Tu Sĩ Chính Trực
Trên cõi đời này, có rất nhiều nguyên
nhân gây phiền não và khổ đau cho mọi người. Một trong những nguyên nhân đó
chính là: chuyện Ân Oán, tức là chuyện ân nghĩa và chuyện oán thù trên cõi đời.
Theo thói thường, con người chóng quên chuyện ân nghĩa, nhưng chuyện oán thù
thì nhớ đời đời, sống để dạ chết mang theo! Có người quan niệm: Ân đền oán trả!
Hoặc là: Mười năm sau báo thù cũng chẳng muộn! Mười năm thù hận! Mối thù truyền
kiếp! Kẻ thù không đội trời chung! Có thù không báo không phải là người! Một
nguyên nhân khác cũng thường đem lại sự bất an trong nội tâm của con người,
cùng một nghĩa, hay tương đương, đó là: chuyện thương ghét. Con người thường
đem lòng thương yêu những người đem lại ích lợi, đem lại an vui hạnh phúc cho
mình và ghét bỏ những người gây ra thiệt hại, hoặc đem phiền não khổ đau đến
cho mình. Trên cõi đời này, con người thương yêu người khác thì rất ít, nhưng
ghét bỏ thì rất nhiều. Tại sao vậy?
Bởi vì, con người vốn có tự ái rất cao,
coi trọng bản ngã, cho nên chỉ cần một lời nói khó nghe, hoặc một việc làm bất
như ý, con người chuyển đổi từ thương yêu trở nên ghét bỏ, thậm chí oán hờn thù
hận, một cách dễ dàng. Những chuyện như vậy thường xảy ra trong xã hội, ngay cả
trong gia đình cũng không tránh khỏi. Bởi thế cho nên, phiền não khổ đau tràn
lan khắp trên cõi đời này.
Chúng ta nên biết rằng: chuyện ân oán và
chuyện thương ghét chính là những nguyên nhân, dẫn dắt chúng sanh vào vòng sanh
tử luân hồi, nhận chìm chúng sanh trong biển khổ đau, không bao giờ dứt, nếu
không biết tìm cách thoát ra. Trong kinh sách, có câu:
"Ái hà thiên xích lãng. Khổ hải vạn trùng ba.
Dục thoát luân hồi khổ. Tảo cấp niệm Di Ðà".
Dục thoát luân hồi khổ. Tảo cấp niệm Di Ðà".
Nghĩa là những chuyện yêu thương, những
nỗi khổ đau trên thế gian, nhiều ví như sông dài, như biển cả mênh mông, với
hàng vạn ngọn sóng cao ngất, liên tiếp đổ ập lên đầu con người, như muốn nhận
chìm những tâm hồn yếu đuối, không có đủ nghị lực vươn lên, để tự giải thoát
khỏi sự đau khổ của kiếp luân hồi, để sống một cuộc đời an nhiên tự tại. Nếu
muốn xây dựng cuộc sống hiện đời được an lạc và hạnh phúc, chúng ta phải gấp
rút niệm Di Ðà, nghĩa là lập tức dừng nghiệp và chuyển nghiệp, sống trở về với
bản tâm thanh tịnh, cố gắng tìm hiểu cách ứng xử với chuyện ân oán và tìm hiểu
cách dẹp bỏ chuyện thương ghét.
