu từ trước đến giờ, tôi chưa bao giờ thấy ông nói đùa. Tôi cằn nhằn:

 

-Ba à, con còn phải đi học. Hơn nữa con đang ở trong quân đội, làm gì mà có thì giờ để hộ tống cái cô Cúc gì đó về Sài Gòn.

 

Ba tôi nói tỉnh queo.

 

-Con vừa có cái phép bảy ngày mà.

 

Tôi giật thót người, chỉ có thiếu tá trưởng phòng biết tôi đi phép, làm sao mà ba tôi cũng biết được chuyện này.

 

-Ai nói cho ba biết là con có cái phép bảy ngày?

 

-Bác Bảy chớ ai, bác nói với ba là đã xin cho con cái phép bảy ngày.

 

Ngạc nhiên quá sức, tôi vội hỏi ba tôi:

 

-Bác Bảy ở trong quân đội hả ba? Ổng mang cấp bậc gì?

 

-Bác Bảy không có dính dáng gì với lính, ổng chỉ lo kinh doanh buôn bán thôi. Nghe đâu ông ấy là ông trùm nhà cửa ở Sài gòn.

 

Tôi nghĩ, kinh doanh buôn bán gì mà cái phép của một thằng sĩ quan trong quân đội, muốn xin là được ngay, quả thật ông bác Bảy này không đơn giản tí nào. Tôi biết mình đang ở vào thế kẹt, đành phải thi hành lệnh thôi.

 

-Con chỉ đưa cô Cúc về Sài Gòn thôi, phải không ba?

 

-Ừ, con sẽ ở nhà bác Bảy vài ngày, bác ấy chỉ muốn chuyện trò với con, sau đó con đưa cô Cúc về lại trường.

 

-Hiện giờ cổ đang ở đâu?

 

-Nghe nói, nó ở nội trú trong trường.

 

-Được rồi, con sẽ làm đúng những gì ba dặn.

 

Ba tôi cười vui vẻ, ông uống thêm một hớp nước trà rồi nói:

 

-Ba tin con, bây giờ ba phải đi về.

 

Thực sự, nếu muốn từ chối không đưa cô Cúc về Sài Gòn cũng được nhưng tôi không nở. Phần vì thương ba tôi, một phần tôi cũng có đôi chút tò mò về cô Cúc. Bấy lâu nay tôi sống với mối tình đầu của mình, lúc nào tôi cũng nhớ Dung. Ba năm, rồi lại bốn năm, thời gian trôi qua vùn vụt, riêng tôi si tình rồi để tang cho mối tình đầu chừng đó năm cũng đủ rồi. Tôi vẫn nghĩ, đến một lúc nào đó tôi phải quên Dung, có lẽ đây là cơ hội giúp tôi xóa bỏ bóng hình Dung trong tim tôi. Chuyện có được hay không? Chưa biết, tôi phải tìm hiểu thêm về Cúc.

 

Tôi đón Cúc ở ký túc xá của nữ sinh viên Đà Lạt. Nhận xét đầu tiên của tôi về Cúc là nàng không đẹp, bốn điểm trên mười không thể gọi là đẹp được, nhưng nhờ vào cách ăn mặc với bộ quần áo đắt tiền, đôi giày cao gót da cá sấu, sợi dây chuyền bạch kim với trái tim nửa vàng nửa trắng nơi cổ, chiếc vòng ngọc nơi tay, khiến cho sắc đẹp của người con gái tăng thêm vài phần. Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân. Tôi nhủ thầm, coi cũng tạm được.

 

-Thưa cô, tôi là Quân. Xin hỏi cô có phải là Cúc không?

 

-Dạ phải.

 

-Bác Bảy dặn tôi, đến đưa cô về Sài Gòn.

 

-Dạ, em có nghe ba em nói hồi hôm qua.

 

Tôi hơi ngạc nhiên:

 

-Bác Bảy còn ở Đà Lạt à?

 

-Dạ không, ba em ở Sài Gòn, ổng gọi điện thoại cho em tối hôm qua.

 

Khi biết chắc, người con gái đứng trước mặt mình là Cúc, tôi đổi cách xưng hô.

 

-Em đã sẵn sàng chưa?

 

-Dạ chưa.

 

-Anh đợi em hai chục phút thôi, lẹ lẹ lên.

 

Hai chục phút sau, tôi xách va li của Cúc rồi cùng nàng đi bộ ra bến xe lam ở ngã năm Đa Thiện. Vừa đi tôi vừa nói:

 

-Bốn giờ chiều, phi cơ sẽ cất cánh ở phi trường Liên Khương, mình còn dư nhiều thời giờ. Em đói bụng không?

 

-Dạ, cũng hơi đói.

 

Tôi đưa Cúc tới quán cà phê bình dân của chị Huệ ở đường Phan Bội Châu. Cúc nói với tôi:

 

-Mình lại nhà hàng Shanghai đi anh.

 

Tôi chợt nhớ ra là mình đang đi với một cô gái con nhà giàu. Tự ái của thằng con trai, mặc cảm con nhà nghèo khiến tôi nói với Cúc, giọng nói cộc cằn, không một chút lịch sự:

 

-Anh hai mươi bốn tuổi, khi anh mới sanh ra nhà hàng Shanghai đã có ở đó rồi, có từ thời mấy ông Tây thuộc địa cỡi ngựa tới Chic Shanghai ăn uống. Chừng đó năm, anh đã đi qua nhà hàng này cả hàng triệu lần, chỉ một lần duy nhất anh bước chân vào đó, không dám ngồi ở phòng ăn, chỉ ngồi phòng ngoài uống ly cà phê, ăn một dĩa khoai tây chiên. Ăn khoai tây chiên rồi uống cà phê, đúng là nhà quê lên tỉnh nhưng trong thực đơn, đó là hai món rẻ nhất. Hôm nay, anh đưa em vào đó ăn trưa. Nếu em ăn một bữa ăn đúng nghĩa, một phần tư tháng lương của anh sẽ bay cái vèo. Anh sẽ đưa em tới đó, đứng ngoài đợi em ăn, được không?

 

Cúc lúng túng ra mặt, giọng nói của nàng không được bình tĩnh cho lắm:

 

-Em đâu có biết, lần nào lên thăm em, ba cũng đưa cả gia đình vào đó ăn tối. Em thấy nơi đó thức ăn ngon, tiếp đãi lịch sự.

 

Tôi nói với giọng châm biếm:

 

-Phải rồi, tiền cũng lịch sự không kém, nơi đó là cái máy chém chứ không phải là nhà hàng. Chỉ có những người như ba em mới đủ tư cách vào đó, còn anh phải đợi đến khi nào trúng số anh mới vào. Bây giờ em có muốn vô đây với anh, ăn khúc bánh mì, uống ly cà phê bình dân hay không?

 

-Dạ muốn.

 

-Vậy em còn đợi gì mà không vô quán?

 

Tôi nói với chị Huệ:

 

-Cho em hai khúc bánh mì chả, hai ly cà phê.

 

Chị Huệ nhìn tôi cười, nụ cười như ngầm nói, tôi méc cho mà coi:

 

-Cô Vân đâu rồi.

 

-Dạ, đi học.

 

Trường hợp này kêu bằng oan ơi ông Địa, biết vậy lúc nãy vô Shanghai ăn mà hay hơn. Tôi cầm khúc bánh mì chả gặm ngon lành, nhìn sang Cúc, khúc bánh mì vẫn còn nằm nguyên trong dĩa, tôi giục:

 

-Ăn đi em.

 

-Anh nhìn chăm chăm như vậy, làm sao em ăn được.

 

-Được rồi, ăn xong anh về cư xá lấy quần áo. Khi anh đi rồi không ai nhìn, lúc đó em tha hồ mà ăn.

 

-Anh để em ngồi một mình ở đây à?

 

-Phải rồi.

 

-Em đi theo anh được không?

 

-Không.

 

-Tại sao vậy?

 

-Nơi anh ở là cư xá sĩ quan độc thân, về phòng anh người ta dị nghị chứ sao. Hỏi hoài.

 

Tôi trở về cư xá, thay bộ đồ dân sự, mặc bộ đồ tiểu lễ mùa đông. Tôi đứng trước gương ngắm nghía, sửa lại cái mũ nồi đen trên đầu cho chỉnh tề, kiểm soát lại quần áo trong va ly, khi biết chắc là đã có thêm bộ đồ tiểu lễ mùa hè, lúc bấy giờ tôi mới xách va ly quần áo trở lại quán chị Huệ. Thấy tôi với bộ quân phục, Cúc trầm trồ:

 

-Bộ đồ này đẹp quá trời, giống như mấy ông sinh viên Võ Bị phải không anh?

 

-Bộ đồ đẹp, còn anh, em thấy thế nào?

 

-Anh dữ thấy mồ.

 

Tôi không nói gì thêm, ra dấu cho Cúc cùng đi. Từ đường Phan Bội Châu, hai đứa thả bộ xuống bến xe taxi nằm trước nhà hàng Chic Shanghai.

 

Có thể, Đà Lạt là một thành phố duy nhất trên thế giới, nếu muốn đi máy bay phải tới ga xe lửa. Đâu khoảng năm 1961 khi mà Cộng Sản Bắc Việt đẻ ra cái Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Dân miền Nam đang sống trong tự do thanh bình, no ấm đâu có cần mấy ông Bắc Việt vào đây để giải phóng. Chỉ có những người ngoại quốc ngây thơ mới tin rằng Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam là do dân miền Nam lập ra. Từ khi có Mặt Trận, mấy ông giải phóng đi đến đâu ở đó có chiến tranh, khổ đau chết chóc kéo theo đến đó. Việt Cộng bằng mọi cách khủng bố dân chúng, phá hủy nhũng công trình lợi ích công cộng của Việt Nam Cộng Hòa, hôm nay họ đào đường đắp mô đường bộ, ngày mai đặt mìn giựt sập cầu phá hủy đường xe lửa, tuần tới phục kích bắn phá dân chúng đi trên tàu lửa. Đến năm 1968 đoạn đường xe lửa từ Sông Pha lên Đà Lạt phải ngưng hoạt động. Tôi biết người Pháp đã bỏ ra hàng chục năm, tốn không biết bao nhiêu công sức, tiền của để xây dựng nên đoạn đường xe lửa đặc biệt này. Gọi là đặc biệt, vì ngoài hai đường ray thường, còn có thêm đường ray răng cưa thứ ba ở chính giữa. Khi bắt đầu leo dốc, đầu máy xe lửa đặc biệt sẽ móc vào đường ray răng cưa. Xe lửa leo dốc sẽ không bị tuột. Người ta gọi đường xe lửa này là Cog railroad, do hãng Fuca Thụy Sĩ sản xuất, loại đầu máy xe lửa này trên thế giới chỉ có ở Thụy Sĩ và sau đó là Đà Lạt. Mấy năm rồi, xe lửa không chạy được nhưng nhà ga vẫn còn đó, người ta dùng ga xe lửa làm trạm hàng không.

 

Ba giờ chiều, tôi và Cúc ngồi trong tòa nhà kính ở phi trường Liên Khương chờ máy bay. Hai tách cà phê còn nóng hổi, tỏa mùi thơm ngào ngạt được mang lên. Qua khung cửa kính, bên ngoài sương mù xuống thật thấp bao phủ cả núi đồi. Trước mắt tôi, phi đạo mù mờ trong sương chiều. Thấy cảnh, chạnh lòng nhớ đến bài thơ cũ, tôi khẽ đọc:

 

Mù sương phi cảng não nề

Thôi anh ở lại buồn về em mang.

Tiễn anh một chén rượu tàn

Một bàn tay nắm, một hàng lệ mau.

Cúc hỏi tôi:

 

-Thơ của anh phải không?

 

Tôi đùa với Cúc:

 

-Anh mà làm thơ hay như vậy đâu có đi lính làm gì cho mệt, ở nhà làm thơ gánh ra bán chợ trời, khỏe ru.

 

-Bài thơ buồn quá, của ai vậy anh?

 

-Đó là bài Khúc Ly Đình của Cao Thị Vạn Giả. Không biết anh nhớ có đúng hay không, đừng có tin anh.

 

o O o

 

Vẫn là những chiếc taxi nhỏ xíu sơn hai màu xanh trắng của Sài Gòn hơn bốn năm về trước, đưa tôi và Cúc ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt. Sài Gòn vẫn vậy, ồn ào náo nhiệt xe cộ dập dìu như mắc cửi, xe chạy trên đường Công Lý, qua chùa Vĩnh Nghiêm, qua ngã tư Yên Đổ được chừng non cây số, Cúc nói với tài xế ngừng lại trước một ngôi nhà kín cổng cao tường.

 

Mỗi tay một cái va ly, tôi theo Cúc đi vào nhà. Vừa bước chân qua khỏi cánh cửa cổng cao quá tầm mắt, tôi khựng người lại. Trước mắt tôi, một ngôi biệt thự nguy nga, đồ sộ kiến trúc theo kiểu Pháp, giống như những ngôi biệt thự mà tôi thấy ở Đà Lạt, cũng sân cỏ rộng mênh mông, cũng một con đường nhỏ lát đá dăm hình chữ C để xe hơi chạy vào tận hàng hiên của ngôi biệt thự.

 

Một người đàn ông cao lớn, mặt mũi phương phi trong bộ vest đúng thời trang đang đi tới, đi lui trước thềm nhà, nhìn ông ta tôi có cảm tưởng ông sắp đi họp nội các chính phủ hay họp Quốc Hội. Ông nhìn tôi thật lâu. Tôi không biết ông muốn gì đành đứng yên, lúng ta lúng túng, tay chân hình như thừa thãi. Cuối cùng, ông ta cũng lên tiếng:

 

-Con là Quân?

 

-Dạ phải.

 

Ông ta tự giới thiệu:

 

-Bác là Bảy, bạn của ba con.

 

Quay sang Cúc, ông nói:

 

-Con đi đường có mệt hãy vô phòng mà nghỉ, ba có chuyện riêng muốn nói với Quân.

 

Tôi hơi ngạc nhiên, tại sao cha con họ gặp nhau mà không một chút gì vui mừng, hớn hở. Đợi cho Cúc khuất hẳn sau cánh cửa cuối phòng, bác Bảy mới nói với tôi:

 

-Con nói như thế nào mà Cúc chịu theo con về đây.

 

Không biết bác Bảy có lẩm cẩm hay không? Chính ông là người muốn tôi đưa Cúc về đây, rồi bây giờ lại hỏi. Tôi trả lời:

 

-Dạ, bác muốn con đưa Cúc về đây, con đã làm đúng lời bác dặn.

 

-Đúng là bác muốn như vậy, nhưng mà có chuyện này bác chưa nói với con. Từ ngày má của Cúc mất, sau đó bác lấy bà sau, con Cúc đâm ra ghét bác, không bao giờ chịu nghe lời bác. Ngày hôm qua nó còn nói với bác là, cho dù bác có đưa mười người tới cạy chân nó cũng không về Sài Gòn đâu. Bác nhờ con, nhưng không tin là con sẽ đưa Cúc về đây được. Mà thôi, mọi chuyện sẽ tính sau, con nghỉ cho khỏe, ở chơi vài ngày rồi đưa nó về lại Đà Lạt. Phòng riêng của con ở trên lầu, phòng thứ hai bên trái, lát nữa, chị người làm sẽ hướng dẫn con mọi việc trong căn nhà này.

 

Ách giữa đàng lại mang vào cổ, chuyện xung đột, bất hòa giữa hai cha con họ, đang không tròng vào cổ mình.

 

Tôi theo chân chị người làm, đi lên căn phòng dành riêng cho mình. Thang lầu làm bằng gồ quý, hai lan can với những hàng cột chạm trổ cầu kỳ, tỉ mỉ được đánh vẹc ni bóng loáng, không một hạt bụi, chứng tỏ nó được lau chùi hàng ngày. Căn phòng tôi ở khá rộng, đầy đủ tiện nghi, điều mà tôi thích nhất là cái cửa sổ nhìn xuống sân sau của căn nhà. Tôi gieo mình xuống giường, đưa mắt nhìn những đường hoa văn chạy quanh trần nhà rồi chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết. Đang mơ mơ màng màng, tôi chợt giật mình vì có ai đó lay nhẹ nơi vai. Tôi mở mắt ra nhìn rồi nói, giọng nói đầy bực tức:

 

-Ai cho em vào đây?

 

Cúc trả lời:

 

-Em vào để thức anh dậy.

 

Câu trả lời của Cúc khiến tôi nổi giận đùng đùng. Mặc cảm nghèo hèn, khiến tôi có thành kiến với lũ con gái nhà giàu, họ dựa vào đồng tiền nên muốn làm gì thì làm. Tôi lên giọng cay cú với Cúc:

 

-Vẫn biết đây là nhà của em, nhưng em phải biết chút lịch sự tối thiểu, ỷ là nhà của mình rồi muốn làm gì cũng được hay sao?

 

Cúc nhìn tôi đầy vẻ ngạc nhiên, đôi mắt ươn ướt như muốn khóc khiến lòng tôi chùng xuống, bao nhiêu giận dữ vụt tiêu tan, tôi nhẹ giọng:

 

-Tại sao em vào mà không gõ cửa?

