ĐẠI THIÊN TÀI KHOA HỌC ALBERT EINSTEIN TÔN VINH ĐẠO PHẬT
BÙI QUANG XUÂN
Đại khoa học gia Albert Einstein
E = MC2
"Nếu
có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì
đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập
nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải
từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm
cả khoa học cũng như vượt qua khoa học"
(If there is any religion that would cope with modern scientific needs,
it would be Buddhism. Buddhism requires no revision to keep it up to
date with recent scientific finding. Buddhism need no surrender its view
to science, becauseit embrances science as well as goes beyond
science). (Cả hai câu trên được trích từ Collected famous quotes from
Albert Einstein. http://rescomp,stanford,edu/~ cheshire/ Einstein quotes.htm).( Albert Einstein)
Gần
đây có nhiều độc giả thắc mắc về mối liên hệ giữa nhà khoa học thiên
tài Albert Einstein (1879-1955) và Đạo Phật như thế nào? Vì họ thấy đây
đó có nhiều trích dẫn lời phát biểu của ông về Đạo Phật. Bài viết sau
đây sẽ đề cập đến mối liên hệ ấy. Dù chưa đầy đủ lắm, nhưng hy vọng rằng
nó sẽ là mấu chốt để chúng ta phăng tìm những tư liệu chi tiết về sau
Ông
Albert Einstein, sinh ngày 14 tháng 03 năm 1879 tại thành phố Ulm, Đức
quốc, trong một gia đình làm nghề thủ công và tiểu thương. Bố là một
người giỏi về hóa học và mẹ là người có khiếu về âm nhạc. Năm 1894, gia
đình ông di cư sang sống tại Ý. Ông được bố gởi đi học ở Thụy Sĩ và đã
tốt nghiệp tiến sĩ triết học tại Đại học Zurich. Sau khi ra trường, ông
được mời dạy toán và vật lý tại một trường bách khoa ở Thụy Sĩ, ngoài
việc dạy học, ông dành hết thời gian còn lại để nghiên cứu vật lý học và
ông còn làm việc tại văn phòng thẩm tra cấp bằng sáng chế ở Berne, Thụy
Sĩ. Năm 1905, ông gởi đăng bài "Lý thuyết tương đối hẹp" dài 5 trang
trên tờ Physics. Bài báo nhanh chóng được chú ý và nó là tiếng nổ lớn
của ngành khoa học về không gian và thời gian, ông đã phá vỡ các khái
niệm tuyệt đối về không gian và thời gian của nhà vật lý học và toán học
vĩ đại, Issaac Newton (1642-1727). Lập tức tên tuổi của ông được nhiều
người biết tới và được xem là một khoa học gia nổi tiếng nhất vào thời
điểm ấy.
Năm
1911, Ông là giáo sư vật lý ở Prague. Năm 1913, ông được mời làm giám
đốc Học Viện Vật Lý Hoàng Đế Wilhelm tại Berlin. Đến năm 1921, ông được
trao giải thưởng Nobel về Vật lý học qua đề án nghiên cứu "Lý Thuyết
Tương đối" (The Theory of Relativity). Trong thế chiến thứ nhất
(1914-1918), ông từng bị tống giam vì tội "chống chiến tranh và ủng hộ
hòa bình". Sau khi Adolf Hitler (1889-1945) trở thành quốc trưởng của
Đức, ông ra sức chống lại chủ nghĩa phát xít và rời bỏ nước Đức sang
sống tại Hoa Kỳ.
Từ
năm 1933 đến năm 1945, ông là giáo sư toán và lý tại Viện Cao học
Princeton ở bang New Jersey. Phát xuất từ lòng căm thù chủ nghĩa phát
xít mà ông đã giúp cho Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt (1882-1945) chế
tạo bom nguyên tử và cuối cùng bị xem là "cha đẻ" của thứ vũ khí giết
người này. Đây cũng là lý do mà về sau năm 1950, ông thành lập Viện Kiểm
Soát Nguyên tử Quốc tế tại Hoa Kỳ.
Ba
thập niên cuối đời mình, ông dành thời gian để nghiên cứu về "Lý thuyết
thống nhất giữa lực hấp dẫn và hiện tượng điện quang" (The Theory of
unify gravitation and eletro-magnetism).