Trong phạm vi bài này, chúng ta tìm hiểu
chuyện ân nghĩa và oán thù, hay chuyện thương yêu và ghét bỏ, qua giáo pháp của
đạo Phật mà thôi. Trên cõi đời này, có nhiều người làm ơn cho người khác, giúp
đỡ một việc nào đó, từ việc nhỏ đến việc lớn, vật chất cũng như tinh thần,
chẳng hạn như tìm kiếm công ăn việc làm, cho mượn một số tiền, đăng giúp một
bài báo, viết giùm một lá thư, nhắn tin hộ một chuyện, làm chủ hôn một đám
cưới, rồi chấp chặt vào việc ơn nghĩa đã làm, nghĩ rằng người kia phải có bổn
phận luôn luôn nhớ ơn đã nhận, cho nên có dịp thì kể lể công ơn, có dịp thì
nhắc nhở tới hoài, khiến cho người thọ nhận ơn sinh ra khó chịu, bực bội, tìm
cách tránh né, không còn muốn gặp mặt người đã làm ơn giúp đỡ mình trước kia
nữa. Khi đó người đã ra ơn giúp đỡ, chẳng những không nhận thấy lỗi lầm của
mình, lại còn trách cứ người kia là đồ vô ơn bạc nghĩa. Kết cuộc, tình cảm bị
sứt mẻ, mối giao hảo bị cắt đứt, quan hệ không còn tốt đẹp như xưa, không khí
bắt đầu ngột ngạt khó thở, chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh bắt đầu, cả hai
đều chìm đắm trong phiền não khổ đau, không sao thoát ra nổi.
Trong cuộc sống gia đình cũng vậy, nếu
cha mẹ luôn luôn kể lể công ơn nuôi dưỡng con cái, khổ nhọc thế này, đắng cay
thế nọ, gian truân thế kia, nhọc nhằn thế đấy, lặp đi lặp lại, quanh năm suốt
tháng, khiến cho con cái, bực bội khó chịu, đưa tới phản ứng, chẳng thèm chịu
nghe. Quan niệm "dưỡng nhi đãi lão" của đông phương ngày trước, tức
là nuôi dưỡng con cái từ lúc còn bé thơ, với tâm mong cầu đến ngày con khôn
lớn, sẽ nuôi lại mình lúc tuổi già, có lẽ không còn mấy thích hợp ở các xứ tây
phương ngày nay. Nuôi con với tâm từ bi thì được cảm ứng. Nuôi con với tâm mong
cầu thì gặp phản ứng. Bậc làm cha mẹ, phải biết hy sinh, nuôi con vì tình, vì
nghĩa cao cả, không nên trả giá, kể lể công ơn, như lời cổ nhơn, đã từng có
dạy: "Thi ân bất cầu báo đáp", chính là nghĩa đó vậy.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có
dạy: Nếu chúng ta không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, và
không chấp sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, mà thực hành hạnh bố
thí, nghĩa là bố thí với tâm lượng rộng lớn, không kỳ thị, không cố chấp, không
trụ tướng, không mong cầu được đền đáp, bất tùy phân biệt, bố thí chỉ vì ích
lợi của chúng sanh, không vì bất cứ điều gì khác, thì phước đức không thể nghĩ,
không thể bàn, không thể đo, không thể lường được. Tại sao như vậy? Bởi vì, tâm
lượng như vậy đồng với tâm Phật, không khác. Người làm ơn quên ngay chuyện đã
làm thì có phước báu vô cùng. Tuy nhiên, khi đã thọ nhận sự giúp đỡ, sự quan
tâm, sự chiếu cố, bất cứ từ đâu đến, bất cứ do ai làm, dù lớn lao hay nhỏ nhặt
đến đâu, người biết tu tâm dưỡng tánh, phải biết tri ân và báo ân, tức là biết
ơn và đền ơn. Một lời nói ân nghĩa chí tình, một lời khuyên lơn dịu dàng, trong
cơn nhiệt não, quí hơn bất cứ món quà nào khác, trong lúc bình thường. Miếng
khi đói bằng gói khi no. Trên cõi đời này, chuyện ân nghĩa biến thành oán thù
rất dễ dàng, như trở bàn tay. Ngược lại, chuyện oán thù trở thành ân nghĩa thực
là khó khăn vô cùng, chỉ có những bực thánh hiền, hoặc những người biết tu tâm
dưỡng tánh, tức là những người muốn sống an lạc hạnh phúc, mới có thể thực hành
được mà thôi.