 

-Em gõ cửa đến mấy lần mà không nghe anh trả lời. Cuối cùng, em đành phải mở cửa đi vào để đánh thức anh dậy. Ba đang đợi anh xuống ăn cơm tối. Anh biết mấy giờ rồi không?

 

– Không.

 

– Đã chín giờ tối rồi.

 

Người quá đáng là tôi chứ không phải là Cúc, tôi nói nhỏ:

 

-Xin lỗi em.

 

Tôi theo Cúc đi xuống nhà. Bác Bảy ngồi nơi bàn ăn, trước mặt ông là chai rượu Martell, khi thấy tôi, bác lên tiếng:

 

-Uống với bác một ly cho ấm bụng, trước khi ăn cơm.

 

-Thưa bác, con không biết uống rượu.

 

Bác Bảy lắc đầu, nhìn tôi như tiếc rẻ.

 

-Con đi lính được bao lâu rồi?

 

-Dạ, gần năm năm.

 

-Lính mà không biết uống rượu coi bộ hơi yếu, người ta thường nói nam vô tửu như kỳ vô phong. Ở miền Nam này không biết uống rượu kể như mất vợ. Con có biết không, đâu ba chục năm trước lần đầu tiên bác gặp ông ngoại của con Cúc, bác không biết uống rượu. Dân miền Trung của mình mấy ai biết uống rượu, tiền mua gạo không có lấy tiền đâu mà uống rượu, tuy vậy bác vẫn cố hầu rượu với ông ấy. Một mình bác uống hết một lít rượu đế, sau đó bác bị say lúy túy, nằm bò càng nơi góc nhà đến chiều hôm sau mới tỉnh lại, nhờ vậy mới lấy được má con Cúc.

 

Bác Bảy chỉ chiếc ghế đối diện.

 

-Con ngồi đó, không cần uống một lít rượu đế như bác ngày xưa. Mấy chục năm rồi, bây giờ thời thế đã khác, con uống một ly nhỏ Martell là được rồi.

 

Nghĩ tới Dung giờ này đã yên phận với mối tình của nàng, tôi nhìn Cúc đang ngồi đó, bên cạnh bác Bảy rồi quyết định, phải uống một lít rượu đế thôi. Tôi nâng ly Martell.

 

-Mời bác.

 

Suốt bữa ăn, bác Bảy và Cúc không hề nói chuyện với nhau, chỉ có mình tôi tả xung hữu đột khi nói với Cúc, lúc phải trả lời bác Bảy. Bữa ăn tối trôi qua trong không khí tẻ nhạt, Cúc đứng lên:

 

-Con mệt quá phải về phòng nghỉ, ba và anh Quân ăn cơm vui vẻ.

 

Khi bóng Cúc đã khuất sau cầu thang, bác Bảy hỏi tôi:

 

-Con buồn ngủ chưa?

 

-Dạ chưa.

 

-Vậy, bác cháu mình ra sân sau chuyện trò.

 

Vừa bước ra khỏi nhà, tôi ngạc nhiên đến sửng người khi nhìn thấy nguyên một tiểu cảnh ở góc vườn. Dưới ánh sáng lung linh mờ ảo của những ngọn đèn đặc biệt, một hòn non bộ với thác nước cao chừng hai mét, nước đổ ào ào, xen vào đó là những cây bonsai với đủ mọi hình dáng, từ rừng thông xanh chen chúc nhau bên bờ đá, cho đến những cây tùng mọc lác đác trên sườn núi, mà thân của nó đổ dài theo khe suối, rễ của nó bám chặt vào vách đá cheo leo. Dưới chân thác nước, tôi đếm được 5 hòn đá có hình dáng giống như những hòn núi đá ở vịnh Hạ Long mà tôi đã từng thấy qua hình ảnh. Tôi buột miệng:

 

-Đẹp quá chìmg.

 

Bác Bảy đến bên tôi.

 

-Con có thấy gì không?

 

-Dạ năm hòn đá.

 

-Đúng, bác cho xây hòn non bộ này vì nghĩ đến quê hương xứ sở của mình. Mỗi khi gặp khó khăn, phiền phức, bác thường ra đây ngồi nghe nước chảy rôi thả hồn về quê, bao lo âu phiền muộn sẽ từ từ tan biến. Con có thấy nó giống như Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng của mình không?

 

-Dạ con chưa được về xứ mình, nên không biết núi Ngũ Hành như thế nào.

 

Bác Bảy chỉ tôi ngồi xuống một cái ghế đá.

 

-Bác có chuyện nhờ con, chỉ là chuyện gia đình.

 

-Dạ, con sẽ cố gắng hết sức.

 

-Chuyện như vầy, bác là người kinh doanh về nhà cửa ở Sài Gòn. Từ ngôi biệt thự này chạy về phía phi trường Tân Sơn Nhứt, bác có khoảng chục cái building cao tầng cho Mỹ mướn.

 

Tôi nghe bác Bảy nói mà lạnh cả người, chỉ cần một tòa nhà cho Mỹ mướn, con cháu sống sung sướng suốt một đời, đàng này ông có những chục tòa nhà cao tầng, đó là chuyện tôi không bao giờ ngờ tới. Có điều, tôi không hiểu được tại sao một người như bác Bảy, học hành không được bao nhiêu vào Sài Gòn với hai bàn tay trắng, chưa đầy ba chục năm sau lại xây dựng nên một sản nghiệp khổng lồ như vầy. Ông ta phải là một con người đặc biệt khác thường.

 

Bác Bảy kéo tôi ra khỏi dòng suy nghĩ.

 

-Công việc làm ăn của bác mỗi ngày một phát triển tốt đẹp, đạt đến giai đoạn cực thịnh cách đây vài năm, khi mà con số lính Mỹ viễn chinh đổ vào Việt Nam lên đến hơn nửa triệu người. Trong lúc bác đang bận bịu với công việc làm ăn, bất ngờ má con Cúc lại đột ngột qua đời vì bệnh tim bẩm sinh. Phải mất cả mấy tháng trời, nỗi buồn của bác mới nguôi ngoai được phần nào.

 

Đang nói chuyện, bác Bảy thân mật vỗ vai tôi:

 

-Có chuyện này bác muốn nói với con, đàn ông bọn mình coi vậy chứ đoản lắm, nói là buồn, nhưng vợ mất chưa được bao lâu bác đã lật đật cưới bà khác. Bà sau này có với bác đứa con trai, vừa thôi nôi cách đây độ nửa năm. Trước đây khi má con Cúc còn sống, nhưng sau khi sanh con Cúc đã không sanh đẻ được nữa, bác nghĩ rằng ông trời cũng lạ, cho mình tiền bạc thừa mứa nhung con cái để nối dòng lại quá khắt khe. Nào ngờ, khi lấy bà sau chưa được bao lâu lại có liền đứa con trai. Ông bà mình có nói “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” được đứa con trai bác mừng muốn chết, cho nên bác lẹ lẹ làm tờ di chúc, tài sản của bác sẽ chia làm hai phần bằng nhau. Con Cúc một phần, thằng con trai của bác với bà sau một phần. Chuyện bất hòa giữa bác và Cúc bắt nguồn từ đó. Con Cúc giận bác cho đến giờ.

 

Bác Bảy ngưng nói, ông nhìn tôi thật lâu rồi chầm chậm lên tiếng:

 

-Con và Cúc học chung trường, cùng là người có ăn học, dễ thông cảm nhau. Bác nhờ con giải thích cho Cúc hiểu tâm tình của bác, để cha con không còn giận hờn nhau nữa.

 

Bây giờ tôi đã hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện, hiểu rõ mục đích chuyến đi phép bảy ngày của mình. Sau một lúc suy nghĩ, tôi mạnh dạn trả lời bác Bảy:

 

-Con nghĩ rằng bác làm đúng tất cả mọi chuyện, em Cúc hơi quá đáng nếu không muốn nói là quá ích kỷ, chỉ biết lo cho mình thôi. Con sẽ tìm cách nói với Cúc.

 

Một nụ cười thoáng trên môi bác Bảy, ông nói:

 

-Cảm ơn con nhiều, bác biết con sẽ làm được.

 

Tôi nhìn đồng hồ đeo tay.

 

-Bác còn gì sai bảo con nữa không?

 

-Không.

 

Tôi nói:

 

-Xin phép bác cho con về phòng nghỉ.

 

Khi tôi đi được vài bước, bác Bảy chạy theo đặt vào tay của tôi một cái phong bì dày cộm.

 

-Con cầm chút tiền này, mai đưa Cúc đi chơi.

 

-Thưa bác con có tiền.

 

Bác Bảy nói với tôi, giọng nói đầy uy quyền của một nhà đại tư bản.

 

-Tiền lương của lính Mỹ tính bằng đô la bác coi còn không ra gì huống chi lương của lính Việt Nam. Tin bác đi, lương tháng của con không đủ cho con Cúc nó sắm một bộ đồ. Cứ cầm lấy, mai mốt không xài trả lại cho bác sau. Nếu con muốn.

 

Tôi biết có chối từ cũng không được, đành phải cầm lấy cái phong bì. Bác Bảy dặn thêm:

 

-Nhà có nhiều xe, con muốn đi đâu cứ biểu tài xế chở đi.

 

Tôi ngủ một giấc cho đến chín giờ sáng mới thức dậy. Hôm nay tôi dự định sẽ tìm cơ hội để nói với Cúc về chuyện phân chia tài sản của bác Bảy. Tôi phải thanh toán chiến trường cho lẹ lẹ, như lính Nhảy Dù tấn công mục tiêu, sau đó còn trở về Đà Lạt.

 

Khi tôi đi ngang qua nhà bếp, Cúc đang ngồi nơi bàn ăn với tờ báo trên tay. Thấy tôi nàng cất tiếng:

 

-Anh ngủ ngon không?

 

Tôi trả lời:

 

-Lạ nhà, nhưng vẫn ngủ ngon như thường.

 

-Anh muốn ăn sáng ở nhà, hay muốn xuống Sài Gòn đi dạo một vòng rồi ăn sáng luôn?

 

Tôi chợt nhớ đến tựa đề của một bài hát khá thịnh hành, bèn đùa với Cúc:

 

-“Lính mà em” ăn ở đâu cũng được.

 

Giọng nói của Cúc hơi gắt:

 

-Anh ăn nói kiểu huề vốn như vậy, làm sao em biết anh muốn gì.

 

-Xin lỗi em, thực lòng mà nói anh có biết gì về Sài Gòn đâu. Bốn tháng ở Quân trường Thủ Đức, cuối tuần nghỉ phép anh chỉ loanh quanh từ tòa nhà Quốc Hội đến chợ Bến Thành, rồi từ Dinh Độc Lập với con đường Công Lý chạy qua khỏi cầu cho đến đường Nguyễn Minh Chiếu, chỉ chừng đó thôi. Anh về Sài Gòn cũng giống như Mán về thành.

 

-Em có chuyện này muốn nói với anh, nhưng anh phải hứa là không được tự ái,

 

-Đồng ý.

 

-Em muốn mời anh xuống Sài Gòn ăn trưa, em sẽ trả tiền.

 

-Đi liền, nhung anh phải là người trả tiền.

 

Tôi kể cho Cúc nghe đầu đuôi câu chuyện giữa tôi và bác Bảy tối hôm qua, kể luôn cả chuyện bác đã đưa tiền cho tôi. Tôi nói với Cúc:

 

-Anh đoán số tiền ba em đưa cho anh nhiều, nhưng anh không ngờ nó nhiều đến như vậy. Lương trung úy độc thân của anh chỉ có hai mươi lăm ngàn một tháng, số tiền trong bì thơ bằng hai tháng lương của anh. Mà thôi, dẹp chuyện tiền bạc qua một bên, anh chỉ muốn nói với em hãy thương ba em, đừng giận ông ấy nữa. Chuyện ba em chia đôi gia tài cũng phải thôi, con bà trước hay bà sau cũng là con của ông ấy, hơn nữa đứa bé lại là con trai. Nỡ lòng nào em dành hết phần của em mình, cho dù là em cùng cha khác mẹ.

 

Cúc chăm chú nhìn tôi nhăn mặt, tỏ vẻ khó chịu, được một lúc nàng mới nói:

 

-Câu chuyện hơi dài, mình ra nhà sau ngồi em sẽ kể cho anh nghe. Được không?

 

-Anh, lúc nào cũng sẵn sàng.

 

-Để em dặn chị Hai làm thức ăn sáng, anh muốn ăn gì?

 

-Gì cũng được.

 

Tôi và Cúc ra ngồi ở bãi cỏ bên hòn non bộ. Cúc mở đầu câu chuyện:

 

-Trước đây, em dặn lòng là sẽ không bao giờ về lại Sài Gòn gặp ba em, nhưng hôm qua lúc gặp anh em lại đổi ý. Em muốn kéo anh về phe em để chống lại ba em. Em nghĩ, tại sao không nương vào sự tin tưởng của ba em đối với anh để thuyết phục ông đừng chia gia tài cho má ghẻ của em.Tất cả những gì ba em nói với anh đều là sự thật, nhưng đó chỉ là một phần của sự thật thôi, mà một phần thì chẳng khác gì chuyện anh mù sờ voi. Ôm cái chân voi, rồi la lên là con voi giống cái cột nhà.

 

Cúc nhìn tôi như chờ đợi, khi thấy tôi yên lặng, nàng nói tiếp.

 

-Ông ngoại của em là người Ấn, sang Việt Nam từ thời Pháp thuộc. Thời bấy giờ, đa số người Ấn ở Việt Nam sinh sống bằng nghề cho vay lấy lãi hoặc là mở cửa hàng buôn bán mỹ phẩm, tơ lụa chở từ Bombay sang. Riêng ông ngoại em lại lấy vợ Việt, nuôi một đàn dê bán thịt, lấy sữa. Chuyện cũng dễ hiểu, vì ông không có nhiều vốn như những người Ấn khác. Ngày xưa, từ cầu Mạc Má Hồng chạy dài đến phi trường Tân Sơn Nhứt là một vùng đất hoang, cây cối xanh tươi, cỏ dại mọc đầy đồng, lác đác chỗ này vài chục căn nhà tranh vách đất, chỗ kia dọc theo mặt lộ mươi căn nhà gạch, gom hết lại độ vài trăm căn nhà. Ông ngoại em cho đàn dê ăn cỏ trên vùng đất đó.

 

Tôi ngắt lời Cúc.

 

-Khoan đã, em nói cái cầu tên gì?

 

-Cây cầu tên là Mac Mahon, người Việt mình đọc thành Mạc Má Hồng. Sau này đổi tên là cầu Công Lý.

 

-Em chỉ thua anh có vài tuổi sao em rành chuyện xưa của Sài Gòn như vậy?

 

-Ông ngoại em kể lại, vì đây là vùng đất của ông ngoại em mà. Chuyện như thế này, sở thuế của Sài Gòn muốn thâu thuế trên đàn dê của ông ngoại, vì đàn dê ăn cỏ trên đất của thành phố nhưng không thâu thuế được, phần ông ngoại lại cho rằng đất ở đây không phải của ông, đàn dê chỉ ăn cỏ trên đó thôi. Cuối cùng một giải pháp ổn thỏa cho cả hai bên là, sở đất Sài Gòn ký giấy cho ông ngoại phần đất từ cầu Mạc Má Hồng đến Tân Sơn Nhứt để ông chăn dê, với điều kiện phải đóng thuế thổ trạch. Từ một di dân bỗng dưng trở thành địa chủ, ông ngoại phải đi thu thuế của những gia đình có nhà trên vùng đất này, rồi nộp lại cho sở thuế của Pháp ở Sài Gòn. Chuyện được sở hữu miếng đất ông ngoại không phàn nàn, nhưng khi thu thuế đất thường gặp khó khăn, trở ngại, vì người dân ở đây lý luận rằng: họ là dân Việt Nam, sống trên đất Việt Nam tại sao lại phải nộp thuế đất cho một anh Ấn Độ. Chuyện tranh cãi về thuế đất dùng dằng, kéo dài cho đến cái năm Nhật đảo chánh, ba của em từ Quảng Nam lưu lạc đến vùng này. Ông ngoại thuê ba để chăn đàn dê và thu thuế đất cho ông. Ba em lúc bấy giờ là một thanh niên trẻ tuổi lanh lẹ, làm việc giỏi giang, nhất là khi đi thu thuế đất, không biết ba nói những gì mà việc thu thuế êm xuôi, trót lọt.

 

Ông ngoại thường nói với em “Tao gả má mày cho ba mày, vì tao muốn cột cẳng ba mày ở đây. Thiếu ba mày, một mình tao làm sao lo nổi mọi chuyện”. Em nói với ông “Vậy là ông ngoại lợi dụng ba con”. Ông cười rồi nói “Lúc đầu tao có ý đó thiệt, nhưng sau này tao thương ba mày còn hơn con ruột”

 

Chị người làm bưng ra hai phần ăn sáng. Không khách sáo, tôi kéo khay thức ăn lại trước mặt mình, vừa ăn vừa hỏi Cúc:

 

-Ông ngoại em có bao nhiêu người con?