Mặc
dù bận rộn nghiên cứu và giảng dạy khoa học, nhưng ông Einstein vẫn
dành thời gian nhất định để nghiên cứu triết học và tôn giáo, đặc biệt
trong đó có Đạo Phật. Theo tài liệu "The World As I See It" (Trần thế
khi tôi nhìn thấy nó, nhà xb Philosophical Library, New York, 1949) và
quyển "Ideas and Opinions" (Những Ý Kiến và Những Quan Điểm, nhà xb
Crown, NY, 1945) là hai tuyển tập những bài báo, bài tham luận về tôn
giáo và khoa học mà ông Einstein viết từ đầu những năm ba mươi. Đáng chú
ý trong tập này là các bài như "Religion and Science" (Tôn giáo và Khoa
học), viết từ 1930; bài "Science, Philosophy & Religion, A
Sumposium" (Khoa học, Triết học và Tôn giáo, một buổi hội thảo) viết năm
1941; bài "Religion and Science: Irreconcilable?" (Tôn giáo và Khoa
học: không thể hòa giải được sao?) viết vào năm 1948.
Theo
các tài liệu trên thì chính A. Einstein tự xem mình là một người thuộc
về tôn giáo. Tôn giáo của ông được người ta biết qua lý thuyết khoa học
của ông. Ông bác bỏ sự thần thánh hóa trong tôn giáo, ông quan tâm đến
đời sống con người ở hiện tại và ngay cả sau khi chết. Trong các buổi
hội thảo về triết học và tôn giáo, có lúc ông trích dẫn lời của Chúa,
rồi có khi ông dẫn lời trong kinh Phật. Quan điểm của ông về tôn giáo
chưa bao giờ có hệ thống và nhất quán. Tuy nhiên, với trí tuệ sắc bén và
lòng ngưỡng mộ của ông đối với các tôn giáo đã giúp cho ông hiểu đúng
và chính xác về các tôn giáo mà ông để tâm nghiên cứu. Ông vẫn thường
nhắc nhở các nhà khoa học nên học hỏi ở các tôn giáo để bổ sung cho
những khiếm khuyết của khoa học. Ông nói: "Khoa học mà thiếu tôn giáo là
khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng" (Science
without religion is lame. Reigion without science is blind).
Cũng
theo các tài liệu trên cho thấy, ông đã nghiên cứu Đạo Phật qua các
sách báo của các học giả Phật học của người Âu Mỹ viết, đáng kể là triết
gia người Đức Schopenhauer Arthur (1788-1860), tiến sĩ người Đức Paul
Carus (1852-1919), viện sĩ hàn lâm người Nga Vasily Vasaliyey
(1818-1900)... là những nhà Phật học nổi danh ở phương Tây. Nhờ nghiên
cứu như vậy mà A. Einstein đã nhìn thấy Đạo Phật như là một triết lý
phương Đông cực kỳ sống động và triết lý ấy đã đi vào cuộc đời bằng chân
lý thực chứng của mình, ngỏ hầu cắt ngang sự chậm tiến, lạc hậu, mê
tín, cuồng tín và kém văn minh của thời đại. Đạo Phật đã đem lại cho con
người một cái nhìn mới, một lối sống mới, một sự hài hòa mới, sống với
nhau như ánh sáng trong không gian, chan hòa với nhau như nước với sữa.
Chính vì thấy rõ cái độc đáo đó mà ông Einstein đã phát biểu về Đạo Phật
như sau : "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên
trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả
phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo
lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái
nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó"
(The religion of the future will be a cosmic religion. It would
transcend a person God and avoid dogmas and theology. Covering both the
natural and the spiritual, it should be based on a religious sence,
arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a
meaningful unity. Buddhism answers this description). Đồng thời, một lần
khác ông cũng khẳng định rằng: "Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với
các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không
cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới
của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu
hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua
khoa học" (If there is any religion that would cope with modern
scientific needs, it would be Buddhism. Buddhism requires no revision to
keep it up to date with recent scientific finding. Buddhism need no
surrender its view to science, becauseit embrances science as well as
goes beyond science). (Cả hai câu trên được trích từ Collected famous
quotes from Albert Einstein. http://rescomp,stanford,edu/~ cheshire/ Einstein quotes.htm).
Dù
những lý thuyết khoa học của ông rất phức tạp và khó hiểu, nhưng tấm
lòng nhân đạo và mến chuộng hòa bình của ông đã khiến cho mọi người cảm
thấy gần gũi với ông. Ông đã cống hiến tất cả trí tuệ và sức lực của
mình đối với sự phát triển khoa học của nhân loại. Ông làm việc không
biết mệt mỏi cho đến ngày qua đời. Ông mất vào lúc 1giờ 25 phút rạng
sáng ngày 19 tháng 04 năm 1955 tại Princeton, Hoa Kỳ, hưởng thọ 76 tuổi.
Ngày nay, đối với mọi tín đồ Phật Giáo trên khắp năm châu đều thành
kính khi nhắc đến tên tuổi của ông, người đã từng góp phần khẳng định
lại giá trị vĩnh cửu đối với Giáo lý của Đạo Phật.
BÙI QUANG XUÂN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.