Trong cuộc sống hằng ngày, nhứt là cuộc
sống của người tại gia, rất dễ đụng chạm, dễ sinh oán thù, từ những việc lớn,
đến việc nhỏ mọn, từ việc cố tình, đến việc vô ý. Chẳng hạn như việc, cạnh
tranh nghề nghiệp, thường đưa đến chỗ, thanh toán lẫn nhau, cá lớn nuốt cá bé,
lấy thịt đè người, gài bẫy hại nhau, chẳng kể thương đau, của bao người khác,
tan nhà nát cửa, gia đình ly tán, lắm khi tù tội, đến nỗi thiệt mạng. Chẳng hạn
như việc, va chạm quyền lợi, lỡ lời nói chơi, đụng chạm tự ái, nói năng vụng
dại, chẳng biết tán dương, tâng bốc mọi đường, đâm ra thù oán. Con người chất
chứa, thù oán trong lòng, sâu như lòng sông, rộng như biển cả, suốt đời quyết
trả, những mối hận thù, làm sao cuộc sống, yên vui cho được?
Nhiều khi có người, nói ra những lời, vô
thưởng vô phạt, vô ý vô tứ, chẳng có dụng tâm, chẳng có tà ý, chẳng ám chỉ ai,
hoặc là chẳng may, có tài, hơn nhiều người khác, khiến cho những kẻ, có tâm
ganh tị, đố kỵ quá cao, tự ái mấy sào, bảo sao chẳng tức, chẳng giận cho được.
Con người thường hay, trả thù báo oán, nên tìm mọi cách, trả đủa cho hơn, cho
thỏa tâm tham, cho vừa tâm sân, cho hợp tâm si, người cha bị giết, người con
trả thù, giết hại người kia, người con bên đó, lại cũng báo thù, thử hỏi như
vậy: bao giờ oán thù, mới được chấm dứt, cuộc đời mới được, bình yên vui vẻ?
Nếu người ta chửi mình một tiếng, mình
trả lại một miếng, có khi nặng hơn, thực ra quá dễ. Người ta mắng mình một
tiếng, mình kham nhẫn được, không trả đũa lại dưới bất cứ hình thức nào, mới
thực là khó. Người ta gửi thư chửi mình, lá thư bị quăng vào thùng rác là lẽ
thường tình. Nhưng đừng lưu trữ lời lẽ khó nghe đó trong kho tàng tâm thức của
mình, tức là quên luôn đi, bỏ qua luôn, không nhớ tới nữa, mới thực là khó. Tại
sao như vậy? Bởi vì, lúc đó công phu tu tập của mình đã khá lắm rồi, chứ không
phải mình ngu đâu! Nếu mình trả đủa, công bố lá thư, ưu tư trằn trọc, hằn học
hỗn hào, nhào vô quyết chiến, khiến cho lời qua, đâm ra tiếng lại, văng bút
văng mực, khổ cực tấm thân, khởi tâm nóng giận, đến chỗ đánh nhau, thưa gửi
kiện tụng, kẻ bị nhức đầu, kẻ bị thương đau, người vào ngồi khám, mới đúng thực
là: cả đám ngu vậy! Trong kinh sách thường gọi đó là: "vô
minh". Cổ nhân có dạy: "Một sự nhịn chín sự lành", chính là
nghĩa đó vậy. Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
"Lấy
oán báo oán, oán nghiệp chập chùng.
Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan".
Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan".
