Thứ Sáu, 22 tháng 10, 2021

CÒN CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ



K hi tôi thi đậu Tú Tài hai, cha mạ tôi liền tập họp cả nhà lại với nhau để bàn tính tương lai cho tôi, có hai anh trai tôi đi lính đóng quân ở Sài Gòn được dượng tôi ưu ái cấp phép nghỉ cùng một lúc để về nhà ăn mừng " cô Tú" là tôi đây., và thêm đứa em trai út, không thiếu mặt người nào Lẽ dĩ nhiên là tôi phải được vào Đại Học để sau này còn làm " cô Cử" nũa chứ vì tôi là niềm vinh dự cho gia đình mà. Cha tôi hỏi:


- Con thích học ngành chi?


Tôi trả lời ngay:


- Dạ, nghành Báo Chí, con thích làm phóng viên…


Cha lắc đầu:


- Không được, con gái nết na thùy mị không thể đi lung tung để săn lùng tin tức…, học ngành khác đi.


- Rứa thì con học Luật, con thích làm luật sư.


Hai anh khoát tay phản đối:


- Em như trái mít ướt, hơi tí là khóc, chưa cải được chi cho thân chủ, bị hù dọa là khóc liền ở trước tòa, không được, học ngành khác.


Tôi sụ mặt:


- Hai ngành con thích mà không cho học, con biết học ngành chi chừ.


Đến lượt mạ lên tiếng:


- Thôi, học cái chi mà ra làm giáo sư ấy.


- A, đúng rồi, học Sư Phạm hợp với con lắm đó.


Tôi lắc đầu:


- Con không thích ngành Sư Phạm, chán lắm, để từ từ con nghỉ coi, còn lâu mà, con mới đậu thôi, đã lấy bằng tú tài mô.


Cuộc họp tạm thời chấm dứt khi Vú dọn cơm ra bàn, cha mạ tôi vui nhất, rồi tới Vú. Bửa cơm hôm nay Vú nấu nhiều món ngon để khao "cô Tú ". Tôi thật là hạnh phúc.




Anh hẹn gặp tôi ở dốc đồi dòng Phanxico, vú là người đưa thư hẹn hò vì cha mạ không cho tôi dính vô chuyện tình cảm khi phía trước của tôi là cả một tương lai sáng lạn. Nhưng mà…ai cấm nổi trái tim tôi đừng yêu.


Anh nhìn tôi cười và hỏi:


- Răng? Thủy chọn học ngành chi?


Tôi than:


- Thủy muốn học Báo Chí hoặc là Luật mà nhà không cho, chán ghê.


- Rứa thì để anh chọn cho ha, chịu không?


- Anh thích Thủy học chi chừ?


- Anh thích Thủy học Sư Phạm, mai sau làm cô giáo, anh thích vợ mình là cô giáo, vừa đi làm mà lại có thì giờ lo cho chồng con, Thủy hiền lắm, làm cô giáo rất hợp. Anh sẽ đợi, mấy năm anh cũng đợi, cho tới khi mô Thủy ra trường đi dạy học thì hai đứa mình cưới nhau.


Anh nói tiếp:


- Lên Đà Lạt cho gần, anh hỏi thăm rồi, ở trường trên nớ có ngành Sư Phạm đó.


Tự nhiên tôi thấy yêu nghề dạy học quá, vậy là tôi quyết định học Sư Phạm. Thật là mau lẹ và đơn giản. Buổi tối trong bửa cơm tôi nói với cả nhà:


- Con quyết định học Sư Phạm với Văn Khoa, sau này dạy Văn chương.


Mọi người thở phào vui vẻ, bây giờ tới lượt: Học ở đâu? Sài Gòn chăng? - không được, trong đó xô bồ dể hư thân. Huế à? - ái chà, xa quá. Vậy thì Đà Lạt? - Được đó. Thế là xong.


Trong khi chờ đến ngày tựu trường tôi và anh vẩn hẹn hò gặp gở nhau, vẩn viết thư cho nhau dù ở rất gần nhau và Vú là người làm công việc " chim xanh" cho hai đứa. Khi thấy tình cảm của chúng tôi lớn dần theo ngày tháng thì cha mạ tôi bắt đầu can thiệp: ngăn cấm không cho quen nhau nữa nhưng ông bà đã chậm mất rồi…




Tôi nhập học, nhờ sự giới thiệu của Đức cha Nguyễn văn Thuận mà tôi được nhận vào ờ trong Đại Học Xá Bình Minh. Tôi bắt đầu làm quen với đời sinh viên và thích thú vì được sống xa nhà.


Đà Lạt đẹp và tình tứ, lãng mạn, nên thơ, tôi chấm điểm mười cho thành phố của Hoa Anh Đào, Mimosa, Dã Qùy, Pensée…Viện Đại Học nằm trong một khu đất rất rộng, trong khu đất đó có nhiều ngọn đồi và trên mổi ngọn đồi là một giãng đường như: Minh Thành 1,2,3,4, giãng đường Spenmell… khu Năng Tỉnh có một ngôi Thánh Đường nhỏ và một dảy phòng dành riêng cho các Giaó Sư từ SG hoặc Huế nghỉ lại. khu Năng Tĩnh này nằm trên một ngọn đồi có vị trí đẹp nhất, yên tỉnh nhất, còn có một câu lạc bộ dành cho sinh viên nữa.


Mới vào ở đại học xá có năm ngày thôi thì anh ấy đã bay lên thăm tôi, câu đầu tiên anh nói khi ôm tôi vào lòng là:


- Anh nhớ Thủy dể sợ.


Anh chỉ có hai ngày phép để lên ĐL, không có gì sung sướng hạnh phúc cho bằng khi hai ngày đó chúng tôi lúc nào cũng ở bên nhau, chỉ trừ buổi tối tôi phải về đhx để ngủ mà thôi. Đây là bí mật của chúng tôi, cha mạ tôi không hay biết gì.


Tôi vui lắm, làm sinh viên trường đại học không giống học sinh thời trung học. Tôi cảm thấy mình lớn hẳn, trưỡng thành và chững chạc, bản lãnh hơn, mặc dù lúc nào cũng bị kêu: "Thủy mi nhon", có lẽ tại tôi có một dáng dấp rất dễ thương và đặc biệt?


Những ngày nghỉ học các anh chị lớp lớn thường tổ chức những đêm " Văn nghệ bỏ túi" ở một giãng đường nào đó mượn được trong viện đại học. Được đi dự những đêm văn nghệ bỏ túi tôi thích lắm. Vì là lính mới tò te nên tôi rất ngưỡng mộ các chị ở lớp trên, đặc biệt trong số đó có hai chị hát rất hay, đó là chị Lựu và chị Thu Hiền. Người nào muốn đêm văn nghệ do mình tổ chức có " giá trị" thì phải cố làm sao mời cho được chị Lựu, chị Hiền. Chỉ cần một cây đàn guitare, với giọng ca chị Lựu thì Mái Tóc Dạ Hương trở nên óng ã như một dãi lụa đào. Hay Suối Tóc trở nên đen mượt như nhung. Và Ngày Xưa Hoàng Thị, chị Thu Hiền luôn làm cho lòng người nghe phải xao xuyến bồi hồi. Mấy đứa sinh viên đàn em năm thứ nhất như tôi rất ngưỡng mộ hai chị ấy nhưng hình như hai chị không hề để mắt tới…


Chỉ còn mười ngày là đến lể giáng sinh, anh viết thư hẹn với tôi ngày 23/ 12 anh sẽ lên thăm tôi hai ngày. Tôi như được bay bổng trên mây thì bất ngờ cha tôi lên trước anh một ngày, " áp tải" tôi về Nha Trang ăn mừng lễ giáng sinh với gia đình. Tôi buồn quá chừng. Anh gởi tặng tôi một hộp kẹo chocolat, quà không đến tay tôi mà lại đến tay cha tôi, thế là hộp kẹo đang được gói giấy kiếng hoa màu rất đẹp bị cha tôi biến nó thành một thứ đồ phế thải, và mạ tôi lại còn mang lên nhà cô của anh trả lại với một câu buộc tội:


- Hắn bỏ bùa mê trong kẹo cho con Thủy ăn…


Đêm Noel tôi khóc quá chừng.




Thời gian qua nhanh, tôi được lên năm thứ hai với số điểm khá cao mặc dù môn chử Nôm tôi không sao học nổi, và chỉ viết được có ba chử: họ và tên cuả mình. Hình như khi tôi lên năm hai thì giá trị của tôi trong con mắt cha mạ càng lớn, sự cấm đoán càng cao. Cha mạ tôi cương quyết đến tuyệt đối không cho tôi gặp gở anh ấy, đến nổi chỉ cần tôi và anh ấy nhìn nhau khi anh đi ngang qua nhà tôi, mạ lôi ngay tôi vào trong nhà mắng xối xã. Nhưng mà đối với tôi thì mổi lần bị cấm, bị mắng tôi lại càng thích thú, càng quyết tâm lao đầu vào yêu.


Mạ tôi lúc nào cũng đem anh ấy ra để"vạch lá tìm sâu" và cha tôi cứ tìm cách nhét những con sâu đó vào trong cái đầu của tôi, còn tôi thì khi nhận những con sâu ấy tôi đã đem băm vằm cho nó nát bấy và chôn thật sâu. Tôi nghỉ rất đơn giản: " người già thì có nhiều sâu hơn người trẻ". Và tôi càng yêu anh nhiều hơn, yêu luôn cả những con sâu anh có mà mạ tôi chưa kịp vạch ra.


Đến ngày nhập học, hai đứa tôi hẹn gặp nhau ở bến xe, anh sẽ đưa tiển tôi lên Đà Lạt. Tôi gởi hành lý cho bác tài xế, và leo lên ngồi sau chiếc xe gắn máy mà anh mượn của bạn, anh nói:


- Anh chở Thủy đi ăn sáng rồi đưa ra xe, sau đó anh về phi đoàn để đi bay.


Tôi không ngờ mạ tôi đã có sự nghi ngờ nên bà nhờ người quen chở ra bến xe tìm tôi, chỉ thấy đồ đạt mà không thấy tôi, bà giận điên người nên khi tôi từ trên xe anh bước xuống trước cổng bến xe, tôi vừa đến bên xe là mạ tôi bay vào túm tóc tôi đánh đấm túi bụi trước mặt đám đông như người ta đánh ghen. Bác tài xế nhảy vào can thiệp, lớn tiếng la mạ tôi là "ác mẩu", bác đẩy tôi vào trong xe, đóng sầm cữa lại…Anh có thấy hay không?


Suốt chặng đường từ Nha Trang lên Đà Lạt, tôi chỉ có một suy nghỉ duy nhất là: không bao giờ tôi rời xa anh.


Khi tôi học năm hai thì hai chị Lựu và chị Hiền học năm cuối, các chị vẫn được mời hát cho những đêm văn nghệ bỏ túi của sinh viên. Và một lần chị hát bài: "Còn một chút gì để nhớ", một bài hát rất mới, rất hay, từng lời từng chử thấm sâu vào trong tâm hồn tôi và tôi nghỉ rằng nhất định một ngày nào đó mình sẽ lên dạy học ở trên đó. Mổi cuối tuần sinh viên mới có thời khóa biểu cho tuần tới tùy theo sự sắp xếp của các Giaó sư ở SG nên có những tuần sinh viên phải học bù đầu bù cổ, ngược lại có tuần thì rất rãnh rang. Hai khoa: Sư Phạm và Văn Khoa không phải học gắc gao như bên Chính Trị Kinh Doanh hay Khoa học mà cứ tà tà…vừa học vừa rong chơi nên tôi có lắm thời gian " đuổi hoa bắt bướm".


Ngày nghỉ lể tôi phải về thăm nhà vì cha tôi bắt buộc như vậy, sợ rằng anh sẽ lên thăm tôi. Chưa bao giờ tôi có một mùa Gíang Sinh vô nghĩa đến như thế khi mà tôi bị cha mạ canh chừng như canh tù, cha tôi còn bắt tôi phải vào nhà thờ, mở sách thánh ra rồi đặt tay lên đó mà thề là không được yêu anh ấy nữa. Tôi nhất định không chịu mặc cho cha mạ tôi hò hét khóc lóc. Dù bị nghiêm cấm nhưng nhờ Vú che đậy và em trai tôi " đưa đường dẫn lối" nên hai đứa tôi cũng thường xuyên được gặp nhau.


Một ngày gần cuối năm cha mạ tôi thông báo một tin động trời:


- Cha mạ sẽ gả con cho anh H. con của ông N. Qua tết làm đám hỏi, chừng mô con ra trường thì đám cưới.


Tôi biết anh H. này rồi, nhà anh ta ở bên Đồng Đế, tôi ví nhà đó như một lò sản xuất ra toàn là giáo sư; cha của anh ta dạy pháp văn trường Lasan, anh của anh ta vừa là linh mục vừa là giáo sư thần học của Giaó Hoàng Học Viện Đà Lạt, em gái cũng là giáo sư, lạ một điều là cả nhà họ đếu dạy tiếng Pháp ở những trường nổi tiếng. Dưới con mắt của cha mạ tôi thì đó là một " mối ngon".


Cha tôi ép buộc tôi phải đi chơi, đi xem ciné, uống cà phê, ăn kem…v. v…và…v. v với anh H., sự ép buộc của cha cộng thêm mấy con sâu mạ tôi vừa bắt được ở nơi anh ấy tạo cho tôi một áp lực quá lớn. Tôi nhận lời đi chơi với anh ta cho khỏi bị tra tấn.


Anh H. đưa tôi đi ăn kem, tôi ngồi im lặng từ đầu tới cuối, anh ta nói nhiều lắm, vẽ ra cho tôi thấy một bức tranh đẹp trong đó có tôi và anh ta, anh ta nói đến chử hiếu và đạo làm con mà tôi phải thực hiện, cuối cùng anh ta nói một câu chắc nịch:


- Cha mạ em đã hứa gã em cho anh rồi đó, em phải nghe theo lời người lớn, quên anh chàng phi công đó ngay.


Trời đất, tôi nghỉ đầu óc anh H. này có vấn đề hơi lộn xộn, nơi anh ta có một con sâu róm khổng lồ đầy lông lá rất đáng sợ mà sao cha mạ tôi lại không nhìn thấy?


Ăn xong ly kem tôi nhất định đòi về. Tới cổng nhà tôi vừa quay lưng thì anh ta đưa tay nắm lấy tay tôi, tôi rùng mình ớn lạnh, lật đật rút tay ra và đi thật nhanh vô nhà, tôi ra sau sàn nước lấy xà bông rữa tay cho thật sạch, vừa kỳ cọ bàn tay tôi vừa cảm thấy có lổi với người yêu của mình khi đã để cho người khác chạm vào tay tôi, vì ngoài anh ấy ra không một ai được đụng vào tôi.


Em trai tôi chở tôi đi lễ nhà thờ DCCT Nha Trang, thật sự thì em tôi chở tôi đến chổ hẹn hò với anh, cha mạ tôi đã giao tôi cho em tôi canh giữ, tôi mừng lắm vì ông bà đã " giao trứng cho ác" mà không biết.


Tôi khóc với anh và bàn tính kế hoạch cho hai đứa:


- Anh ơi, anh xin đổi lên Pleiku làm việc đi anh, học hết năm nay Thủy sẽ lên sau. Năm thứ ba, thứ tư không cần phải thường xuyên có mặt trong giãng đường, lên đó mổi tháng Thủy về Đà Lạt lấy cour học hàm thụ cũng được, cuối năm thứ ba làm dự án, năm thứ tư làm luận án ra trường là được rồi. Có như rứa hai đứa mình mới được tự do yêu nhau, gặp nhau. Cha mạ bắt Thủy phải lấy ông H. đó anh.


Anh cũng than thở với tôi:


- Anh không thể xa Thủy, mà gặp nhau thì không được, yêu nhau lại bị cấm, khổ quá trời. Ừ thôi anh xin đổi lên Pleiku, lên trên đó buồn lắm à nghe, xứ toàn người Thượng không hà.


Tôi an ủi anh:


- Chỉ cần hai đứa mình có nhau, ở bên nhau là vui rồi.




Anh đổi lên Pleiku thật, nhận được thư anh kể về phố núi Pleiku buồn da diết, cuối thư anh còn viết: " Thủy mà không lên đây với anh chắc anh buồn mà chết quá," tôi thương anh đứt ruột và xót xa trong lòng. Tôi quyết định bằng mọi giá phải lên trên đó với anh.


Tôi biết ở Pleiku có Linh mục Nguyễn Viết Nam là bạn thân với cha tôi thời kỳ ông còn làm trưỡng khu dinh điền ở trên đó theo lệnh của TT Ngô Đình Diệm, tôi xin cha tôi địa chỉ của Ngài và viết thư thăm hỏi, nhờ vả…May mắn thay trường Trung Học Minh Đức 2 của ngài thiếu giáo sư trầm trọng vì nó ở rất xa thành phố, thế là tôi có hậu thuẩn mạnh mẽ. Không ai biết anh ấy đã đổi lên Pleiku được mấy tháng và đang nóng lòng chờ đợi tôi.


Tết năm đó tôi không về nhà ngay mà mua vé máy bay lên thăm anh, tôi ra bưu điện đánh điện tín cho anh biết chuyến bay, giờ máy bay cất cánh và giờ máy bay hạ cánh. Rồi tôi viết cho cha mạ một lá thư, xin phép cho tôi qua nhà cô bạn cùng lớp ở Thái Phiên chơi mấy ngày trước khi về nghỉ Tết. Tôi đã nói láo một cách rất là trơn tru…


Khi máy bay quay vòng và đáp xuống phi trường, nhìn qua khung cửa sổ nhỏ tôi thấy anh đang ngồi bên thềm nhà khách, trời ơi, giây phút chờ cho động cơ máy bay ngừng hẵn sao mà dài như cả thế kỷ, rồi khi người ta mở cánh cửa máy bay ra tôi đã thấy anh đứng ngay bên dưới, sát chân cầu thang, tôi nhảy từng ba bật một, vèo một cái là anh đã ôm gọn tôi vào lòng…


Tôi ở nhà xứ của cha Nam một tuần, chúng tôi vô cùng hạnh phúc sung sướng, cả bầu trời, cả thế giới là của chúng tôi. Hai đứa tôi kể hết sự tình cho cha Nam nghe và xin ngài giử im lặng dùm, nếu không thì tôi sẽ bị nhốt vào " tù"…Dĩ nhiên là ngài đồng ý để " đôi bên cùng có lợi". Trước tết hai ngày tôi mới về lại Nha Trang, và nhất đình không trả lời bất cứ câu hỏi nào của hai quan tòa: cha và mạ.


