Thứ Tư, 18 tháng 4, 2012

Chiến dịch phạt Chiêm thành 1044 và 1069

Chiến dịch phạt Chiêm thành 1044 và 1069


Chiến dịch chinh phạt Chiêm 1044 và 1069 là tên gọi của các cuộc chiến do nhà Lý phát động năm 1044 và năm 1069 nhằm tấn công Vương quốc Chăm Pa ở phương Nam với lý do người Chăm từ chối thần phục nhà Lý.



Chiến dịch phạt Chiêm 1044



là tên gọi của cuộc chiến do nhà Lý phát động năm 1044 nhằm tấn công Vương quốc Chăm Pa ở phương Nam với lý do người Chăm bỏ cống luôn 16 năm cho nhà Lý.

Hoàn cảnh lịch sử



Vua Lý Thái Tông nhà Lý lên ngôi, Chăm Pa chịu xưng thần nộp cống, rồi Chăm bị nội loạn, con cháu vua Chăm giành nhau địa vị nên biên giới của Đại Việt yên trong một thời gian. Nhưng sau ít lâu, họ bỏ nộp cống luôn 16 năm.



Vua bảo các người tả hữu rằng: "Tiên đế thăng hà đã 16 năm nay, nước Chiêm Thành chưa có cho một sứ thần nào sang nước ta, có phải là oai đức của Trẫm chưa đến nước ấy, hay là chúng cậy có núi sông hiểm trở đó chăng? Quần thần thưa: "Đức tuy đã có đến chúng mà oai chưa được rộng". Vua cho là phải.



Vua xuống chiếu đóng tàu chiến tên là Long, Phụng, Ngư, Xá; gặp lúc ấy cái thuẫn (lá chắn) của vua ở điện Trường Xuân tự nhiên rung động, Vua mới xuống chiếu cho quần thần hội bàn, đều nói: "Cái thuẫn là binh khí, chim loan bay lượn trước khi có gió, đá đổ mồ hôi trước khi có mưa. Nay sắp đánh Chiêm Thành mà cái thuẫn tự động trước, đó là thần và người hợp ý nhau, nên vật loại tương ứng như thế, chả còn nghi ngờ gì nữa". Vì thế Vua thân chinh đi đánh Chiêm Thành.

Diễn biến



Ngày Quý Mão vua thân chinh đánh Chăm Pa, dùng Khai Hoàng làm chức lưu thử. Ngày Giáp Thìn phát binh từ kinh sư (thủ đô). Ngày Ất Ty đóng quân tại cửa biển Đại Ác. Lúc bấy giờ sóng đã ngừng yên, có lợi cho đại quân đi từ Đại An (tức Đại Ác- ND) qua Ma Cô, có mây tía che khuất mặt trời.



Đến Não Loan có mây che thuyền vua. Trong ngày ấy nhờ có gió vượt qua được 2 bãi cát dài, đi thẳng đến cửa biển Tư Dung (có tên là Ô Long, thuộc huyện Hương Trà, đất Thuận Hóa, eo biển hiểm ác, núi non khuất khúc, rất cao) có con cá trắng nhảy vào thuyền. Nhà vua nghe vua Chiêm Thành đã dàn trận trước ở sông Ngũ Hồ để đợi quan quân nhà Lý. Lý Thái Tông bèn xuống chiếu cho quân sĩ bỏ thuyền, lên đất liền. Vua lại cho một phần binh lính dựng cờ, đánh trống như sắp muốn đánh nhau với người Chăm. Quân Chăm Pa thấy binh lính oai nghiêm, lại quá nhiều mới sợ mà thua sớm. Vua cho quân đuổi theo chém được ba đầu của người Chăm. Tướng Chăm là Quách Gia Di chém vua Xạ Đẩu để dâng quân Lý. Quân Lý bắt được voi 30 con, bắt sống quân Chăm 5.000 người. Số còn lại bị giết vô số. Theo Việt Sử Toàn Thư là tới gần 30.000 người.[1] Thái Tông lấy làm thương xót mới xuống chiếu: "Hễ ai giết người Chiêm Thành thì bị chém"



Vua kéo quân vào thành Phật Thệ, bắt cung nữ của Xạ Đẩu, kén lấy người nào giỏi hát và biết múa điệu khúc Tây thiên cùng vô số cung nhân, nhạc nữ đem về nước. Quân về đến Lý Nhân, triệu vợ của Xạ Đẩu là Mị Ê lên hầu Vua. Mị Ê từ chối nói: "Tôi là đàn bà quê, vợ tên mán mọi, không được bằng Cơ Khương, gặp buổi nước mất, chồng chết, tự phận chỉ còn một cái chết nữa thôi". Lập tức lấy chăn quấn mình rồi nhảy xuống nước mà chết. Vua khen là người trinh tiết, phong cho làm Hiệp chính Hựu thiện phu nhân.



Tháng 8 rút quân về, khi đến phủ Trường An thì có rồng vàng xuất hiện ở trong thuyền vua.



Tháng 9, vua từ nước Chăm Pa đã về đến nơi[2].