 

-Chỉ có một mình má em.

 

Tôi đùa với Cúc:

 

-Ba em cũng sướng thiệt, ông ngoại em tạo dựng nên cơ nghiệp. Ba em vào thừa hưởng.

 

-Không đúng đâu anh ơi! Nói như vậy tội nghiệp cho ba em. Trước thập niên năm mươi, vùng đất từ Tân Son Nhứt về đến cầu Mạc Má Hồng, ai muốn lấy bao nhiêu đất để xây nhà cũng được, họ chỉ tốn một ít tiền gọi là lệ phí giấy tờ sau đó phải đóng thuế thổ trạch cho ông ngoại của em. Ông ngoại sẽ nộp tiền thuế này lại cho sở thuế ở Sài Gòn. Gần hai chục năm sau, khi lính Mỹ đổ vào Việt Nam, vùng đất này trở thành vùng đất vàng. Lúc bấy giờ ba em bán bớt đất, xây building cho Mỹ mướn rồi giàu lên từ dạo ấy đến giờ.

 

Tôi chấm dứt bữa ăn sáng bằng một ngụm cà phê, rồi nói với Cúc:

 

-Tất cả gia tài sản nghiệp do một tay ông tạo dựng nên, đúng không?

 

-Đúng, em đâu có phủ nhận công của ba em đâu.

 

Tôi mừng quá sức, vì câu chuyện diễn tiến tốt đẹp theo chiều hướng mà tôi muốn.

 

-Nếu vậy, ba em có quyền phân chia tài sản của ông theo ý ông muốn, tại sao em lại giận ba em?

 

Gương mặt của Cúc bỗng nhiên đối sắc. Cúc trả lời tôi, với giọng nói đầy tức giận:

 

-Cũng tại nơi hòn non bộ này, năm ngoái khi ba em đi Đà Nẵng lo công việc, má ghẻ của em dẫn thằng bồ của nó về đây. Con nhỏ không biết em vừa từ Đà Lạt về lại nhà vào tối hôm trước, đang ở trên lầu. Từ phòng anh ở nhìn xuống đây, anh sẽ không thấy gì, nhưng bên phòng ngủ của em sẽ thấy rất rõ.

 

-Em ăn nói hơi lỗ mãng, tại sao lại kêu má ghẻ của mình là con nhỏ.

 

-Nó bằng tuổi em lại lăng loàn, anh muốn em kêu nó bằng gì?

 

Rõ ràng là tôi đang rơi vào tình huống bất ngờ, nhưng tôi vẫn cố gắng vớt vát.

 

-Tại sao em biết họ là bồ của nhau?

 

-Ba em vắng nhà cả tuần, hai đứa mất nết ngồi đây hôn nhau, không phải là bồ thì gọi là gì?

 

Cúc nhìn tôi với đôi mắt buồn hiu.

 

-Anh có biết, tại sao em không muốn ba em chia gia tài cho thằng bé không?

 

-Không, tại sao vậy?

 

-Bởi vì, thằng bé là con của má ghẻ em với thằng bồ của bả, nó giống thằng bồ của má ghẻ em như hai giọt nước. Nó đâu phải là con của ba em. Ba em là cái mỏ vàng mà người đào mỏ là má ghẻ của em và thằng bồ của bả.

 

Tôi ngồi thừ người ra đó, tiếng thác nước từ hòn non bộ đổ xuống hồ nghe rào rào như tiếng mưa rơi. Âm thanh của nó khiến tôi chợt nhớ đến một cuốn phim đen trắng của Nhật, mà tôi đã được xem cách đây vài năm. Ba người núp mưa dưới cái cổng tên là Rashomon cổ xưa, dẫn vào miền nam cố đô Kyoto. Một nửa mái cổng đổ nát, tàn tạ tiêu điều chìm trong làn nước mưa xám đục, một ông sư, một bác tiều phu, một gã thường dân…. đâu là sự thật?

 

Bác Bảy và Cúc, tôi phải tin ai?

 

Cho dù câu chuyện Cúc kể không có một bằng chứng cụ thể nào về gốc gác của thằng bé, nhưng qua trực giác tôi tin rằng Cúc nói đúng. Còn nếu muốn suy luận lại càng rõ ràng hơn, một cô gái mới hai mươi tuổi chịu lấy bác Bảy, một ông già đáng tuổi cha mình, nếu không vì tình thì chỉ vì tiền mà thôi.

 

Mục đích của tôi là thuyết phục Cúc, bây giờ tôi lại bị Cúc thuyết phục.

 

-Anh đang nghĩ gì vậy?

 

Giọng nói của Cúc kéo tôi trở về với thực tại, mặc dù nghe Cúc nói rõ ràng nhưng tôi vẫn hỏi lại:

 

-Em nói gì?

 

-Anh làm gì mà ngồi ngẩn người ra như vậy?

 

Thay vì trả lời câu hỏi của Cúc, tôi hỏi lại nàng:

 

-Tại sao, em không nói chuyện bê bối của bà má ghẻ và thằng bé cho ba em nghe?

 

-Liệu ba em có tin lời nói của em hay không? Hay là ông lại cho rằng em đặt chuyện để vu khống cho người ta. Em muốn nhờ anh nói giùm, đó là lý do tại sao em đồng ý theo anh từ Đà Lạt về đây.

 

Tôi lắc đầu:

 

-Chuyện quan trọng lại quá sức tế nhị, anh không đủ khả năng. Hơn nữa, nếu ăn nói không khéo léo, bác Bảy có thể nổi giận cho anh vài cái bạt tai rồi tống cổ anh ra khỏi nhà với câu nói “Cái trứng đòi khôn hơn con gà”

 

Hai đứa im lặng nhìn nhau, cuối cùng tôi nói với Cúc:

 

-Anh không giúp được gì cho em đâu. Ngày mai anh sẽ về Đà Lạt, em có muốn đi cùng với anh hay không, tùy ý em.

 

Cũng đúng lúc ấy, tôi nói với Cúc một câu nói mà tôi không hề muốn nói:

 

-Ba em chia cho em một nửa gia tài như vậy là quá rồi, nếu ổng để hết gia tài lại cho thằng bé, em cũng chẳng làm gì được, luật pháp đâu có cấm cản.

 

Tôi không ngờ câu nói trong lúc cùng đường lại có kết quả, Cúc ngồi im lặng một lúc rồi nói với tôi:

 

-Anh nói đúng, em sẽ suy nghĩ lại, cảm ơn anh đã giúp em. Giờ này cũng đã hơn mười một giờ rồi, em mời anh xuống Sài Gòn ăn trưa.

 

-Chuyện đó không có gì trở ngại, anh cũng muốn dạo một vòng Sài Gòn.

 

Tôi mặc bộ đồ tiểu lễ mùa hè của Trường Võ Bị Đà Lạt, gắn thêm cặp lon trung úy nơi cầu vai áo rồi thong thả đi xuống nhà. Cúc cũng đã chưng diện xong xuôi, hai đứa lên chiếc Peugeot 404. Anh tài xế với giọng kính cẩn.

 

-Thưa cô muốn đi đâu?

 

Cúc trả lời cộc lốc:

 

-Sài Gòn.

 

Quay sang tôi, Cúc nói:

 

-Hình như anh thích mặc đồ lính hơn đồ dân sự.

 

-Đúng.

 

-Khi đi phép, anh có quyền mặc thường phục mà.

 

-Con người anh yếu đuối, thiếu tự tin, lúc nhỏ khi đi học bị bạn bè trong lớp hiếp đáp, đứa bóp mũi, đứa cú đầu, đứa đá đít, có cục kẹo giấu trong túi cũng bị tụi nó lục lấy mất. Bị ăn hiếp riết thành quen, anh coi đó là chuyện bình thường. Lớn lên khi vào trung học, anh học hành không được giỏi giang gì cho lắm, năm nào cũng chỉ hơn được mươi đứa ở cuối lớp. Lúc thi đậu Tú tài, thấy tên mình trên bảng anh vẫn chưa tin. Khi đi lính, anh không dám thi vào Hải Quân hay Võ Bị Đà Lạt vì sợ mình không đủ sức.

 

Cúc nói:

 

-Đó là chuyện xưa, còn bây giờ phải khác chớ.

 

-Không có gì khác, một đôi khi em thấy anh ăn nói cộc cằn, thô lỗ rồi nghĩ rằng anh có cá tính mạnh hoặc dữ nhưng thật ra đó chỉ là phản ứng của một người nhút nhát, mang đầy mặc cảm. Tự tin sao được khi anh mặc đồ dân sự đi ngoài phố, là bị cảnh sát gác đường chận lại xét giấy tờ vì nghi là anh trốn quân dịch. Hơn nữa đen đúa, xấu xí như anh lại mặc bộ đồ dân sự rẻ tiền không hợp thời trang, đi với một cô gái ăn mặc sang trọng lịch sự như em dám bị người ta nói “Tiếc thay cây quế giữa rừng” hoặc tệ hơn nữa có thể bị du đảng Sài Gòn đánh cho gãy tay, què cẳng như không. Thôi thì cẩn tắc vô áy náy, biết phòng xa vẫn tốt, mặc bộ đồ tiểu lễ của Trường Võ Bị Đà Lạt, thêm cặp lon trung úy nơi cầu vai áo, giúp anh tự tin hơn.

 

Xe chạy vòng theo bùng binh chợ Bến Thành, khi đi ngang qua nhà hàng Thanh Bạch tôi nói với anh tài xế.

 

-Ngừng xe ở đây.

 

Cúc quay qua nhìn tôi:

 

-Anh muốn ăn trưa ở Thanh Bạch?

 

-Không, mấy năm trước lúc còn là Sinh viên sĩ quan Thủ Đức anh cùng hai người bạn có ăn tối ở đây, anh chỉ muốn nhìn lại chốn cũ chút xíu.

 

Khi nói xong, tôi mới giật minh nghĩ lại, mình chỉ nói có một phần sự thật. Tôi giấu biệt chuyện có Dung trong bữa ăn đó, giấu chuyện tôi yêu Dung say đắm như thế nào.

 

Tối hôm đó, không biết Cúc nói gì với bác Bảy, ngày hôm sau khi gặp tôi bác Bảy vồn vã, săn đón, niềm nở chuyện trò với tôi như là thượng khách trong nhà. Ông dẫn tôi và Cúc đi ăn uống ở những nhà hàng sang trọng của Sài Gòn và Chợ Lớn, sắm cho tôi những bộ quần áo đắt tiền. Cúc đã hết giận bác Bảy. Nhìn cha con họ vui vẻ bên nhau, cười nói huyên thuyên tôi thấy hết sức áy náy trong lòng. Lạy trời, xin bác Bảy đừng nghe lời nói bậy của tôi trong lúc cùng đường, đem hết gia tài sản nghiệp của bác để lại cho mẹ con thằng bé.

 

Liên tiếp mấy ngày sau đó, Cúc dẫn tôi rong chơi khắp Sài Gòn trên chiếc xe Peugeot 404. Tôi ăn diện như một tay chơi thứ thiệt của Sài Gòn, áo quần đắt tiền, lịch sự hợp thời trang, thêm đôi giày da của Ý bóng láng, khiến cho tôi quên mất mình là con của một gia đình nghèo, quên luôn mình là lính trong một đất nước mà bom đạn của chiến tranh đã tàn phá, hủy hoại đến tận cùng của khổ đau.

 

Gần ngày cuối cùng của bảy ngày phép, Cúc cho tài xế lái xe ra Vũng Tàu. Tôi ngồi dựa ngửa trên chiếc ghế dựa nơi bãi biển, bên cạnh là chai bia 33 lạnh ngắt, từng giọt mồ hôi lạnh của chai bia chảy dọc theo thân chai, mới nhìn thấy chưa kịp uống đã phát thèm. Cúc từ dưới biển đi lên, thân hình cân đối đầy đặn với làn da trắng mịn màng, gói gọn trong bộ bikini xanh lợt. Tôi thấy rõ cái hấp lực mãnh liệt trong một tấm thân căng đầy nhựa sống. Những giọt nước biển trong veo chảy dài theo thân thể của nàng, long lanh, lấp lánh dưới ánh mặt trời khiến tôi ngẩn ngơ cả người. Để xóa bỏ ý nghĩ xấu trong đầu, tôi quơ tay nâng chai bia uống một hơi. Cúc lại gần chiếc ghế bên cạnh tôi nhẹ giọng:

 

-Anh ngồi nhớ ai mà như mất hồn vậy? Xuống tắm biển với em.

 

Vừa dứt lời, Cúc nắm dây thẻ bài tôi đeo nơi cổ, kéo tôi đứng lên.

 

-Cho em coi cái thẻ bài của anh được không?

 

Tôi tháo hai tấm thẻ bài đưa cho Cúc.

 

-Cho em luôn cũng được huống gì chỉ coi thôi.

 

-Thiệt không?

 

-Anh không biết nói láo.

 

Cúc nói:

 

-Hình như thẻ bài là vật bất ly thân của lính, phải không anh?

 

Tôi trả lời Cúc:

 

-Đúng, nhưng chỉ đúng với người lính tác chiến ở ngoài trận địa, nơi mà bom đạn vô tình, có thể đốt cháy hoặc xé nát thân xác người lính thành nhiều mảnh nhỏ, công dụng của tấm thẻ bài là để xác nhận tính danh của người quá cố. Thêm một công dụng nữa cũng không kém phần quan trọng, là trên tấm thẻ bài còn ghi rõ loại máu của người lính mang nó, phòng khi bị thương cần được tiếp máu. Anh là lính văn phòng, tấm thẻ bài không quan trọng lắm đâu. Mai mốt, anh làm lại tấm thẻ mới.

 

Dưới ánh nắng ấm của bầu trời Vũng Tàu, hai thân thể đứng gần như chạm nhau, tôi quay mặt đi không dám nhìn thân hình quá sức hấp dẫn của Cúc trong bộ áo tắm rồi nói:

 

-Mấy hôm rày, anh có chuyện muốn hỏi em nhưng thấy không thuận tiện.

 

-Chuyện gì vậy anh?

 

Tôi hơi ngập ngừng khi hỏi Cúc

 

-Em..em có bạn trai chưa?

 

Cúc cười:

 

-Em có nhiều bạn trai nhưng chưa có bồ. Anh biết rồi, bạn trai và bồ hoàn toàn khác nhau. Ở vào hoàn cảnh của em, tìm được một người tình quả thực khó hơn chuyện bắt con lạc đà chui qua cái lỗ kim.

 

-Em giải thích rõ hơn được không? Con nhà giàu, học giỏi như em thiếu gì bồ.

 

-Câu nói đó, chỉ áp dụng cho con trai chứ không phải cho con gái.

 

Cúc nói với gương mặt buồn hiu.

 

-Con gái xấu như em không nên học nhiều, học càng cao càng khó kiếm chồng, hơn nữa nhà em lại quá giàu. Đám bạn trai của em trên Viện đại học, sau một thời gian quen biết, họ từ từ rút lui nhẹ nhàng không kèn không trống.

 

-Tại em kênh kiệu quá chứ gì?

 

-Không phải, chỉ tại không ai muốn ra trường với mảnh bằng kỹ sư đào mỏ.

 

Câu nói vô tình của Cúc như một nhát búa đập lên đầu tôi. Đó là vấn nạn đeo đẳng tôi suốt cả tuần qua.

 

Ngày xưa, khi thuyên chuyển về Trường Võ Bị Đà Lạt, lương lính chẳng được bao nhiêu, tôi ký cóp dành dụm từng xu, chắt chiu góp nhặt từng đồng hy vọng sau vài năm sẽ có đủ tiền mua chiếc xe Honda hai bánh mới để đi làm, và cũng để gọi là có chút gì với mọi người. Thời tôi mới ra trường, chiếc xe Honda trị giá năm mươi ngàn đồng. Bốn năm sau, khi tôi để dành được năm mươi ngàn đồng giá chiếc xe tăng lên gần gấp đôi. Tôi không biết gì về Kinh tế học nhưng cứ cái đà lạm phát như thế này bốn năm nữa, khi tôi để dành được một trăm ngàn, không chừng giá của chiếc xe Honda sẽ tăng vọt lên khoảng hai trăm ngàn đồng hay có thể hơn nữa. Như vậy, nếu tôi tiếp tục để dành tiền, cuối đời cũng chỉ mua được cái bóng chứ không bao giờ mua được chiếc xe.

 

Chuyện dành dụm mua chiếc xe Honda hai bánh, bao nhiêu năm rồi tôi làm không được, thử hỏi chuyện lớn hơn như ông bà mình thường nói “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà”. Làm sao tôi có thể thực hiện được, suốt đời chỉ là mơ thôi mà.