Sau những ngày nghỉ Tết tôi trở lại Đà Lạt tiếp tục học cho hết niên học và nóng lòng chờ đợi câu trả lời của vị cứu tinh: cha Nam.


Nhận được sự vụ lệnh do cha Nam gởi về, tôi đưa cho cha mạ xem, ông bà mừng lắm, cứ nghỉ rằng tôi mà lên đó dạy học là coi như không thể nào tiếp tục yêu, tiếp tục gặp anh ấy vì ông bà đinh ninh anh vẩn đang làm việc ở Nha Trang. Và nhất là tôi được vào dạy ở ngôi trường lớn nhất thành phố Pk, chừng năm sau ông bà sẽ tiến hành cho anh chàng H.cưới tôi…




Tháng chín tôi lên Pleiku, anh đón tôi ở phi trường Cù Hanh, hai đứa tôi choán ngợp vì hạnh phúc khi được ở bên nhau. Tôi đến trình diện thầy Lập- hiệu trưỡng trường trung học PK- người đầu tiên tôi quen là cô thư ký của trường tên Tuyết Nhung, vì đồng trang lứa lại là đồng hương nữa nên dễ làm thân, tiếp đến là bác Vơn- kế toán của nhà trường. Thầy Lập viết cho tôi mấy chữ, biểu tôi xuống phòng giám học đưa cho anh Cư để nhận lớp. Anh Cư biểu tôi ngồi chờ ở phòng giáo sư, anh sẽ xếp thởi khóa biểu cho tôi sau.


Đang ngồi ngơ ngác nhìn quanh phòng thì một anh- sau này mới biết là anh Cẫn giám thị trường- đến đuổi tôi ra ngoài vì " đây là phòng giáo sư, học sinh không được ngồi trong này". tôi nhìn lại bộ áo dài trắng mình đang mặc trên người, nó rất dễ gây ngộ nhận.


Nhờ vợ thầy Lập chỉ dùm mà cha Nam mướn được cho tôi một căn phòng nhỏ trên gác xép của anh chị Ninh, số 7 đường Tăng Bạt Hổ, nói đúng hơn đây chỉ là một cái kho cất toàn những thứ " hằm bà lằn xắn cấu" đầy mùi ẩm mốc, nhưng không sao, anh nói chừng nào hai đứa cưới nhau tôi sẽ về ở cùng anh trong cư xá, anh sẽ năn nỉ sang thêm cái phòng bên cạnh của người bạn để nới ra cho rộng thành " tổ ấm của chúng mình".


Thời khóa biểu của tôi như sau: từ thứ hai cho đến chiều thứ tư tôi dạy ở trường trung học Pleiku, mấy ngày đó tôi ở nhà chị Ninh. Chiều thứ Tư anh đưa tôi về Phú Thọ dạy trường của cha Nam cho đến chiều thứ bảy, những ngày đó tôi ở trong nhà xứ của cha. Nếu Chúa nhật không thích ở trên phố thì chiếu thứ bảy anh về Phú Thọ với tôi để sáng thứ hai đưa tôi lên phố thật sớm cho kịp giờ tôi dạy học và anh vào phi trường để bay, thường thì hai đứa vào cà phê Văn uống một ly cà phê sữa nóng, anh đưa tôi đến tận cổng trường rồi mới quay đi.



Những tháng ngày được ở bên nhau thật tuyệt vời, có những buổi chiều khi tôi ở Phú Thọ anh lái máy bay lượn mấy vòng tròn trên tháp chuông nhà thờ, chỉ cần nghe tiếng ù ù của chiếc L19 tôi biết ngay đó là anh, tôi chạy ra sân thấy rỏ anh đang nhìn xuống vẩy vẩy tay chào, khoãng chừng một giờ sau là anh từ ngoài con đường đất đỏ lững thững đi vào. Chúng tôi lúc nào cũng tay nắm lấy tay nhau không muốn rời ra dù là chỉ một phút hay thậm chí là một giây, thích nhất là những ngày trời mưa, anh không đi bay, tôi được nghỉ dạy vài giờ, chúng tôi ngồi bên nhau, tay trong tay bên ly cà phê sữa nóng trong quán Vị Thủy, nhìn mưa rơi bên ngoài, cảm giác ấm cúng, ngọt ngào không sao diễn tả cho hết, hai đứa bàn chuyện về con cái: sẽ có bao nhiêu con, mấy trai mấy gái…, về cách sống với nhau, anh hứa sẽ nhường nhịn, nâng niu tôi, sẽ không để cho tôi buồn rầu, đau khổ hay phải chịu vất vã cực nhọc thân xác…


Buồi tối anh thích ngồi trên cái giường sắt của tôi ngủ để nhìn tôi chấm bài, mổi khi tôi chấm bài cho học trò, anh hay hỏi:


- Có lá thư tình nào của học trò nhét trong đó không?


Vì một lần anh lấy được từ trong xấp bài tập của học trò ra một lá thư tình gởi cho "cô Thủy". Tôi cười trả lời anh:


- Đã nói là Thủy chỉ cần có anh mà thôi.


Hai đứa tôi rất thích bàn tính chuyện mai sau, và dành dụm tiền để lo cho đám cưới. Anh nói với tôi:


- Đám cưới của tụi mình anh sẽ mặc lể phục không quân, Thủy mặc áo dài Trắng, anh xin với cha Tuyên Uý còn Thủy thì xin cha Nam, hai cha cùng làm lể cưới cho tụi mình, cha mạ anh ngoài Huế vô với mấy đứa em, không có cha mạ Thủy, Thủy có tủi không?


Tôi cười trong sung sướng:


- Thủy chỉ cần có anh thôi, anh Thăng với Thống hứa sẽ lên, hai người làm nhà gái.


Pleiku nhỏ xíu, đi lên đi xuống đã về chốn cũ rồi. Ngày nào anh cũng đến trường đón tôi, ngày nào hai đứa cũng đi lên đi xuống lòng vòng mấy con đường, ngồi quen ở mấy quán cà phê. Một lần trong phi đoàn của anh mở tiệc sinh nhật của phi đoàn, anh không dự mà đến với tôi, đưa tôi đi ăn cháo tôm, đi xem cinéma ở rạp Diệp Kính, ngồi trong rạp anh cầm tay tôi đưa lên ngực phía bên trái tim anh mà nói:


- Thủy ở mải nơi đây, trong trái tim anh, không bao giờ mình xa nhau nghe Thủy.


Tôi gật đầu và nép vào vai anh, hạnh phúc thật tràn trề. Khi hết phim chúng tôi đi về trên con đường thanh vắng, trăng sáng ở trên cao soi bóng tôi hòa vào bóng anh. Trước cổng nhà chị Ninh có cây hoa Ngọc Lan, nó là nhân chứng thầm lặng và làm thơm chuyện tình của chúng tôi.


Tôi yêu anh nồng nàn say đắm bằng tất cả trái tim, anh cũng yêu tôi vô cùng tận.


Chuyện của chúng tôi không dấu mãi được, cha mạ tôi biết chuyện đã xin cơ quan nghỉ mấy ngày lên tận Pleiku để làm dữ, bắt buộc tôi phải về Nha Trang "- không dạy học thì thôi…nhưng con phải xa hắn ra",cũng may anh ở trong phi trường, tôi báo tin cho anh biết, tạm thời hai đứa không gặp nhau, cứ " án binh bất động" chờ tới lúc ông bà về lại Nha Trang. Riêng tôi thì cứ " bình chân như vại", mấy ngày đó không được gặp nhau hai đứa tôi nhớ nhau điên cuồng.


Tôi đang làm luận án năm cuối để ra trường, ra trường rồi chúng tôi sẽ làm đám cưới, không còn cảnh hai đứa ở hai nơi như bây giờ: đứa thì trong phi trường, đứa ở ngoài gác trọ…mà chúng tôi sẽ ở chung một nhà, không có gì chia lìa được chúng tôi.




Tôi đâu có ngờ, cuộc tình của chúng tôi đẹp như mơ, cứ ngỡ rằng không bao giờ chia lìa nhau. Anh về tận Huế để làm cho tôi tờ Sơ yếu lý lịch số ba rồi bắt tôi đưa khai sinh để anh xin phép bên an ninh làm hôn thú với tôi, nhưng cùng lúc đó bác Vơn kêu tôi làm hồ sơ đề xin vào ngạch trật, tôi lưỡng lự chưa vội đưa khai sanh như lời anh nói. Rồi đến một buổi chiều cha Nam đi ra phố về, kêu tôi lại, đưa cho tôi một lá thư và nói:


- Đây là thư của cha con gởi cho con, đọc xong thì đốt đi, không được đưa cho anh ấy xem. Nhớ nhé.


Tôi hồi hộp, tim đập mạnh, những mạch máu trong người như muốn vở ra, tôi đọc thật nhanh vì tôi thường có cảm giác sợ hải bất an mổi lần nhận được thư cha, khi mắt tôi bắt gặp giòng chử " cha mạ cho phép hai đứa cưới nhau" thì tôi sung sướng quá, không cần đọc gì thêm, tôi khoe với cha Nam:


- Cha ơi, tin vui mà, cha mạ con đồng ý cho hai đứa con cưới nhau rồi.


Cha Nam bỉu môi:


- Xì, con ngu bỏ mẹ, không hiểu ông ấy muốn viết gì à? Nghe lời khuyên của cha, đốt lá thư này đi.


Tôi không hiểu điều gì khiến tôi bỏ đi lời khuyên của cha Nam mà lại đưa lá thư ấy cho anh xem vào một tối khi anh đến thăm tôi như thường lệ, tôi chỉ nghỉ một điều: cha mạ tôi đã đồng ý cho hai đứa lấy nhau…


Đọc xong lá thư của cha tôi, anh ra về sớm hơn mọi lần, anh còn mượn lá thư đem về để đọc cho kỷ. Đêm sau anh đến, nói với tôi một câu làm cho tôi nghẹn thở:


- Anh nghỉ kỷ rồi, hai đứa mình chia tay nhau thôi.


Rồi anh ra về. Đi nhanh như chạy trốn tôi, đó là một đêm mưa rất to.




Phố núi buồn như chưa bao giờ buồn. Những ngày tháng xa anh ấy tôi như bị một làn sương mù dày đặc vây quanh, nhìn đâu cũng thấy mọi thứ đều mờ mờ ảo ảo như người bị mắc bịnh quáng gà, tôi đi đến đâu cũng mang theo trong tim ngàn vạn nổi nhớ về anh và một tâm hồn rướm máu, vì bất cứ nơi đâu cũng đều ghi dấu chân kỷ niệm của chúng tôi. Cha mạ tôi có biết rằng chính ông bà đã giết chết tôi trong nổi đau đớn này không? Làm sao mà tôi có thể quên được anh ấy khi giữa hai chúng tôi có biết bao kỷ niệm với đủ thứ mùi vị chua cay đắng mặn và những tháng ngày hạnh phúc tuyệt vời trong men say mật ngọt. Cha mạ tôi đã phá nát mối tình đầu của tôi, làm cho trái tim tôi lúc nào cũng nhức nhối.


Tôi bắt đầu đi chơi nhiều, chiều nào tan trường cũng lên phòng thư ký rủ Nhung đi lang thang, điểm dừng của hai đứa tôi bao giờ cũng là một quán cà phê nào đó, không nhất thiết phải là Vị Thủy, hay là một hàng bún, phở, bánh bèo…chẳng có mục đích gì cả, Nhung ưa hỏi tôi:


- Răng Thủy buồn hoài rứa?


Tôi trả lời:


- Thủy muốn chết đây, chớ buồn mà sá chi.


Nhung xoa xoa sau lưng tôi, không hỏi tiếp. Tôi rất sợ sau mổi lần đi chơi, về lại phòng trọ nhà chị Ninh, nghe tiếng nhạc từ phía rạp ciné Thanh Bình vọng lại, những bản nhạc Pháp mà tôi và anh thường nghe mổi lần ngồi bên nhau, trong căn gác xép này, cũng từ rạp hát vọng qua, tim tôi như bị dao đâm, đau đớn không thể nào chịu nổi, và khi chịu không nổi thì chỉ có khóc mà thôi. Đêm về trong giắc ngủ chập chờn tôi luôn bị hoãng loạn trong một nổi cô đơn vô cùng khủng khiếp. Chị Ninh thắc mắc:


- Sao lâu quá mà không thấy cậu B. đến thăm em? Chừng nào thì hai đứa cưới?


Tôi không nói cho chị biết là chúng tôi đã chia tay nhau rồi.


Mùa hè đến, học sinh bải trường nhưng tôi không về nhà mà ở lại xin được làm giám thị phòng thi của khoa thi tú tài toàn.


Phòng thi tôi làm giám thị có một anh chàng cao cao ốm ốm, đôi mắt rất đẹp, tôi kiểm phiếu báo danh để biết tên: Nguyễn thành Tấn, lính không quân…cái gì có dính líu về anh ấy dù chỉ một chút xíu thôi cũng làm cho tim tôi nhói một cái.


Tôi đến bên cạnh Tấn, nói với cái giọng rất là cô giáo:


- Làm bài đi chứ, đọc cho kỷ rồi đánh dấu vô chử A hay B, C, D…


Tấn cà rởn với tôi:


- Cô chỉ bài cho tôi nghen, thi đậu tôi cưa cho cô nữa cái bằng.


Tôi trả lời:


- Lở thi hỏng thì răng?


Anh chàng cười, nói đùa rất bạo:


- Thì tôi cưa cho cô phân nữa đời tôi đây nè.


Tôi ngượng quá bỏ đi lên bàn, ngồi nhìn xuống phía dưới, trong lòng chỉ là một sự trống trải to lớn vây quanh. Buổi sáng thi xong cậu học trò của trường chở tôi về gác trọ, buồn và cô đơn kinh khủng, tôi lại xuống phố tới vào nhà sách tìm một cuốn truyện nào đó mua về đọc để giết thời gian …thì gặp Tấn từ dưới dốc đi lên, anh chàng cười chào tôi, hỏi:


- Cô đi đâu cho tôi theo với.


Không chờ câu trả lời của tôi, Tấn quay lại đi theo tôi một đoạn đường, lại hỏi:


- Cô tên gì? Dạy trường nào? Nhà ở đâu?


- Tôi tên Thủy, dạy trường Trung Học Pleiku, nhà ở Nha Trang.


- Sao cô nói giọng Huế?con gái nói giọng Huế hay ghê, tôi thích lắm đó. Cho tôi làm quen với cô há, tôi đưa cô về há?, cô mướn nhà ở đâu?


Tôi cười vì Tấn hỏi một loạt không ngừng để cho tôi kịp trả lời.


- Anh nghe đây: quê nội ngoại tôi ở Huế, tôi mướn một căn gác xép nhỏ xíu trên đường Tăng Bạt Hổ. Còn hỏi chi nữa không?


- Còn chớ, cô học ở đâu mà lên cái xứ khỉ ho cò gáy này để dạy vậy? Ngày mai cô còn gác thi phòng tôi nữa không? Gác phòng tôi cho vui nha, chỉ bài cho tôi nữa.


Đã đến nhà rồi, tôi chào tạm biệt Tấn rồi lên phòng, chị Ninh kêu xuống ăn cơm, chị ưa nấu canh trứng, cà chua với mẽ, cái mùi mẽ khó chịu tôi không sao ăn nổi, lúc trước mổi lần tôi làm biếng ăn cơm, anh thường dẩn tôi đi ăn ở tiệm, lương tháng của phi công không nhiều, nuôi cơm tôi gần hết. Bây giờ tự mình vô chợ ăn tầm bậy tầm bạ cho no bụng.




Tấn rất hay đến tìm tôi nơi nhà chị Ninh, sau khi gác thi xong tôi về nhà xứ của cha Nam ở, cha cứ mắng tôi ngu mổi lần thấy tôi khóc vì nhớ và buồn, cha đã dặn rồi, đốt lá thư của ông ấy đi, đừng đưa cho anh xem, thế mà… mắng cho đã cơn giận cha lại an ủi:


- Thôi con ạ, rồi thời gian sẽ làm lành mọi vết thương trong lòng con.


Tấn tìm đến tận Phú Thọ thăm tôi rất nhiều lần, một buổi sáng Tấn xuống Phú Thọ rất sớm và rủ tôi đi lên phố xem ciné, tôi cũng đi nhưng khi ra tới phố, lúc Tấn vào tiệm Cao Nguyên mua bánh Paté chaud để vừa xem phim vừa ăn thì tôi nhất định đòi về. Nhiều khi tôi không còn hiểu được mình, hình như cuộc sống của tôi bị mất phương hướng, cây kim chỉ nam trong đầu tôi cứ quay lung tung.


Cha mạ tôi viết thư thúc hối tôi về Nha Trang, nghỉ hè trôi qua đã hai tháng rồi mà không thấy tăm hơi tôi đâu cả. Nhưng không thể nào không về nhà, tôi không nói gì với cha mạ, và khi cha mạ vừa mới khơi chuyện thì tôi bỏ đi. Buồn lắm, khi thành phố Nha Trang không nơi nào mà không có bóng hình anh.


Tôi quyết liệt phản đối chuyện cha mạ tôi tổ chức lể hỏi cho tôi và anh H, tôi nói rất cứng rắn là tôi sẵn sàng chết hơn là lấy anh ta, tôi cũng nói với ông bà rằng:


- Cha mạ đã giết chết con một lần rồi, đừng giết con thêm lần nữa.


Tôi cũng nói riêng với anh H.


- Anh đừng cưới tôi, bây giờ tôi chỉ là cái xác không hồn mà thôi.




Không hiểu sao tôi trở lại Pleiku để dạy tiếp, hình như tôi cứ bị trôi đi trong vô thức. Tuyết Nhung vẩn là người bạn thân duy nhất để tôi tìm đến mổi khi tôi buồn và khóc, mà ngày nào thì tôi cũng buồn.


Cha Nam nhận thêm một giáo sư tên Hằng vào dạy, bấy giờ tôi mới biết Hằng là em của chị Bích dạy cùng trường với tôi ở trên phố, hai đứa con gái đồng trang lứa nhanh chóng quen nhau. Hằng cho biết đang ở cùng với bố mẹ, chị Bích và các em.


Hằng rủ tôi về nhà chơi, nhà Hằng đông người quá trời, tôi đếm có đến mười bảy người, có em trai của Hằng là Khải đi lính bị thương đang được ở nhà dưỡng thương. Tôi thường đi chơi với chị em của Hằng, tôi đang rất buồn và đang muốn quên, mà tôi nào còn phướng hướng gì đâu?