Vua về đến kinh đô đem tin thắng trận cáo Thái miếu, ban tiệc rượu thưởng công. Quần thần dâng tôn hiệu lên Vua, và xin đổi niên hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ.



Chăm lại hàng, nhưng sự hành phục của họ giờ cũng ngắn ngủi, bởi họ là một dân tộc có óc quật cường rất mạnh và chí phục thù rất bền bỉ[3]. Sau cuộc Nam chinh này của nhà Lý, người Chăm muốn trả đũa quân Việt nên đã xin thần phục nhà Tống của Trung Hoa, mong nhờ họ giúp đỡ. Vua Thánh Tông nối nghiệp phụ vương lại phải đem quân Nam chinh. (Xem bài: Chiến dịch phạt Chiêm 1069)

Chú thích



1.

141 Việt Sử Toàn Thư

2.

45 Đại Việt Sử Lược - Quyển II

3.

Việt Sử Toàn Thư, p 142



Chiến dịch phạt Chiêm 1069



Là tên gọi của cuộc chiến do nhà Lý phát động năm 1069 nhằm tấn công Vương quốc Champa ở phương Nam với lý do người Chăm từ chối thần phục nhà Lý.

Hoàn cảnh lịch sử



Từ khi Đại Việt giành được độc lập (thế kỷ thứ 10) việc đánh Chiêm Thành đã là một việc thường xuyên[1].



Nhà Lý dấy nghiệp được 10 năm, dân Chiêm nhân dịp bên Giao Châu thay đổi ngôi vua liền bỏ việc tiến cống và thông sứ. Hơn thế nữa, đôi khi họ cũng quấy nhiễu các vùng duyên hải Đại Việt. Năm Giáp Thân (1044) sau khi sửa soạn được binh thuyền, lương thực vua Lý Thái Tông ngự giá đánh Champa, cướp phá quốc đô của họ là Phật Thệ, giết chúa Xạ Đẩu, bắt trên 5.000 người, giết gần 30.000 người khác không kể số cung nhân, nhạc nữ đem về nước[2]. (Xem chi tiết: Chiến dịch phạt Chiêm 1044)



Năm 1065 - 1069, Champa bỏ cống, vua Thánh Tông lại đem quân Nam chinh. Nhưng một vài sử gia cho rằng tới giai đoạn lịch sử này cuộc đánh Chiêm chẳng phải riêng vì việc đoạn tuyệt giao hiếu, mà do Đại Việt bắt đầu thi hành chính sách mở rộng biên giới, dựa vào chỗ Champa có tinh thần bất khuất chống đối đối với Đại Việt và lại lén lút thần phục nhà Tống. Cùng một nhịp với các vua kế tiếp sau này, ta thấy dân tộc Việt cố gắng chẳng những về miền Nam lại còn lo bành trướng cả về phương Bắc[2]. (Xem chi tiết: Chiến dịch đánh Tống 1075)



Quốc vương Chế Củ (Rudravarman III) muốn dựa vào nhà Tống để chặn bước tiến của Đại Việt, xin thần phục và được vua Tống Thần Tông giúp đỡ, ban cho ngựa trắng và cho phép họ mua lúa ở Quảng Châu, Champa không tiếp tục nạp cống nữa. Mọi hành động của Champa đều bị người Việt cho là khiêu khích họ[2].

Diễn biến



Năm 1068 vua Lý Thánh Tông sửa soạn thêm chiến thuyền (việc giao thông từ thành Phật Thệ tới Giao Chỉ bằng đường núi theo lời sứ Chiêm tâu với vua Tống phải mất 40 ngày. Vua nhà Tiền Lê trước đây có đào tân cảng và sửa chữa đường sá nhưng xét ra dùng thủy đạo vẫn dễ dàng cho việc chuyển quân hơn. Lực lượng quân sự của Lý triều tất cả có chừng 200 chiếc thuyền, Lý Thường Kiệt được làm Đại tướng đi tiên phong, em Thường Kiệt là Lý Thường Hiến giữ chức Tán kỵ Võ úy.



Ở triều bấy giờ Lý Thánh Tông giao cho Nguyên phi Ỷ Lan và Thái sư Lý Đạo Thành trông coi việc nước. Bảy ngày sau khi rời khỏi Thăng Long các đạo quân Việt đã có mặt ở Nghệ An, ba ngày sau tới phía Nam núi Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh), vào hải phận Champa.



(Sử chép ngày Canh Thân tới Nam giới, rồng nổi lên ở đầu thuyền Kim Phượng như lúc xuất chinh, Lý triều vốn tin nhiều dị đoan cho là điềm tốt. Điểm này có tính cách hoang đường. Có lẽ sử thần bịa đặt ra để tô điểm cho bản triều thuở đó).



Năm ngày sau Lý Thường Kiệt tới cửa Nhật Lệ là nơi tập trung của thủy quân Champa. Tại Nhật Lệ, một nhóm nhỏ thủy quân Chăm xông ra chặn giặc. Tướng của quân Lý là Hoảng Kiệt đánh lui họ rồi tiến về phía Nam không bị ngăn trở, mục đích của quân Đại Việt là tiến thẳng tới thành Phật Thệ phá kinh đô và bắt quốc vương. Bốn ngày sau nữa tới cửa Tư Dung nay gọi là Tư Hiền là cửa sông vào các phá và sông thuộc Quy Nhơn ngày nay. Quân Lý mất ba ngày nữa, tính tất cả là 26 ngày từ Thăng Long đến đấy.