 

Tuần trước bác Bảy cho tôi năm chục ngàn, tất cả hãy còn nguyên, chưa mẻ lấy một xu. Nguyên một tuần lễ đi chơi với Cúc, bao nhiêu chi phí Cúc lo hết. Với số tiền bác Bảy cho, cọng thêm tiền tôi để dành, giờ đây tôi có thể đi mua một chiếc xe Honda mới tinh. Lẽ ra tôi phải dừng lại là tốt nhứt, thế nhưng tôi lại nghĩ đến chiếc xe hơi hiệu Peugeot sang trọng, êm như nhung mà tôi đang đi, căn biệt thự to lớn đầy đủ tiện nghi trên đường Công Lý tôi đang ở, thêm hàng chục building cao tầng cho Mỹ mướn. Tôi muốn tiến xa hơn một bước nữa. Nếu lấy Cúc tôi sẽ có tất cả, chỉ kẹt có một điều, tôi học Văn khoa nhưng sẽ tốt nghiệp Kỹ sư đào mỏ. Đó là vấn nạn của tôi.

 

Sau một lúc suy nghĩ, tôi giải quyết vấn nạn của mình bằng câu nói tỏ tình với Cúc.

 

-Em có nghĩ rằng anh là thằng đào mỏ không?

 

Gương mặt Cúc thoáng chút ngạc nhiên, sau đó nàng cúi đầu nhìn xuống bộ bikini mà nàng đang mặc rồi nói với giọng chắc nịch

 

-Không.

 

Ngày hôm sau, tôi hộ tống Cúc về Đà Lạt. Tuần trước, khi đi Sài Gòn với Cúc tôi có năm chục ngàn gởi tiết kiệm ở Nam Đô ngân hàng. Ngày về, tôi đủ tiền mua chiếc xe Honda mới với giá hàng trăm ngàn, không chừng tôi còn có nhiều hơn nữa, chưa biết được.

 

Trở về Đà Lạt, chuyện đầu tiên tôi làm là đi mua chiếc Honda mới. Ước mơ trở thành sự thật, rút ngắn thời gian ít ra cũng được năm năm, tôi vui vẻ lái xe lang thang cùng khắp Đà Lạt. Tôi nhớ đến câu nói: “Người con trai có ba chuyện khó khăn phải làm, thứ nhất tậu trâu, thứ nhì cưới vợ, thứ ba làm nhà.” Mua được chiếc xe giống như chuyện tôi tậu được con trâu, còn chuyện cưới vợ, làm nhà đã có ba má tôi lo liệu.

 

Những lúc sau này, bác Bảy thường xuyên lên Đà Lạt thăm ba má tôi. Chuyện người lớn nói với nhau tôi không biết được, chỉ biết là năm sau ba tôi bán căn nhà gỗ ọp ẹp với miếng vườn nhỏ ở Trại Hầm rồi mua một căn nhà ba tầng khá khang trang ở đường Phan Đình Phùng, gần rạp ciné Ngọc Hiệp. Tôi biết rằng, tiền bán căn nhà ở Trại Hầm chỉ đủ để ba tôi mua một căn nhà bếp ở phố. Số tiền khổng lồ cần có để bù vào giá cả chênh lệch giữa hai căn nhà, phải có bàn tay của bác Bảy nhúng vào.

 

Tôi trả lại căn phòng cư xá độc thân của tôi cho trường rồi dọn về ở chung với ba má của tôi. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, cuộc sống vật chất của tôi đã thay đổi hoàn toàn. Lương tháng của tôi không cần phải trích ra vài ngàn phụ giúp mấy đứa em, không cần phải để dành tiền mua xe. Tôi tiêu xài rộng rãi, thoải mái hơn xưa. Mỗi thứ Bảy, Chủ Nhật tùy theo có trực hành quân hay không tôi thường chở Cúc dạo phố Đà Lạt, khi thì cà phê Tùng, cà phê Thủy Tạ, lúc ăn sáng ở phở Bắc Huỳnh gần ga xe lửa, ăn trưa ở nhà hàng Mê Kông, thậm chí có nhiều lần chúng tôi vào ăn tối ở nhà hàng Chic Shanghai. Đi chơi với Cúc, năm thì mười họa, tôi mới được trả tiền cà phê một lần, nói gì đến chuyện trả tiền ăn nhà hàng. Đà Lạt là một tỉnh nhỏ, chuyện nhỏ chút xíu như cái móng tay cũng có thể đồn ầm lên. Tình cờ một vài lần, tôi nghe được những lời thiên hạ xì xầm, đàm tiếu về tôi.

 

-Vợ chưa cưới của ông ấy là con nhà tỉ phú ở Sài Gòn.

 

-Căn nhà ông ấy ở đường Phan Đình Phùng là do bên vợ mua cho, trước đây nghe nói nghèo kiết xác ở đâu tận Trại Hầm.

 

Những lời bàn ra tán vào về tôi tuy hoàn toàn đúng, nhưng tôi vẫn cảm thấy khó chịu mặc dầu đã chuẩn bị tinh thần từ trước.

 

Chương VII:

Không rủ cũng tới

 

Chiến tranh xảy ra ở Việt Nam nhưng khi nói chuyện hòa đàm lại kéo nhau qua Paris. Lúc hiệp định ngưng chiến được ký kết, cũng là lúc Mỹ bắt đầu giảm quân viện cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa với lý do rất là rõ ràng: hết đánh nhau rồi, vũ khí đạn dược hư hao, thất thoát, một đổi một. Tôi không biết những đơn vị tác chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị ảnh hưởng như thế nào, nhưng riêng Phòng hành quân của Trường Võ Bị Đà Lạt khó khăn thấy rõ, khi thiếu tá trưởng phòng nói với tôi:

 

-Kể từ tuần tới, chuyện đi họp an ninh, lấy mật khẩu bên Quân Trấn, trung úy dùng xe hai bánh của mình mà đi.

 

Tôi hỏi ông:

 

-Thưa thiếu tá, xe jeep của Phòng hành quân bị hư hay sao?

 

-Xe vẫn còn tốt nhưng cấp số xăng cho xe bị cắt giảm, chỉ còn lại một phần tư so với trước đây.

 

Vừa dứt lời, Thiếu tá trưởng Phòng hành quân dẫn tôi tới góc phòng, chỉ vào cái thùng sắt đựng đạn.

 

Tôi không hiểu ý của ông nên nói:

 

-Thưa thiếu tá, mấy năm rồi tôi chưa một lần chạm tay đến cây súng M16 treo ở góc phòng, cấp số đạn mà tôi lãnh bốn năm trước vẫn còn nguyên, không hao hụt. Tôi không cần đạn, chỉ cần xăng.

 

Thiếu tá trưởng phòng nhìn tôi cười vui vẻ:

 

-Trong thùng đạn đó có ba lít xăng. Từ nay về sau đó là số xăng mà trung úy sẽ được lãnh hàng tuần, đổ vào xe Honda hai bánh dùng để đi họp bên Quân Trấn.

 

Tôi nói:

 

-Thiếu tá, mình ở quân trường thiếu xăng tôi đi họp bằng xe Honda, chuyện không có gì phải nói nhưng ở đơn vị tác chiến mà thiếu đạn coi bộ không ổn. Khi đụng trận tụi Việt Cộng cứ AK rồi B40 bắn thoải mái, hết đạn Tàu cộng với Liên Xô lại tiếp viện, còn lính mình gắn lưỡi lê vô súng M16 mà đâm Việt Cộng, tôi sợ mình đánh không lại họ.

 

Tôi tưởng rằng thiếu tá trưởng phòng cũng đồng ý với tôi, nào ngờ ông nói:

 

-Đương nhiên là thua nhưng còn được như vậy là quý rồi. Miền Nam mình giống như người bịnh ung thư, mang căn bịnh trầm kha không có thuốc chữa, kéo dài cuộc sống được ngày nào hay ngày nấy.Tao sợ mai mốt Mỹ cúp hẳn viện trợ, mình làm gì được họ. Viện trợ hay không là quyền của họ mà.

 

Tôi bắt đầu đi làm bằng xe Honda hai bánh. Buổi sáng Đà Lạt sương mù dày đặc, tôi mặc bộ đồ lính đeo găng tay, thêm chiếc áo Jacket dày cộm mà vẫn không cảm thấy đủ ấm. Ngồi trên chiếc Honda chạy băng băng trong gió lạnh mà tôi cứ tiếc mãi chuyện ngày xưa, tiếc hoài thời tôi đi làm bằng xe bus của trường. Tôi tiếc bầu không khí ấm áp trong xe, tiếc luôn chuyện được ngắm miễn phí các cô thư ký dân sự làm việc trong trường, cô nào cô nấy áo măng tô khăn quàng cổ, đẹp như mơ, đẹp hết biết mà dạn dĩ cũng khỏi chê. Tôi còn nhớ, hồi tôi mới lên thiếu úy, có cô hỏi tôi:

 

-Thiếu úy khóa mấy của Trường Võ Bị?

 

Hầu hết mọi người đều lầm lẫn giữa một thiếu úy tốt nghiệp Trường Võ Bị Đà Lạt, và một thiếu úy đang phục vụ tại Trường Võ Bị Đà Lạt. Tôi tốt nghiệp Trường Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, mấy năm rồi phục vụ tại Trường Võ Bị Đà Lạt. Nếu ai đó tưởng lầm tôi tốt nghiệp Võ Bị, tôi cũng nhận luôn, cải chính làm chi cho mệt. Tôi trả lời mấy cô bằng câu đố.

 

-Đố mấy cô, tôi khóa mấy, ai nói đúng sẽ được một chầu cà phê Thủy Tạ.

 

-Thiếu úy khôn thấy mồ, ông có mời đi cà phê chưa chắc tụi này đã chịu.

 

Tuy vậy, cũng có vài tiếng trả lời:

 

-Khóa 24.

 

Tôi nói:

 

-Trật lất.

 

-Khóa 23.

 

Tôi cười đắc chí.

 

-Cũng trật luôn, không có cô nào được mời đi uống cà phê Thủy Tạ. Tôi tốt nghiệp Sĩ quan trừ bị Thủ Đức.

 

Một ông thiếu tá ngồi cuối xe, nghe vậy bèn lên tiếng:

 

-Các cô cứ lo chuyện không đâu, hỏi thử xem ông ấy có vợ hay chưa rồi hẳn chuyện trò tiếp.

 

Đang nói chuyện bình thường, đột nhiên ông thiếu tá đổi giọng cằn nhằn, trách móc:

 

-Các cô có thân phải liệu mà giữ gìn, lúc nào cũng lờ mờ nhân ảnh như người đi đêm, lờ quờ, lạng quạng trao duyên lầm tướng cướp như không.

 

Tôi muốn tạo không khí ấm cúng trong xe nên tiếp lời ông thiếu tá:

 

-Quý vị có thấy tôi giống tướng cướp không?

 

Nhiều tiếng cười khúc khích vang lên xen lẫn một giọng nói nhỏ.

 

-Cũng khá giống.

 

Thời vàng son một thủa của tôi, mới đó đã chìm vào quá khứ.

 

Ngày xưa, ông Thế Lữ tiếc cái thời xa xưa cũ đã làm bài thơ Nhớ Rừng kể lại chuyện chúa sơn lâm nhớ thời oanh liệt, nghe ra còn có lý. Đằng này, tôi có gì mà phải tiếc với nuối. Có chứ, tôi giống như anh nông dân đứng giữa cánh đồng khô hạn mà tiếc vụ lúa được mùa năm trước, như ông ngư phủ nhìn mấy con cá trong ghe mà tiếc mẻ lưới đầy cá. Tôi tiếc cái không khí ấm cúng trong xe bus của trường, tiếc cái thủa lái chiếc xe jeep thắng cái két trước quán cà phê Hạnh Tâm, liếc nhìn cái lon trung úy trên cầu vai áo rồi khuỳnh tay, dạng chân khệnh khạng đi vào quán trước cặp mắt hình như là đầy khâm phục của cô thu ngân. Đó là thời vinh quang tột đỉnh của tôi, không tiếc sao được, đâu cần phải là chúa sơn lâm mới có quyền nhớ rừng.

 

Đến trường, khi ký sổ bàn giao phiên trực hai tay của tôi vẫn còn run lẩy bẩy vì lạnh. Trung úy Hàn sĩ quan hạ phiên, đưa cho tôi tờ giấy có mấy chữ: Trung úy Nguyễn Trọng Quân trình diện Đại tá Tham mưu trưởng lúc mười giờ sáng.

 

Tôi cầm tờ giấy, phần run vì lạnh phần run vì sợ, trình diện sếp lớn, chuyện rủi nhiều hơn may. Tôi nghĩ trong đầu, không biết mình bị lỗi lầm gì, có khi nào sếp tống cổ mình ra tác chiến hay không? Hỏi xong, tôi tự trả lời: Chắc không đến nổi nào đâu, dù gì Đại tá Tham mưu trưởng cũng là chỗ quen biết với bác Bảy. Tôi dặn người hạ sĩ quan trực chung ca với tôi:

-Có việc gì cần, trung sĩ gọi điện thoại qua Câu lạc bộ sĩ quan, tôi ngồi bên đó.

 

Tôi trình diện Đại tá Tham mưu trưởng, sau khi uống cạn hai ly cà phê phin đặc quánh ở câu lạc bộ, cà phê ngon thiệt, nhung có điều nó làm cho tim tôi đập nhanh hơn bình thường gấp mấy lần.

 

Đại tá Tham mưu trưởng ngồi sau bàn làm việc, ông chỉ vào chiếc ghế trước bàn làm việc của ông

 

-Mời trung úy ngồi.

 

Tôi rón rén ngồi xuống, lưng thẳng như thời còn là sinh viên ngồi ăn ở nhà bàn, không dám dựa lưng vào ghế. Đại tá Tham mưu trưởng hỏi tôi:

 

-Trung úy làm việc ở Phòng hành quân, thấy thế nào?

 

-Trình đại tá, mọi chuyện đều tốt đẹp.

 

-Tốt, nếu muốn thuyên chuyển đi phòng khác, trung úy cứ nói với tôi.

 

Tôi trả lời:

 

-Thưa đại tá, tôi rất thích làm việc tại Trung tâm hành quân.

 

-Tốt.

 

Nhìn tôi với cặp mắt thân thiện, Đại tá Tham mưu trưởng hỏi:

 

-Đám cưới của trung úy sẽ được tổ chức vào ngày nào?

 

Tuy Đại tá Tham mưu trưởng nói tiếng Việt, rõ ràng từng chữ nhưng tôi không hiểu ông ta nói gì.

 

-Thưa, đại tá tôi…tôi…

 

-Làm rể anh Bảy Ân khác nào chuột sa hũ nếp. Từ nay, ở cái trường này có ai giàu bằng trung úy!

 

Tôi nghĩ, Đại tá Tham mưu trưởng lầm lẫn giữa tôi với ai đó trong trường nên lẹ lẹ đính chính:

 

-Thưa đại tá, tôi đâu có biết ông Bảy Ân là ai.

 

Đại tá Tham mưu trưởng mỉm cười:

 

-Cha vợ của mình mà trung úy cũng không biết. Anh Bảy có cô vợ lai Ấn Độ, chủ nhân của mấy chục cái building ở Sài Gòn, ảnh có cái biệt thự to như cái dinh Tỉnh trưởng ở đường Công Lý, Sài Gòn.

 

Chuyện tới đây, tôi biết là Đại tá Tham mưu trưởng không lầm. Tôi mới là người không biết gì.

 

-Thưa, đại tá muốn nói tới bác Bảy, có cô con gái tên Cúc?

 

-Chứ còn ai vào đây nữa!

 

Tôi biết bác Bảy đã chọn tôi làm rể, nhưng tại sao ông không nói chuyện đám cưới với tôi, mà lại nói với sếp lớn của tôi. Đúng là chuyện trong nhà chưa rõ, ngoài ngõ đã thông.

 

Tôi nói với Đại tá Tham mưu trưởng:

 

-Thưa đại tá, chuyện đám cưới tôi không dám có ý kiến, mọi chuyện đều do bác Bảy và ba tôi quyết định.

 

-Vậy hả? Anh Bảy Ân với tôi vốn là bạn thâm giao, tôi coi trung úy như con cháu trong nhà. Hình như trung úy đang theo học ở Viện đại học Đà Lạt, phải không?

 

 

-Dạ phải.

 

-Tháng tới khi nghỉ hè ở Viện đại học, tôi sẽ gởi trung úy về Sài Gòn học khóa đại đội trưởng, trung úy có biết tại sao không?

 

-Thưa đại tá, tôi không biết.

 

-Có cái bằng đại đội trưởng sẽ được thêm điểm khi chạy cấp bậc đại úy. Trung úy cần hỏi thêm gì nữa không?

 

-Thưa không.

 

-Trung úy có thể trở về làm việc.

 

Tôi đứng nghiêm, hai gót giày chạm vào nhau kêu cái cốp, đưa tay chào Đại tá Tham mưu trưởng đúng như lễ nghi quân cách mà tôi đã học ở quân trường, rồi quay người bước đi.