Bị người thù ghét, dù thực vô cớ, vô lý
quá chừng, chúng ta cũng đừng, khởi tâm tức giận, nên hiểu nguyên do, chắc chắn
phải có, nhân duyên đời trước, duyên cớ đời này, chỉ vì chúng ta, không biết đó
thôi. Chẳng hạn như là: lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, cũng có thể là, nguyên
nhân của chuyện, thù ghét oán hờn. Cạnh tranh nghề nghiệp, hay tâm ganh tị, đố
kỵ gièm pha, cũng là những nguyên nhân dễ hiểu. Tuy nhiên, nếu có dịp giúp đỡ
được những người đó, trong lúc họ gặp khó khăn hay hoạn nạn, chúng ta có nhiều
cơ hội hóa giải oán hờn, biến thù thành bạn. Như vậy chắc chắn tốt đẹp, hơn là
tiếp tục tranh chấp, thù hận, để rồi nơm nớp lo sợ bị trả thù, phập phồng âu
lo, đời sống không lúc nào được bình yên. Có những người lầm lạc, sa chân vào
vòng tội lỗi. Một thời gian sau, nhờ gặp được thiện hữu tri thức, thầy lành bạn
tốt, giúp đỡ hiểu biết Chánh Pháp, giác ngộ được Chánh Ðạo, cố gắng quay về
đường ngay nẽo thẳng. Nhưng người đời vì tâm cố chấp, chấp chặt những oán thù
xa xưa, nhứt quyết phục thù trả hận, nhứt định không tha thứ, đòi hỏi phạm nhân
phải chịu những hình phạt tàn độc gấp trăm ngàn lần, phải chịu muôn ngàn đau
đớn, phải chịu tan da nát thịt, người đời mới vui lòng, hả dạ. Thử hỏi: như vậy
ai tàn ác hơn ai, ai có tâm độc ác hơn ai? Thử hỏi: ai đang muốn dừng nghiệp và
chuyển nghiệp, còn ai đang muốn tạo tội và tạo nghiệp?
Một con ngựa hoang muốn trở về quê xưa,
phải tắm sông nhẫn nhục, mới cảm thấy ân tình mở cửa ra với mình, sau đó mới có
thể tắm trong dòng sông mơ màng mát trong thơm ngọt. Tuy con ngựa hoang, quên
thù oán căm, từ nơi tối tăm, về miền tươi sáng, tới bến sông rồi, cởi mở cõi
lòng, trông ra với đời, nhưng đời không tha, không mở cõi lòng, từ bi hỷ xả,
đón ngựa hoang về, lại cố làm cho, ngựa hoang chết gục, một cách nhục nhằn, và
trên lưng nó, hằn nguyên vết thù! Cõi đời thường tàn độc như vậy! Con người
thường nhân danh công lý, bảo vệ chính nghĩa, đấu tranh tự do, đòi hỏi công
bình, thực thi pháp trị, nhưng thực chất chỉ thích gieo rắc khổ đau cho kẻ
khác, chan rải thù hận khắp nơi nơi. Nếu con người biết sẵn sàng tha thứ cho
người khác, cũng như đã từng nhiều lần trong đời, tha thứ cho chính bản thân
mình, thì cảnh giới thiên đàng niết bàn cực lạc chính là đây!
Trên cõi đời này, cũng có những người
phát tâm xin tha thứ cho phạm nhân đã sát hại thân nhân của mình, được khỏi tội
chết. Tại sao như vậy? Bởi vì, người đó đã thấm thía hoàn cảnh, đã thấu rõ cảm
giác của sự mất mát người thân như thế nào, cho nên không muốn gia đình người
khác, dù là phạm nhân, tức là kẻ thù, phải lâm vào cảnh ngộ như vậy. Thường chỉ
có những người đã từng rơi vào hoàn cảnh khốn khổ, khốn nạn, mới phát tâm cảm
thông, thương xót người khác. Những người có tâm đại từ đại bi dường ấy mới có
cuộc sống an lạc, không hận thù, không phiền não và khổ đau, đồng thời tạo được
an lạc cho những người chung quanh. Ðó những người hành Bồ Tát đạo, biết sống
với tâm Phật, không phải sống với tâm ma. Ðó chính là những người biết sống với
Chân Tâm Phật Tánh của mình.
Ngày xưa, vị Tổ sư thứ hai mươi bốn
Aryasimha, trước khi bị vua Kế Tân chém đầu, đã phát nguyện: Ngay khi đắc thành
đạo quả sau này, người đầu tiên tôi sẽ độ, chính là bệ hạ! Tại sao vậy? Bởi vì,
có gặp tai nạn lớn lao, tai họa khủng khiếp, thậm chí mất mạng, mới có thể
chứng minh trình độ tu tập của con người. Không phải chúng ta mong cầu khổ nạn đến
để thử thách công phu tu tập của mình. Tuy nhiên, một khi khổ nạn xảy ra, chúng
ta biết ngay: đã đến lúc phải trả nghiệp quả, từ nghiệp nhân, do chính mình tạo
tác, từ nhiều kiếp trước hoặc kiếp này. Cho nên, chúng ta vẫn giữ được thái độ
bình tĩnh thản nhiên, chấp nhận đền trả quả báo, mới là đáng quí, chứ van xin
cầu nguyện, có được gì đâu? Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
"Dù
có lên non, xuống biển, vào hang,
Nghiệp báo vẫn theo con người như hình với bóng,
Không ai có thể tránh khỏi được".