Thành Phật Thệ (sau gọi là Chà Bàn hay là Đồ Bàn) ở vào địa phận tỉnh Bình Định ngày nay, ba phía Tây-Nam-Bắc có núi che chở, phía Đông giáp biển. Thủy quân của nhà Lý đổ bộ ở đây. Tướng Chăm là Bố Bì Đà La dàn trận trên bờ sông Tu Mao chặn đánh. Quân Lý xông lên giết được Bố Bì Đà La và rất nhiều binh sĩ. (Xem thêm: trận Tu Mao)



Lý Thường Kiệt vượt được sông Tu Mao, lại qua hai con sông nữa mới tới kinh đô Champa. Đang đêm nghe tin quân của mình bại trận ở Tu Mao, vua Chế Củ mang vợ con chạy trốn. Đêm ấy, quan quân nhà Lý tràn vào thành Phật Thệ, đến bến Đồng La, dân ở thành Phật Thệ xin hàng[3].



Vua đánh Chiêm Thành lâu lắm không hạ nổi, nghe tin Nguyên phi Ỷ Lan giúp việc trong cung cấm, mà lòng dân hòa vui, liền nói rằng: "Một người đàn bà mà làm được như thế, đánh Chiêm Thành mà không hạ được, thì bọn con trai ta dùng làm gì được". Lại đi đánh nữa, mới thu phục được[4].



Lý Thường Kiệt đem quân truy tầm theo phía Nam. Tháng tư quân Lý tiến đến biên giới Chân Lạp, qua các vùng Phan Rang, Phan Thiết ngày nay mà tiếng Chăm gọi là Panduranga. Tháng 4 Nguyên soái Lý Thường Kiệt bắt được vua Chế Củ ở biên giới Chân Lạp. Vua Chăm vốn có cựu thù với nước Chân Lạp (xem thêm: Lịch sử Campuchia) nên hết đường chạy phải ra hàng, kết quả là ông bị Lý Thường Kiệt cầm tù. Cuộc đuổi bắt vua Chế Củ mất hết một tháng.



Người có công lớn nhất trong cuộc đại thắng này của nhà Lý là Lý Thường Kiệt.



Tháng 5 Lý Thánh Tông ngự tiệc cùng quần thần ở cung điện của vua Chăm, vua lại thân hành múa thuẫn và đánh cầu ở nơi thềm điện ấy. Trước khi về nước Thánh Tông còn không quên sai đếm tất cả nhà của dân ở trong và ngoài thành Phật Thệ, gồm có hơn 2.660 căn đều thiêu rụi sạch[3].



Ngày 19 tháng 6 năm Quý Tỵ, thuyền của quân Lý về đến cửa Tư Minh, có lẽ là Tư Dung. Ngày 17 tháng 7 năm Tân Dậu, đạo quân Nam chinh về tới Thăng Long. Vua lên bộ ngự trên xe, quân thần cỡi ngựa theo sau. Vua Chăm mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng cây gai, tay bị trói sau lưng do 5 tên lính Võ đô dắt. Quyến thuộc đi sau cũng bị trói. Chế Củ xin dâng 3 châu Bố Chính, Ma Linh và Địa Lý để chuộc tội nên ông được tha về.



Từ thời Lê Đại Hành đến Lý Thánh Tông tuy có việc đánh Chăm nhưng chỉ là việc bắt người lấy của nhưng chưa hề có việc bành trướng đất đai. Có lẽ do dân cư ở miền đồng bằng Bắc Việt bắt đầu đông đảo, lương thực đã thiếu hụt[5].



Mùa thu, tháng 7 tại nhà Thái Miếu vua Lý dâng trình việc thắng trận. Chiến tranh kết thúc với thắng lợi của Đại Việt.

Chú thích



1.

Việt Sử Toàn Thư p 141

2.

Việt Sử Toàn Thư p 142

3.

Đại Việt Sử Lược - Quyển II-p 52

4.

Việt Sử Tiêu Án - THÁNH TÔN HOÀNG ĐẾ

5.

Việt Sử Toàn Thư p 143



Đánh giá lịch sử mở rộng lãnh thổ của Việt Nam



Một chuyên gia Hàn Quốc đã mạnh dạn đụng đến một chủ đề nhạy cảm khi ông nói

hai mặt trong đặc trưng lịch sử của Việt Nam là "chủ nghĩa dân chủ đấu tranh

và chủ nghĩa dân chủ xâm lược".



Giáo sư Song Jung Nam, Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc, đặt vấn đề này tại Hội thảo

Việt Nam học 2008, khi phân tích tính chất mở rộng lãnh thổ trong thời Hậu

Lê, giai đoạn mở mang được cho là mạnh nhất trong lịch sử.



Mở rộng lãnh thổ



Công cuộc Nam tiến bắt đầu từ năm 1069 khi nhà Lý buộc Chiêm Thành nhường ba

châu, đưa cương vực tiến tới tỉnh Quảng Trị ngày nay.