Thật bất ngờ khi Pleiku chộn rộn chuyện di tản, những ngày đó tôi cứ chạy ra chạy vào cổng phi trường, chạy qua chạy lại nhà chị Bích. Rồi khi sự hoãng loạn trong thành phố lên đến đỉnh điểm, một sáng tôi vô phòng thư ký của trường để kiếm Nhung thì… trống không. Nhung đi đâu mất tiêu, chạy về nhà chị Ninh thì chỉ nhận được một mảnh giấy nhỏ anh chị viết gởi lời chào tạm biệt tôi.


Gia đình chị Bích là cái phao để cho tôi bám vào trong lúc này, tôi không dám xa gia đình chị một bước. Cám ơn Chị và tất cả những người trong gia đình chị đã đưa cái phao ra cho tôi bám vào, mãi mãi tôi không bao giờ quên.


Tôi rời xa thành phố có rất nhiều kỷ niệm của tôi và anh ấy, thành phố mà từng con đường, từng góc phố đều in dấu bước chân của chúng tôi; vào một ngày mà tất cả mọi người cùng nhau bỏ ra đi để lại một Phố núi quạnh hiu buồn tủi.




Một buổi sáng ngày thứ năm, tháng năm của năm 1975, lúc đang lang thang trên con đường Nguyễn Huệ ở Sài Gòn, thì tôi tình cờ gặp lại Tấn như một mối tơ duyên tiền định. Tấn theo tôi về nhà và từ đó hai đứa tôi trở nên thân thiết. Tấn làm cho tôi quên được những năm tháng đau buồn, tôi trở thành một người khác: vui vẻ, yêu đời trở lại, đôi mắt tôi không còn bị vương vướng bởi cái màng mỏng mờ mờ ảo ảo, nó đã được Tấn xé rách.


Nhưng Pleiku với tôi là huyền thoại, mà huyền thoại thì bao giờ cũng đẹp, cũng đáng yêu, đáng nhớ. Không phải là " còn chút gì để nhớ" mà còn rất…rất…nhiều đ ể nhớ. 

Source: http://vietvanmoi.fr/index3.8157.html


Thứ Năm, 21 tháng 10, 2021

CHÂN MỀM TRÊN ĐÁ - Phần V

 HỒ THỦY


25/03/1975

Bịnh của bà An trở nặng nên anh Đạt đành phải quyết định nghỉ lại, chờ đến chừng nào bà khỏe hẳn rồi mới đi tiếp, nhờ có cái chòi này (phải gọi là nhà sàn mới đúng vì nó cao hơn mặt đất khoãng 8 tấc, vừa rộng lại vừa đẹp) mà bà An nằm nghỉ được thoải mái, cũng không sợ bị mưa hay nắng. Sáng nay tôi theo mấy anh con trai trở lại khúc sông hôm qua để bắt cá, thật buồn cười vì sáng nay khi quay lại giòng sông cũ chúng tôi mới khám phá ra 1 con đường tắt rất gần nơi cái chòi; chỉ chừng 300m, hèn gì đêm hôm qua tôi nhìn thấy ánh trăng lấp loáng trên mặt nước, khúc sông này nên thơ quá làm chao đảo lòng tôi, tôi dẫn bé Lan xuống sông tắm gội thật kỉ cho bé, chị Bích soạn bộ đồ của ty em cho bé đem theo để thay, tôi chọc cho nó cười, hai chúng tôi thơ thẩn đi dọc theo bờ sông lượm những hòn đá màu xám tròn; trơn láng để dành chơi ô quan, rồi lang thang vào sâu trong rẫy hái nhũng bông hoa dại, đi chán tôi và bé quay lại chổ mấy chàng đang bắt cá, Khải kêu to: – “Thủy ơi, xem này;” Khải cầm mấy con cá đưa lên cao vẩy vẩy cho tôi thấy sau đó liệng qua cho Minh. Hôm nay mấy chàng lưới được chừng 1 chén cá, nồi bắp Ngân nấu từ sáng sớm giờ đã nhừ, chị Bích biểu Ngân bỏ cá vô nồi để thành nồi cháo bắp nấu với cá. Bình thường nấu cá mà không đủ gia vị thì nó tanh ói, nhưng lúc này chỉ cần được như vậy là nhất rồi, không ai còn để ý về mùi tanh của nó nữa. Hơi nóng từ nồi cháo bắp nấu với cá bốc lên nghi ngút, Hằng vừa thổi vừa đút cho bà An ăn, bà ăn được nữa ca cháo nóng; mồ hôi bà đổ ra chảy ròng ròng trên trán, ai nấy đều vui mừng, nồi cháo dù thiếu thốn đủ thứ gia vị nhung ăn ngon vô cùng, bà An đã bớt sốt và có vẽ tỉnh táo hơn hôm qua nhiều, bà đã ngồi dậy nói chuyện với mọi người trong gia đình, mấy đứa con chị Bích ngồi sát vào bà, một cảnh tượng trông thật đầm ấm vui vẽ, tôi rủ Hưng, Phi, Đạt nhỏ ra bờ sông chơi, giữa lưng chừng trên bờ và dưới nước có 1 tãng đá lớn, chúng tôi leo lên đó ngồi, 2 chân thòng xuống nước, những làn sóng nhỏ va đập nhẹ nhàng vào chân của chúng tôi tạo nên một cảm giác dể chịu thích thú vô cùng, đang ngồi hưỡng thụ thì Hằng chạy tới, Hằng cũng leo lên ngồi trên tãng đá kế bên tôi, cô nàng nhìn qua bên kia sông và hát “này người yêu; người yêu tôi ơi…”… Đạt nhỏ khen giọng Hằng hát hay, tôi kể cho Mạnh nghe:

– Chị Bích hát hay hơn Hằng nhiều, không thua gì Thái Thanh, ngày xưa anh Thi mê giọng ca của chị Bích rồi cưới chị, đó là chị kể cho Thủy nghe, mà anh Thi đẹp trai và oai phong lắm đó…

Hằng cười “- Thủy biết gì mà nói… ”

Ngồi trên tảng đá nghịch nước mãi cũng chán, tôi rủ Hằng đi thơ thẩn ngược lên trên giòng sông, hai đứa ngạc nhiên vì cảnh thiên nhiên với dòng sông xinh đẹp ở nơi đây, Hằng và tôi chọn 1 gốc cây lớn mọc ở ven sông, 2 đứa ngồi tựa lưng vào đó, tay tôi hờ hững xé nát nhũng chiếc lá vàng đưới gốc cây, cảnh đẹp nhưng sao lòng tôi buồn quá, có điều gì đó không rỏ rệt đang làm tan nát trái tim tôi, phải chăng niềm tin không còn? hay chuyến đi đầy bất trắc này? và nhất là tình yêu của tôi đã mất ?? ? không hiểu sao mỗi lần ngồi thinh lặng trước một cảnh đẹp tôi hay buồn và nghỉ ngợi lung tung. Phải kiếm việc gì đó để làm; tự nhiên tôi nảy ra sáng kiến làm 1 đôi giày bằng vỏ khô của trái bắp, mà thứ đó ở quanh rẫy thiếu gì, tôi sai bé Lan đi gom cho thật nhiều vỏ bắp đem về, tôi tìm 1 loại cây có vỏ mõng mà dai rồi tước nó ra từng sợi nhỏ làm thành những sợi dây, sau đó tôi lấy 1 cây que xỏ từng lá vỏ bắp rồi cặm cụi kết nó lại với nhau từng lớp, từng lớp cho thật dày và vuông như tấm thãm nhỏ, cuối cùng tôi luồn sợi dây quanh tấm thãm, tôi biểu bé Lan đặt chân vào rồi tôi rút dây thắc chặt cho nó ôm gọn chân con bé, tôi làm được 2 chiếc như vậy, thế là con bé có 1 đôi giày bằng vỏ trái bắp rất độc đáo và rất… tiền sữ. Bé Lan tung tăng nhảy nhót chạy về chòi khoe, một lát sau thì mấy cô em gái ào đến, tôi vừa làm cho tôi vừa chỉ cách cho mấy đứa, một trò vui mới bắt đầu với nhũng đôi giày thời tiền sữ, chúng tôi chia nhau công việc: gom lá, tước vỏ cây, kiếm que tre làm kim xỏ lá… tôi lấy 3 cây que xỏ vào 1 chiếc lá rồi đố: “cái gì đây? “, vừa lúc đó Khải ra tới, anh cười kí đầu tôi: “Thủy nói ai ba que xỏ lá hả?” “- ơ; Khải cũng thông minh ghê; “, tiếng cười của chúng tôi hồn nhiên vui vẽ, nhưng có ai biết cho rằng… ? Hằng đưa ra 1 ý hay:-” trong thời gian chờ mợ khỏe, tụi mình làm nhiều đôi giày như thế này để dành mà băng rừng lội suối,” tôi tán thành ngay “- mấy ông vc có đôi dép râu cụ Hồ thì tụi mình cũng có đôi giày của ông Thiệu, thua gì ai…”(ông Thiệu không có râu). Con gái làm giày thì con trai đi lưới cá… không ai còn rảnh để mà buồn.

Mấy anh con trai không thích ngồi lâu một chổ, ngoài việc lưới cá dưới sông, họ ưa vào sâu trong rẫy để kiếm thêm thức ăn phụ, đó là những gì còn sót lại trong nương rẫy, tôi và Hằng rất thích lang thang theo mấy anh, chiều nay chúng tôi vào trong làng Thượng thấy 2 vợ chồng người lưới cá đang phơi những con cá trên 1 cái nong, 2 người cười đưa nguyên 2 hàm nướu, không thấy 1 cái răng nào, đi quanh trong làng cho tới khi mỏi chân chúng tôi mới quay về, ôm theo chiến lợi phẩm; cũng là mấy trái đu đủ, mấy cây mía, riêng Mạnh; móc trong túi ra 1 gói muối to bằng trái ổi (không gì quí bằng… ) Đạt nhỏ cười: – Làng này nghèo lắm, trong làng có 1 cô bé xinh hết biết, da ngăm ngăm bánh mật duyên quá trời, cô em lén cho tôi gói muối này đây. chà… chưa gì đã thấy nhớ em rồi.

Khải nói đùa: – Tim ông rung rinh rồi hả? Mạnh nheo mắt nhìn Hằng: – có lẽ thế…

Trong mấy trái đu đủ có 1 trái chín trông thật ngon, anh Đạt gọt vỏ đưa mời bà An ăn, anh nói đu đủ là loại trái cây có nhiều chất bổ nhất, dành phần mợ ăn nhiều mau khỏe, phần còn lại chia cho mấy đứa nhỏ, còn người lớn chịu khó ngồi nhìn… Bà An ăn miếng đu đủ chín một cách ngon lành, bà khen nó rất ngọt. Đêm nay chúng tôi đi ngủ sớm, giấc ngủ đến dể dàng hơn những đêm trước; nhờ có tiếng dế nỉ non đều đều như ru ngủ.

Thế nhưng… nữa đêm có tiếng ông An hoảng hốt gọi các con: “- Đạt, Khải, Bích… ơi, mợ các con làm sao thế này…” Chúng tôi tất cả đều bật dậy chạy đến chòi, bà An đang sốt run lẩy bẩy, hai hàm răng của bà va vào nhau kêu lạch cạch, anh Đạt lật đật khều que củi đang ngún tro đưa lên miệng thổi phù phù cho nó cháy bùng lên, Minh, Hằng hấp tấp quơ quào hốt vỏ bắp đun vào, Đạt nhỏ, Hưng… chạy quanh kiếm cành cây khô, và những gì có thể cháy đều thẩy vô đống lữa để sưỡi ấm cho bà, kể từ lúc đó những người lớn không một ai ngủ được, tất cả thay nhau ngồi bên cạnh bà, và canh đống lữa không cho tàn, riêng mấy đứa bé vẫn say sưa giấc nồng.

26/03/1975

Trời hừng sáng, bà An vẫn sốt mê man không ngồi dậy nổi, không khí nặng nề bao trùm lấy chúng tôi, không một tiếng nói, không một nụ cười, mọi người buồn bã lo lắng nhìn bà, Khải kêu tôi đến ngồi cạnh bà cùng với Khải, tôi cầm lấy bàn tay gầy trơ xương của bà mà ứa nước mắt, tôi thương bà lắm vì bà rất tốt với tôi, mỗi lần tôi theo chị Bích hay Hằng đến nhà chơi, ông bà rất ân cần niềm nở, những bữa cơm ở nhà ông bà đem đến cho tôi nguồn an ủi khi phải sống xa gia đình. Bây giờ thì bà đang nằm đây, một nơi heo hút không có tên gọi, trong cái chòi nghỉ của người Thượng, đang từng giờ từng phút vật lộn với cái chết để tranh dành sự sống, tôi nhìn bà với bao nhiêu câu hỏi ở trong đầu, dĩ nhiên là bà chẳng thế nào trả lời tôi được khi mà bà đang mê man. Ở mãi nơi đây buồn và sợ, tôi đi ra bờ sông, leo lên ngồi trên tãng đá lớn nhìn nước chảy về xuôi, nắng ban mai yếu ớt run rẫy trên những cành cây ngọn cỏ, cảnh vật bên kia sông sao mà đẹp lạ lùng, như một bức tranh vẽ. Nước chảy mạnh, tôi gửi theo dòng nước nhũng nổi niềm tâm sự của riêng mình, chao ơi; dù đã cố quên nhưng sao lòng vẫn nhớ, dù không muốn nghỉ đến nhưng sao hồn mãi vọng theo… Bao nhiêu câu hỏi cứ luẩn quẩn ở trong đầu; nhiều quá làm đầu tôi muốn vở tung; Rồi ngày mai, ngày kia và những ngày tiếp đến, điều gì đang chờ đợi tôi? tôi sẽ thế nào và tôi sẽ ra sao? có bị loay hoay ở mãi trong khu rừng này không? có về được phía bên kia không? nếu cùng đường có phải quay lại Pleiku không? tôi sợ lắm nếu phải trở về nơi chốn ấy, trở lại vùng trời của một thời yêu dấu, cảnh củ còn đó mà người xưa đâu mất. Thành phố đã từng thân quen sẽ trở thành xa lạ, tôi sẽ cô đơn, sẽ buồn ghê lắm, đi trên con đường nào cũng gợi nhớ những bước chân quấn quýt bên nhau, từng gốc cây ôm từng kỷ niệm, góc phố nào cũng là điểm hẹn hò đưa đón, và quán cà phê Vị Thủy là nơi 2 đứa ngồi ươm mộng mai sau… không đâu, làm sao trở về lại nơi ấy để lòng “Đã nát càng thêm nát;” không, tôi sợ lắm. Có lẽ tôi ngồi đây lâu ghê lắm vì nắng đã lên rất cao, tôi dời đô tới gốc cây già bên mé sông, bóng cây che mát trên đâu; sao mà buồn ngủ quá, có ai đó ru tôi không?… Em ơi hảy ngủ anh hầu quạt đây… có tiếng người nào đó kêu tôi: ” – Thủy ơi; em đâu rồi “…

Hôm nay dù đói nhưng không ai muốn ăn, nổi buồn lo làm mọi người có cảm giác miệng lưỡi đắng nghét, nồi bắp chỉ vơi một ít, không ai làm nổi việc gì cho ra hồn, con trai không buồn lưới cá, con gái chẳng thèm khâu giày. Tôi lững thững ra bờ sông ngồi một mình, chung quanh yên lặng quá, mới hôm qua thôi, nơi đây còn vang bao tiếng cười vui của bầy con gái khi khâu xong 1 đôi giảy, và tiếng reo hò của đám con trai khi bắt được 1 con cá, khúc sông này có dấu chân, tiếng cười của chúng tôi, nghĩa là nó đã trở thành kỷ niệm trong tôi, mai này khi rời khỏi nơi này, có lẽ tôi sẽ nhớ và buồn lắm vì một khi đã trở thành kỷ niệm thì có bao giờ vui đâu, tự nhiên tôi bùi ngùi lẩn bâng khuân xao xuyến, trong đầu tôi có biết bao nhiêu điều thắc mắc trăn trở. Bây giờ thì tôi muốn ngủ lắm, đừng ai lên tiếng kêu tôi… nhưng mà… ước gì có một người hát cho tôi nghe rằng:… Tôi ru em ngủ, một sáng…

Trời sắp về chiều, nắng dịu dàng ngả bóng phủ lên mặt sông, lên cỏ cây hoa lá, những tia nắng nhảy múa trên mặt nước lấp lánh sáng như những sợi chỉ vàng, không biết tôi nằm ngủ được bao nhiêu lâu bên gốc cây này cho tới khi có những tiếng thét lớn; rồi tiếng khóc la; kêu gào đau đớn của cả nhà chị Bích tôi mới giật mình thức giấc, thế có nghĩa là bà An đã vĩnh viển ra đi, bà nằm chết trong cái chòi bỏ trống giữa nương rẫy hoang vu xa lạ với rất nhiều và rất nhiều nổi uất ức. Tôi chạy nhanh về chòi, cả nhà chị Bích đang vật vã bên xác bà, ông An ôm cứng vợ, ông cứ hôn mãi vào trán bà, Chị Bích, Hằng, Khải, Đạt, Minh, Kiều, Ty… người níu tay, người níu chân bà mà khóc lóc thảm thiết, tôi đứng trân trân như trời trồng, tôi cũng muốn chạy đến ôm bà, tôi cũng muốn khóc như mọi người nhưng sao tôi không nhúc nhích gì được, lâu lắm; tôi mới từ từ ngồi bệt xuống đất, ý nghỉ của tôi lộn xộn, nhảy múa lung tung, mọi cảm giác của tôi trộn lẩn vào với nhau như 1 đống xà bần, nhưng tôi biết chắc chắn 1 điều là tôi đang rất thương tiếc bà.

Tôi không thể nói được lời nào để an ủi gia đình chị Bích, tôi cũng không biết làm gì để xoa dịu nổi đau đớn vì một mất mác quá đổi lớn lao này, tôi chỉ biết im lặng, nắm tay Khải, Minh; Hằng… để tỏ lòng muốn chia sẽ của tôi… Lâu lắm, cho tới khi trời bắt đầu chạng vạng, anh Đạt đốt 1 đống lửa to để có đủ ánh sáng mà thu xếp những việc cần thiết, anh và Khải sữa sang tư thế cho bà được nằm ngay ngắn, Hằng nhẹ nhàng thay áo quần cho bà; bộ đồ đẹp nhất. Ánh lửa lung linh huyền ảo, gió thổi làm cho ngọn lữa bập bùng quằn quại như đang múa một vũ điệu ma quái, chúng tôi ngồi bên nhau lặng lẽ, trăng đêm nay không sáng lắm vì có nhiều mây che phủ, ông An ngâm thơ cho vợ nghe, chị Bích khoe đó là những bài thơ ông làm từ ngày yêu bà, nhìn ông cứ âu yếm vuốt tóc bà, tôi đau lòng quá, cuối cùng ông đọc 1 bài thơ vĩnh biệt bà mà ông vừa mới sáng tác, khi đọc bài thơ này ông òa khóc nức nở, khóc thật lớn làm tấc cả mọi người đều khóc theo.