Nghiệp báo vẫn theo con người như hình với bóng,
Không ai có thể tránh khỏi được".
Người thế gian thường nói rằng:
"trời kêu ai nấy dạ!", hoặc "lưới trời tuy thưa mà không
lọt", chính là nghĩa đó vậy. Tuy nhiên có người thắc mắc: có thù không trả
sao đáng làm người? Chúng ta nên biết: Không có việc gì, trên thế gian này, tự
nhiên sanh ra, hoặc là xảy ra, ngoài luật nhân quả. Nói một cách khác:
Tất cả
mọi sự việc đều do nhân duyên sanh ra.
Tất cả mọi sự việc đều do nhân duyên diệt đi.
Tất cả mọi sự việc đều do nhân duyên diệt đi.
Có người ngày nay gặp vạn sự may mắn,
tốt đẹp yên vui, làm ăn phát đạt, thuận buồm xuôi gió, nhà cao cửa rộng, con
cháu hiếu thảo, bạn bè thân thiết, mọi người mến thương. Ðó chính là phước báo,
là kết quả của cái nghiệp nhân thiện lành, người đó gieo từ nhiều kiếp trước,
và trong kiếp này, cho nên bây giờ được hưởng kết quả tốt đẹp đó. Có người ngày
nay gặp nhiều xui xẻo, tai nạn liên miên, thậm chí chết người, tàn tật suốt
đời, trục trặc trắc trở, thưa gửi kiện tụng, làm ăn thất bại, nợ nần tứ tung,
nhà tan cửa nát, con cái hoang đàng, bạn bè phản phúc, mọi người ghét bỏ. Ðó
chính là nghiệp báo, là hậu quả của cái nghiệp nhân bất thiện, người đó gieo từ
nhiều kiếp trước, và trong kiếp này, cho nên bây giờ lãnh đủ hậu quả không tốt
đó. Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
Muốn
biết kiếp trước mình đã làm gì, hãy nhìn cuộc sống của mình hiện tại.
Muốn biết kiếp sau mình sẽ ra sao, hãy nhìn việc mình đang làm hiện tại.
Nếu hôm nay mình dốt nát nghèo nàn khốn
khổ, gặp tai nạn oán thù liên miên, thì đó là hậu quả của cái nhân tạo ác
nghiệp và không biết làm việc phước thiện trước đây, chứ không có chuyện ân
oán, thương ghét tùy tiện của thượng đế nào cả.
Nếu hôm nay mình thông minh, đủ ăn đủ
mặc, gặp thực nhiều ân đức, thì đó là kết quả của cái nhân tu tâm dưỡng tánh,
tích phước tích đức nhiều đời trước và đời này. Hôm nay mình được bình an là
quả của cái nhân mình không tạo sự bất an cho kẻ khác, dù đó là kẻ thù. Hôm nay
mình được hạnh phúc là quả của cái nhân mình không phá hoại hạnh phúc kẻ khác,
dù đó là kẻ thù. Người biết tu tâm dưỡng tánh, giác ngộ được luật nhân quả một
cách chắc chắn, không bao giờ nghĩ đến chuyện trả thù, đừng nói đến chuyện thực
hiện việc trả thù. Tại sao vậy? Bởi vì, những oán thù mình gặp hôm nay, chính
là hậu quả của cái nhân xấu ác, do chính mình đã tạo đã gây ra trước đây, chứ
chẳng phải ai khác làm, bây giờ mình phải gánh chịu. Nếu không sáng tỏ được
điều này, con người cứ mãi chìm đắm trong oán thù khổ đau, trong vòng sinh tử
luân hồi, biết đến bao giờ mới thoát ra được? Chỉ cần giác ngộ, biết quay đầu
lại, thì bến bờ giải thoát là đây, phiền não khổ đau chấm dứt!