Tiến sĩ Song Jung Nam lưu ý thời nhà Trần "không nhận được một tấc đất nào từ

Champa", mà còn "vài lần phải lâm vào thế tự vệ".



Năm 1402, nhà Hồ đánh Chiêm Thành, mở rộng ra đến Quảng Nam và Quảng Ngãi.



Đến khi quân Minh xâm lược và chiếm Việt Nam, khu vực này bị Chiêm Thành lấy

lại.



Theo chuyên gia Hàn Quốc, triều Hậu Lê, bắt đầu từ Lê Lợi, là triều đại "có

được nhiều lãnh thổ nhất".



Năm 1470, Lê Thánh Tông đem 26 vạn quân chiếm Chiêm Thành, lấy lại bốn châu bị

mất trong thời gian quân Minh cai trị.



Qua cuộc viễn chinh này, Việt Nam cũng mở rộng lãnh thổ tới Bình Định ngày nay.



Ngoài lãnh thổ chiếm được, nhà Lê chia Chiêm Thành thành ba khu vực để "có thể

dễ dàng hợp nhất vùng này vào bất kỳ lúc nào".





Tác giả ghi nhận Chiêm Thành, trong thế kỷ 15, còn "ở vùng đệm nên có thể duy

trì quan hệ đối ngoại giữa Thái Lan, Campuchia với Việt Nam."



"Nhưng thời kỳ sau, đối tượng mở rộng lãnh thổ đến cả Campuchia, quan hệ giữa

Việt Nam - Campuchia hay Việt Nam - Thái Lan trở thành mối quan hệ đối lập

sâu sắc, thậm chí Campuchia là trục chiến lược trong sự cạnh tranh của Việt Nam

và Thái Lan."



Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh



Việc mở rộng lãnh thổ diễn ra "sôi động, nhanh và rộng nhất là vào thời kỳ

Trịnh - Nguyễn phân tranh".



Theo tác giả: "Việc mở rộng lãnh thổ ở thời kỳ sau phân chia Nam Bắc được thực

hiện thông qua việc hợp nhất hoàn toàn Chiêm Thành và sự mở rộng về phía

Campuchia đã kéo theo sự căng thẳng sâu sắc trong quan hệ giữa Việt Nam và

Campuchia và dĩ nhiên ảnh hưởng tới cả quan hệ Campuchia và Thái Lan."



"Kết quả là ngày nay, đối ngoại giữa 3 nước, đặc biệt Việt Nam - Campuchia hay

Thái Lan - Campuchia vẫn còn chịu ảnh hưởng không nhỏ".



Khác với thời kỳ trước, đặc trưng giai đoạn trong thế kỷ 17, khi chúa Nguyễn đi

xuống phía Nam, là "chiếm lĩnh đồng thời sát nhập và hợp nhất lãnh thổ".







Tháng Tám năm 1692, chúa Nguyễn, Nguyễn Phúc Chu, chiếm Chiêm Thành và đến năm

sau đổi tên thành Thuận Thành, xóa bỏ sự tồn tại của Chiêm Thành với tư cách

một quốc gia.



Kể từ lúc đó, Chiêm Thành đã "trở thành một dân tộc thiểu số của Việt Nam".



Việc hợp nhất hoàn toàn Chiêm Thành năm 1697 thể hiện "sự vững vàng của một

quốc gia thống trị nhưng cũng cho thấy đây là một mắt xích trong việc thực hiện

dư định hợp nhất Campuchia có chung đường biên giới".



Tác giả Song Jung Nam nhắc lại năm 1621, chúa Nguyễn đã "yêu cầu vua Campuchia

cho người Việt Nam di trú tự nhiên, di trú Thủy Chân Lạp với những hình thức

miễn thuế, thương mại, phát triển. Kết quả là việc di trú đến Campuchia của

người Việt được bắt đầu từ tỉnh Đồng Nai và Mũi Xoài thuộc Bà Rịa, Vũng Tàu

bây giờ".



Lúc này, Campuchia muốn thoát khỏi ảnh hưởng của vương quốc Ayuthaya của Thái

Lan, nên đã "mượn sức mạnh của Việt Nam để thoát khỏi sự cai trị của Thái,

Việt Nam đã có được cơ hội tiến vào Campuchia một cách hợp pháp và đồng thời

trên cơ sở đó, đã có được cơ hội tuyệt vời để có thể cản trở sự tiến vào

Campuchia

của Thái và xâm chiếm lãnh thổ Campuchia".



Năm 1658, lần đầu tiên Việt Nam "có cơ hội gửi quân đội theo yêu cầu của

Campuchia để giải quyết phân tranh vương vị và kết quả là nhận được sự cư trú

hợp

pháp ở Mũi Xoài, Đồng Nai và nộp cống, thần phục từ Campuchia".



Năm 1679, Việt Nam "đem 50 chiến thuyền với hơn ba ngàn quân, lợi dụng những

người quản lý của nước Minh Trung Quốc đầu hàng như Dương Ngan Địch, Hoàng

Tiến, Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình … tiến hành thực hiện việc phát triển Mỹ

Tho và Biên Hòa".