Ở một nơi như thế này; giửa núi rừng hoang vu và 1 nương rẫy bỏ trống, bên ngọn lữa đêm khuya, dưới ánh trăng mờ ảo bao trùm lên vạn vật cùng với xác bà An nằm trong chòi, cảm giác rờn rợn bao bọc chung quanh, tôi mong trời mau sáng, không làm sao ngủ được, tôi ngồi bên đống lữa, lắng nghe tiếng nước chảy của con sông bên dưới, tiếng côn trùng rã rích, tôi ví như tiếng rừng đêm đang chuyện trò, Đạt nhỏ lấy cây kèn Acmonica ra thổi bài Lòng Mẹ, đôi mắt anh chàng đắm chìm trong nổi buồn khó tã, tiếng kèn của Đạt nhỏ réo rắc trong đêm đen tỉnh mịch đưa tiễn linh hồn bà An về một nơi xa thật xa. Mấy chị em Hằng nghe tiếng kèn acmonica của Đạt nhỏ, cùng đến ngồi bên cạnh, khi Đạt nhỏ dứt tiếng kèn, một khoãng không im lặng lại bao trùm cho tới khi anh Đạt lên tiếng:

– Ngày mai phải làm gì đây? chôn mợ ở đây hay đưa mợ đi cùng? bây giờ đầu óc tôi rối bời, phải hỏi ý cậu xem cậu muốn như thế nào.

Chị Bích buồn rầu: ” – Lúc này cậu không thể suy nghỉ gì được đâu, chị em mình quyết định với nhau thôi;” Minh đưa ra ý kiến: – “Có lẽ nên chôn mợ ở đây. ”

Hằng không chịu: – Tại sao lại phải chôn mợ nơi đây, chúng mình chẳng ai biết đây là đâu, mai sau nếu muốn tìm mợ mang về với mình thì làm biết đâu mà tìm? nhất định phải mang mợ theo cùng.

– Khó lắm, mang theo như thế nào?

Anh Đạt suy tính: – Đến nước này chúng ta đành phải liều đi ra đường Quốc lộ, vc chắc cũng không nỡ làm gì mình khi thấy mình đang mang xác mợ theo bên cạnh, chúng mình vừa đi vừa kiếm một buôn làng nào lớn, có tên làng, mình sẽ chôn mợ ở bên đường, một nơi dễ nhận ra, mình sẻ đánh dấu thật đặc biệt, mai sau có lúc nào đó chúng mình tìm hài cốt mợ đưa về.

Rồi anh phân chia công việc: – Sáng sớm mai anh nhờ Hưng, Đạt nhỏ, Phi tìm chặt cho anh vài cây tre to bằng cổ tay, dài chừng 3m để làm đòn gánh, tìm loại vỏ cây mà Thủy khâu giày ấy, lấy thật nhiều để bện lại thành sợi dây dài, chắc, càng nhiều sợi càng tốt, còn anh; Khải, Minh sẽ quấn mợ trong poncho, mình lấy dây buộc túm 2 đầu che kín đầu và chân của mợ, ở giữa mình cột làm 4 đoạn, Mạnh khéo tay làm thắt dùm anh mấy cái khoen tròn để xỏ cây đòn gánh vào, bọn anh sẽ thay phiên nhau gánh mợ, mỗi người một đầu.

Chị Bích lại khóc, chị trách tôi: – Trước khi chết mợ nhìn đủ các con, lúc đó em ở đâu, làm gì? sao không ngồi với mợ?

Tôi không thể trả lời chị và tôi cũng không biết phải trả lời như thế nào, bởi vì lúc đó tôi đang ngồi bên bờ sông, đang đi tìm câu trả lời cho chính những câu hỏi mà tôi tự đưa ra:

1 / Tại sao người ta lại pháo kích vào đoàn GMC chở đầy người dân đi di tản ở cây số 168?

2 / Chúng tôi là những người vô tội, may mắn lắm mới thoát chết, có người bị tan xương nát thịt, có biết bao nhiêu gia đình ly tán, có biết bao nhiêu đứa bé trở thành mồ côi như bé Lan? Tại sao?…

3 / Tại sao chúng tôi trở thành mục tiêu cho họ pháo kích? vì vô tình hay cố ý?

Không ai trả lời những câu hỏi này của tôi, nó cứ luẩn quẩn ở trong đầu, làm tôi luôn nhức nhối. “- Chị Bích ơi, em biết chị muốn nói với em điều gì rồi, nhưng thôi khoan đã chị à”

27/03/1975

Hằng lay lay vai gọi tôi thức dậy để làm lể tẩm liệm cho bà An, tôi là người sau cùng xuống sông rửa mặt súc miệng, trời vẫn còn mờ hơi sương, khi quay trở về đã thấy mọi người đứng xếp thành 2 hàng trước nhà sàn, Đạt và Khải trải thẳng tấm poncho ra giữa sàn rồi cả 4 người con ẵm bà lên đặt vào đó, tất cả mọi người cúi đầu lặng yên cầu nguyện cho linh hồn của bà sớm siêu thoát, tôi làm dấu thánh giá đọc kinh Kính Mừng, nguyện xin Chúa ban cho bà được ơn cứu rổi, 5 phút yên lặng qua đi, những tiếng sụt sùi nho nhỏ vang lên; sau đó là những tiếng kêu gào thãm thiết và khóc la nức nở, chị Bích; Hằng và Kiều ngồi bệt xuống đất dẩy dụa vật vã khi anh Đạt và Khải, Minh… lấy 2 thanh tre ép sát vào 2 bên người bà, thêm 2 thanh đặt dưới lưng, sau đó cuộn tròn cái poncho lại mấy vòng, Đạt nhỏ, Hưng, Phi mỗi người phụ 1 tay; chia đều thành 6 khoanh; mỗi khi cột một khoanh anh Đạt lồng vào 1 cái khoen để xỏ cây đòn gánh vào (mà Đạt nhỏ đã thức 1 đêm bên ánh lữa để làm) sau đó anh và Khải cố sức siết thật chặc, trông như 1 đòn bánh tét, Mấy người vừa làm vừa khóc, nước mắt nước mủi chảy đầy mặt, thỉnh thoãng đưa tay lên chùi, riêng ông An ngồi bất động từ đầu cho đến khi các con làm xong việc, ông lầm thầm nói chuyện một mình và ông đọc thơ, lúc này thì tôi cũng khóc nhiều ghê lắm, khóc vì thương mọi người và thương cả chính tôi nữa. Khi việc bó xác bà An đã hoàn tất, chúng tôi mỗi người tìm bẻ 1 cành cây khô nhỏ;đốt cháy và cắm trước xác của bà thay cho cây nhang, rồi cùng nhau quì lạy, trước khi lên đường mỗi đứa ăn 1 nắm bắp, vẫn chưa ai nói chuyện được với nhau, mọi việc xảy ra quá nhanh, quá đột ngột và chúng tôi vẫn còn bàng hoàng chưa tỉnh táo, cũng không ai nghỉ đến số bắp ở trong chòi còn rất nhiều, và rất cần để mang theo.

Phải lên đường thôi; tôi nhìn quanh; lòng hơi bâng khuân xao xuyến khi từ giả nơi đây với ít nhiều lưu luyến; thi hài bà An được kính cẩn nhẹ nhàng đưa xuống, anh Đạt gánh phía trước, Khải gánh phía sau, ông An đi bên hông, tay ông nắm một góc tấm pôncho như nắm lấy bà, chúng tôi nối đuôi nhau thành hàng dài theo sau. Một đám tang lặng lẻ ra đi vào một buổi sáng sớm khi nắng chưa lên khỏi ngọn cây, không một mãnh khăn tang trên đầu và người chết chẳng có được cái quan tài, mấy người con gái không ngừng khóc, tiếng khóc tỉ tê nghe rất buồn, mấy đứa cháu cũng buồn; khóc theo người lớn, một đoàn người lôi thôi lếch thếch, đầu để trần, chân đi giày lá, mặt mủi đen thui đang lầm lủi bước… Xác bà An tuy nhẹ nhưng 2 vai của 2 anh em cứ so lên làm cái cổ rụt xuống, lúc đầu 2 người đi những bước chậm và nhẹ nhưng càng lúc càng nhanh, sợ mặt trời lên cao thì mệt. Chúng tôi đã ra tới con đường nhựa, đây có lẻ là QL, nhưng sao mà im vắng thế này? không một tiếng xe cộ, không một bóng người, cũng chẳng có 1 mái nhà, cảm giác rờn rợn nhưng dù sao khi ra đến đây rồi chúng tôi hơi nhẹ trong lòng một chút. Sau cơn mưa hôm kia trời chỉ hiu hiu nắng và sương chưa tan hẳn,, nhưng khi mặt trời lên cao, sương tan dần thì nắng bắt đầu gay gắt, hơi nóng từ đường nhựa bốc lên hừng hực, ngực tôi như bị ai đó ép chặt lại, hơi thở trong lổ mủi nóng hổi, tôi thở rất khó khăn, tôi kêu lên: “CHÚA ƠI XIN HẢY CỨU CON; “, tôi sợ lắm, sợ phải chết dọc đường như bà An, và tôi thầm lặng đọc kinh KÍNH MỪNG, bất ngờ tôi thấy bên vệ đường 1 tấm lịch nhỏ có in hình ĐỨC MẸ HẰNG CỨU GIÚP; mừng quá nên quên hết những cảm giác đang làm tôi mệt mỏi đau nhức, tôi lượm tấm lịch lên, vùa đi vừa coi ngày tháng trong đó, ôi chao, sắp tới lể CHÚA PHỤC SINH rồi… Trên quãng đường chúng tôi đang đi bắt đầu xuất hiện những dấu vết tàn phá khủng khiếp của bom đạn, những sự kinh hoàng của trận đạn pháo của mấy ngày trước, xe cộ nằm ngổn ngang đủ mọi tư thế dọc theo con đường dài, chiếc lật nghiên, chiếc chổng 4 bánh lên trời, chiếc thì bẹp dúm, có một số xe nằm bên lề đường. Những đồ dùng của gia đình như tủ lạnh, tivi, máy may… bị vất bỏ đầy đường, có lẻ để nhẹ xe mà chạy cho nhanh. quãng đường này cũng giống như đoạn QL19 ở đầu cầu suối đôi, theo như trong bản đồ mà anh Đạt cho tôi xem thì đây là con đường rẽ của QL19 từ đèo An Khê chạy thẳng về thị trấn Cheo Reo, và thị trấn Cheo Reo là nơi gặp nhau của 4 ngã đường: 1 / ngã quay về Hàm Rồng rồi trở lại Pleiku, 2 / ngã rẽ qua Ban mê thuột, 3 / ngã đi ngược lên phía trên để về An Khê và Qui Nhơn, 4 / đường về Tuy Hòa ngang qua Phú Bổn. Hiện giờ đoàn người đang đi trên con đường về thị trấn Cheo Reo, và từ Cheo Reo chúng tôi sẽ đến Tuy Hòa, rồi sau đó thì… A; một tia sáng lóe trong đầu tôi, tôi đã có được câu trả lời cho những câu hỏi tại sao và tại sao của tôi; một khúc phim quay chậm trong đầu tôi; và được tóm lược lại như sau:

Ngày 10/3/75 vc tấn công dồn dập Ban Mê Thuột, trước tình hình đó người dân trong thành phố Pleiku được lệnh di tản hoàn toàn. Lộ trình di tãn theo kế hoạch đã vạch ra là: đoàn xe chở dân chúng đi theo QL 19 xuống Qui Nhơn sau đó từ QN về Nha Trang trên QL 1, nhưng vào những ngày tiếp theo sau đó Qui Nhơn bị đánh chiếm, thế là đoàn xe chúng tôi đi không xuống QN nữa mà đi về ngã Tuy Hòa thẳng tới Nha Trang, đúng hơn thì những tỉnh đồng bằng miền Trung cũng được lịnh di tãn từ trước, cũng về QN và Nha Trang, như thế tất cả mọi ngã đường đều được trưng dụng để đưa mọi người ra khỏi những thành phố mà QĐVNCH không thể nào trấn giữ nổi. 15g30 – 16/03/75 chúng tôi lên xe rời khỏi thành phố Pleiku, đoàn xe chạy rất chậm và phải dừng lại hoài vì bị nghẻn đường, có nơi chỉ nhích từng chút một; chậm như rùa bò. Đến 9g sáng 17/03/75 đoạn đường ngay đầu cầu Suối Đôi bị vc pháo kích dử dội; quân bắc việt cố chặn đoàn xe đang chở dân di tãn, chúng tôi đã phải bỏ chạy tán loạn, tất cả các con đường đều bị bắn chận, và nó nằm ngay Phú Bổn, ranh giới tỉnh Phú Yên theo QL19 về Qui Nhơn. Có nghĩa là quân BV không muốn chiếm 1 thành phố bị bỏ ngỏ, trống trơn, không có dân; nên họ dùng đủ mọi cách; mọi giá, kể cả làm cho bao nhiêu người dân vô tội phải bị chết, với biết bao thảm cảnh đau thương đã xảy ra; để giữ dân ở lại, và đoạn đường này là một bằng chứng cho điều đó. Chúng tôi ở giữa của 2 làn tranh chấp dành giật: một bên kéo chúng tôi và đưa chúng tôi đi cho bằng được, một bên quyết lôi; giữ chúng tôi ở lại bằng mọi giá, vậy thì bên nào thương; bên nào thật tâm lo cho chúng tôi đây?

Có mùi thối khủng khiếp ở đâu đây, chúng tôi dáo dác nhìn quanh… – ối… à… kia kìa…Đạt nhỏ kêu lớn; đồng thời chúng tôi thấy một thây người bầy nhầy đầy cả ruồi và kiến bu đen còn dòi thì lúc nhúc bò trong miệng, trong mủi, trong 2 con mắt… mặt người này chỉ còn là những hố sâu đầy kiến, ruồi và dòi bọ trông rất là ghê rợn, chúng tôi nổi hết cả da gà, chóng mặt, mắc ói, đứa nào cũng bịt miệng; mủi chạy thật nhanh, vượt qua cả anh Đạt và Khải, tội nghiệp 2 anh em Đạt, Khải đang cố đi thật nhanh, không dám chạy vì sợ xác mẹ bị xóc. Khi mũi chúng tôi không còn ngửi mùi hôi nữa, mọi người ngừng lại bên một gốc cây lớn có tán xòe rộng đầy bóng mát che phủ một khoãng đất trống bên đưới, chúng tôi ngồi nghỉ mệt, mặc dù bụng đói nhưng không ai muốn ăn, chỉ muốn được uống nước mà thôi. Anh Đạt cho mỗi người uống 1 ngụm nhỏ, nước trong ấm còn rất ít mà nơi đây lại cách xa con sông, Minh lượm được 1 gói bột vị tinh trong bao mì gói chia cho mỗi người nếm 1 chút xíu, ôi chao; ước gì bây giờ được ngậm 1 viên kẹo ngọt… mơ mộng viễn vông và thèm muốn đủ thứ…

Đến lúc lên đường rồi, lần này Mạnh, Minh thay cho Đạt, Khải. Minh gầy, nhỏ con nhất trong gia đình nhưng lại rất chững chạc, mấy ngày qua đã làm cho Minh gầy ốm hơn… “đã ốm càng thêm ốm..” đôi vai cậu bé rút lại dưới sức nặng của mẹ, nhìn Minh tôi rất xót xa thương em, 2 chân Minh bước hơi loạng choạng. Chúng tôi đi đưới cái nắng càng lúc càng gay gắt và sức nóng càng lúc càng tăng cao, đứa nào cũng lầm lủi, chân nọ đá chân kia, mấy đứa con chị Bích được người lớn cõng từng đoạn, hết mệt thả xuống đất đi tiếp, tôi nắm tay bé Lan dắt đi bên cạnh mình, làm sao tôi cõng nổi bé đây. Không một ai biết được mình sẽ đi bao lâu nữ và không ai biết được chừng nào mới gặp 1 nơi thích hợp để chôn Mẹ, cứ nhắm mắt nhắm mủi mà đi thôi, nhưng hình như chúng tôi đang muốn nổi… điên vì sợ hải, muốn cắn xé một cái gì đó, anh Đạt trấn an chúng tôi, nhưng chính anh cũng đang sợ như chúng tôi, sợ rất nhiều thứ, phải ngừng lại nghỉ mệt, chiều xuống nhanh, mặt trời đang ngả về tây, bóng cây đổ dài theo bóng nắng. Không hiểu sao chúng tôi cùng nhìn sững vào cái xác của bà An, tôi lẩn thẩn nghỉ nếu như mình bị chết, chắc mình sẽ bị vùi thây xuống 1 cái lổ nào đó ở đâu đó… khát và mệt, Mạnh hình như đang suy nghỉ điều gì đó, anh chàng nhìn mông lung và. . . khóc thì phải, sao tôi kỳ cục quá, nhìn ai cũng thấy như là họ đang khóc. Khải đứng lên nói là đi kiếm nước uống, Ngân đưa cho Khải cái thùng, tôi đi theo Khải len lỏi qua các bụi rậm, bất ngờ 2 đứa thấy 1 hồ nước, mừng quá 2 chúng tôi chạy nhanh đến, đó là 1 cái hố bom, sau mấy cơn mưa lớn; hố bom đầy nước trở thành 1 cái hồ, nước trong hồ nổi váng màu vàng, Tôi và Khải nhào xuống…- “ôi; đã quá…” lúc này chẳng nghỉ gì tới bịnh, sau khi uống nước no bụng 2 đứa…tỉnh cơn mê, lúc đó mới phập phồng lo sợ, về tới chổ mọi người đang nghỉ chân, tôi kể lại cho chị Bích nghe, chị la tơi bời, chị cấm không cho ai được ngu như -“con nhà Khải và cái Thủy;” thật buồn cười là khi thấy hố bom đầy nước 2 đứa quẵng cái thùng nhào xuống uống cho đã, sau đó chạy về báo tin vui, quên luôn cái thùng… Đạt nhỏ theo Khải đến hồ, tìm lại được cái thùng, anh chàng xách về 1 thùng đầy nước, Ngân nấu một ấm nước đâỳ, có được nước rồi anh Đạt bắt mọi người đi thêm 1 quảng đường nữa, kiếm chổ nào tốt để nghỉ qua đêm.