Chúng ta cũng không nên bi quan với số
phận đã an bài, chấp nhận cái gọi là định mệnh, hay định mạng, hay số mạng.
Trái lại, chúng ta có thể tích cực chuyển hóa cuộc đời của mình, sửa đổi cái
nhân đã gieo, đã tạo trước kia. Tùy theo "cái nhân" là hạt giống loại
nào, sau khi được gieo xuống đất, phải chờ đủ thời tiết nhân duyên, mới gặt hái
"cái quả" của nó, có khi sớm tức thời, cũng có khi trổ muộn. Có khi
gặt phải quả chanh chua, nhưng có thể đem bán đi, mua quả cam ngọt. Ðó là
trường hợp chúng ta đã "lỡ" gieo nhân xấu, kiếp trước hay kiếp này,
nhưng nhờ gặp được thiện tri thức nhắc nhở, khai ngộ, khuyến khích, chúng ta
biết phục thiện, quay trở về chánh đạo, chuyển ba nghiệp thân khẩu ý xấu ác,
thành ba nghiệp thanh tịnh thiện lành, làm nhiều việc phước đức, tu tâm dưỡng tánh,
chúng ta có thể gặt "quả tốt", hay ít ra cũng giảm bớt được "quả
xấu". Chẳng hạn như: chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Ví như gieo
nhân biết tiết kiệm, con người có thể gặt quả giàu có, hay ít ra cũng giảm bớt
được nợ xưa đó vậy. Ví như biết chịu khó học hành, cũng có ngày đỗ đạt, thành
danh, hay ít ra cũng bớt ngu dốt hơn trước, trí tuệ nhờ đó sáng tỏ hơn.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy:
"Nhứt thiết duy tâm tạo". Nghĩa là tất cả mọi sự mọi việc trên thế
gian đều do tâm của chúng ta tạo ra. Muốn có quả thiên đàng trong tâm, chúng ta
hãy gieo nhân từ bi hỷ xả, bác ái vị tha, thi ân bố đức, dĩ ân báo oán. Gieo
nhân ích kỷ, hận thù, tham lam, sân hận, si mê, nhứt định gặt quả địa ngục
trong tâm, phiền não khổ đau, chắc chắn không sai, chỉ có sớm hay muộn mà thôi.
Trong sách có câu:
Thiên
đàng địa ngục hai bên.
Ai ngộ thì nhờ, ai mê thì sa.
Thiên đàng chẳng chứa quỉ ma.
Ai người tâm thiện tìm ra thiên đàng.
Ai ngộ thì nhờ, ai mê thì sa.
Thiên đàng chẳng chứa quỉ ma.
Ai người tâm thiện tìm ra thiên đàng.
Chúng ta đã thấu hiểu lý lẽ chân thật
của cuộc đời là vô thường, không có gì tồn tại vĩnh viễn, không có gì là tự
nhiên sanh. Luật nhân quả áp dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai.
Sinh sự thì sự sinh. Nhân nào thì quả nấy. Gieo gió thì gặt bão. Có lửa thì có
khói. Cầu nguyện khấn vái chỉ đem lại sự bình an tâm hồn tạm thời mà thôi. Bình
an thực sự chỉ có cho người thiện tâm. Thiên đàng hay địa ngục, tuy là hai tâm
trạng khác nhau, nhưng tất cả thực sự chỉ là các trạng thái ở trong thâm tâm
của tất cả chúng ta mà thôi. Cũng ví như biển động hay biển lặng, đều là hai
trạng thái của biển mà thôi vậy. Có điều thắc mắc quan trọng, đó là: "Con
người thương ai nhiều nhứt và ghét ai nhiều nhứt?". Nếu như được hỏi: mình
thương ai nhiều nhứt, thường thường con người sẽ đáp: thương cha mẹ nhiều nhứt,
hoặc thương vợ hay chồng nhiều nhứt, hoặc thương con cái nhiều nhứt. Tuy nhiên,
trên thực tế, nếu những người thân đó làm chuyện gì mích lòng trái ý, hoặc
không có tình thương yêu đáp lại như mình mong muốn, thậm chí còn đem lòng
thương yêu kẻ nào khác, con người sẽ đổi lòng thương yêu nhiều nhứt thành ra
thù ghét nhiều nhứt! Như vậy, thực sự con người trên thế gian này thương chính
bản thân mình nhiều nhứt, chứ không phải người nào khác!