'Hỗ trợ và vũ lực'



Tác giả nhận xét việc hợp nhất ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Hà Tiên diễn ra khác

phương pháp hợp nhất Chiêm Thành.



"Khi hợp nhất lãnh thổ của Chiêm Thành, đa số dùng phương pháp chiếm bằng vũ

lực nhưng khi hợp nhất lãnh thổ Campuchia thì lợi dụng người trong nước hay

người nước ngoài trước hết là khai thác, rồi lợi dụng khi quyền lực cai trị của

Campuchia yếu đi thì hợp nhất một cách tự nhiên."



"Không những thế, ở đây còn cho thấy sự ưu tiên phương pháp nhận lãnh thổ bằng

cách hỗ trợ giải quyết nội chiến của Campuchia hơn là dùng vũ lực trực tiếp."







Riêng đến khi hợp nhất Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, chúa Nguyễn chuyển sang

dùng vũ lực bằng ba lần thu phục năm 1732, 1753 và 1757.



Công cuộc mở rộng lãnh thổ về phía Nam vẫn tiếp tục dưới triều đại cuối cùng,

nhà Nguyễn.



Năm 1835, dưới thời vua Minh Mạng, danh tướng Trương Minh Giảng tiến quân sang

Campuchia, đổi tên Chân Lạp thành Trấn Tây Thành, sát nhập vào Đại Nam.



Tuy vậy, "cuộc xung đột dành quyền cai trị Campuchia giữa Việt Nam và Thái kéo

dài, cộng với việc phản đối sự cai trị của Việt Nam trên toàn Campuchia và

các cuộc phản loạn trong nước nên đã đẩy Việt Nam vào thế bất lợi".



Năm 1847, nhà Nguyễn ký hiệp định với Thái và rút quân.



Tác giả cho rằng: "Mở rộng lãnh thổ của Việt Nam bị kiềm chế bởi Thái và Pháp.

Nếu giả định trường hợp Pháp không tiến hành xâm lược hay không có mâu thuẫn

với Thái thì Việt Nam đã có được một vùng rộng lớn trong lãnh thổ của Lào và

Campuchia".



TS. Song Jung Nam kết luận: "Việc mở rộng lănh thổ của Việt Nam cho thấy một

quy luật điển hình trong lịch sử nhân loại là cá lớn nuốt cá bé. Việt Nam đă

không ngừng đấu tranh trong trường kỳ lịch sử để sinh tồn bên cạnh một Trung

Quốc mạnh hơn mình nhưng ngược lại cũng tiến hành chinh phục Chiêm Thành và

Campuchia yếu hơn."





"Điều này thể hiện hai mặt trong đặc trưng lịch sử của Việt Nam là chủ nghĩa

dân chủ đấu tranh và chủ nghĩa dân chủ xâm lược."



"Việt Nam đã trải qua quá trình dân chủ đấu tranh và bồi dưỡng sức mạnh quốc

gia rồi trên cơ sở đó hướng đến chủ nghĩa dân chủ xâm lược và kết quả là xác

lập được lãnh thổ phía Nam bây giờ."



Ông nói thêm việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam cũng minh chứng cho quy luật

lịch sử "giữa các láng giềng không có quan hệ tốt".



Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc tái lập năm 1991, trong khi quan hệ

giữa Việt Nam và Campuchia cũng không mặn mà từ sự kiện Việt Nam đem quân vào

Phnompenh cuối thập niên 1970.



Sang thập niên 1980, quan hệ giữa Hà Nội và Bangkok cũng căng thẳng xung quanh

vấn đề Campuchia.



Như trong một hội thảo mới đây về Vương triều Nguyễn, quan điểm chính thống

hiện nay là các chúa Nguyễn đã "có công mở rộng lãnh thổ về phía nam đến tận

đồng bằng sông Cửu Long và xác lập chủ quyền vững chắc trên vùng đất mới" (GS.

Phan Huy Lê trong hội thảo tháng 10 ở Thanh Hóa).



Diễn giải về quá trình "xâm lược" của Việt Nam trong lịch sử chắc khó lòng nhận

được tán đồng từ người Việt Nam.



Dẫu sao, nó cho thấy người bên ngoài có những cái nhìn khác mà bên trong có thể

không (muốn) thấy.





Chiêm Thành

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Loạt bài

Lịch sử Chăm Pa Chăm Pa ở thế kỷ 10

Văn hóa Sa Huỳnh (1000 TCN - 200)

Hồ Tôn Tinh (trước thế kỷ 1 TCN)

Tượng Lâm (thế kỷ 1 TCN -192)

Lâm Ấp (192 - 749)

Hoàn Vương (757 - 859).

Chiêm Thành (875 -1471)

Panduranga-Chăm Pa (1471 -1693)

Thuận Thành trấn (1697 -1832)

sửa



Chiêm Thành (chữ Hán: 占城) là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: Campanagara) trong sử sách Việt Nam từ 877 đến 1693[1]. Trước 859 Việt Nam gọi vương quốc này là Hoàn Vương. Đầu thế kỷ thứ 11, Chiêm Thành bao gồm 5 tiểu vương quốc là: Indrapura (vùng Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế ngày nay), Amaravati (vùng Quảng Nam ngày nay), Vijaya (vùng Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay), Kauthara (vùng Phú Yên, Khánh Hòa ngày nay) và Panduranga (vùng Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay).