Hoàng hôn buông xuống, nhớ câu thơ của ai đó mà tôi quên tên: “Hoàng hôn rồi lại hôn Hoàng..”, nghỉ cũng vui vui, mặc dù không có chổ vừa ý nhưng phải nghỉ lại nơi đây thôi, Ngân cùng Hoa chuẩn bị nấu bắp, nấu nhiều hơn một chút còn để dành mai ăn rồi đi thật sớm, bên bếp lữa đêm nay với xác bà An nằm đó, dù buồn lắm nhưng phải nói chuyện cho có tiếng người, chúng tôi nói đủ thứ chuyện “trời ơi đất hởi;” những chuyện tào lao cở “tề thiên bắn đại liên;” nhưng không ai dám cười lớn tiếng vì ông An đang ve vuốt cái poncho bọc thân xác bà An trong đó. sao tối nay nhiều muổi quá, hết nói chuyện lại quay qua đập muổi cho mấy đứa nhỏ. Mong đêm chóng qua cho trời mau sáng, rồi mong trời đừng đổ cơn mưa, mong đường không còn xa… mong… và… mong… nhiều điều mong ước lắm.

28/03/1975

Mặc dù suốt đêm gió chuyển hướng và thổi mạnh nhưng may là trời không mưa, chúng tôi không ai ngủ được nhiều ngoại trừ mấy đứa bé, mới hừng đông là đã phải thức dậy chuẩn bị lên đường, một ngày như mọi ngày: ăn 1 nắm bắp rồi khăn gói quả mướp đi tiếp. Sáng nay anh Hưng và Phi thay cho Minh và Đạt nhỏ, hai người tự nguyện làm việc này như muốn chia sẽ nổi đau của gia đình chị Bích. Chúng tôi đi được một quảng đường cũng khá dài, đang định tìm nơi có bóng cây để ngồi nghỉ mệt thì thấy 1 nhóm người từ trong rừng đi ra, lúc đầu chúng tôi tưởng đó là người dân tộc nhưng không phải; họ là người kinh như chúng tôi; nhìn kỷ thì đó là 1 gia đình, ông chồng mặc cái áo mai dô đã ố vàng, cái quần kaki xanh, bà vợ đội trên đầu cái áo kaki của chồng, chân mang đôi vớ nhà binh, chị ôm trên tay 1 em bé quấn trong cái khăn lông nhà binh, một bà già đang dìu chị, thêm 3 đứa bé lủ khủ níu áo cha mẹ, chúng tôi dừng lại, rồi nhìn nhau với cái nhìn ái ngại thông cảm; có đôi chút ngạc nhiên, anh Đạt hỏi trước:

– Anh… chị… sao vậy?

Người chồng trả lời: – Gia đình tôi đi từ Kontum, lúc bị họ pháo kích dử quá, tụi tôi chạy trốn vô rừng, đâu chừng 10 ngày rồi đó, chẳng nhớ được… vợ tôi sanh trước khi di tản 1 tuần, khổ hết sức may mà gặp làng của Thượng, họ cho bắp, bí mà ăn tạm; ở đỡ, nhưng tới lúc này chịu hết nổi rồi vì vợ tôi yếu lắm, thôi thì…

Họ nhìn cái gánh có vẻ thắc mắc: -… gì vậy…

– Mẹ tôi đó, chết chiều hôm kia, có lẻ bị sốt rét rừng, gần 10 ngày nay gia đình tôi cũng loanh quanh lẩn trốn trong rừng, tụi tôi kiếm buôn Thượng nào lớn lớn để chôn bà. Bây giờ anh đưa gia đình đi đâu?

Về nhà thôi, hôm qua nghe có tiếng xe chạy rần rần, tôi bò ra xem, xe của vc, họ chở nhiều dân trên xe lắm, cứ về rồi tính tiếp, ở trong rừng chỉ có mấy ngày thôi mà… dài như cả năm, thấy mẹ và vợ con mình đói khổ quá… tôi không chịu được, ra đây đón xe trở về nhà…

Chị Bích phân vân một chút, sau đó chị biểu Ngân lấy trong nồi 2 nắm bắp chín đưa cho bà già, anh Đạt hỏi thăm làng Thượng mà họ tá túc ở đâu? xa hay gần? ông ta đưa tay chỉ vào phía sau lưng mình: – cũng khá xa, đi tuốt trong sâu, mà làng nhỏ xíu hà. Tôi hiểu rỏ ý anh Đạt khi hỏi câu đó, tần ngần chào nhau rồi chúng tôi đi tiếp. Hai chân tôi nặng nề kéo lê từng bước, gặp gia đình này rồi lòng tôi lại ngổn ngang “trăm mối tơ vò;” không sao phân tích được từng thứ tình cảm cho rỏ ràng chính xác; vừa buồn bả, vừa nôn nao, lại vừa chán chường muốn buông xuôi, cọng thêm nổi ray rức, khổ đau, chờ đợi… mọi thứ cứ trộn lẩn vào nhau; xoáy sâu làm nát bét trái tim tôi như một ly cóc tai xay nhuyễn, không tách ra được từng loại trái cây gì với trái gì, duy có một điều tôi biết rỏ ly cốc tai đó không có đường và các thứ trái cây còn sống nhăn, đắng nghét.

Qua gần 2 ngày phơi nắng và 1 đêm phơi sương xác bà An bắt đầu có mùi, càng lúc mùi thối càng nặng nề, phả đầy 2 lổ mủi; nhất là khi chúng tôi đi phía sau lại ngược gió nên ai nấy phải vừa đi vùa bịt mủi, đến nước này anh Đạt đành phải cho chúng tôi đi trước, anh và Khải gánh xác mẹ theo sau, đã qua khỏi buổi trưa, phải đi làm sao cho được càng nhiều càng tốt nếu không muốn chôn mẹ đọc đường, nổi thương xót mẹ làm mọi người đi như chạy, mong trời thương cho gặp được nơi tốt để chôn bà, vì ai cũng muốn mai sau sẽ đưa bà về nhà.

Chiều rồi đó. Gió chiều nay thổi mạnh làm mùi thối bốc ra bao phủ cả không gian, hình như xác bà An đang chương phình, căng cứng trong tấm poncho, chúng tôi dừng chân nghỉ tạm bên đường, câu hỏi cứ vương vấn mãi trong đầu của mọi người: phải làm gì bây giờ? không ai dám trả lời; bỏ thì thương mà vương thì tội, ai cũng xót xa đau đớn. Không một ai muốn đi tiếp;mọi đôi chân đều nặng như đeo đá, anh Đạt ngồi im, đầu gục xuống làm hai vai anh nhô cao, anh không dấu nổi sự mệt mỏi chán nãn của mình, những ngày qua anh đã cố hết sức để gồng gánh một trách nhiệm quá lớn của gia đình, anh cố đứng vững cho chúng tôi được nương tựa vào, lúc này thì vẻ cứng rắn của anh đã mất tiêu, anh đưa tay chùi nước mắt, tôi ngậm ngùi nhìn anh, buồn lắm lắm… Chúng tôi ngồi mãi ngồi hoài, mỗi người theo đuổi một ý nghỉ riêng, không ai nói chuyện với ai cho tới khi trời nhá nhem, ngày sắp tàn, mấy đứa bé mếu máo khóc vì đói và vì muổi cắn, lúc đó chúng tôi mới tỉnh cơn… mộng du. Nhưng kìa… Ah;đây là mơ hay tỉnh? trong sự im lặng của chiều tà văng vẳng đâu đây nương theo làn gió có tiếng chiêng; tiếng cồng lúc to lúc nhỏ; vừa trong thanh vừa trầm đục;chúng tôi cùng đứng bật dậy như cái lò xo; và nữa kìa… những ánh lữa bập bùng trong ánh hoàng hôn, anh Đạt reo lớn tiếng: “Phía trước có làng thượng… mau, đi mau…” anh và Khải lật đật gánh xác bà An đi mà như chạy; Minh dìu bố, mấy đứa bé không chạy nhanh như người nên chúng tôi chia nhau mà cõng và ôm, xách…đồ đạt. Không biết động lực nào khiến chúng tôi chạy nhanh như thế, mới một phút trước đây thôi nếu có con ruồi nào bu vào mép chưa chắc đã đuổi, thế mà bây giờ…chạy cứ y như vận động viên điền kinh. Đó là một buôn làng lớn nằm bên đường, hôm nay trong làng có hội, anh Đạt bắt đám đàn bà con gái chờ ở ngoài đường cách làng chừng 100m; để đám đàn ông con trai vào làng dò xét tình hình;nhưng chỉ có ông An và Hằng phải ở lại canh chừng xác bà, còn chúng tôi vừa nôn nóng vừa tò mò nên lò dò đến gần và đứng lấp ló ngoài cổng làng, Ngân lấy những nắm bắp cuối cùng nấu lúc nghỉ chân ban chiều chia cho ông An và các cháu, mổi người chừng chục hột bắp, rồi chạy theo tôi. Chúng tôi chờ đợi mấy anh con trai chừng như cũng mỏi mòn, mải lúc sau mấy anh chàng trở ra mặt mủi có vẻ hớn hở tươi tỉnh lắm, tụi tôi háo hức, nôn nóng nghe kể về chuyến thăm dò, ông An cũng chạy tới, Khải vừa xoa xoa bụng vừa kể thay:

– Khi tụi này vào trong làng;làm như họ biết tụi này bị đói, họ đem ra 1 rá cơm nguội trộn khoai, tụi tôi mỗi đứa ăn được nữa chén, gạo của người Thượng ngon quá chừng; vừa dẻo vừa ngọt…

Tự nhiên tôi giận Khải đến ứa nước mắt và có đôi chút ghét nữa… mới ngày nào anh chàng còn đòi móc trái tim của mình ra nhờ tôi giử dùm, bây giờ có nữa chén cơm trộn khoai Khải cũng ăn một mình, chẳng nhớ chừa cho cái người đang giử dùm trái tim mình một miếng của nữa chén cơm…trả lại Khải trái tim của Khải, ai hơi đâu mà giử không công…tôi trách Khải mà nước mắt rưng rưng: – “anh ích kỷ, chỉ biết ăn một mình không chừa cho Thủy; lại còn khoe;” Anh Đạt binh Khải: – “chủ nhà họ vét nồi, còn kêu mấy nhà bên cạnh, gom góp được chừng đó tụi anh đứa nào cũng đói nên lở quên, ăn xong mới… nhớ, xin lổi cả nhà…” anh gải gải đầu nhìn thấy mà tội nghiệp. Ông An vội hỏi:

– Xác của mợ các con tính sao? có chổ để chôn mợ không?

– Ah quên, con có hỏi xin ông chủ nhà ở đầu làng rồi, họ không cho đem xác người chết vô làng, phải để xa xa, ngày mai họ chỉ chổ cho mình chôn, mà chỉ được chôn ở ngoài làng, họ sẽ đưa cho mượn cuốc; xẽng…

Ai nấy thở phào nhẹ nhỏm, coi như vấn đề quan trọng nhất đã được giải quyết, đến vấn đề… bao tử và sự giận hờn; tôi đòi Đạt nhỏ dẫn tôi và Hằng vào làng, chị Bích, Ngân, Hoa, Minh, Kiều, Thấm cũng đi theo, thâm tâm người nào cũng muốn có chút gì đó bỏ vào bụng, đồng thời xem hội làng cho vui. Trời tối nhưng nhờ có trăng; dù trăng không sáng lắm, (vì tôi không bao giờ để ý tới ngày âm lịch) nhưng chúng tôi cũng nhìn thấy được cảnh trong làng dưới ánh trăng mờ. Đúng là hôm nay làng có hội nên vui vẻ lắm, người ta cười nói líu lo, trai làng gọi các cô sơn nữ bằng những tiếng… “hú…hù…oa…oa…”, cả con trai con gái đùa giởn với nhau một cách hồn nhiên vô tư, làng này giàu có và đông dân, chính giữa làng là một căn nhà rông dài có mái nhọn cong vút, chung quanh là những căn nhà sàn nhỏ, dưới sàn nhà tôi thấy:heo, bò, gà, vịt, trâu… đang nằm ngủ ngổn ngang; còn trên sàn là người ở, nhà nào ở giữa sàn cũng có 1 bếp lửa đang cháy đỏ riu riu, các chú chó chạy loanh quanh sủa inh ỏi khi thấy chúng tôi. Đến một căn nhà gần cuối làng Mạnh chụm 2 tay đưa lên miệng kêu: “hú… hù… oa…òa…; “một bà già từ trong nhà bước ra; từ trên sàn bà ta nhìn xuống chúng tôi rồi líu lo 1 tràng tiếng thượng, chẳng ai hiểu bà ta nói gì, Đạt nhỏ dùng ngôn ngữ quốc tế bằng tay, anh chàng chỉ vào bụng chúng tôi sau đó chỉ vào miệng, bà già cười đưa ra 2 cái nướu, miệng bà ta móm xọm không còn 1 cái răng nào, bà có vẻ hiểu chúng tôi muốn gì và hỏi chúng tôi bằng tiếng kinh “- ăng cưm hớ…”…cả đám gật đầu ” – dà…” bà ta bước xuống sàn nhà trên cái thang bằng một lóng cây tròn đẻo từng nấc và ra dấu cho chúng tôi đi theo – từ nhà này sang nhà khác – đến mỗi nhà bà lại kêu người trong nhà ra; chỉ vào chúng tôi rồi líu lo 1 tràng, người nào cũng lắc đầu, đến căn nhà sàn thứ 6 (may mắn thay;) khi nghe xong người này gật gật đầu đi vào trong; lát sau đem ra cho chúng tôi một gói lá chuối trong đó là bắp nấu chung với gạo nếp, mọi người mừng quá chắp 2 tay xá xá tỏ dấu cám ơn rồi nhanh chân đi như chạy ra khỏi làng, chúng tôi cùng ăn mà ứa nước mắt, ăn xong mới cảm thấy mình nhục nhả và hèn hạ thế nào ấy, nhưng phải công nhận rằng cơm của người Thượng ngon; ngọt làm sao. Đêm nay chúng tôi được bình yên nằm ngũ cạnh làng Thượng giàu có này, bên tai là tiếng chiên; tiếng cồng lúc to lúc nhỏ theo làn gió, văng vẳng đâu đây có cả tiếng đàn guitar vọng lại đầy tha thiết, sâu sắt, lay láy rất riêng biệt của núi rừng Tây Nguyên… tùm… túm… tum… túm tum…tờ…rùm…tum túm tum…Tôi tưỡng tượng ra hình ảnh của những nàng sơn nử đang nhảy múa bên ánh lữa bập bùng…và tôi đi vào giấc ngủ cùng với nhửng điệu nhảy trong mơ

Source: https://buonvuidoilinh.wordpress.com/2016/12/11/chan-mem-tren-da/

CHÂN MỀM TRÊN ĐÁ - Phần IV


HỒ THỦY

22/03/1975

Mãi gần sáng chúng tôi mới ngủ được, giấc ngủ của sự mệt mỏi, của một đêm dài ướt mưa, khi thức giấc thì nắng đã lên cao, hôm nay trời đẹp quá, từng cụm mây trắng lững lờ trôi trên nền trời trong xanh. Tất cả những áo quần, đồ đạc trong sacmarin được lôi ra phơi nắng;dù không bị ướt nhiều thì cũng ướt ít, rất may là những giấy tờ; bằng cấp; và cuốn sổ nhỏ để trong cái ví học trò của tôi không bị ướt, tôi thử lại cây viết của Paker cha tôi tặng sau khi đậu tú tài; không bị sao cả, còn được 1 ống mực secour, cái ví học trò là món quà của người chị tinh thần tặng khi tôi lên Pleiku, nó to bằng cuốn vở, đựng được nhiều giấy tờ và vài thứ linh tinh, may mà có nó, tôi mừng quá… Mấy trái sung hôm qua để dành; sáng nay lấy ra ăn, cũng hơi quen vị chát của nó nên nuốt dể hơn một chút. Trải qua một đêm mưa lớn, hôm nay nước sông dâng cao và đục ngầu; đang cuồn cuộn chảy, đó là nước trên nguồn đổ về;lúc này dòng sông không còn hiền lành; êm dịu và nên thơ nữa, tiếng nước ầm ầm mạnh như thác đổ; hung hăng đầy sự đe dọa cho chuyến đi này của chúng tôi, nhưng dù có như thế nào thì tôi vẫn thấy con sông này thật đẹp, tôi rủ Hằng xuống bờ sông ngồi để nắng làm khô quần áo trên người mà đêm qua mưa làm ướt hết, anh Đạt vẫn tính chuyện vượt qua bên kia sông, Hằng ưa hát:- này người yêu… tôi than với Khải: – cứ lội qua, lội về hoài – , Hằng cười vì: – bên kia sông là ánh mặt trời – Hôm nay chúng tôi lên đường rất trể, trời mới nắng đẹp đó mà đã chuyển qua hanh rồi, mây từ đâu tụ lại thật nhiều trên không, đêm nay xin đừng mưa như đêm qua. Một đoàn người với những đôi chân mang giày làm bằng lá đi theo sau lưng anh Đạt, Hưng nói:

– Chắc tôi bỏ cuộc thôi, tại sao cứ phải chịu khổ sở như thế này,

Anh Đạt gắt nhẹ: – ông đừng làm nản lòng “chiến hữu ” chứ, nếu muốn quay trở lại thì tùy, nhưng tôi vẫn phải đưa gia đình tôi đi tiếp – . Mặc dù Hưng nói vậy nhưng vẫn đi theo với chúng tôi, bây giờ thì tiến thoái lưỡng nan rồi. Tất cả chúng tôi mỏi rã rời như muốn bịnh vì trận mưa đêm qua nhưng vẫn phải lê từng bước theo anh Đạt, con đường đầy chông gai, khi thì leo dốc; lúc xuống đồi, có khi lại quanh co uốn khúc. Rừng thật đẹp; tôi vừa đi vừa nhìn ngắm chung quanh, đến một nơi quá đẹp chúng tôi ngừng lại để nghỉ, Khải nằm dài lên một thân cây bị ngã trong rừng, anh chàng nhìn lên trời; tay se se cánh lá vàng miệng hát “she nowt when I love somme; “…tôi thích nghe Khải hát, giọng Khải nhẹ nhàng du dương, Mạnh đi loanh quanh đâu đó rồi mang về một mớ trái giống trái sung nhưng nhỏ hơn; đựng trong vạt áo, Mạnh nói đây là trái Ngái – cùng họ với trái Sung – mùi của nó lại thơm hơn, ăn được dù cũng rất là chát; không thua gì trái sung, cốt yếu làm sao cho đở đói mà đi tiếp, Đạt nhỏ khuyên mọi người hảy cứ đi, đừng nghỉ ngợi chi cho lắm mà mất tinh thần, cứ coi như là cả nhà đi cắm trại trong rừng. Hằng, Minh, Khải và tôi thích ngồi đây lâu hơn vì nơi đây đẹp quá, tâm hồn chúng tôi để dàng rung động trước vẽ đẹp của thiên nhiên dù bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu… Nhưng thôi; phải lên đường.