Còn nếu như được hỏi: mình thù ghét ai
nhiều nhứt, thường thường con người sẽ đáp: thù kẻ này hại mình, ghét người kia
hơn mình, nhiều nhứt. Tuy nhiên, trên thực tế, con người thù ghét chính bản
thân mình nhiều nhứt, chứ không phải người nào khác! Tại sao vậy? Bởi vì, con
người vì lòng tham lam vô hạn, vẫn tạo tội tạo nghiệp, dù biết hậu quả không
tốt sẽ đến với mình. Bởi vì, con người vì lòng sân hận vô biên, vẫn tạo tội tạo
nghiệp, dù biết hậu quả hiểm nguy sẽ đến với mình. Bởi vì, con người vì lòng si
mê vô cùng, vẫn tạo tội tạo nghiệp, dù biết hậu quả khó lường sẽ đến với mình.
Nghĩa là con người thù ghét chính bản thân mình nhiều nhứt, bởi vì sự vô minh
từ nhiều đời nhiều kiếp, cho nên luôn luôn duyên theo cảnh trần, tạo tội tạo
nghiệp không ngừng, do đó lãnh đủ nghiệp báo, hậu quả nặng nề, trầm luân sanh
tử, mà vẫn không thức tỉnh tìm đường giải thoát!
Trong sách có câu: "Giáo đa tất
oán". Nghĩa là dạy nhiều sinh thù oán. Trong đạo cũng như ngoài đời,
thường khi những người có lòng, muốn chỉ dạy nhiều cho thế hệ sau, muốn truyền
dạy tất cả những điều cần thiết, muốn những người nối dõi đạt được những thành
tích khả quan. Tuy nhiên, chính vì muốn quá nhiều như vậy, cho nên chỉ dạy quá
nhiều, kỷ luật nghiêm khắc, rèn luyện khổ công, kiểm soát chặt chẽ, sách tấn
thường xuyên, nhiều người thế hệ sau chẳng những đã không biết ơn, đã không
hiểu thấu tấm lòng của thế hệ trước, trái lại, còn sanh tâm oán trách, hờn
giận, tệ hơn nữa là, sanh tâm thù hận! Ðúng là "làm ơn mắc oán" đó
vậy! Cổ nhơn có dạy: "Người chê ta mà chê phải tức là thầy ta. Người khen
ta mà khen phải tức là bạn ta". Ðối với người đời, quan niệm này quả là
kim chỉ nam cho bực quân tử, trong việc xử thế ở đời. Tuy nhiên, đối với người
biết tu tâm dưỡng tánh, theo quan điểm của đạo Phật, người khác khen hay chê,
dù phải hay không phải, chúng ta đều tôn trọng họ như bực thầy lành hoặc bạn
tốt. Còn hơn thế nữa, chúng ta nhìn họ như những bực bồ tát. Tại sao vậy? Bởi
vì, người giúp đỡ phương tiện cho mình tu tập, hoằng pháp lợi sanh, cũng như
người chuyên phá rối, bằng hành động cũng như bằng lời nói, đều là bực
"thiện hữu tri thức" của mình.
Hạng người thứ nhứt được ví như bồ tát
thuận hạnh, chẳng hạn như thầy dạy học hay bạn hữu hằng giúp đỡ chúng ta,
thường ban cho những lời khen thưởng thực tình, đúng lúc, để khuyến khích, động
viên tinh thần, hoặc chê trách hay quở phạt với tất cả tấm lòng từ bi, vì sự
tiến bộ của chúng ta, chứ không vì bản ngã của họ. Hạng người thứ hai được ví
như bồ tát nghịch hạnh, chẳng hạn như giám khảo trường thi hay trường đời.