Mục lục

[ẩn]



* 1 Các vương triều Chiêm Thành

o 1.1 Vương triều thứ sáu (875-991)

o 1.2 Vương triều thứ bảy (991-1044)

o 1.3 Vương triều thứ tám (1044-1074)

o 1.4 Vương triều thứ chín (1074-1139)

o 1.5 Vương triều thứ mười (1139-1145)

o 1.6 Vương triều thứ mười một (1145-1318)

o 1.7 Vương triều thứ mười hai (1318-1390)

o 1.8 Vương triều thứ mười ba (1390-1458)

o 1.9 Vương triều thứ mười bốn (1458-1471)

o 1.10 1471 - 1694

* 2 Tham khảo



[sửa]Các vương triều Chiêm Thành



(Các vương triều trước xin xem bài nhà nước Lâm Ấp và nhà nước Hoàn Vương)



Từ năm 875, sử Việt Nam gọi Chăm pa là Chiêm Thành Quốc. Riêng, vùng Phan Rang (Panduranga) ngày nay được gọi là Tân Đồng Long.

[sửa]Vương triều thứ sáu (875-991)



* Indravarman II. Kinh đô chính là Đồng Dương - Quảng Nam ngày nay. Thời gian của triều đại này là từ 875 - 889.

* Jaya Sinhavarman. Thời gian của triều đại này là từ 898 - 903. Ông là cháu gọi Indravarman II là cậu.

* Jaya Caktivarman.

* Bhadravarman II(vào khoảng những năm 908 đến năm 910).

* Indravarman III. Vào năm 918, Indravarman III cho đúc tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng dựng tại Tháp Bà, bức tượng này bị quân Chân Lạp cướp vào khoảng năm 945 - 946. Năm 965, Jaya Indravarman I cho dựng lại tượng nữ thần Bhagavati bằng đá ở Kauthara.

* Parames'varavarman I (Ba Mỹ Thuế hay Tốt Lợi Đà Bàn Ấn Đồ hoặc Ba Mĩ Thế Hạt Ấn Bồ). Năm 982, vì bắt giữ sứ giả của Lê Đại Hành nên Lê Đại Hành đánh Chiêm Thành, chém Ba Mỹ Thuế tại trận, phá hủy thành trì tông miếu.

* Indravarman IV. (Ngô Nhựt Hoan) lên ngôi năm 982 và trốn vào Phan Rang và kết thúc trị vì vào năm 986.

* Lưu Kế Tông là người Việt chiếm ngôi vua sau khi Indravarman IV trốn vào Phan Rang và đến năm 986 chính thức lên ngôi. Chết năm 988.

* Jaya Indravarman I. Thời gian của triều đại này là từ 960 - 965.



[sửa]Vương triều thứ bảy (991-1044)



* Sri Harivarman II. Băng Vương La Duệ lên ngôi năm 988, lấy Vijaya - Phật Thệ (Bình Định) làm kinh đô chính. Lê Đại Hành đánh châu Địa Lý ngay sau khi Harivarman II lên ngôi. Năm 992, Lê Đại Hành sai mở con đường bộ đầu tiên khai thông với Chiêm Thành ở vùng biển Hà Tĩnh ngày nay. Sau đó Cu Thi Lợi lên ngôi vào năm 991 và trị vì cho đến năm 997.

* Yan Pu Ku Vijaya (Dương Phô Củ). Cho dời đô về Vijaya(Đồ Bàn, Bình Định). Trị vì từ năm 997 đến năm 1007.

* Sri. Bi Trà (Xà Lời) lên ngôi.

* Harivarman III

* Paramecvaravarman II(phiên âm là Thi Nặc Bài Ma Diệp) tồn tại khoảng trước và sau năm 1021.

* Vikrantvarman IV.

* Jaya Sinhavarman II(phiên âm chữ Hán là Hình Bốc Tộc Li Trị Tinh Ba Phật). Trị vì từ 1041 đến năm 1044. Vua Lý Thái Tông đã đánh thành Phật Thệ, chém được Sạ Đẫu, bắt các vợ và cung nữ của Sạ Đẩu, trong đó có nàng Mỵ Ê.



[sửa]Vương triều thứ tám (1044-1074)



* Jaya Paramecvaravavarman I. Ứng Ni lên ngôi vào năm 1044, kết thúc trị vì năm 1060.Ông đàn áp sự chống đối của dân Panduragan.

* Bhadravarman III, làm vua khoảng 2 năm 1060 đến 1061.

* Rudravarman III. Chế Củ (Dương Bộc Thi Lợi Luật Đà Bàn Ma Đề Bà) lên ngôi vào năm 1061. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành. Chế Củ dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh. Năm 1074 đưa vợ con và 3000 lính sang cư trú ở Đại Việt.