 

Lời của sếp lớn nói, chắc như đinh đóng cột. Vừa nghỉ hè ở Viện đại học, tôi nhận được sự vụ lệnh về Sài Gòn để theo học khóa Đại đội trưởng. Tôi trở lại Trường Bộ Binh Thủ Đức, đường xưa cảnh cũ hiện ra trước mắt tôi, cái cổng trường vốn đã xấu nay trông lại càng xấu hơn sau bao mùa mưa nắng dãi dầu. Vũ Đình Trường với Trung Nghĩa Đài im lìm trong nắng sớm, những viên đá vụn trải trên sân lấp lánh dưới ánh mặt trời tuy có đẹp đó, nhưng khi quỳ xuống để gắn lon chắc chắn là không đẹp chút nào, chỉ tội cho cái đầu gối. Căn nhà tiền chế khổng lồ có cái tên là Đại Giảng Đường, bị tụi tôi gọi để chế giễu là “Đại Hỏa Lò” vẫn nóng như lò nướng bánh mì. Ngày xưa khi cả khóa phải vào đây để học, chúng tôi thường nói đùa với nhau rằng: Hôm nay nguyên khóa được đi tắm hơi miễn phí.

 

Cho đến khi tôi nhìn thấy những căn nhà gạch của đại đội tôi ngày xưa, lòng bỗng nhiên bồi hồi xúc động, nào là Biên, nào là Long công tử rồi bạn bè cùng khóa, tất cả lần lượt hiện ra trước mắt tôi như một cuốn phim chiếu chậm. Tôi nhớ nhiều đến Biên rồi tự nhủ lòng cuối tuần này sẽ đến thăm ba má Biên, nhân tiện hỏi thăm địa chỉ của Biên. Tôi muốn viết cho hắn một lá thư. Nghĩ lại, tôi vẫn thấy mình quá hời hợt với bạn bè, mang nặng mặc cảm bao năm trường xa cách mà không viết được một lá thư để thăm hỏi bạn, tôi cho đó là một thiếu sót không thể tha thứ. Riêng về Dung, người con gái mà tôi yêu không biết giờ này ra sao. Tôi vẫn nghĩ ràng nàng đã là vợ của Long công tử, có thế là họ đã có với nhau một hay hai đứa con rồi cũng nên. Cho dù Dung đã có chồng hay không, tình yêu của tôi dành cho Dung, dành cho người yêu đầu đời của tôi muôn đời vẫn còn đó không phai.

 

Tôi đứng ngẩn ngơ trước cổng nhà Biên, mà cứ tưởng như mình lạc đường vào quá khứ, năm năm trường, khoảng thời gian xa cách đủ dài khiến cho lòng người chùng xuống. Nhìn chiếc bàn đá dưới tàn cây vú sữa, nơi mà ngày xưa tôi ngồi ăn sáng bên Dung, giọng nói của nàng vẫn còn vang vọng bên tai: “Để em thêm cho anh chút tiêu”. Tôi liếc nhìn chiếc ghế xích đu mà Dung vẫn thường ngồi, rồi nhắm mắt lại mà cứ nghĩ như mình đang đong đưa trong gió.

 

Đã hai, ba lần tôi đưa tay lên toan bấm chuông nhưng rồi ngừng lại, linh tính như báo cho tôi biết có một chuyện gì đó không ổn đã xảy ra ở đây. Căn nhà hình như mang nặng nét u buồn, mất đi sinh khí và không được tươm tất như ngày xưa. Màu sơn trắng của cửa nhiều chỗ đã đổi sang màu vàng úa, vài mảnh tường loang lổ, có nơi tróc hẳn lớp xi măng bên ngoài để lộ ra những viên gạch màu nâu đỏ. Nơi góc vườn, ngày xưa khóm hoa cúc vàng xinh tươi đẹp đẽ biết bao, nay đã bị cỏ dại phủ kín, đầy sân lá vàng ngập cả lối đi. Cảnh hoang phế, tàn tạ, tiêu điều của căn nhà chúng tỏ chủ nhân không thường xuyên chăm sóc. Tôi chợt nghĩ, hay là ba má Biên đã dọn nhà đi nơi khác rồi?

Tôi quay người toan trở về, nhưng nghĩ lại đã cất công lặn lội đến đây rồi, ít ra cũng nên dò hỏi cho tường tận nguồn cơn, để sau này khỏi phải băn khoăn thắc mắc, biết đâu người chủ mới lại cho mình vài tin tức quý giá về gia đình Biên. Sau một lúc đắn đo suy nghĩ, tôi mạnh dạn đưa tay bấm chuông.

 

Thoạt thấy dáng người ra mở cổng, tôi giật mình, tim đập mạnh. Dung chứ còn ai nữa, nàng ốm hơn xưa nhiều với nét buồn hiện rõ trên gương mặt. Thấy tôi, Dung chạy nhanh ra mở cổng rồi ôm chặt lấy tôi khóc nức nở:

 

-Anh Quân phải không?

 

Tôi còn biết nói gì hơn là im lặng gật đầu. Dung ngẩng mặt lên nhìn tôi với đôi mắt đẫm lệ, nàng thổn thức:

 

-Anh Biên… anh Biên…

 

Linh cảm có chuyện không hay, tôi nắm chặt hai vai của Dung lắc mạnh:

 

-Anh Biên sao? Anh Biên sao rồi?

 

-Ảnh chết rồi.

 

Hai bàn tay tôi từ từ lơi ra

 

-Chết rồi? Chết ở đâu? Chết như thế nào?

 

Đột nhiên tôi cảm thấy như nghẹt thở, khi hai cánh tay Dung ôm chặt lấy tôi từ từ siết mạnh hơn, nàng nói qua làn nước mắt:

 

-Anh Quân, em yêu anh.

 

Tôi nghe rất rõ ràng, nhưng phải mất mấy giây sau tôi mới hiểu Dung muốn nói gì với tôi, câu nói hoàn toàn không liên quan gì đến chuyện mà Dung đang nói về cái chết của Biên. Tôi nghĩ, khi mà xúc động lên đến tột đỉnh, lúc đó tâm trí con người có thể rơi vào trạng thái hỗn loạn, lời nói của họ không còn đúng với những gì họ muốn nói. Tôi ôm lấy Dung, vỗ nhẹ vào lưng nàng an ủi:

 

-Anh biết, em rất thương anh Biên.

 

-Không. Anh Quân, em yêu anh.

 

Tôi chưa kịp có phản ứng gì, đôi môi của nàng đã gắn chặt môi tôi. Dung hôn tôi say sưa đắm đuối, cái hôn tràn đầy nước mắt của mấy năm xa cách, có phải như vậy hay không? Hai mươi bốn tuổi, cái hôn đầu tiên trong đời bất ngờ đến với một thằng con trai, nhất là đến từ người mình thương nhớ, đôi chân của tôi hình như run lẩy bẩy trong khi toàn thân tôi như tê dại. Tôi để mặc cho cảm giác ngất ngây, sung sướng, đê mê, trôi nổi bềnh bồng đưa đẩy.

 

Hai chuyện trọng đại xảy ra cùng một lúc. Biên người bạn cùng khóa với tôi đã chết. Dung người tôi yêu tha thiết bấy lâu nay, mối tình đầu của tôi cũng là mối tình tuyệt vọng đang hôn tôi và nói yêu tôi. Tôi đứng yên như một pho tượng, một thế kỷ vừa mới trôi qua trong yên lặng. Hai tay tôi hãy còn ôm lấy Dung, môi của tôi vẫn chưa rời khỏi đôi môi của nàng. Tôi uống nước mắt của Dung, mằn mặn xen lẫn chút ngọt ngào như nuốt trọn lấy tình yêu mà nàng đã dành cho tôi. Mãi cho đến khi trái đất bắt đầu quay trở lại, chầm chậm rồi bình thường cũng là lúc trái tim của tôi từ từ đập trở lại. Lúc bấy giờ tôi mới bình tĩnh, nhẹ nhàng nâng gương mặt của Dung. Tuy vậy, tôi phải cố gắng hết sức mới nói được câu.

 

-Nín đi em, mình vô nhà được không?

 

Dung khẽ gật đầu, nắm chặt lấy tay của tôi như sợ tôi biến mất. Nàng kéo tôi vào nhà.

 

Tôi nâng ly cà phê, nhấp một hơi.

 

-Em biết không, năm năm xa cách, mùi cà phê vẫn còn thơm như ngày nào khi anh ngồi uống với em dưới tàn cây vú sữa. Năm năm thương nhớ có biết bao nhiêu là chuyện anh cần phải hỏi em, nhưng thôi bây giờ anh muốn thắp cho Biên một nén nhang, mọi chuyện hãy tính sau.

 

Qua làn khói hương nghi ngút quyện trong không khí, trên bàn thờ, Biên nhìn tôi như mỉm cười. Tôi khấn thầm :

 

-Hôm nay, tao trở về lại chốn cũ, những tưởng sẽ biết được tin tức của mày, nào ngờ âm dương cách trở, mỗi thằng một thế giới. Tha lỗi cho tao đã không về lại đây sớm hơn.

 

Tôi đi đến ngồi bên Dung.

 

-Bây giờ, anh có chuyện quan trọng muốn hỏi em.

 

-Chuyện gì vậy anh?

 

-Anh muốn biết Long công tử đâu rồi.

 

Dung ngơ ngác nhìn tôi.

 

-Anh nói cái gì? Tại sao lại hỏi em? Em làm sao biết được anh Long ở đâu.

 

Tôi ngạc nhiên đến sửng người khiến cho giọng nói của mình hơi ngập ngừng, ngượng ngập.

 

-Không phải em và Long đã lấy nhau rồi hay sao?

 

Đôi mắt của Dung tròn xoe nhìn tôi đầy vẻ sửng sốt, nàng nói mà như muốn khóc.

 

-Từ cái ngày anh đưa gói quà của anh Long cho em, sau đó anh và anh Long biến mất khiến em không hiểu chuyện gì đã xảy ra.

 

Tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

 

-Như vậy, em không có thương gì anh Long?

 

-Ai nói với anh là em thương anh Long?

 

-Anh nhớ khi đưa quà của anh Long cho em, em vui mừng nhận quà nhưng sau đó giận anh, không nói với anh một lời rồi đuổi anh về, khiến anh nghĩ là mình là kẻ thứ ba trong cuộc nên rút lui là hơn.

 

Dung nắm lấy tay tôi siết mạnh.

 

-Anh hiểu lầm rồi, ngày ấy em chỉ giả bộ giận anh thôi. Anh có biết, con gái làm nũng là gì không?

 

-Làm sao anh biết được.

 

-Sinh nhật của em, anh Long tặng quà cho em, còn quà của anh đâu? Em đợi hoài chẳng thấy anh nói năng gì khiến em giận anh quá chừng. Em chỉ cần quà của anh chứ không cần quà của anh Long.

 

Tôi vội vã giải thích.

 

-Tuần lễ trước khi anh đi phép, Long xuống khu sinh hoạt mua cho em cuốn album rồi nhờ anh đem đến cho em. Em biết cuốn album đó giá bao nhiêu không?

 

Dung lắc đầu.

 

-Em không biết.

 

-Gần hai ngàn. Suốt thời gian thụ huấn ở Quân trường Thủ Đức, chưa bao giờ trong túi của anh có được ngàn bạc. Anh đâu có nhiều tiền như Long công tử để mua quà cho em.

 

-Em hiểu rồi, anh muốn mua cho em món quà đáng giá hơn quà của anh Long phải không? Em không đòi hỏi gì nơi anh hết. Em chỉ cần một món quà nho nhỏ. Anh có thể mua cho em cái lược để khi chải đầu em nhớ tới anh. Anh cũng có thể tặng em cây viết để khi viết thư cho anh, em cảm thấy gần anh hơn. Anh không có được năm, mười đồng hay sao?

 

Tôi lặng câm thương nàng vô hạn. Tôi phải trả một giá quá đắt, bằng mấy năm cách xa thương nhớ, chỉ vì cái tội ngu ngốc của mình.

 

-Tha lỗi cho anh, ngày ấy, anh cứ nghĩ rằng trong một cuộc tranh đua, mình phải hơn đối thủ của mình mới mong thắng cuộc.

 

Dung nhìn tôi với đôi mắt đầy thương yêu.

 

-Có hai lý do khiến em có thể nói anh Long không phải là địch thủ của anh. Lý do thứ nhất là anh Long không hề có tình ý gì với em hết, con gái rất nhạy cảm về vấn đề này. Hơn nữa, anh Long có nói với em là ảnh có vợ rồi, vợ anh ấy và đứa con trai một tuổi kháu khỉnh đang sống ở Ban Mê Thuột trông coi cái đồn điền của ba anh ấy. Ảnh còn hứa với em khi nào có dịp ảnh sẽ dẫn em lên Ban Mê Thuột chơi, thăm đồn điền, thăm vợ con ảnh luôn. Còn chuyện hộp quà mà anh Long nhờ anh mang đến cho em, anh có biết trong đó có những gì hay không?

 

Tôi chắc giọng quả quyết:

 

-Anh biết chứ.

 

-Có những gì?

 

-Một cuốn album.

 

Dung cười, nụ cười tươi như đóa hoa phù dung.

 

-Chỉ đúng có một nửa, trong đó còn có thêm mấy xấp lụa để may áo dài và một bức thư.

 

Dung chồm người về phía tôi, nàng nũng nịu nói mà như muốn hôn tôi.

 

-Bức thư em vẫn còn giữ, thư anh Long viết còn hay hơn những bức thư tình hay nhất thế giới. Để em lấy cho anh coi.

 

Tôi ngả người ra ghế sofa.

 

-Thư tình của Long viết cho em, tại sao em lại đưa cho anh đọc, em không sợ anh ghen hay sao?

 

-Không, nhờ bức thư này mà mấy năm nay em vẫn còn đủ can đảm để nhớ anh. Anh đợi đó một chút.

 

Tôi cầm bức thư, giấy đã bắt đầu đổi sang màu vàng úa, nhàu nhò chứng tỏ Dung đã đọc nó nhiều lần.

 

Nét chữ của Long hiện ra trước mắt tôi.

 

Dung,

 

Anh gởi mừng sinh nhật của em cuốn album để em gắn mấy tấm hình bốn đứa chụp chung trước vòi phun nước. Nhớ để tấm hình của em và thằng bắp cải ở trang đầu, vì anh biết thằng Quân nó thương em với tất cả tấm lòng chân thật của nó. Còn mấy xấp lụa để em may áo dài, mặc khi đi chơi với Quân. Con gái mà mặc jean với áo thun coi ngố ngáo lắm, em phải mặc áo dài mới thấy ngoan hiền. Em có biết câu thơ “Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu ” nghĩa là gì không? Chữ quân trong câu thơ này phải viết hoa. Nghĩa là người con gái phải yểu điệu, dịu dàng thì thằng Quân nó mới thương..

 

Đùa với em chút xíu cho vui, anh và Biên đều lớn hơn thẳng Quân bốn năm tuổi, thằng nào cũng có dăm ba mối tình dang dở vắt vai, trong khi em là mối tình đầu của Quân bắp cải, cả hai đứa đều ngây thơ, trong sáng dễ thương. Em phải luôn nhớ rằng, thẳng Quân nó thương em nhất trên đời.

 

Thư đã dài, anh ngừng bút, chúc em và Quân bắp cải luôn luôn vui vẻ bên nhau.

 

Anh.

Long.

 

Đọc xong bức thư, tôi thầm nghĩ, trên đời này không có ai hào hoa, lịch sự bằng Long công tử mà cũng không có ai nói láo hay hơn nó. Tôi nhớ mãi, trong một lần khi gặp má của Long công tử tại khu tiếp tân của trường, bà nói riêng với tôi:

 

-Vợ chồng tôi chỉ có một mình thằng Long, cháu có biết cô nào ngoan hiền giới thiệu cho nó với. Ai đời đã hai mươi bốn tuổi rồi mà cứ long nhong, rong chơi suốt ngày không chịu lấy vợ khiến tôi và ông nhà tôi cứ lo là lo. Chỉ mong mau có cháu nội để bồng bế mà không có.

 

Tôi nói với bà:

 

-Bác đừng lo, Long có nhiều bạn gái quá nên chưa biết chọn cô nào.

 

Tôi định nói cho Dung biết là Long công tử nói láo, nhưng chưa kịp mở miệng thì Dung đã hỏi tôi:

 

-Anh làm gì mà ngồi thừ người ra đó.

 

Tôi nâng ly cà phê, nhấp một ngụm rồi nói:

 

-Cái thằng dễ thương quá sức, vậy mà hồi đó lúc nào anh cũng lo ngay ngáy, lúc nào cũng sợ.

 

-Anh sợ gì?

 

-Sợ em thương Long công tử chớ còn sợ gì nữa. Đẹp trai, hào hoa, lịch lãm như nó mà em không thương cũng uổng.

 

-Anh nói như vậy mà nghe cho được. Anh có muốn nghe lý do thứ hai hay không?

 

-Tại sao không?