Hôm nay thật là may, chúng tôi gặp 1 buôn Thượng nhỏ, lơ thơ mấy mái nhà rông, chúng tôi mừng quá ghé vào. Trong buôn vắng vẽ, chỉ có vài người già và con nít, họ bu lại nhìn chúng tôi có vẻ tò mò rồi chỉ chỏ líu lo nói chuyện với nhau bằng thứ ngôn ngữ của họ, hình như họ cũng biết chút ít tiếng Kinh. Anh Đạt dùng tất cả khả năng điệu bộ mình có để nói chuyện với họ, anh đưa tay chỉ vào bụng của chúng tôi nói một chử “đói;” rồi chỉ lên miệng, vẻ mặt anh buồn như muốn khóc, sau cùng anh nói một tiếng “ăn;” người đàn bà thượng hỏi giọng lơ ló: “người kinh xin cái ăn hớ?” tất cả chúng tôi vội vã gật gật đầu, bà ta và mấy người đứng bên cạnh bỏ đi, một lát sau họ quay lại, mỗi người đeo một cái gùi sau lưng, họ ngồi xuống trước mặt chúng tôi rồi lôi những thứ đựng trong gùi ra, khoảng 10 trái bắp khô, 1 trái bí, 3 trái đu đủ, một nải chuối, người đàn ông đứng bên bà (có lẻ là chồng) lắc lắc đầu ra dấu với chúng tôi, ông ta nói “nghèo nhiều, nghỉ; nghỉ xuống…” Đạt nhỏ giải thích: ” ổng nói là họ nghèo lắm, ổng kêu tụi mình ngồi ở đây nghỉ.” chúng tôi mừng rở cảm động cám ơn họ. Tôi rủ Hằng, Khải, Minh xin họ đi quanh trong làng, cũng bằng một vài điệu bộ và mấy chử ngắn gọn, họ hiểu và gật dầu, thế là mấy đứa tôi lang thang trong buôn làng người thượng, tôi cảm xúc bởi vẻ đẹp hoang sơ ở nơi đây, sự gần gủi với thiên nhiên trong cuộc sống của họ tạo cho họ có một tâm hồn mộc mạc, trong sáng, bình dị, tấm chân tình của họ mang đến cho chúng tôi sự cảm thông và chia sẽ, Minh reo lên, cậu bé đưa tay chỉ về một góc ở cuối làng; nơi đó có một bụi mía cao, Hằng mừng quá vổ tay reo: “- xin mía cho bé Ly bú đi Khải ” . Bốn đứa quay về nơi cả nhà đang ngồi, Hằng kể anh Đạt nghe, lại quơ tay ra dấu lại nói lơ ló mấy tiếng, người đàn ông gật đầu quay đi, lát sau đem về đưa cho anh Đạt 5 cây mía, chị Bích mừng đến ứa nước mắt; thế là bé LyLy có 1 bình nước mía bú ngon lành, Mạnh hỏi mượn cây dao (ngoài Huế kêu là cái rựa), có dao; Đạt nhỏ cạo sơ vỏ cây mía rồi chặt mỗi cây làm 5 khúc để bó lại cho gọn, ông An nói anh Đạt chia cho mỗi người 1 lóng mía. Lóng mía chỉ dài chưa bằng 1 gang tay nhưng ngon và quí biết là bao, chúng tôi tước vỏ ra; cắn gảy từng miếng nhỏ nhai thật kỷ; ép cho ra hết chất nước trong lóng mía, nó ngọt ngào như không có thứ gì ngọt hơn. Tôi rủ Khải:-” mỗi lần gặp làng Thượng tụi mình xin họ cho tụi mình đi lùng quanh làng, vui ghê,” Khải cười gật đầu.

Nhờ có một ít lương thực của những người Thượng tốt bụng mà chúng tôi cảm thấy trong lòng phấn chấn nên đi nhanh hơn, đến quá trưa chúng tôi mới nghỉ chân, Đạt nhỏ chuẩn bị nướng bí, mấy trái đu đủ đã chín vàng nên anh Đạt xẻ ra chia cho mỗi người 1 miếng nhỏ, chị Bích lựa miếng chín nhất cho bé Ly ăn, bé mút mút miếng đu đủ rồi vổ tay cười thích thú. Trưa và chiều nay cả đoàn được ăn nhiều đồ ngọt, thật là sung sướng, số bắp khô được tách hột cắn nhỏ chiều nay sẽ nấu, tối mới được ăn, nhưng chỉ ăn phân nửa mà thôi, phân nữa dành sáng mai ăn lấy sức mà… đi, còn nải chuối chưa được chín thì để dành. Ngồi buồn Mạnh nảy ra sáng kiến lấy râu bắp làm sợi thuốc lá, còn lá bắp thay giấy vấn bên ngoài, thế là các anh con trai có được những điếu thuốc lá bằng râu bắp hút cho đở ghiền, ngồi với nhau phì phèo nhã khói lên trời;cả nhà khen Mạnh nức nở, tôi và Hằng, Minh cũng bắt chước nhưng chịu không nổi, ho sặt sụa, bị chị Bích la cho một tăng. Rừng bao giờ cũng đẹp, đầy bí ẩn và nhiều nguy hiểm mà chúng tôi thì cứ phải đi trong rừng, sông lúc nào cũng nên thơ, nước sông lúc nào cũng mát dịu nhưng gặp cơn mưa lớn, sông bổng thét gầm dữ dội và chúng tôi lại không thể đi xa được con sông.

Mấy hôm nay cứ lẩn lút trong rừng, men theo sông, theo suối mà đi, đêm nằm ngủ thì cứ ngã lưng trên đất, trên cát hoặc trên lá cây rừng, cái đói là bạn thường trực với chúng tôi, hình như không ai có ý niệm gì về thời gian nữa, cứ sáng đi; trưa nghỉ, xế trưa đi; chiều nghỉ… riêng tôi; tôi chỉ ghi đươc rất ngắn gọn vào quyễn sổ nhỏ của mình, để không quên ngày tháng và những chuyện đã xảy đến với chúng tôi. Tôi nằm trên đám lá khô dưới một gốc cây lớn, hai tay khoanh lại làm gối kê đầu nhìn lên trời, những đám mây trắng nõn nà lẫn trong màu xám bạc đang lững lờ bay dưới nền trời xanh, đẹp quá đi thôi… Đang lim dim buồn ngủ thì bé Lan rụt rè đến bên tôi, tự nhiên tôi cảm thấy thương nó quá, mấy hôm nay tôi đã thờ ơ; vô tình với nó dù bé vẫn lặng lẽ đi bên cạnh tôi, vẫn thích nắm lấy tay tôi; thế nhưng trong lòng tôi vẫn không có sự hiện diện của bé Lan hay của Hưng; Phi, tâm hồn tôi vẫn cứ lãng đãng nơi đâu dù chân vẫn bước; mắt vẫn nhìn. Bé Lan cũng bơ vơ như tôi, số phận của bé còn thê thãm hơn tôi vì bé không biết cha mẹ bé đang ở đâu? còn sống hay đã chết? còn tôi, tôi biết cha mẹ mình còn ở Nha Trang, đang yên lành chờ mong tôi về nhà. Tôi nhìn bé Lan và lòng bổng dưng thương bé quá, tôi nắm tay bé kéo xuống nằm bên tôi, mái tóc bé rối bời, nó đưa bàn tay gầy trơ xương lên đếm:

– 1 nè; 2 nè; 3 nè… cô ơi mình đi được mấy ngày rồi hả cô? sao đi hoài vẫn chưa về tới nhà hả cô?

– Mình đi đươc 5 ngày rồi, làm sao cô biết được chừng nào mới về đến nhà, cứ đi theo chú Đạt là về tới nhà thôi.

– Cô ơi; chắc ba má cháu đã về nhà rồi đó cô, kỳ lắm cô, buổi tối hôm đó cháu đang ngủ ngon tự nhiên ba má kêu cháu dậy, ba má bồng em bé, dắt tay cháu nói là cả nhà mình đi chơi xa, – bé òa khóc – cô Thủy ơi cô biết ba má cháu đi đâu không? cháu nhớ quá cô à.

– Nín đi con, kể cô nghe ở nhà bé Lan làm gì? ba má làm gì?

– Ba đi lính, má bán hàng ngoài chợ, cháu biết quét nhà bồng em cho má. Cô ơi, cháu kể cô nghe; hồi đêm cháu mằm mơ thấy ba má với lại bé Xíu nhìn cháu cười mà sao cháu kêu hoài không ai chịu nghe, cháu buồn lắm đó cô, cô Thủy ơi, mình đừng đi với chú Đạt, cháu mỏi chân lắm, cô đưa cháu về nhà cháu nghe cô…

Làm sao nói cho bé Lan hiểu bây giờ? Tôi ngồi dậy ôm bé Lan vào lòng, dấu mặt tôi vào mái tóc khét nắng của bé, tôi khóc thầm, có biết bao câu hỏi nhưng không có được một câu trả lời, chính tôi đây; tôi cũng không hiểu nổi tại sao và vì sao.

Khải đến ngồi bên tôi, hai đứa nhìn xuống dòng sông bên dưới; Khải mơ mộng:

– Nơi đây đẹp quá Thủy nhỉ, anh không muốn đi tiếp nữa, hay… em ở lại cùng anh…

Tôi cười:

– Ở đây để làm người tiền sử hả? Khải không sợ chết đói à? rồi đủ mọi thứ thiếu thốn…

Khải ngắt lời tôi:

– Vậy chứ người Thượng họ cũng sống được đó thôi.

Tôi lắc đầu:

– Họ khác; mình khác.

– Ối dà, đừng lo; ngày ngày anh đi kiếm đồ ăn đem về cho Thủy, bất quá mình cũng làm rẫy như họ…

Tôi xô Khải ngả chổng chân lên trời:

– Anh làm như tụi mình đóng phim kiếm hiệp vậy đó, cứ xách kiếm te te đi chơi, không làm gì mà cũng có cơm ăn, vậy là tụi mình giống… cái bang rồi…

Có tiếng Hằng cười khanh khách sau lưng:

– Con nhà Khải mơ mộng quá trời, em tôi lại sống trên mây rồi.

Mấy đứa tôi cùng cười lớn, bao nhiêu ưu phiền mệt nhọc theo tiếng cười bay đi mất. Anh Đạt đứng ở trên đồi vổ tay ra lịnh:

– Mấy đứa, mau mau mang giày vào; đi tiếp. Mất nhiều thời gian lắm rồi đó nghe,” -“Đi thì đi..”. Tôi sửa lại đôi giày cho bé Lan; tôi nói với bé mai cô sẻ gội đầu cho bé, từ bây giờ tôi sẽ chú ý chăm sóc cho bé, gần gủi với bé nhiều hơn; tôi nhớ đến giấc mơ bé kể lúc nảy và tôi sợ… Tôi nhìn lại nơi tuyệt đẹp này, cũng có phần nào lưu luyến, Khải lôi tay tôi: “còn nhiều nơi đẹp lắm; đi thôi”

Đang đi thì Đạt Nhỏ lượm được 1 miếng cơm cháy khô queo dính cát nhỏ bằng bàn tay nằm cạnh 1 cái chốt của vc, Đạt Nhỏ bẻ ra chia cho mỗi người 1 miếng nhỏ xíu bằng lóng tay, chúng tôi gở cát dính trên đó rồi bỏ vào miệng ngậm, nước miếng làm mềm những hột cơm cháy, thèm cơm quá đi thôi.

Anh Đạt mở bản đồ ra xem; hiện giờ chúng tôi đang ở khoãng giữa dòng sông Adun và nhánh nhỏ của sông Êpa, chương trình của anh Đạt là đưa mọi người ra khỏi khu rừng này, cặp theo sông, gặp được khúc sông nào cạn sẽ lội qua, khi qua được bên kia sông rồi thì… tiếp tục đi trong rừng, bám dọc theo đèo Măngyang; từ đó xuôi xuống theo sông Êpa về đến Tuy Hòa. Ý nghỉ về lộ trình này cứ đeo bám trong đầu anh Đạt, đã mấy ngày rồi mà chúng tôi chưa tới được sông Êpa, hiện giờ đoàn người đang ở trên 1 ngọn đồi cao, phía đưới là 1 nhánh sông nhỏ, có vẻ sâu, anh Đạt hối mọi người phải đi nhanh mới được, anh chỉ vào mấy điểm màu trên bản đồ và giải thích cho chúng tôi biết: nơi nào có dân, nơi nào là sông, nơi nào là đường…. v… v… nhưng nhũng nơi như thế này chỉ có người dân tộc thượng dựng làng sinh sống, còn người kinh thì ở đồng bằng, phố thị. Anh Đạt nói phải đi làm sao để chiều mai đến được chấm đen này, anh chỉ cho tôi xem “cái chấm đen;” ấy trên bản đồ, tôi chẵng hiểu và chẵng nhìn ra được cái gì cả. Thật tình tôi thấy anh Đạt thế nào ấy, hể ở bên này sông thì anh chỉ mơ tưỡng bên kia sông; mà qua bên kia sông rồi anh lại muốn về lại bên này. Bà An phải dựa vào ông An mà đi, bà có vẻ mệt ghê lắm, hôm nay bà không nói chuyện với các con, bà cũng không cười với các cháu, có lẻ bà bịnh?

Chiều xuống rất nhanh, khi chúng tôi dừng chân là khi trời nhá nhem tối, Ngân đang nấu số bắp đã xin được lúc trưa, bao nhiêu người lớn là bấy nhiêu cái “máy cắn bắp;” người nào cũng bỏ vô miệng vài hột; cắn bễ làm đôi, vừa làm vừa nói chuyện tiếu lâm chọc cho nhau cười, Khải đang ép mía cho bé Ly Ly bú, chị Bích nằm dài trên đám lá khô, Bé Ly nằm trên người chị đang ra sức bú những giọt sữa rất hiếm hoi của mẹ. Tiếng anh Đạt vang lên phá tan sự im lặng của mọi người:

– Ngày mai sẽ vượt sông, đoạn sông này không sâu lắm, chừng ngang ngực của mình thôi, mấy người lớn cõng mấy cháu bé trên vai, còn các cô bám vào nhau mà lội qua, đồ đạt thì khi đưa các cháu qua rồi, quay trở lại mang đồ sang. – Ông An hỏi:

– Làm sao con biết là cạn, nhỡ như khúc sông này sâu thì sao? nguy hiểm lắm con ạ.

– Con vừa thăm dò xong, không sâu đâu cậu à, phải cố mà đi cho nhanh, mùa mưa đến sớm như thế này mình dể bị kẹt ở trong rừng…

Anh Đạt bước ra chổ khác ngồi, nhìn anh có vẻ đăm chiêu; tôi biết anh đang rất lo. Tôi hỏi riêng anh Đạt:- “bên kia sông có gì mà sao anh cứ bắt mọi người chạy qua chạy lại hoài, đi như hình ziczac vậy đó ?” -“Anh cũng không biết bên kia sông có gì nữa, nhưng có cái gì đó cứ thôi thúc anh phải qua bên kia; dù rằng sau khi qua bên kia rồi anh lại thấy… phải trở lại bên này, tự nhiên anh cảm thấy mình không phải là mình mà là ai đó, nói ra sợ cả nhà lo, Thủy giữ kín cho anh.” Anh Đạt nói với tôi điều này xong; hình như anh có vẻ nhẹ đi một chút; nhưng tôi lại cảm thấy lòng mình trở nên nặng nề hơn. Hưng thắc mắc: -“Tại sao không ra đường cái quan mà đi, tôi biết đèo Măngyang đẹp lắm đó, chứ mình cứ đi mãi trong rừng như thế này biết bao giờ mới tới Tuy Hòa, mà biết đâu về tới đó, nó cũng mất như pleiku. ”

Anh Đạt gắt: – Đã là mình đang cố tránh vc, ra đường nhựa là gặp họ ngay, lúc đó họ lùa mình về lại Pleiku, rồi bắt mình đi nô dịch khổ sai có mà chết, còn đi trong rừng như thế này có nhiều hy vọng về đến Nha Trang, Nha trang có mất thì mình vượt biên vào Sài Gòn…

Những điều anh Đạt nói làm cho mọi người bồi hồi, lòng đầy hy vọng và phấn chấn tinh thần, tôi nhớ cha mẹ tôi lắm, nhớ hàng dừa trước sân nhà, nhớ giếng nước trong veo ngọt nhất vùng, nhớ nhà thờ Vĩnh Phước… nhớ bãi biển cát trắng, nước xanh, và tôi như nghe được tiếng sóng vỗ rì rào… rì rào… Ngày mai sẽ “sang sông;” chưa bao giờ tôi nôn nao như vậy, tôi nói với Hằng:-” sông này sao giống… sông Bến Hải; nó chia cắt đôi bờ, nên mình cứ muốn qua bên kia.” Chúng tôi gồm những người như: Anh Đạt, Hưng, Phi, Khải, Mạnh là những quân nhân, chị Bích, Hằng và tôi là những giáo sư, còn Minh, Hoa, Kiều, Ty, Ty Anh, là học sinh… Và thêm nữa là Ông Bà An; đang ngồi bên này sông để mơ về “nơi bình yên chim hót “.Mỗi chiều khi ngừng nghỉ Hằng lại hát “này người yêu, Người yêu tôi ơi…” bên kia sông, rồi bên kia nữa; có anh bên đó không? Tôi nhớ; tôi mong; tôi chờ đợi và tôi suy tư, cuộc chiến này hoàn toàn phi lý và phi nhân mà cái chết là sự kết thúc không báo trước. Cả một thành phố nhốn nháo, cuống cuồng chạy trốn vì sợ, một nỗi sợ vô hình, mà sự sợ hãi rất dể lây lan, nó như một bịnh dịch không sao ngăn chặn nổi, vc hay quá, đã làm cho người dân sợ chết khiếp, nhất là những gia đình có người đi lính… mà nhà nào lại chẳng có người bị đi lính và phải đi lính kia chứ, đó là sự bắt buộc rất hiển nhiên và tự nhiên thôi.