[sửa]Vương triều thứ chín (1074-1139)



* Harivarman IV. Nhà vua bắt đầu trị vì vào năm 1074, đánh phá biên giới Đại Việt, đánh Chân Lạp đến Cambhupura, đốt phá nhiều đền điện của Chân Lạp. Năm 1075, Lý Thường Kiệtđi đánh Chiêm Thành nhưng không thu được kết quả. Harivarman IV dựng lại kinh đô Indrapura (Quảng Nam) đã bị bỏ từ lâu và cho xây nhiều đền tại Mỹ Sơn.

* Jaya Indravarman II(lần thứ nhất) từ năm 1080 đến 1081. Ông bị chú là Paramabhodistava truất quyền.

* Paramabhodistava. Bắt đầu vào năm 1081, bị giết năm 1086 nên Jaya Indravarman II lên ngôi lần 2.

* Jaya Indravarman II(lần thứ 2). Chế Ma Na bắt đầu trị vì năm 1086. Năm 1104, Chế Ma Na đánh ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính, nhưng bị Lý Thường Kiệt đánh bại.

* Harivarman V (1114-1129)là cháu gọi Jaya Indravarman II là chú.



[sửa]Vương triều thứ mười (1139-1145)



* Jaya Indravarman III (1139-1145). Năm 1145, vua Chân Lạp là Suryavarman II đánh chiếm Vijaya, Jaya Indravarman III mất tích và triều đại này kết thúc.



[sửa]Vương triều thứ mười một (1145-1318)



* Rudravarman IV. Kinh đô chính là Panduranga. Kết thúc vào năm 1145.

* Jaya Harivarman I (Chế Bì La Bút). Ông là hoàng tử Civanandana,con vua Rudravarman IV

* Jaya Harivarman II. Ông là con vua Jaya Harivarman I. Làm vua khoảng 4 năm thì bị cướp ngôi.

* Jaya Harivarman IV (1167-1190). Bị vua Cao Miên bắt trong 1 cuộc hành quân vào Chiêm Thành.



Sau đó vào năm 1190, Chiêm Thành chia thành hai tiểu vương quốc riêng: Vương quốc Vijaya và Vương quốc Panduranga. Vào năm 1192 thì lại hợp nhất lại.



* Jaya Paramecvaravarman II lên ngôi năm 1226, từ đây người Chân Lạp tự ý rút khỏi Chiêm Thành. Ông là con cả vua Jaya Harivarman II.

* Jaya Indravarman VI. Jaya Indravarman VI là vị vua có mối quan hệ giao hảo với Đại Việt. Ông bị ám sát và cướp ngôi năm 1257.

* Indravarman V (1265-1285). Indravarman V có tên thật là Cri Harideva, người cháu đã ám sát vua Jaya Indravarman VI, và đến năm 1266 thì làm lễ đăng quang. Nhường ngôi cho thái tử Harifit tức vua Jaya Sinhavarman III

* Jaya Sinhavarman III (Chế Mân). Năm 1305 - 1306, Chế Mân đem vàng bạc và hai châu: châu Ô, châu Lý làm lễ cưới công chúa Huyền Trân. Năm 1307, Chế Mân chết, nhà Trầndùng kế đưa Huyền Trân trở về.

* Jaya Sinhavarman IV (Chế Chí) (1307-1312). Vua Trần Anh Tông sai quân đi đánh Chiêm Thành, bắt được Chế Chí đem về hành cung ở Gia Lâm, phong Chế Chí làm Hiệu Trung Vương, sau đó đổi thành Hiệu Thuận Vương. Chế Chí mất năm 1313. Tác Chí lên ngôi sau Chế Chí. Vào năm 1312 thì Chế Năng (Chế Đà A Bà Niêm) lên ngôi, trị vì cho đến năm 1318. Năm 1318, Chế Năng đánh chiếm hai châu Ô, Lý, nhưng bị thua và phải chạy sang Java.



[sửa]Vương triều thứ mười hai (1318-1390)



* Chế A Nan lên ngôi, trị vì từ năm 1318 đến năm 1342. Năm 1342, vua Trần Minh Tông sai Huệ Túc Vương Đại Niên đem quân đi đánh Chiêm Thành nhưng không được.

* Trà Hoa Bồ Đề, con rể của Chế A Nan và là hậu duệ của Chế Mân, trị vì từ năm 1342 đến năm 1360. Khi lên ngôi bị con của Chế A Nan là Chế Mỗ phản đối dẫn đến cuộc chiến suốt 10 năm để tranh giành quyền lực. Năm 1360, Trà Hoa Bồ Đề chết.

* Chế Bồng Nga (A Đáp A Giả). Em của Chế A Nan, trị vì từ năm 1360 đến năm 1390. Chế Bồng Nga đem quân đi đánh châu Hoá vào các năm 1361, 1362, 1366, 1368. Ông chết trận vào ngày 23 tháng 1 năm 1390.