 

Dung nhích sát người tôi, hôn lên má tôi rồi khẽ nói:

 

-Đây là lý do chính cũng là lý do quan trọng nhất, em yêu anh, yêu từ cái buổi đầu gặp gỡ, anh đừng hỏi em tại sao? Em không trả lời được đâu. Trái tim của em nói là yêu anh, em biết là em yêu anh, đơn giản như vậy thôi. Còn như anh muốn biết nhiều hơn nữa, chuyện như thế này. Anh còn nhớ ngày đi phép đầu tiên của mấy anh, khi mình đi taxi từ nhà đến rạp Rex, anh Biên hích anh một cái cùi chỏ, cố ý xếp anh ngồi bên em, hành động này khiến em suy nghĩ và đoán rằng anh Biên cũng đồng ý nếu hai đứa mình yêu nhau, có phải như vậy không anh?

 

-Đúng vậy.

 

Trời ạ, nếu trong một ngày mà trái đất ngừng quay hai lần làm sao người ta sống cho nổi. Trái tim tôi đã bị sốc hai lần trong một ngày vì những chuyện xảy ra trước mắt tôi. Nguyên ngày hôm đó, tôi say sưa kể cho Dung nghe chuyện tôi cũng bị tiếng sét ái tình đánh trúng khi gặp Dung lần đầu, rồi đến thảm cảnh khi bị Dung đuổi về ngồi một mình trong rạp ciné không máy lạnh, cũng như mối tình tuyệt vọng của tôi dành cho nàng suốt mấy năm qua. Mãi mê giãi bày tâm sự, tôi quên bẳng chuyện tại sao căn nhà hoang vắng như vậy. Khi nhớ ra, tôi hỏi Dung:

 

-Em à, hai bác đâu rồi? Sao anh không thấy.

 

Dung mỉm cười, nụ cười như ngầm nói bây giờ anh mới nhớ tới ba má.

 

-Từ ngày anh Biên mất, má buồn quá nên dọn về Bạc Liêu sống, rất ít khi lên đây. Hiện tại, trong nhà chỉ còn em và chị Lành. Ba thường ngày đi làm, nhiều khi ở lại luôn trong sở, cuối tuần lại về Bạc Liêu với má.

 

Tôi buột miệng:

 

-Hai bác là người Tiều Châu phải không?

 

-Ba em người Việt, má người Tiều, sao anh biết?

 

-Người ta thường nói ở xứ Bạc Liêu “Dưới sông cá Chốt, trên bờ Tiều Châu” anh đoán đại như vậy không ngờ lại đúng.

 

-Má nghe được anh nói như dzậy, bà không gả con gái cho anh đâu.

 

-Nếu vậy, anh sẽ sửa lại là “Dưới sông cá Chốt, trên bờ Dạ cổ Hoài Lang”được chưa?

 

Dung nhăn mặt:

 

-Được gì mà được, nghe lấn cấn, lọng cọng cứ như “Lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia”.

 

Hai tháng học đại đội trưởng ở Thủ Đức, đây là một khóa học nhàn nhã nhất trong quân đội, hai tháng thần tiên trong đời của tôi. Đi học mà tôi cứ tưởng mình đang sống ở thiên đường hạ giới. Ngày chủ nhật, tôi về nhà Dung cùng nàng lang thang khắp đó đây, trên chiếc Honda dame của nàng.

 

Ngày đầu đi chơi, Dung mặc chiếc áo dài màu vàng mỡ gà may bằng lụa của Long công tử tặng. Tôi đứng ngẩn ngơ như kẻ mất hồn, nhìn hai tà áo như hai dải lụa nhè nhẹ tung bay phất phơ trong gió, khiến tôi cảm được cái mịn màng của lụa quấn quýt lấy cái mát dịu của làn da, khi âu yếm, lúc lả lơi. Phải mất năm năm, tôi mới thấm được ý câu thơ “Nắng Sài Gòn …” của nhà thơ Nguyên Sa. Tôi nói với Dung.

 

-Sài Gòn hôm nay mát quá.

 

Vì không hiểu ý của tôi, Dung nói:

 

-Em cứ tưởng không bao giờ có dịp mặc cái áo dài này.

 

Tôi hỏi:

 

-Tại sao vậy? Nếu thích, em cứ mặc đâu có ai cấm.

 

Dung nói mà như nhắc tôi:

 

-Anh không nhớ sao? Trong bức thư anh Long dặn em, chỉ bận áo này khi đi chơi với anh. Không có anh, em bận để đi với ai? Anh có biết không, khi may xong mấy cái áo dài mà không được bận em khóc quá chừng. Em đợi hoài đợi mãi, đợi cho đến ngày hôm nay.

 

Tôi nói:

 

-Anh không nghĩ rằng mình là người có diễm phúc đến như vậy. Nếu anh không trở lại đây, chẳng lẽ em đợi anh suốt đời hay sao?

 

Gương mặt Dung thoáng đượm nét buồn:

 

-Có chuyện này, em phải nói với anh. Anh nói đúng, mấy tháng đầu xa cách, em nhớ anh nhiều lắm, nhớ da diếc, nhớ điên cuồng. Mùa hè năm sáu mươi chín, em lên Đà Lạt nghỉ mát với ba má. Suốt ngày, em chỉ lang thang ở khu phố Hòa Bình, mỗi khi đi ngang qua một căn nhà, em lại nhìn vào với chút hy vọng nho nhỏ là anh đang ở bên trong. Em cứ tiếc hoài, tại sao ngày xưa em không lấy địa chỉ của anh để giờ đây phải lặn lội khắp thành phố này tìm anh. Chuyện tìm anh mà không biết địa chỉ, khác nào như thể tìm chim, chim bay biển Bắc, em tìm biển Đông. Mùa hè năm ấy trôi qua trong lặng lẽ, u buồn. Cho đến khi em bước chân vào đại học, bỡ ngỡ trước nếp sống mới, lu bu với bài vở, bạn bè, em quên anh được phần nào. Cũng vào lúc ấy ba má muốn em lấy chồng. Anh ấy là thiếu úy Nhảy Dù, con người bạn thân của ba em.

 

 

Dung ngưng nói, nhìn tôi với đôi mắt như hờn trách.

 

-Em đúng phân vân giữa ngã ba đường, phải chi ngày xưa anh hứa với em một tiếng là anh sẽ trở lại chắc em sẽ chờ anh, đằng này anh bỏ đi biệt tăm biệt tích. Em chần chừ, lần lựa thêm được hơn một năm nữa, cuối cùng em bằng lòng lấy chồng theo ý của ba má em.

 

Tôi giật mình, không hiểu chuyện gì đã xảy ra nên lật đật hỏi Dung:

 

-Em đã có chồng, sao còn…còn nói yêu anh? Chồng em đâu rồi?

 

Dung nắm tay tôi bóp mạnh.

 

-Anh làm gì mà hoảng hốt lên vậy, chuyện đâu còn có đó, từ từ em kể cho anh nghe. Tụi em làm đám hỏi được ba tháng, đang chuẩn bị đám cưới, em nhận được tin anh ấy mất ở Hạ Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Em khóc hết nước mắt suốt mấy ngày liền, rồi quyết định sẽ không bao giờ lấy chồng. Tháng kế đó lại được tin anh Biên tử trận tại chiến trường Quảng Trị, từ đó về sau em sống như là chết rồi. Em, ngày ngày đi học như là một người máy, thỉnh thoảng nhớ anh Biên em lại lấy bức thư của anh Long ra đọc, càng đọc càng nhớ anh, nhớ cho đến khi gặp lại anh.

 

Tôi đưa tay bịt miệng của Dung, rồi nổ máy chiếc xe Honda.

 

-Mình đi đâu đây em?

 

-Tùy anh.

 

Chúng tôi đến Thanh Bạch ăn điểm tâm với bò kho bánh mì, tôi mở nắp chai sữa tươi, bóc giấy dán miệng chai, rót vào ly rồi trịnh trọng đưa cho nàng sành điệu y hệt như Long công tử. Tôi hỏi Dung:

 

-Em nhớ gì không?

 

-Nhớ chớ, chỉ thiếu càng cua ram muối.

 

Tôi cười.

 

-Anh chịu thua, nếu bây giờ anh gọi món cua ram muối cho em, có thể chú Sáu nói anh là thằng khùng bởi vì anh không phải là Long công tử.

 

Ăn sáng xong, chúng tôi thả bộ quanh Sài Gòn, nhìn mấy ông Sinh viên sĩ quan Thủ Đức đi phép, đang dạo phố với bồ. Tôi nói với Dung:

 

-Em nhớ hồi xưa mình đi chợ Bến Thành không?

 

-Làm sao em quên được. Anh có nhớ mấy bà bán hàng nói gì với tụi mình không?

 

-Có, mấy bà ấy nói, em chỉ giỏi ăn hiếp anh.

 

Dung nhéo tôi một cái đau điếng.

 

Buổi trưa, chúng tôi chạy vô Chợ lớn ăn mì vịt tiềm rồi chui vô rạp ciné máy lạnh, coi Lý Tiểu Long múa võ hành hiệp giang hồ, thêm vào đó là mối tình đầy thơ mộng với giai nhân Miêu Khả Tú. Hết ciné, Dung dẫn tôi vô quán Cái Chùa, uống cà phê đen nhìn thiên hạ dẫn nhau dạo phố.

 

Dung nói với tôi:

 

-Anh đừng có lo, gọi là quán Cái Chùa nhưng nó chắng dính dáng gì đến Tăng ni hay Phật tử, mà đó là nơi tụ họp của mấy ông nhà văn, nhà báo của Sài Gòn.

 

Tôi hỏi Dung:

 

-Tại sao em biết, ở đây chỉ dành riêng cho mấy ông nhà văn và báo chí.

 

-Anh Biên nói với em như vậy.

 

Tôi nói:

 

-Đúng, anh Biên nói không bao giờ sai.

 

Khi chiều đến, hai đứa kéo nhau qua Thủ Đức mỗi đứa một chai bia 33 nhậu với nem chua, nem nướng. Nem Thủ Đức vốn nổi tiếng khắp miền Nam, có điều lá dùng để gói nem hơi nhiều. Một xâu nem độ chừng chục cái đựng trong một cái rổ nhỏ, hai đứa ăn cho đến khi đống lá gói nem cao hơn chai bia mới ngừng. Sờ lại bụng vẫn còn thấy đói.

 

Hai tháng học đại đội trưởng trôi qua cái vù, nhanh như chớp mắt. Ngày mãn khóa học, trước khi trở về Đà Lạt tôi nắm chặt tay của Dung.

 

-Anh sẽ nói với ba má anh xuống đây gặp ba má em. Mình phải tính chuyện làm đám cưới.

 

Nói xong tôi mới giật mình tỉnh mộng, tôi nói cho có chuyện để mà nói. Tôi biết mình đang ở trong thế kẹt, ba má tôi và bác Bảy đã định liệu hôn nhân của tôi và Cúc, người lớn nói chuyện với nhau rồi tuy tôi không có ý kiến nhưng cũng đã ngầm đồng ý. Giờ đây một bên là mối tình đầu đầy thơ mộng, một bên là tiền tài và danh vọng, tôi phải chọn bên nào?

Chương VII:

Không rủ cũng tới

 

Chiến tranh xảy ra ở Việt Nam nhưng khi nói chuyện hòa đàm lại kéo nhau qua Paris. Lúc hiệp định ngưng chiến được ký kết, cũng là lúc Mỹ bắt đầu giảm quân viện cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa với lý do rất là rõ ràng: hết đánh nhau rồi, vũ khí đạn dược hư hao, thất thoát, một đổi một. Tôi không biết những đơn vị tác chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị ảnh hưởng như thế nào, nhưng riêng Phòng hành quân của Trường Võ Bị Đà Lạt khó khăn thấy rõ, khi thiếu tá trưởng phòng nói với tôi:

 

-Kể từ tuần tới, chuyện đi họp an ninh, lấy mật khẩu bên Quân Trấn, trung úy dùng xe hai bánh của mình mà đi.

 

Tôi hỏi ông:

 

-Thưa thiếu tá, xe jeep của Phòng hành quân bị hư hay sao?

 

-Xe vẫn còn tốt nhưng cấp số xăng cho xe bị cắt giảm, chỉ còn lại một phần tư so với trước đây.

 

Vừa dứt lời, Thiếu tá trưởng Phòng hành quân dẫn tôi tới góc phòng, chỉ vào cái thùng sắt đựng đạn.

 

Tôi không hiểu ý của ông nên nói:

 

-Thưa thiếu tá, mấy năm rồi tôi chưa một lần chạm tay đến cây súng M16 treo ở góc phòng, cấp số đạn mà tôi lãnh bốn năm trước vẫn còn nguyên, không hao hụt. Tôi không cần đạn, chỉ cần xăng.

 

Thiếu tá trưởng phòng nhìn tôi cười vui vẻ:

 

-Trong thùng đạn đó có ba lít xăng. Từ nay về sau đó là số xăng mà trung úy sẽ được lãnh hàng tuần, đổ vào xe Honda hai bánh dùng để đi họp bên Quân Trấn.

 

Tôi nói:

 

-Thiếu tá, mình ở quân trường thiếu xăng tôi đi họp bằng xe Honda, chuyện không có gì phải nói nhưng ở đơn vị tác chiến mà thiếu đạn coi bộ không ổn. Khi đụng trận tụi Việt Cộng cứ AK rồi B40 bắn thoải mái, hết đạn Tàu cộng với Liên Xô lại tiếp viện, còn lính mình gắn lưỡi lê vô súng M16 mà đâm Việt Cộng, tôi sợ mình đánh không lại họ.

 

Tôi tưởng rằng thiếu tá trưởng phòng cũng đồng ý với tôi, nào ngờ ông nói:

 

-Đương nhiên là thua nhưng còn được như vậy là quý rồi. Miền Nam mình giống như người bịnh ung thư, mang căn bịnh trầm kha không có thuốc chữa, kéo dài cuộc sống được ngày nào hay ngày nấy.Tao sợ mai mốt Mỹ cúp hẳn viện trợ, mình làm gì được họ. Viện trợ hay không là quyền của họ mà.

 

Tôi bắt đầu đi làm bằng xe Honda hai bánh. Buổi sáng Đà Lạt sương mù dày đặc, tôi mặc bộ đồ lính đeo găng tay, thêm chiếc áo Jacket dày cộm mà vẫn không cảm thấy đủ ấm. Ngồi trên chiếc Honda chạy băng băng trong gió lạnh mà tôi cứ tiếc mãi chuyện ngày xưa, tiếc hoài thời tôi đi làm bằng xe bus của trường. Tôi tiếc bầu không khí ấm áp trong xe, tiếc luôn chuyện được ngắm miễn phí các cô thư ký dân sự làm việc trong trường, cô nào cô nấy áo măng tô khăn quàng cổ, đẹp như mơ, đẹp hết biết mà dạn dĩ cũng khỏi chê. Tôi còn nhớ, hồi tôi mới lên thiếu úy, có cô hỏi tôi:

 

-Thiếu úy khóa mấy của Trường Võ Bị?

 

Hầu hết mọi người đều lầm lẫn giữa một thiếu úy tốt nghiệp Trường Võ Bị Đà Lạt, và một thiếu úy đang phục vụ tại Trường Võ Bị Đà Lạt. Tôi tốt nghiệp Trường Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, mấy năm rồi phục vụ tại Trường Võ Bị Đà Lạt. Nếu ai đó tưởng lầm tôi tốt nghiệp Võ Bị, tôi cũng nhận luôn, cải chính làm chi cho mệt. Tôi trả lời mấy cô bằng câu đố.

 

-Đố mấy cô, tôi khóa mấy, ai nói đúng sẽ được một chầu cà phê Thủy Tạ.

 

-Thiếu úy khôn thấy mồ, ông có mời đi cà phê chưa chắc tụi này đã chịu.

 

Tuy vậy, cũng có vài tiếng trả lời:

 

-Khóa 24.

 

Tôi nói:

 

-Trật lất.

 

-Khóa 23.

 

Tôi cười đắc chí.

 

-Cũng trật luôn, không có cô nào được mời đi uống cà phê Thủy Tạ. Tôi tốt nghiệp Sĩ quan trừ bị Thủ Đức.

 

Một ông thiếu tá ngồi cuối xe, nghe vậy bèn lên tiếng:

 

-Các cô cứ lo chuyện không đâu, hỏi thử xem ông ấy có vợ hay chưa rồi hẳn chuyện trò tiếp.

 

Đang nói chuyện bình thường, đột nhiên ông thiếu tá đổi giọng cằn nhằn, trách móc:

 

-Các cô có thân phải liệu mà giữ gìn, lúc nào cũng lờ mờ nhân ảnh như người đi đêm, lờ quờ, lạng quạng trao duyên lầm tướng cướp như không.

 

Tôi muốn tạo không khí ấm cúng trong xe nên tiếp lời ông thiếu tá:

 

-Quý vị có thấy tôi giống tướng cướp không?

 

Nhiều tiếng cười khúc khích vang lên xen lẫn một giọng nói nhỏ.

 

-Cũng khá giống.

 

Thời vàng son một thủa của tôi, mới đó đã chìm vào quá khứ.