Trời tối dần, phía bên kia sông chỉ còn là một màu tím thẫm, nồi bắp cũng đã nhừ, chúng tôi mỗi người chỉ được một nắm bắp, bắp của người Thượng trồng thật ngon; nó vừa ngọt vừa bùi lại vừa dẻo, mùi thơm dể chịu. Tôi bỏ vài hột vào trong miệng; nhai thật lâu, thật kỷ để cảm nhận thật đầy đủ những hương vị đặt biệt của từng hạt bắp, dù sao cũng cứ nghỉ rằng: “ăn là một nghệ thuật;” và làm bớt đi cái phàm tục của mình, tôi nuốt thật chậm để cho cổ họng mình cũng được hưỡng nhờ cái vị ngon của bắp…, bé Lan lại đến bên tôi, tôi đếm đúng 10 hột chia cho bé ( thật ra là chỉ 5 hột đã cắn làm đôi). Chỉ sợ đêm nay trời đổ mưa, anh Đạt moi từ dưới đáy sacmarin lấy ra cái poncho, phòng hờ trời có đổ cơn mưa, dùng nó để che mưa thật là tuyệt. Buồn quá, chúng tôi rủ nhau ra mé bờ sông ngồi chơi, trên trời có những vì sao đang lấp lánh, một số ngôi sao đã bị mây che phủ. Bà An đang ngồi nói chuyện với Kiều, Ty và mấy đứa cháu, tôi nghe tiếng bà cười vui; lâu lắm rồi; kể từ ngày leo kên chiếc GMC đến nay mới nghe được tiếng cười của bà, mấy đứa chúng tôi vui lây. Tôi ôm bé Lan vào lòng; đu đưa nhè nhẹ, Hưng; Phi tới ngồi gần tôi; chúng tôi nói chuyện, hỏi thăm nhau, kể từ lúc nhập vào đoàn nhà chị Bích, đây là lần đầu tiên 3 đứa tôi nói chuyện nhiều với nhau, Hưng hỏi tôi đủ thứ chuyện, tôi kể cho 2 người nghe đại khái đôi chút về mình:

– Cha mẹ tôi ở Nha Trang, quê tôi làng Phủ Cam; Huế; cha tôi là Dân Biểu Quốc Hội khóa 2 của thời ông Ngô Đình Diệm, Dòng họ HỒ – ĐẮC, lúc nhỏ tôi học trường JEAN – D’ARC, sau Mậu Thân cả nhà vào Nha Trang, học trường Lê Qúi Đôn, đậu tú tài 2 lên Đà Lạt học đại học Văn Khoa và Sư Phạm, rồi xin lên Pleiku dạy, ở nơi tận cùng bằng số đó chẳng sợ ai để ý kỷ luật vì tôi ưa gom giờ dạy lại gần liền nhau; dành những giờ trống để bay lên Đà Lạt chơi.

-Thủy dạy trường nào? Kể cho tụi anh nghe chuyện của Thủy đi.

– Tôi dạy trường Nam Trung Học Pleiku, môn Văn – Sử – Địa, học trò của tôi có đứa cao bằng cô giáo, trường ở trên đường Hoàng Diệu; nằm giữa trường Tuyên Đức của Tàu và Trường Phao Lồ của các Soeur, trên một ngọn đồi; qua khỏi trường đến cuối con đường, qua bên kia đường có một thung lũng, tôi đặt tên là Thung Lũng Hồng, vì mỗi sáng sớm ra đó nhìn xuống dưới thấy cỏ có màu phớt hồng của nắng, đẹp lắm.Ngoài những giờ dạy ở trường Pleiku tôi còn dạy thêm môn Pháp Văn của trường Tư Thục Minh Đức 2 ở Phú Thọ…

Phi nói đùa:

– Học trò lớn mà cô giáo còn nhỏ như thế có bị xảy ra chuyện vòng tay học trò không?

– Cũng có vài lá thư tỏ tình của mấy “chú bé con” mới lớn, đọc cũng vui vui.

Anh Phi cũng ở Nha Trang, phi đoàn 114, lên Ban Mê Thuột bị kẹt lại, phải di tãn bằng đường bộ, anh hỏi tôi:

– Khải là gì của Thủy? rồi chị Bích, Hằng…

– Tôi dạy cùng trường Nam Tr. học với chị Bích, với lại cũng dạy trường Minh Đức 2 ở Phú Thọ chung với Hằng, tụi mình đang đi cùng với cả gia đình chị Bích, Bố mẹ của chị là ông bà An, cả nhà kêu bằng cậu mợ vì ngày xưa ở ngoài Bắc gia đình chị thuộc giới quí tộc, Đạt là em kế, rồi đến Hằng, Khải, Luật, Minh, Kiều, Ty, còn Thấm là em vợ của anh Đạt, mấy cô nhỏ kia là em họ của chị, anh hỏi Khải là gì của tôi? tôi cũng không biết nữa, nhưng Khải lãng mạn và hát rất hay, còn Minh là 1 chàng trai đang lớn, đúng hơn đó là một thiếu niên rất dễ thương, rất tình cảm; chững chạc, ít nói, tâm hồn sâu sắc lắm đó… mà thôi, sao tôi nói nhiều quá, tôi sẽ không nói thêm nữa đâu.

– Thủy kể chuyện hay lắm đó? với lại Thủy có cái răng khểnh rất xinh… biết không?

Tôi cười:

– Biết chứ, ai cũng khen như vậy. Khải từ trên dốc chạy xuống kêu tôi “- Thủy ơi; mợ gọi em kìa;” Khải nắm tay tôi kéo đến chổ bà An, tôi hỏi: – mợ nói gì con? -con biết từ lâu, cậu mợ quí con lắm, mợ mong khi về đến Sài Gòn con sẽ là con của cậu mợ nhé; con đồng ý không?.

Tôi không trả lời được câu hỏi của bà, nhất là vào lúc này, sự sống còn không biết có giử được hay không đây nói gì đến chuyện xa vời kia, tôi không trách bà, lúc này bà đang vui trong lòng, niềm vui hiếm hoi ít ỏi mới tìm lại được. Thời gian đến chơi với gia đình chị Bích là thời gian tôi đang sống ngập trong nổi đau khổ và nhung nhớ, tôi loay hoay tìm kiếm cho mình một phương thuốc để xoa dịu nổi đau đớn đó; nhưng tất cả chỉ là tạm thời trong chốc lát mà thôi. Đã khuya lắm rồi, anh Đạt ra lịnh:

-Thôi nào, mọi người đi ngủ thôi. Mợ đừng làm cho Thủy bối rối, cứ để mọi chuyện được tự nhiên mợ à ,(cám ơn anh Đạt lắm lắm).

Đêm nào cũng thế, hể nhắm mắt dổ giấc ngủ là tôi lại thấy những ánh chớp bừng lên, rồi sắt thép cùng xác người tung lên cao, rồi máu đỏ thắm đất, máu nhuộm cả một giòng sông, văng vẳng bên tai tiếng khóc la kêu gào, là tiếng nổ rung trời chuyển đất, những hình ảnh của chết chóc cứ ám ảnh tôi, nó ở mãi trong đầu tôi chẳng chịu buông tha cho tới lúc tôi phải khóc một hồi rồi mới ngủ được. Đêm nay ngồi nói chuyện với 2 anh chàng phi công này, tâm hồn tôi hơi xao xuyến bâng khuâng vì họ ở cùng phi đoàn của anh ấy… ngày xưa…

23/03 /1975

Mặt trời lên cao; nắng ban mai nhảy nhót trên những ngọn cây; len lỏi vào từng kẻ lá như những sợi chỉ vàng óng ánh, nắng chiếu vào mặt, nắng soi vào mắt, lúc đó chúng tôi mới thức dậy, anh Đạt là người nôn nóng lên đường mà cũng dậy trể như mọi người, chúng tôi nhào xuống sông, nước mát lạnh làm cho chúng tôi tỉnh táo. Một ngày mới đầy tươi đẹp, đầy màu sắc: mây trắng, trời xanh, nắng hồng óng ã, gió thì dìu dịu phất phơ… nếu không vì chuyến đi về vùng tự do đầy gian khổ này; mà được ở lâu nơi đây thì thích quá. Mỗi người chúng tôi được 1 nắm bắp như đêm qua, ăn xong chuẩn bị hành trang lên đường. Hôm nay bà An có vẽ rất mệt mỏi hơn bao giờ hết, hình như sức khỏe của bà rất kém.

Sáng nay chúng tôi phải lội qua sông, sau cơn mưa đêm hôm nọ nước trên nguồn đổ về dâng cao và chảy mạnh nên chúng tôi phải mò mẩm từng bước mới lội qua được bên kia bờ, con trai phải đi làm 2 chuyến: sau khi cõng mợ và các cháu nhỏ qua bên kia rồi, phải lội ngược trở lại; đội đồ đạc trên đầu, mỗi người nắm tay 1 đứa con gái dắt qua, đến giữa dòng Ngân loạng choạng trượt chân ngã xuống, 2 tay chới với đang lúc nước chảy mạnh, chúng tôi la hét vang cả một góc trời, cũng may Hớn kéo tay Ngân lên kịp. Khi tất cả chúng tôi qua sông được an toàn, mọi người ngồi nghỉ mệt, ai cũng hú hồn hú vía vì chuyện vừa rồi, áo quần đứa nào cũng bị ướt, thôi thì cứ để nguyên trên người nhờ nắng hong khô, chỉ mấy đứa bé là không bị ướt, dù sao cũng phải cố mà đi tiếp. Một đoàn người áo quần sũng nước đội nắng mà đi; lôi thôi; lếch thếch như một đám ăn xin du mục, cũng chẳng khác nào một lũ điên, đâu rồi hình ảnh của những chàng Sĩ Quan QĐVNCH oai phong lẫm liệt, đâu rồi hình ảnh của các quí cô tiểu thư khuê các? bây giờ thì mất hết cả rồi, chỉ còn một đám… tàn binh trông rất thê thảm.

Nắng nóng bỏng, trời oi bức nồng nực không có lấy 1 ngọn gió, tôi thở khó nhọc; lổ mũi như có khói bốc ra, mắt tôi cay mờ, đầu nặng như đeo đá, chân bước không muốn nổi, anh Đạt thì luôn miệng hối:” -nhanh lên nào, sao mà chậm quá cứ như là rùa bò,” Tôi đi như người bị mộng du, bây giờ đến lượt cơn đói hành hạ chúng tôi, đoạn rừng này không có trái gì để ăn, kể cả trái sung hay trái ngái, một nơi hoang vu, không có con đường mòn nào để chứng tỏ có bước chân của người Thượng; mà chỉ toàn là rừng cây với núi đá. Đạt Nhỏ ngừng lại nói với anh Đạt:

– Phải để 2 bác và mọi người nghỉ, không ai đi tiếp nổi đâu, bây giờ tất cả ngồi đây chờ tôi đi dọ đường, cố kiếm 1 con đường mòn, có đường mòn là có làng thượng đâu đó hoặc là nương rẫy của họ, tới lúc đó mình tùy cơ ứng biến.

Nói xong Đạt Nhỏ bỏ đi, chúng tôi ngồi bệt xuống đất chờ đợi, không biết thời gian bao lâu Mạnh mới trở về, mọi người chăm chăm nhìn anh chàng để đoán kết quả, Đạt Nhỏ thở ra có vẻ nhẹ nhỏm: – Gần đây có một làng Thượng nghèo, nhưng vẫn tốt hơn là không có, nào cùng đi…

Chúng tôi uể oải đứng lên đi theo Đạt Nhỏ, len lỏi sâu trong rừng 1 tí, xuôi theo bóng nắng 1 đoạn rồi chếch về bên trái gặp 1 con suối nhỏ (đổ về sông Êpa) nơi đây có 1 buôn thượng nghèo nàn, với vài nóc nhà sàn chơ vơ hiu quạnh, anh Đạt mở bản đồ ra xem, nhưng vì làng quá nhỏ nên chi không có trong bản đồ, nhưng theo trong này nếu đi ngược lên phía đèo Măngyang thì nơi đó có 1 buôn làng lớn tên là AnTrưng, nhưng nếu đi ngược lên phía trên là về lại… Nơi Chốn Cũ…Tôi chỉ vào mấy con đường vẻ trên bản đồ, nói với anh Đạt:

– Ngày đầu gặp vc, đoàn mình ở gần đèo Măngyang, mình cũng đã bò ra khỏi rừng để tới con đường này, rồi anh lượm được bịch gạo với cái nón sắt, sau đó cả đoàn rút vô rừng, đi mấy ngày trời mà cũng chỉ loanh quanh lòng vòng, lên đồi, xuống dốc, vô rừng ra suối, qua bên kia sông rồi về bên này sông…đoàn mình đâu có đi được bao nhiêu đâu, nếu bữa đó mình cứ đi thẳng xuống; không chừng mình đi được nhiều…

Anh Đạt nhíu mày: – Không phải đâu, lúc anh và Khải bò ra lượm đồ, thì tụi mình ở gần buôn Hra, chỉ là đầu đường đèo mà thôi, sau đó mình rút về đi theo sông Ađun -Thủy xem đây này – anh Đạt chỉ vào 1 điểm trên bãn đồ – Ở đầu cây cầu này là nơi cả đoàn xe bị chận lại, ngay Phú Bổn lúc đó vc pháo kích tưng bừng khói lửa, ngày gặp mấy ông vc là tụi mình ở chổ này, sau đó bò ra quốc lộ, rồi lùi ngược sông Ađun, vì sông này gần thị trấn Măngyang, không xa Hàm Rồng bao nhiêu, anh phải đưa cả nhà đi băng rừng để tránh vc. Pleiku mất rồi, thành phố bỏ ngỏ mà, thấy chưa.

À, thì ra là vậy, như vậy Phú bổn là tâm điểm của Qui Nhơn, Ban mê Thuộc và Pleiku. Trong bản đồ có 1 con đường nhỏ tách ra từ QL19, con đường này cặp theo sông Êpa tới thị trấn Cheo Reo, hai con sông Adun và Êpa gặp nhau nhập chung làm 1 dọc theo sông này có 1 con đường lớn, con đường và giòng sông chạy song song với nhau đi qua các buôn làng nhỏ, sau đó đến thị trấn KrongPa, cuối thị trấn là ranh giới của Tuy Hòa… Như thế chúng tôi phải đi rất nhiều cây số đường rừng, lại lên đồi; xuống dốc, lại loanh quanh loằng ngoằng nhưng dù sao khi gặp được làng Thượng ai nấy đều vui mừng, thở phào nhẹ nhỏm.

Mặc dù đây chỉ là 1 buôn Thượng nghèo nhưng có còn hơn không, đám con trai lại đi tảo thanh lương thực, Tôi và Hằng dù mệt vẫn muốn đi theo nhưng bị la: chỉ vướng chân. Tôi nhìn quanh chổ mình ngồi: nơi đây là một rừng tre dại; thân tre nhỏ bằng cườm tay của tôi, không cao vút như tre làng Phủ Cam của tôi, nó cũng mọc từng bụi, chúng tôi xuống sông rữa mặt, nước sông mát rượi làm dịu cơn mỏi mệt. Bao nhiêu lần vượt sông là bấy nhiêu lần hy vọng, nhưng bên này sông hay bên kia sông cũng thế mà thôi, vẫn chỉ là sự hoang vắng, là rừng cây; bãi cát cùng với sự thinh lặng của không gian. Tôi cảm thấy chung quanh mình mịt mù vây phủ không lối thoát. Chiều nay; ngồi trên đồi với một rừng tre xanh mướt, tôi nhìn xuống dòng sông bên dưới, tôi nghỉ về mình, tôi tìm tôi trong kỷ niệm, kỷ niệm của tôi lãng đãng mờ hơi sương, tại sao tôi cứ mãi nhớ nhung về những tháng ngày đã qua? đi như thế này lắm lúc tôi muốn nổi loạn, muốn gào thét thật to, rồi tôi lại muốn khóc; khóc thật lớn, khóc cho bể cả không gian mà trút tất cả mọi thứ đang chất chứa trong tâm hồn tôi để không còn lại một thứ gì, cho tâm hồn tôi được nhẹ nhàng thanh thãn.

Bé Lan lay lay vai tôi làm tôi tỉnh “cơn mê;” trở về với thực tại, bé đưa tay chỉ ngược lên phía trên giòng sông:

– Cô Thủy ơi, xem kìa;

Tôi nhìn theo tay bé chỉ và reo to:

– Có người kìa, chị Bích ơi, Hằng ơi, lẹ lẹ lên…

Đó là 2 người Thượng đen thui, một đàn ông và 1 đàn bà, tôi đoán đó là 2 vợ chồng, họ đang lưới cá ở khúc sông phía trên, tôi nắm tay bé Lan chạy tới gần để xem, 2 người họ; mỗi người 1 bên, 2 tay cầm 2 góc của 1 miếng vải mùng dài độ 3m; 2 góc cho chìm sâu dưới nước, 2 góc ở phía trên, họ cúi sát xuống cho tấm vải nằm dựng đứng theo chiều ngang ngăn dòng nước rồi đi tới từ từ, sau đó họ nâng tấm vải lên theo thế nằm ngữa, trên tấm vải mùng có mấy con cá nhảy lưng tưng, chúng tôi ngạc nhiên lẩn thích thú nhìn cảnh lưới cá đơn sơ mộc mạc này, họ làm đi làm lại nhiều lần như vậy, số cá lưới được, họ xâu vào 1 thanh tre chẻ nhỏ, sau đó treo trên một cành cây ven sông, ở trên bờ chúng tôi lẻo đẻo đi lên đi xuống theo 2 người đó (trông chúng tôi lúc này thật buồn cười, như 1 bầy con nít khù khờ tội nghiệp). Nhìn những con cá của họ; đứa nào cũng… thèm. Mấy chàng trai sau khi “tảo thanh lương thực;” họ mang về mấy trái bí, đu đủ, chừng chục trái bắp, tôi chạy lên lôi tay Khải xuống, mấy người con trai chạy theo, Minh vổ tay reo lên:

– Mình bắt chước họ, lấy cái mùng bắt cá đi anh Đạt.

Cả một khúc sông đầy tiếng reo vui của đám trẻ nhỏ và người lớn. Vậy là cái mùng có thêm 1 công dụng, khi 2 người thượng lên bờ đi về nhà họ, anh Đạt, Khải, Minh, Đạt Nhỏ, Phi, Hớn nhào xuống sông, 6 chàng trai với 1 cái mùng vật lộn với giòng sông kiếm cá, vui quá là vui, mỗi lần kéo tấm mùng lên trong đó có mấy con cá vùng vẩy Ty Anh, Ty em, My cò, bé Lan vổ tay reo hò, chị Bích bồng Ly ly xuống coi mấy cậu bắt cá, sinh hoạt này điễn ra một cảnh thanh bình vui vẽ, chúng tôi tạm rời xa mọi thực tại đáng buồn. Mãi đến khi trời tắt hẳn nắng chúng tôi mới kéo nhau… “tung tăng đi về nhà “.