[sửa]Vương triều thứ mười ba (1390-1458)



* La Khải (1390-1397?, 1400?). Ông là tướng của Chế Bồng Nga và đã đoạt ngôi sau khi Chế Bồng Nha chết. Năm 1394, nhà Trần thu lại đất châu Hoá. Trong năm 1400, nhà Trần (thực chất là nhà Hồ) đem quân đi đánh Chiêm Thành, La Khải chết. Biên niên sử Hoàng gia Chăm gọi là Po Parichan. Năm con trâu (1397), sau khi vua Po Parichan mất, thủ đô Angwei bị thất thủ về tay quân Việt. Dân tỵ nạn Chăm Pa đổ vào vùng Parang (Panduranga, vùng Phan Rang ngày nay). Năm 1428, sau khi quân đội nhà Minh rút về. Vương quốc Vijaya Chăm Pa (Đồ Bàn) được phục hồi. Năm 1433, Vương quốc Panduranga Chăm Pa (Phan Rang) cũng được phục hồi.

* Jaya Sinhavarman V (Ba Đích Lai, ?-1441). Nhà Hồ chiếm được đất Chiêm Động và Cổ Lũy. Năm 1403, nhà Hồ vây đánh thành Chà Bàn hơn một tháng nhưng không được. Năm 1434 và 1435, Chiêm Thành (Vương quốc Vijaya Chăm Pa) lại sang đánh Hoá Châu.

* Maha Vijaya (Ma Ha Bí Ca, 1441-1446). Ông là cháu gọi Jaya Sinhavarman V là cậu. Năm 1446 bị quân nhà Lê bắt về Thăng Long.

* Ma Ha Quý Lai (1446-1449). Ông là cháu của Maha Vijaya, bị em là Ma Ha Quý Do bắt giam và giành lấy ngôi vua.

* Ma Ha Quý Do (1449-1458). Bị Bàn La Trà Nguyệt giết chết vào cuối năm 1457 đầu năm 1458



[sửa]Vương triều thứ mười bốn (1458-1471)



* Ban La Trà Nguyệt

* Ba La Trà Toàn.



Năm 1470, vua Chiêm là Trà Toàn cầu viện nhà Minh, năm 1469, 1470 Trà Toàn sai quân đi đánh Hoá Châu. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông (1460 1497) thân chinh đi đánh Chiêm Thành (Vương quốc Vijaya Chăm Pa), hạ thành Đồ Bàn, giết 60.000 người, bắt Trà Toàn và hơn 30.000 tù nhân, kết thúc triều đại thứ mười bốn của Chiêm Thành. Tướng Chiêm là Bô Trì Trìsai sứ vào cống xin xưng thần.

[sửa]1471 - 1694



* Năm 1472: Bô Trì Trì ở Phan Rang tự xưng vương, giữ được 1/5 đất cũ Chiêm Thành. Lúc đó Chiêm Thành còn lại chia thành ba nước là Đại Chiêm (Đại Chiêm nghĩa là Chiêm Thành ở vùng xa), Hoa Anh (có khả năng là viết sai của chữ Trà Lai bởi vì tất cả 4 chữ Hán Hoa, Anh, Trà, Lai đều thuộc bộ Thảo) và Nam Phan (có khả năng là viết sai của chữ Nam Ban). Bồ Trì Trì được phong đất từ núi Thạch Bi trở vào. Thạch Bi Sơn là ranh giới Đại Việt – Hậu Chiêm Thành (Vương quốc Panduranga Chăm Pa). Vùng đất từ đèo Cù Mông đến núi Thạch Bi các chúa Chăm Pa vẫn duy trì cho đến đời chúa Nguyễn Hoàng).

* Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng đem quân vào đánh Chiêm Thành, lấy phần đất từ đèo Cù Mông đến núi Thạch Bi, đặt làm Phủ Phú Yên.

* Năm 1627 đến năm 1651. Pô Rome xưng vương. Vợ thứ ba của Pô Rome là công chúa Ngọc Hoa (Ngọc Khoa, tiếng Chăm gọi là Bia Ut - hoàng hậu xứ Bắc), con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên.

* Năm 1653. Bà Tấm đem quân đánh Phú Yên, bị quân chúa Nguyễn Phúc Tần đánh đuổi đến sông Phan Rang. Đất Chiêm Thành giới hạn từ phía Tây sông Phan Rang trở vào.

* Năm 1692. Bà Tranh đem quân đi cướp phá. Đến năm 1693, bị quân chúa Nguyễn Phúc Chu đánh bại. Bà Tranh bị bắt, giam tại Hòn Chén đến năm 1694 thì mất. Đổi Chiêm Thành Quốc thành Thuận Thành Trấn, rồi thành Bình Thuận Phủ.

* Năm 1694. Quý tộc người Chăm Ốc Nha Đát và tướng người La Vũ (sử Việt ghi là người Mãn Thanh) A Ban phản công, đánh bại quân đội chúa Nguyễn. Theo Đại Nam Thực Lục Tiền Biên (1848) và Hoa Di Biến Thái (1694), hơn 1.000 lính và 13 tướng Nguyễn bị giết chết.

* Năm 1695. Chúa Nguyễn Phúc Chu cầu hòa với quân đội Chăm, cho phép lập lại Thuận Thành Trấn vương, phong Kế Bá Tử làm Trấn Vương, cai trị Thuận Thành Dân (người Chăm và các dân tộc miền núi Cực Nam Trung Bộ - Nam Tây Nguyên – Đông Nam Bộ).



[sửa]Tham khảo



1. ^ Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim - Bản điện tử

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.