 

Ngày xưa, ông Thế Lữ tiếc cái thời xa xưa cũ đã làm bài thơ Nhớ Rừng kể lại chuyện chúa sơn lâm nhớ thời oanh liệt, nghe ra còn có lý. Đằng này, tôi có gì mà phải tiếc với nuối. Có chứ, tôi giống như anh nông dân đứng giữa cánh đồng khô hạn mà tiếc vụ lúa được mùa năm trước, như ông ngư phủ nhìn mấy con cá trong ghe mà tiếc mẻ lưới đầy cá. Tôi tiếc cái không khí ấm cúng trong xe bus của trường, tiếc cái thủa lái chiếc xe jeep thắng cái két trước quán cà phê Hạnh Tâm, liếc nhìn cái lon trung úy trên cầu vai áo rồi khuỳnh tay, dạng chân khệnh khạng đi vào quán trước cặp mắt hình như là đầy khâm phục của cô thu ngân. Đó là thời vinh quang tột đỉnh của tôi, không tiếc sao được, đâu cần phải là chúa sơn lâm mới có quyền nhớ rừng.

 

Đến trường, khi ký sổ bàn giao phiên trực hai tay của tôi vẫn còn run lẩy bẩy vì lạnh. Trung úy Hàn sĩ quan hạ phiên, đưa cho tôi tờ giấy có mấy chữ: Trung úy Nguyễn Trọng Quân trình diện Đại tá Tham mưu trưởng lúc mười giờ sáng.

 

Tôi cầm tờ giấy, phần run vì lạnh phần run vì sợ, trình diện sếp lớn, chuyện rủi nhiều hơn may. Tôi nghĩ trong đầu, không biết mình bị lỗi lầm gì, có khi nào sếp tống cổ mình ra tác chiến hay không? Hỏi xong, tôi tự trả lời: Chắc không đến nổi nào đâu, dù gì Đại tá Tham mưu trưởng cũng là chỗ quen biết với bác Bảy. Tôi dặn người hạ sĩ quan trực chung ca với tôi:

 

-Có việc gì cần, trung sĩ gọi điện thoại qua Câu lạc bộ sĩ quan, tôi ngồi bên đó.

 

Tôi trình diện Đại tá Tham mưu trưởng, sau khi uống cạn hai ly cà phê phin đặc quánh ở câu lạc bộ, cà phê ngon thiệt, nhung có điều nó làm cho tim tôi đập nhanh hơn bình thường gấp mấy lần.

 

Đại tá Tham mưu trưởng ngồi sau bàn làm việc, ông chỉ vào chiếc ghế trước bàn làm việc của ông

 

-Mời trung úy ngồi.

 

Tôi rón rén ngồi xuống, lưng thẳng như thời còn là sinh viên ngồi ăn ở nhà bàn, không dám dựa lưng vào ghế. Đại tá Tham mưu trưởng hỏi tôi:

 

-Trung úy làm việc ở Phòng hành quân, thấy thế nào?

 

-Trình đại tá, mọi chuyện đều tốt đẹp.

 

-Tốt, nếu muốn thuyên chuyển đi phòng khác, trung úy cứ nói với tôi.

 

Tôi trả lời:

 

-Thưa đại tá, tôi rất thích làm việc tại Trung tâm hành quân.

 

-Tốt.

 

Nhìn tôi với cặp mắt thân thiện, Đại tá Tham mưu trưởng hỏi:

 

-Đám cưới của trung úy sẽ được tổ chức vào ngày nào?

 

Tuy Đại tá Tham mưu trưởng nói tiếng Việt, rõ ràng từng chữ nhưng tôi không hiểu ông ta nói gì.

 

-Thưa, đại tá tôi…tôi…

 

-Làm rể anh Bảy Ân khác nào chuột sa hũ nếp. Từ nay, ở cái trường này có ai giàu bằng trung úy!

 

Tôi nghĩ, Đại tá Tham mưu trưởng lầm lẫn giữa tôi với ai đó trong trường nên lẹ lẹ đính chính:

 

-Thưa đại tá, tôi đâu có biết ông Bảy Ân là ai.

 

Đại tá Tham mưu trưởng mỉm cười:

 

-Cha vợ của mình mà trung úy cũng không biết. Anh Bảy có cô vợ lai Ấn Độ, chủ nhân của mấy chục cái building ở Sài Gòn, ảnh có cái biệt thự to như cái dinh Tỉnh trưởng ở đường Công Lý, Sài Gòn.

 

Chuyện tới đây, tôi biết là Đại tá Tham mưu trưởng không lầm. Tôi mới là người không biết gì.

 

-Thưa, đại tá muốn nói tới bác Bảy, có cô con gái tên Cúc?

 

-Chứ còn ai vào đây nữa!

 

Tôi biết bác Bảy đã chọn tôi làm rể, nhưng tại sao ông không nói chuyện đám cưới với tôi, mà lại nói với sếp lớn của tôi. Đúng là chuyện trong nhà chưa rõ, ngoài ngõ đã thông.

 

Tôi nói với Đại tá Tham mưu trưởng:

 

-Thưa đại tá, chuyện đám cưới tôi không dám có ý kiến, mọi chuyện đều do bác Bảy và ba tôi quyết định.

 

-Vậy hả? Anh Bảy Ân với tôi vốn là bạn thâm giao, tôi coi trung úy như con cháu trong nhà. Hình như trung úy đang theo học ở Viện đại học Đà Lạt, phải không?

 

-Dạ phải.

 

-Tháng tới khi nghỉ hè ở Viện đại học, tôi sẽ gởi trung úy về Sài Gòn học khóa đại đội trưởng, trung úy có biết tại sao không?

 

-Thưa đại tá, tôi không biết.

 

-Có cái bằng đại đội trưởng sẽ được thêm điểm khi chạy cấp bậc đại úy. Trung úy cần hỏi thêm gì nữa không?

 

-Thưa không.

 

-Trung úy có thể trở về làm việc.

 

Tôi đứng nghiêm, hai gót giày chạm vào nhau kêu cái cốp, đưa tay chào Đại tá Tham mưu trưởng đúng như lễ nghi quân cách mà tôi đã học ở quân trường, rồi quay người bước đi.

 

Lời của sếp lớn nói, chắc như đinh đóng cột. Vừa nghỉ hè ở Viện đại học, tôi nhận được sự vụ lệnh về Sài Gòn để theo học khóa Đại đội trưởng. Tôi trở lại Trường Bộ Binh Thủ Đức, đường xưa cảnh cũ hiện ra trước mắt tôi, cái cổng trường vốn đã xấu nay trông lại càng xấu hơn sau bao mùa mưa nắng dãi dầu. Vũ Đình Trường với Trung Nghĩa Đài im lìm trong nắng sớm, những viên đá vụn trải trên sân lấp lánh dưới ánh mặt trời tuy có đẹp đó, nhưng khi quỳ xuống để gắn lon chắc chắn là không đẹp chút nào, chỉ tội cho cái đầu gối. Căn nhà tiền chế khổng lồ có cái tên là Đại Giảng Đường, bị tụi tôi gọi để chế giễu là “Đại Hỏa Lò” vẫn nóng như lò nướng bánh mì. Ngày xưa khi cả khóa phải vào đây để học, chúng tôi thường nói đùa với nhau rằng: Hôm nay nguyên khóa được đi tắm hơi miễn phí.

 

Cho đến khi tôi nhìn thấy những căn nhà gạch của đại đội tôi ngày xưa, lòng bỗng nhiên bồi hồi xúc động, nào là Biên, nào là Long công tử rồi bạn bè cùng khóa, tất cả lần lượt hiện ra trước mắt tôi như một cuốn phim chiếu chậm. Tôi nhớ nhiều đến Biên rồi tự nhủ lòng cuối tuần này sẽ đến thăm ba má Biên, nhân tiện hỏi thăm địa chỉ của Biên. Tôi muốn viết cho hắn một lá thư. Nghĩ lại, tôi vẫn thấy mình quá hời hợt với bạn bè, mang nặng mặc cảm bao năm trường xa cách mà không viết được một lá thư để thăm hỏi bạn, tôi cho đó là một thiếu sót không thể tha thứ. Riêng về Dung, người con gái mà tôi yêu không biết giờ này ra sao. Tôi vẫn nghĩ ràng nàng đã là vợ của Long công tử, có thế là họ đã có với nhau một hay hai đứa con rồi cũng nên. Cho dù Dung đã có chồng hay không, tình yêu của tôi dành cho Dung, dành cho người yêu đầu đời của tôi muôn đời vẫn còn đó không phai.

 

Tôi đứng ngẩn ngơ trước cổng nhà Biên, mà cứ tưởng như mình lạc đường vào quá khứ, năm năm trường, khoảng thời gian xa cách đủ dài khiến cho lòng người chùng xuống. Nhìn chiếc bàn đá dưới tàn cây vú sữa, nơi mà ngày xưa tôi ngồi ăn sáng bên Dung, giọng nói của nàng vẫn còn vang vọng bên tai: “Để em thêm cho anh chút tiêu”. Tôi liếc nhìn chiếc ghế xích đu mà Dung vẫn thường ngồi, rồi nhắm mắt lại mà cứ nghĩ như mình đang đong đưa trong gió.

 

Đã hai, ba lần tôi đưa tay lên toan bấm chuông nhưng rồi ngừng lại, linh tính như báo cho tôi biết có một chuyện gì đó không ổn đã xảy ra ở đây. Căn nhà hình như mang nặng nét u buồn, mất đi sinh khí và không được tươm tất như ngày xưa. Màu sơn trắng của cửa nhiều chỗ đã đổi sang màu vàng úa, vài mảnh tường loang lổ, có nơi tróc hẳn lớp xi măng bên ngoài để lộ ra những viên gạch màu nâu đỏ. Nơi góc vườn, ngày xưa khóm hoa cúc vàng xinh tươi đẹp đẽ biết bao, nay đã bị cỏ dại phủ kín, đầy sân lá vàng ngập cả lối đi. Cảnh hoang phế, tàn tạ, tiêu điều của căn nhà chúng tỏ chủ nhân không thường xuyên chăm sóc. Tôi chợt nghĩ, hay là ba má Biên đã dọn nhà đi nơi khác rồi?

  

Tôi quay người toan trở về, nhưng nghĩ lại đã cất công lặn lội đến đây rồi, ít ra cũng nên dò hỏi cho tường tận nguồn cơn, để sau này khỏi phải băn khoăn thắc mắc, biết đâu người chủ mới lại cho mình vài tin tức quý giá về gia đình Biên. Sau một lúc đắn đo suy nghĩ, tôi mạnh dạn đưa tay bấm chuông.

 

Thoạt thấy dáng người ra mở cổng, tôi giật mình, tim đập mạnh. Dung chứ còn ai nữa, nàng ốm hơn xưa nhiều với nét buồn hiện rõ trên gương mặt. Thấy tôi, Dung chạy nhanh ra mở cổng rồi ôm chặt lấy tôi khóc nức nở:

 

-Anh Quân phải không?

 

Tôi còn biết nói gì hơn là im lặng gật đầu. Dung ngẩng mặt lên nhìn tôi với đôi mắt đẫm lệ, nàng thổn thức:

 

-Anh Biên… anh Biên…

 

Linh cảm có chuyện không hay, tôi nắm chặt hai vai của Dung lắc mạnh:

 

-Anh Biên sao? Anh Biên sao rồi?

 

-Ảnh chết rồi.

 

Hai bàn tay tôi từ từ lơi ra

 

-Chết rồi? Chết ở đâu? Chết như thế nào?

 

Đột nhiên tôi cảm thấy như nghẹt thở, khi hai cánh tay Dung ôm chặt lấy tôi từ từ siết mạnh hơn, nàng nói qua làn nước mắt:

 

-Anh Quân, em yêu anh.

 

Tôi nghe rất rõ ràng, nhưng phải mất mấy giây sau tôi mới hiểu Dung muốn nói gì với tôi, câu nói hoàn toàn không liên quan gì đến chuyện mà Dung đang nói về cái chết của Biên. Tôi nghĩ, khi mà xúc động lên đến tột đỉnh, lúc đó tâm trí con người có thể rơi vào trạng thái hỗn loạn, lời nói của họ không còn đúng với những gì họ muốn nói. Tôi ôm lấy Dung, vỗ nhẹ vào lưng nàng an ủi:

 

-Anh biết, em rất thương anh Biên.

 

-Không. Anh Quân, em yêu anh.

 

Tôi chưa kịp có phản ứng gì, đôi môi của nàng đã gắn chặt môi tôi. Dung hôn tôi say sưa đắm đuối, cái hôn tràn đầy nước mắt của mấy năm xa cách, có phải như vậy hay không? Hai mươi bốn tuổi, cái hôn đầu tiên trong đời bất ngờ đến với một thằng con trai, nhất là đến từ người mình thương nhớ, đôi chân của tôi hình như run lẩy bẩy trong khi toàn thân tôi như tê dại. Tôi để mặc cho cảm giác ngất ngây, sung sướng, đê mê, trôi nổi bềnh bồng đưa đẩy.

 

Hai chuyện trọng đại xảy ra cùng một lúc. Biên người bạn cùng khóa với tôi đã chết. Dung người tôi yêu tha thiết bấy lâu nay, mối tình đầu của tôi cũng là mối tình tuyệt vọng đang hôn tôi và nói yêu tôi. Tôi đứng yên như một pho tượng, một thế kỷ vừa mới trôi qua trong yên lặng. Hai tay tôi hãy còn ôm lấy Dung, môi của tôi vẫn chưa rời khỏi đôi môi của nàng. Tôi uống nước mắt của Dung, mằn mặn xen lẫn chút ngọt ngào như nuốt trọn lấy tình yêu mà nàng đã dành cho tôi. Mãi cho đến khi trái đất bắt đầu quay trở lại, chầm chậm rồi bình thường cũng là lúc trái tim của tôi từ từ đập trở lại. Lúc bấy giờ tôi mới bình tĩnh, nhẹ nhàng nâng gương mặt của Dung. Tuy vậy, tôi phải cố gắng hết sức mới nói được câu.

 

-Nín đi em, mình vô nhà được không?

 

Dung khẽ gật đầu, nắm chặt lấy tay của tôi như sợ tôi biến mất. Nàng kéo tôi vào nhà.

Tôi nâng ly cà phê, nhấp một hơi.

 

-Em biết không, năm năm xa cách, mùi cà phê vẫn còn thơm như ngày nào khi anh ngồi uống với em dưới tàn cây vú sữa. Năm năm thương nhớ có biết bao nhiêu là chuyện anh cần phải hỏi em, nhưng thôi bây giờ anh muốn thắp cho Biên một nén nhang, mọi chuyện hãy tính sau.

 

Qua làn khói hương nghi ngút quyện trong không khí, trên bàn thờ, Biên nhìn tôi như mỉm cười. Tôi khấn thầm :

 

-Hôm nay, tao trở về lại chốn cũ, những tưởng sẽ biết được tin tức của mày, nào ngờ âm dương cách trở, mỗi thằng một thế giới. Tha lỗi cho tao đã không về lại đây sớm hơn.

 

Tôi đi đến ngồi bên Dung.

 

-Bây giờ, anh có chuyện quan trọng muốn hỏi em.

 

-Chuyện gì vậy anh?

 

-Anh muốn biết Long công tử đâu rồi.

 

Dung ngơ ngác nhìn tôi.

 

-Anh nói cái gì? Tại sao lại hỏi em? Em làm sao biết được anh Long ở đâu.

 

Tôi ngạc nhiên đến sửng người khiến cho giọng nói của mình hơi ngập ngừng, ngượng ngập.

 

-Không phải em và Long đã lấy nhau rồi hay sao?

 

Đôi mắt của Dung tròn xoe nhìn tôi đầy vẻ sửng sốt, nàng nói mà như muốn khóc.

 

-Từ cái ngày anh đưa gói quà của anh Long cho em, sau đó anh và anh Long biến mất khiến em không hiểu chuyện gì đã xảy ra.

 

Tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

 

-Như vậy, em không có thương gì anh Long?

 

-Ai nói với anh là em thương anh Long?

 

-Anh nhớ khi đưa quà của anh Long cho em, em vui mừng nhận quà nhưng sau đó giận anh, không nói với anh một lời rồi đuổi anh về, khiến anh nghĩ là mình là kẻ thứ ba trong cuộc nên rút lui là hơn.

 

Dung nắm lấy tay tôi siết mạnh.

 

-Anh hiểu lầm rồi, ngày ấy em chỉ giả bộ giận anh thôi. Anh có biết, con gái làm nũng là gì không?

 

-Làm sao anh biết được.

 

-Sinh nhật của em, anh Long tặng quà cho em, còn quà của anh đâu? Em đợi hoài chẳng thấy anh nói năng gì khiến em giận anh quá chừng. Em chỉ cần quà của anh chứ không cần quà của anh Long.

 

Tôi vội vã giải thích.

 

-Tuần lễ trước khi anh đi phép, Long xuống khu sinh hoạt mua cho em cuốn album rồi nhờ anh đem đến cho em. Em biết cuốn album đó giá bao nhiêu không?

 

Dung lắc đầu.

 

-Em không biết.