Số cá lưới đựơc là 27 con; to bằng ngón tay cái, mấy trái đu đủ chỉ mới chín hườm, Chị Bích dặn Ngân lấy cá nấu canh với đu đủ, cho vào 1 chút muối (gói muối Khải cất kỉ lắm nên khi trời mưa vẫn không bị ướt), ấm nước dùng để nấu canh, còn cái nón sắt nấu bắp, thế là… bao nhiêu người là bấy nhiêu cái máy cắn bắp, chúng tôi vừa làm vừa nói chuyện vui đùa. Ôi chao; nhờ những con cá bé nhỏ mà chúng tôi có được niềm vui lớn, cùng với một luồn sinh khí mới thổi vào tâm hồn mỗi người trong chúng tôi.

Tối nay chúng tôi được ăn canh đu đủ nấu với cá, chất tanh của cá hòa quyện với vị ngọt của đu đủ, vị mặn của muối sao mà ngon, mà quyến rũ quá đi thôi, cọng thêm với những nắm bắp vừa dẻo vừa thơm lại vừa bùi… những thứ đó cùng đưa vào miệng ngậm chung với nhau… Ai ơi đừng nuốt vội, hảy cứ nhai từ từ mà thưỡng thúc; mà cảm nhận; thích lắm đó, hảy cứ ngậm cho lâu rồi phân tích từng vị một: đâu là ngọt; là tanh; là thơm tho; là dẻo, bùi và mằn mặn…(sao tôi phàm tục thế)… Nhưng…tôi đang thưỡng thức tinh hoa của trời và đất thôi mà.

Bà An đòi nghỉ ngơi vài ngày ở đây vì bà rất mệt, hơn nữa ở lại nơi đây cũng vui;còn hơn là cứ lầm lủi đi mãi trong rừng; nhưng anh Đạt không chịu anh muốn đưa cả đoàn đi tiếp, lòng anh đang nôn nóng lo cho vợ và 3 con của anh. Anh cho rằng “mẹ nhỏng nhẻo với bố;” với lại bà thiếu ý chí, tinh thần suy nhược nên cơ thể bị yếu theo. Nửa đêm Bà An khóc, giữa rừng khuya; khi vạn vật đều thinh lặng, tiếng khóc của bà nghe nảo nề làm sao, ông An vổ về bà, giọng ông nhừa nhựa vì đang cơn ngái ngủ. Phía dưới kia là tiếng róc rách của giòng nước đang chảy về xuôi, không ai ngủ được nữa vì tiếng khóc của bà An, Khải rủ tôi ra bờ sông ngồi nghe Khải hát; vẫn là những bản nhạc của LOBO, giọng Khải sao mà buồn quá. Tôi ngồi nơi đây mà nghe: giọng khóc tỉ tê của bà An, giọng vổ về buồn ngủ của ông An, tiếng nước dưới sông đang chảy với tiếng hát của Khải buồn buồn… tất cả đang xoáy sâu vào lòng tôi đau nhói, có ai trả lời được dùm tôi : biết chừng nào chúng tôi mới ra khỏi nơi đây? Tâm hồn chúng tôi đều tan nát như nhau, ai cũng có một nổi miềm riêng. Đêm về thường ưa suy nghĩ lung tung và thường rất sợ hãi.

Trời lại không thương chúng tôi rồi, nửa đêm bổng đổ cơn mưa lớn, mưa như thác nước trút đầu gềnh; lớn hơn cả cơn mưa hôm trước, chúng tôi vội vã chui vào những lùm tre, ngồi thật sát vào nhau cố tránh những giọt nước phủ phàng đang tuôn lên người chúng tôi một cách vô tình không thương xót, mặc dù đang bị khốn khổ vì ướt; nhưng tôi vẫn cố lắng tai để nghe những âm thanh của nước đang cùng nhau hòa tấu: Tiếng ầm ầm từ trên nguồn đổ về nghe vọng dội, tiếng róc rách chảy qua các gềnh đá nhỏ nhẹ êm tai, tiếng rủ rỉ khi nước lách qua những gốc cây và tiếng mưa rơi rì rào… rì rào…trên lá. Sấm chớp xẹt sáng xang lè cả một góc trời, dù nhắm mắt thật kỷ nhưng ánh sáng rợn người vẫn lóe trong mắt tôi nhức nhối. Tôi ôm chặt bé Lan, bé cố thu người thật nhỏ; thật sát vào tôi; nó khóc nức nở, cả người bé run rẫy trong lòng tôi làm tôi cũng khóc theo. Nước ở đâu trên trời mà nhiều quá, trút xuống mải không ngừng nghỉ, không cạn nguồn, nước chảy qua chân; qua mông đít, nước len lỏi vào từng ngóc ngách trên người chúng tôi làm ước đẩm, lạnh buốt. Chiều nay được ăn một miếng canh cá nấu với đu đủ và một nắm bắp hầm nhừ, niềm sung sướng hạnh phúc chưa tan thì đã phải trả giá bằng một cơn mưa quá chừng quá đổi… mưa và mưa mãi…

24/03/1975

Mãi đến gần sáng mưa mới tạnh, nước trên cao vẫn chảy mạnh len lỏi qua các khe đá kêu róc rách, tất cả đồ đạt áo quần của chúng tôi mang theo đều ướt chèm nhẹp, trời không có nắng để phơi đồ nhưng cũng phải trải trên những ngọn cây nhờ gió thổi cho khô. Bà An lên cơn sốt, mọi người rất là lo lắng, nhất là anh Đạt, anh không muốn ở lại đây lâu, chờ chừng nào đồ đạc hơi khô sẽ đi tiếp, anh bàn với chị Bích và Khải: – phải làm 1 cái cáng để thay nhau khiêng mợ. Ông An và chị Bích không chịu; sợ đi kiểu đó bà sẽ mệt hơn, bà cần phải được nghỉ ngơi một cách tuyệt đối, điều trở ngại lớn nhất là sau cơn mưa đất đai đều ẩm ướt làm sao nằm nghỉ lại ở nơi đây? Đạt nhỏ nói: – hay là làm 1 cái giường dã chiến cho mợ nằm, cũng không khó, lấy 4 khúc tre đóng xuống 4 góc đất, chẽ tre làm vạt giường, rồi làm mái nhà che mưa, lấy lá tre lợp nhà… Hằng trề môi: – nói nôm na là làm 1 cái chòi, nhưng tại sao lại tính chuyện lâu dài vậy? Anh Đạt đứng lên, thở phù 1 cái nói với bố: “- con sẽ đi tìm 1 cái chòi thượng bỏ trống, thường thì họ làm 1 cái chòi ở trong rẫy để canh mùa màng, cậu mợ và cả nhà ở đây chờ con, cùng chăm sóc mợ cho kỉ .” Anh quỳ gối ôm 2 vai bà, dổ dành, trấn an:

– Mợ đừng lo gì cả, mọi chuyện đã có chị em con lo, bên cạnh mợ có đầy đủ cậu và chúng con, mợ cố vui khỏe cho chúng con vững tinh thần.

Tuy nói thế nhưng tôi thấy trong mắt anh có 2 giọt nước long lanh chỉ muốn trào ra, khi anh đứng dậy, tôi cảm thấy thương cho anh quá. Anh Đạt đi lâu lắm, chúng tôi sốt ruột; lo lắng bồn chồn, cứ nhìn về lối mòn anh đi lúc nảy…ôi mừng quá, anh đã về, anh báo tin vui :” – Cách đây chừng 1 cây số có cái chòi của Thượng bỏ không, nhìn còn rất tốt, trong chòi lại có rất nhiều bắp, chúng mình đưa mợ đến đó nghỉ ngơi vài ngày.

Ai nấy đều mừng rở, Khải cõng mẹ đi theo anh Đạt, chúng tôi lỉnh kỉnh xách đồ đạc theo sau, Khải mệt rồi tới phiên Mạnh, tôi cảm động thay cho gia đình chị Bích khi thấy Mạnh nhiệt tình như người trong một nhà, đường đi tới cái chòi khúc khuỷu quanh co, nó nằm chơ vơ giữa 1 rẫy bắp củ, trong chòi có rất nhiều bắp khô, có lẽ đây là những trái bắp được họ chọn lựa để dành làm giống cho mùa sau, bà An được đặt nằm trên sàn chòi. Tôi nhìn kỷ cái chòi canh này và nhận thấy đây hình như không phải là chòi canh, mà là nơi để họ nghỉ ngơi khi gặt hái mùa màng và làm kho cất giử giống má. Họ làm cái chòi này một cách tỉ mỉ khéo tay đến không thể nào ngờ được; nó có hình chử nhật, tôi đoán một bề dài chừng 4m bề kia chừng 3m, sàn chòi là những thanh cật tre chẻ nhỏ; vót láng được xếp đều đặn ngay ngắn dọc theo chiều dài của nó và được đan dính vào với nhau bằng những sợi cật tre mãnh; nhỏ xíu, nhờ vậy mà sàn chòi phẵng lì vừa êm vừa mát, khi nằm lên đó nó sẽ cho ta một cảm giác thật dể chịu, phía trên mái của chòi họ làm công phu hơn, vô cùng tinh tế và có một kỷ thuật thẩm mỹ đến cao độ: những thanh tre được chẽ rất đều, vót thật trơn gát lên mái nhà chòi – có độ cao và nhọn chảy dốc xuống – từng thanh tre nhỏ xếp cách đều nhau chừng 1 phân; đặt lên trên nhũng cây đòn tay và được cột lại với nhau bằng những sợi tre như ở dưới sàn, sự đều đặn và cách khoãng nhau giửa các đòn tay và các cây xà ngang không thể nào chính xác hơn được nữa, họ dùng lá tranh để lợp mái, và cách lợp cũng vô cùng công phu, ba phía của chòi được che kính bằng những phên tre cũng được làm một cách rất tỉ mỉ, họ chừa trống 1 phía, riêng cả 3 phía kia họ treo từng lớp bắp sát vào nhau không chừa 1 kẽ hở nào; nó đều đặn như vảy cá; để phơi nắng và hong gió, như vậy chắc chắn đây là nơi để dành giống cho mùa sau đồng thời là nơi phơi giống cho khô, đầu óc họ thật tuyệt vời.

Số bắp hôm qua bị ướt mưa bây giờ đem ra nấu, nhờ vậy nó mau nhừ, nhưng phải thật nhừ như cháo để bà An dể ăn, trán bà nóng hổi mà người bà lại run lập cập, anh Đạt, Khải, Minh; lật đật đốt lửa trước chòi để sưởi ấm cho bà, ông An, Minh, Khải ngồi bên cạnh đang chà xát tay chân bà cho bớt lạnh, mọi người ai cũng lo lắng và buồn đến chảy nước mắt. Bà tỉnh dậy đòi uống nước, cháo bắp cũng đã nhừ, chị Bích đút cháo cho bà ăn nhưng bà nuốt rất khó khăn, mỗi lần nuốt 1 muổng cháo là bà nhăn mặt khổ sở, cả nhà ngồi bên cạnh dổ dành năn nỉ bà ăn, cố gắng cho mau khõe để về Sài Gòn gặp Luật, tôi thấy bà nhướng mắt lên để nuốt miếng cháo và nuốt luôn cả nước mắt, bà gầy gò, má cóp trơ xương, 2 hố mắt sâu hun hút, mặt bà vêu vao da vàng vọt, những ngón tay teo tóp, đôi chân bà khẵng khiu, tôi xót xa ứa nước mắt leo lên ngồi cạnh bà, nắm bàn tay bà bóp nhẹ, bà nhìn tôi hơi mỉm cười sau đó bà nhắm mắt như muốn ngủ. Cả nhà thay phiên nhau ngồi cạnh bà, riêng ông thì không rời bà lấy nữa bước, ông buồn rầu, đôi mắt ông luôn nhìn bà xót xa đau đớn. Ngồi mãi cũng chán, tôi bỏ ra ngoài tìm chổ nghỉ trưa, Hằng cũng ra ngồi bên tôi, mặc dù 2 đứa khác nhau về nhiều mặt: tính tình, sự suy nghỉ và những cái khác nửa nhưng chúng tôi lại rất hiểu nhau, thường chia sẽ cho nhau những lúc cần thiết nhất, tôi quí Hằng vì Hằng biết cách im lặng nghe tôi khóc bởi một lý do nào đó và kịp lúc dẩn tôi ra phố để cho tôi nguôi ngoai nổi buồn.

Chiều xuống chầm chậm, tôi thích buổi chiều nhưng rất sợ đêm tối đến. Có công việc để làm rồi đây, số bắp trên chòi đủ để nuôi sống chúng tôi trong thời gian chờ đợi; với điều kiện người Thượng không đến lấy và đuổi chúng tôi đi. Bây giờ chúng tôi cùng nhau gở hột bắp, nói nôm na là “lẩy bắp hay tẻ bắp;” vì phải làm nhiều nên mấy ngón tay của mọi người bị sưng phồng đau đớn, nhưng vẫn phải cố gắng tẻ cho thật nhiều để dành cho những ngày sau không sợ bị đói khi đi trong rừng, phải hy sinh 2 cái áo sơ mi của ông An để làm bọc đựng bắp; cứ trải rộng cái áo ra đổ bắp vào rồi túm cái áo lại, cột chặc, thế là xong, thật đơn giản, trong cái khó thường ló cái khôn; cũng như việc nhóm lữa nấu nướng, vì hộp quẹt diêm đã hết, Mạnh đã nghỉ ra cách: mỗi lần nấu nước hay bắp, lúc nào cũng phải đút vào 1 cây củi khô và to, khi tàn ngọn sẽ vùi cây củi đó vào tro để nó cháy âm ỉ hôm sau lên đường thì xách nó theo…nên không còn khó khăn mỗi lần nhóm bếp, chúng tôi gọi đùa là : “bếp lữa lang thang “.

Vừa tẻ bắp vừa nói chuyện cho đến khi 2 tay không thể làm nổi nữa, nhìn lại số bắp tẻ được cũng khá nhiều, vài đứa ngồi hát vu vơ, chiều xuống nhẹ nhàng, chung quanh cảnh vật mờ mờ hơi sương, Ngân cũng đã nấu xong nồi bắp, chúng tôi quây quần cùng ăn tối; phần ăn được nhiều hơn những lần trước. Tối nay không ai còn lòng dạ nào mà nghe radio, mỗi người đều mang một tâm trạng riêng, nhất là bà An đang bịnh, không ai còn muốn nghe những câu hứa hẹn hảo huyền, và những lời tuyên bố viễn vông cùng với thái độ huyênh hoang lớn lối. Thà rằng cứ sống trong hy vọng mơ hồ của chính mình, bây giờ thì niềm tin của chúng tôi đã bị lung lay ít nhiều, điều duy nhất chúng tôi muốn là làm sao sớm đoàn tụ với gia đình. Ngọn lữa bên chòi đang cháy bập bùng; sáng lung linh, ông An, chị Bích và các cháu nhỏ đang ngủ say, Ngân, Thắm, Hoa, Kiều nằm cạnh nhau kễ chuyện ma, chúng vừa la nho nhỏ vì sợ, vừa rúc rích cười vì thích thú, đó là những cô bé chỉ trên dưới tuổi 18, vẫn rất hồn nhiên vô tư, cứ cuống cuồng chạy theo gia đình, không hiểu vì sao phải chạy, cũng không biết vc là ai, như thế nào và ra làm sao. Bên đống lửa lúc này chỉ còn Anh Đạt, Hằng, Khải, Minh, Hớn, Đạt nhỏ, Hưng, Phi và tôi, buồn quá Khải hát, thế là chúng tôi làm 1 đêm văn nghệ “bỏ túi;” giữa núi rừng nương rẫy để tạm quên đi những gì đang đè nặng trong tâm hồn mỗi đứa, chúng tôi đang mò mẫm đi tìm lại chính mình thuở trước với những ước mơ, những đam mê ngọt ngào, Khải vẫn hát những bản nhạc của Lobo và thêm bãn Let it be của The Baetle, làm cho hồn tôi thổn thức, Hằng cứ thích hát Cỏ Hồng, còn anh Hưng ca bài Tuyết trắng… Đêm nay; bên ánh lửa buồn này, có những người ngồi nhớ 1 vùng trời đã mất, 1 quê hương đã xa và 1 cuộc tình đã chết, lòng nhói buốt run rẫy đến từng sợi lông tơ. Tôi nhớ cha mẹ, nhớ vú, nhớ anh em tôi; và tôi còn nhớ anh ấy đến quay quắt, quặn thắt cả ruột gan… muốn khóc lắm mà sao nước mắt cứ chảy ngược vào tim, trong chúng tôi ai cũng có một nổi nhớ và muôn ngàn nổi lo.

Bé Lan nằm gối đầu trên đùi tôi ngủ từ lâu, hai chân tôi tê cứng, tôi nâng đầu bé lên rút chân ra từ từ, tội nghiệp con bé quá, Hằng lấy mền trải ra, chúng tôi nằm xuống, mong cho đêm đừng dài và mong cho ngày mau đến, thỉnh thoãng bé lan kêu lên trong giấc ngủ “ba ơi, má ơi;” tôi xoa xoa lưng bé, tôi lại nghỉ về giấc mơ của nó hôm nào… qua ánh lữa nét mặt nó còn đọng vẻ kinh hoàng, tôi nắm lấy bàn tay của bé, lòng xốn xang khi nhớ bé cầm mấy trái sung trên tay ngắm ngía rồi đếm lui đếm tới: “- cô ơi, trái này ăn liền, trái này để dành mai ăn, nhưng mà nó chát quá cô à…”. Ngọn lữa đã tàn, đêm nay trời có trăng; trăng không tròn lắm; ánh trăng bàng bạc phủ lên mặt nước sông mờ ảo ẩn hiện ở phía dưới xa kia; gợn sóng lăn tăn đẹp nảo nùng như cảnh liêu trai…đêm trăng ơi, có biết trăng đã gợi lên trong lòng tôi nổi nhớ xót xa quay quắc về những đêm trăng ngày xa xưa ấy khi chúng tôi còn bên nhau, chúng tôi đã cùng đi bên nhau dưới ánh trăng lung linh huyền ảo, ngồi cạnh nhau bên đập nước Phú Thọ để xây mộng mai sau…còn bây giờ thì bên cạnh tôi có 1 cuộc đời bé bõng nhưng mang những mất mác quá lớn lao. Đêm nay trăng đẹp quá mà lòng tôi thì rất buồn.

Source: https://buonvuidoilinh.wordpress.com/2016/12/11/chan-mem-tren-da/