 

-Gần hai ngàn. Suốt thời gian thụ huấn ở Quân trường Thủ Đức, chưa bao giờ trong túi của anh có được ngàn bạc. Anh đâu có nhiều tiền như Long công tử để mua quà cho em.

 

-Em hiểu rồi, anh muốn mua cho em món quà đáng giá hơn quà của anh Long phải không? Em không đòi hỏi gì nơi anh hết. Em chỉ cần một món quà nho nhỏ. Anh có thể mua cho em cái lược để khi chải đầu em nhớ tới anh. Anh cũng có thể tặng em cây viết để khi viết thư cho anh, em cảm thấy gần anh hơn. Anh không có được năm, mười đồng hay sao?

 

Tôi lặng câm thương nàng vô hạn. Tôi phải trả một giá quá đắt, bằng mấy năm cách xa thương nhớ, chỉ vì cái tội ngu ngốc của mình.

 

-Tha lỗi cho anh, ngày ấy, anh cứ nghĩ rằng trong một cuộc tranh đua, mình phải hơn đối thủ của mình mới mong thắng cuộc.

 

Dung nhìn tôi với đôi mắt đầy thương yêu.

 

-Có hai lý do khiến em có thể nói anh Long không phải là địch thủ của anh. Lý do thứ nhất là anh Long không hề có tình ý gì với em hết, con gái rất nhạy cảm về vấn đề này. Hơn nữa, anh Long có nói với em là ảnh có vợ rồi, vợ anh ấy và đứa con trai một tuổi kháu khỉnh đang sống ở Ban Mê Thuột trông coi cái đồn điền của ba anh ấy. Ảnh còn hứa với em khi nào có dịp ảnh sẽ dẫn em lên Ban Mê Thuột chơi, thăm đồn điền, thăm vợ con ảnh luôn. Còn chuyện hộp quà mà anh Long nhờ anh mang đến cho em, anh có biết trong đó có những gì hay không?

 

Tôi chắc giọng quả quyết:

 

-Anh biết chứ.

 

-Có những gì?

 

-Một cuốn album.

 

Dung cười, nụ cười tươi như đóa hoa phù dung.

 

-Chỉ đúng có một nửa, trong đó còn có thêm mấy xấp lụa để may áo dài và một bức thư.

 

Dung chồm người về phía tôi, nàng nũng nịu nói mà như muốn hôn tôi.

 

-Bức thư em vẫn còn giữ, thư anh Long viết còn hay hơn những bức thư tình hay nhất thế giới. Để em lấy cho anh coi.

 

Tôi ngả người ra ghế sofa.

 

-Thư tình của Long viết cho em, tại sao em lại đưa cho anh đọc, em không sợ anh ghen hay sao?

 

-Không, nhờ bức thư này mà mấy năm nay em vẫn còn đủ can đảm để nhớ anh. Anh đợi đó một chút.

 

Tôi cầm bức thư, giấy đã bắt đầu đổi sang màu vàng úa, nhàu nhò chứng tỏ Dung đã đọc nó nhiều lần.

 

Nét chữ của Long hiện ra trước mắt tôi.

 

Dung,

 

Anh gởi mừng sinh nhật của em cuốn album để em gắn mấy tấm hình bốn đứa chụp chung trước vòi phun nước. Nhớ để tấm hình của em và thằng bắp cải ở trang đầu, vì anh biết thằng Quân nó thương em với tất cả tấm lòng chân thật của nó. Còn mấy xấp lụa để em may áo dài, mặc khi đi chơi với Quân. Con gái mà mặc jean với áo thun coi ngố ngáo lắm, em phải mặc áo dài mới thấy ngoan hiền. Em có biết câu thơ “Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu ” nghĩa là gì không? Chữ quân trong câu thơ này phải viết hoa. Nghĩa là người con gái phải yểu điệu, dịu dàng thì thằng Quân nó mới thương..

Đùa với em chút xíu cho vui, anh và Biên đều lớn hơn thẳng Quân bốn năm tuổi, thằng nào cũng có dăm ba mối tình dang dở vắt vai, trong khi em là mối tình đầu của Quân bắp cải, cả hai đứa đều ngây thơ, trong sáng dễ thương. Em phải luôn nhớ rằng, thẳng Quân nó thương em nhất trên đời.

 

Thư đã dài, anh ngừng bút, chúc em và Quân bắp cải luôn luôn vui vẻ bên nhau.

 

Anh.

Long.

 

Đọc xong bức thư, tôi thầm nghĩ, trên đời này không có ai hào hoa, lịch sự bằng Long công tử mà cũng không có ai nói láo hay hơn nó. Tôi nhớ mãi, trong một lần khi gặp má của Long công tử tại khu tiếp tân của trường, bà nói riêng với tôi:

 

-Vợ chồng tôi chỉ có một mình thằng Long, cháu có biết cô nào ngoan hiền giới thiệu cho nó với. Ai đời đã hai mươi bốn tuổi rồi mà cứ long nhong, rong chơi suốt ngày không chịu lấy vợ khiến tôi và ông nhà tôi cứ lo là lo. Chỉ mong mau có cháu nội để bồng bế mà không có.

 

Tôi nói với bà:

 

-Bác đừng lo, Long có nhiều bạn gái quá nên chưa biết chọn cô nào.

 

Tôi định nói cho Dung biết là Long công tử nói láo, nhưng chưa kịp mở miệng thì Dung đã hỏi tôi:

 

-Anh làm gì mà ngồi thừ người ra đó.

 

Tôi nâng ly cà phê, nhấp một ngụm rồi nói:

 

-Cái thằng dễ thương quá sức, vậy mà hồi đó lúc nào anh cũng lo ngay ngáy, lúc nào cũng sợ.

 

-Anh sợ gì?

 

-Sợ em thương Long công tử chớ còn sợ gì nữa. Đẹp trai, hào hoa, lịch lãm như nó mà em không thương cũng uổng.

 

-Anh nói như vậy mà nghe cho được. Anh có muốn nghe lý do thứ hai hay không?

 

-Tại sao không?

 

Dung nhích sát người tôi, hôn lên má tôi rồi khẽ nói:

 

-Đây là lý do chính cũng là lý do quan trọng nhất, em yêu anh, yêu từ cái buổi đầu gặp gỡ, anh đừng hỏi em tại sao? Em không trả lời được đâu. Trái tim của em nói là yêu anh, em biết là em yêu anh, đơn giản như vậy thôi. Còn như anh muốn biết nhiều hơn nữa, chuyện như thế này. Anh còn nhớ ngày đi phép đầu tiên của mấy anh, khi mình đi taxi từ nhà đến rạp Rex, anh Biên hích anh một cái cùi chỏ, cố ý xếp anh ngồi bên em, hành động này khiến em suy nghĩ và đoán rằng anh Biên cũng đồng ý nếu hai đứa mình yêu nhau, có phải như vậy không anh?

 

-Đúng vậy.

 

Trời ạ, nếu trong một ngày mà trái đất ngừng quay hai lần làm sao người ta sống cho nổi. Trái tim tôi đã bị sốc hai lần trong một ngày vì những chuyện xảy ra trước mắt tôi. Nguyên ngày hôm đó, tôi say sưa kể cho Dung nghe chuyện tôi cũng bị tiếng sét ái tình đánh trúng khi gặp Dung lần đầu, rồi đến thảm cảnh khi bị Dung đuổi về ngồi một mình trong rạp ciné không máy lạnh, cũng như mối tình tuyệt vọng của tôi dành cho nàng suốt mấy năm qua. Mãi mê giãi bày tâm sự, tôi quên bẳng chuyện tại sao căn nhà hoang vắng như vậy. Khi nhớ ra, tôi hỏi Dung:

 

-Em à, hai bác đâu rồi? Sao anh không thấy.

 

Dung mỉm cười, nụ cười như ngầm nói bây giờ anh mới nhớ tới ba má.

 

-Từ ngày anh Biên mất, má buồn quá nên dọn về Bạc Liêu sống, rất ít khi lên đây. Hiện tại, trong nhà chỉ còn em và chị Lành. Ba thường ngày đi làm, nhiều khi ở lại luôn trong sở, cuối tuần lại về Bạc Liêu với má.

 

Tôi buột miệng:

 

-Hai bác là người Tiều Châu phải không?

 

-Ba em người Việt, má người Tiều, sao anh biết?

 

-Người ta thường nói ở xứ Bạc Liêu “Dưới sông cá Chốt, trên bờ Tiều Châu” anh đoán đại như vậy không ngờ lại đúng.

 

-Má nghe được anh nói như dzậy, bà không gả con gái cho anh đâu.

 

-Nếu vậy, anh sẽ sửa lại là “Dưới sông cá Chốt, trên bờ Dạ cổ Hoài Lang”được chưa?

 

Dung nhăn mặt:

 

-Được gì mà được, nghe lấn cấn, lọng cọng cứ như “Lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia”.

 

Hai tháng học đại đội trưởng ở Thủ Đức, đây là một khóa học nhàn nhã nhất trong quân đội, hai tháng thần tiên trong đời của tôi. Đi học mà tôi cứ tưởng mình đang sống ở thiên đường hạ giới. Ngày chủ nhật, tôi về nhà Dung cùng nàng lang thang khắp đó đây, trên chiếc Honda dame của nàng.

 

Ngày đầu đi chơi, Dung mặc chiếc áo dài màu vàng mỡ gà may bằng lụa của Long công tử tặng. Tôi đứng ngẩn ngơ như kẻ mất hồn, nhìn hai tà áo như hai dải lụa nhè nhẹ tung bay phất phơ trong gió, khiến tôi cảm được cái mịn màng của lụa quấn quýt lấy cái mát dịu của làn da, khi âu yếm, lúc lả lơi. Phải mất năm năm, tôi mới thấm được ý câu thơ “Nắng Sài Gòn …” của nhà thơ Nguyên Sa. Tôi nói với Dung.

 

-Sài Gòn hôm nay mát quá.

 

Vì không hiểu ý của tôi, Dung nói:

 

-Em cứ tưởng không bao giờ có dịp mặc cái áo dài này.

 

Tôi hỏi:

 

-Tại sao vậy? Nếu thích, em cứ mặc đâu có ai cấm.

 

Dung nói mà như nhắc tôi:

 

-Anh không nhớ sao? Trong bức thư anh Long dặn em, chỉ bận áo này khi đi chơi với anh. Không có anh, em bận để đi với ai? Anh có biết không, khi may xong mấy cái áo dài mà không được bận em khóc quá chừng. Em đợi hoài đợi mãi, đợi cho đến ngày hôm nay.

 

Tôi nói:

 

-Anh không nghĩ rằng mình là người có diễm phúc đến như vậy. Nếu anh không trở lại đây, chẳng lẽ em đợi anh suốt đời hay sao?

 

Gương mặt Dung thoáng đượm nét buồn:

 

-Có chuyện này, em phải nói với anh. Anh nói đúng, mấy tháng đầu xa cách, em nhớ anh nhiều lắm, nhớ da diếc, nhớ điên cuồng. Mùa hè năm sáu mươi chín, em lên Đà Lạt nghỉ mát với ba má. Suốt ngày, em chỉ lang thang ở khu phố Hòa Bình, mỗi khi đi ngang qua một căn nhà, em lại nhìn vào với chút hy vọng nho nhỏ là anh đang ở bên trong. Em cứ tiếc hoài, tại sao ngày xưa em không lấy địa chỉ của anh để giờ đây phải lặn lội khắp thành phố này tìm anh. Chuyện tìm anh mà không biết địa chỉ, khác nào như thể tìm chim, chim bay biển Bắc, em tìm biển Đông. Mùa hè năm ấy trôi qua trong lặng lẽ, u buồn. Cho đến khi em bước chân vào đại học, bỡ ngỡ trước nếp sống mới, lu bu với bài vở, bạn bè, em quên anh được phần nào. Cũng vào lúc ấy ba má muốn em lấy chồng. Anh ấy là thiếu úy Nhảy Dù, con người bạn thân của ba em.

 

Dung ngưng nói, nhìn tôi với đôi mắt như hờn trách.

 

-Em đúng phân vân giữa ngã ba đường, phải chi ngày xưa anh hứa với em một tiếng là anh sẽ trở lại chắc em sẽ chờ anh, đằng này anh bỏ đi biệt tăm biệt tích. Em chần chừ, lần lựa thêm được hơn một năm nữa, cuối cùng em bằng lòng lấy chồng theo ý của ba má em.

 

Tôi giật mình, không hiểu chuyện gì đã xảy ra nên lật đật hỏi Dung:

 

-Em đã có chồng, sao còn…còn nói yêu anh? Chồng em đâu rồi?

 

Dung nắm tay tôi bóp mạnh.

 

-Anh làm gì mà hoảng hốt lên vậy, chuyện đâu còn có đó, từ từ em kể cho anh nghe. Tụi em làm đám hỏi được ba tháng, đang chuẩn bị đám cưới, em nhận được tin anh ấy mất ở Hạ Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Em khóc hết nước mắt suốt mấy ngày liền, rồi quyết định sẽ không bao giờ lấy chồng. Tháng kế đó lại được tin anh Biên tử trận tại chiến trường Quảng Trị, từ đó về sau em sống như là chết rồi. Em, ngày ngày đi học như là một người máy, thỉnh thoảng nhớ anh Biên em lại lấy bức thư của anh Long ra đọc, càng đọc càng nhớ anh, nhớ cho đến khi gặp lại anh.

 

Tôi đưa tay bịt miệng của Dung, rồi nổ máy chiếc xe Honda.

 

-Mình đi đâu đây em?

 

-Tùy anh.

 

Chúng tôi đến Thanh Bạch ăn điểm tâm với bò kho bánh mì, tôi mở nắp chai sữa tươi, bóc giấy dán miệng chai, rót vào ly rồi trịnh trọng đưa cho nàng sành điệu y hệt như Long công tử. Tôi hỏi Dung:

 

-Em nhớ gì không?

 

-Nhớ chớ, chỉ thiếu càng cua ram muối.

 

Tôi cười.

 

-Anh chịu thua, nếu bây giờ anh gọi món cua ram muối cho em, có thể chú Sáu nói anh là thằng khùng bởi vì anh không phải là Long công tử.

 

Ăn sáng xong, chúng tôi thả bộ quanh Sài Gòn, nhìn mấy ông Sinh viên sĩ quan Thủ Đức đi phép, đang dạo phố với bồ. Tôi nói với Dung:

 

-Em nhớ hồi xưa mình đi chợ Bến Thành không?

 

-Làm sao em quên được. Anh có nhớ mấy bà bán hàng nói gì với tụi mình không?

 

-Có, mấy bà ấy nói, em chỉ giỏi ăn hiếp anh.

 

Dung nhéo tôi một cái đau điếng.

 

Buổi trưa, chúng tôi chạy vô Chợ lớn ăn mì vịt tiềm rồi chui vô rạp ciné máy lạnh, coi Lý Tiểu Long múa võ hành hiệp giang hồ, thêm vào đó là mối tình đầy thơ mộng với giai nhân Miêu Khả Tú. Hết ciné, Dung dẫn tôi vô quán Cái Chùa, uống cà phê đen nhìn thiên hạ dẫn nhau dạo phố.

 

Dung nói với tôi:

 

-Anh đừng có lo, gọi là quán Cái Chùa nhưng nó chắng dính dáng gì đến Tăng ni hay Phật tử, mà đó là nơi tụ họp của mấy ông nhà văn, nhà báo của Sài Gòn.

 

Tôi hỏi Dung:

 

-Tại sao em biết, ở đây chỉ dành riêng cho mấy ông nhà văn và báo chí.

 

-Anh Biên nói với em như vậy.

 

Tôi nói:

 

-Đúng, anh Biên nói không bao giờ sai.

 

Khi chiều đến, hai đứa kéo nhau qua Thủ Đức mỗi đứa một chai bia 33 nhậu với nem chua, nem nướng. Nem Thủ Đức vốn nổi tiếng khắp miền Nam, có điều lá dùng để gói nem hơi nhiều. Một xâu nem độ chừng chục cái đựng trong một cái rổ nhỏ, hai đứa ăn cho đến khi đống lá gói nem cao hơn chai bia mới ngừng. Sờ lại bụng vẫn còn thấy đói.

 

Hai tháng học đại đội trưởng trôi qua cái vù, nhanh như chớp mắt. Ngày mãn khóa học, trước khi trở về Đà Lạt tôi nắm chặt tay của Dung.

 

-Anh sẽ nói với ba má anh xuống đây gặp ba má em. Mình phải tính chuyện làm đám cưới.

 

Nói xong tôi mới giật mình tỉnh mộng, tôi nói cho có chuyện để mà nói. Tôi biết mình đang ở trong thế kẹt, ba má tôi và bác Bảy đã định liệu hôn nhân của tôi và Cúc, người lớn nói chuyện với nhau rồi tuy tôi không có ý kiến nhưng cũng đã ngầm đồng ý. Giờ đây một bên là mối tình đầu đầy thơ mộng, một bên là tiền tài và danh vọng, tôi phải chọn bên nào?


Huy Văn Trương

(CÒN  TIẾP)

Source: http://chinhnghia.com/  



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.