Những người này nhiều khi khen chê không phải lúc, không phải vì thiện tâm, lại
có dụng ý, ác tâm, không phải vì chúng ta, mà vì bản ngã của họ. Nhờ hạng người
thứ nhứt, chúng ta có được sự hiểu biết, có được kiến thức, đạt được giác ngộ,
vững tâm tu học, biết đường ngay lẽ phải để noi theo. Nhờ hạng người thứ hai,
chúng ta có được bằng cấp ở đời, nếu vượt qua được sự khảo hạch và thi đậu,
hoặc chúng ta biết được trình độ tu tâm dưỡng tánh của mình đã đến đâu, đạt được
trình độ nào, chăn trâu tới giai đoạn thứ mấy.
Trong các chùa luôn luôn có thờ tôn
tượng của cả hai hạng người trên đây: tượng đức Hộ Pháp và tượng Tiêu Diện Ðại
Sĩ. Tượng đức Hộ Pháp với khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, tay cầm kiếm trí tuệ cắt
đứt phiền não, vượt qua khổ đau, đạp lên trên con rắn độc có ba đầu dưới chân,
biểu tượng của tam độc: tham sân si, không phải là một vị, mà tượng trưng cho
tất cả những người có công với Chánh Pháp, là hạng người thứ nhứt nói trên.
Tiêu Diện Ðại Sĩ với khuôn mặt dữ dằn, lè lưỡi phun lửa máu, đầu có đội ba ngọn
núi, khẩu phún xuất hỏa, đầu thượng tam sơn, không phải là một vị, mà tượng
trưng cho tất cả những người có công giúp đỡ Chánh Pháp được sáng tỏ hơn, là
hạng người thứ hai nói trên. Bởi vậy cho nên, chúng ta luôn luôn chân thành cảm
niệm ơn đức của cả hai hạng người nói trên, đã giúp đỡ chúng ta tiến tu trên
mọi phương diện. Theo kinh điển nhà Phật, sống ở trên cõi đời này, người nào
cũng thọ nhận bốn thứ ơn lớn, lúc nào cũng phải nên biết lo đền đáp, bằng sự
cung kính, cúng dường và phụng sự. Bốn thứ ơn lớn, cũng gọi là tứ trọng ân, đó
là: 1. Ơn cha mẹ 2. Ơn chúng sanh 3. Ơn quốc gia 4. Ơn Tam Bảo.
1. Cha mẹ sanh thành dưỡng dục rất khổ
công, cực nhọc, trong nhiều năm tháng dài, chúng ta mới có được như ngày nay.
Người biết tu tâm dưỡng tánh, phải báo đáp ơn cha mẹ, bằng sự cung kính, phụng
dưỡng vật chất cũng như tinh thần, nhưng quan trọng hơn cả, chính là giúp đỡ
cha mẹ hiểu biết Chánh Pháp, sớm ngộ Chánh Ðạo, vĩnh viễn thoát ly phiền não
khổ đau, sống đời an lạc hạnh phúc. Chỉ vì bênh vực vợ con, bênh vực chồng con,
hoặc chỉ vì một lời khiển trách, một sự bất như ý, chẳng hạn như cha mẹ chia
của cải không đồng đều như ý muốn, nhiều người trên thế gian này phủi sạch tất
cả những ân nghĩa của cha mẹ từ xưa đến nay, từ cha bỏ mẹ, không nuôi không
dưỡng, không thèm săn sóc, không hề thăm viếng, không muốn nhìn nhận, đôi khi
còn trở mặt oán thù, thậm chí sát hại, tranh giành tài sản! Ðó là trọng tội
hàng đầu trong ngũ nghịch tội.
2. Chúng ta đang sống trong xã hội, tức
là có vô số chúng sanh sống chung quanh, giúp đỡ chúng ta đủ mọi phương diện,
vật chất cũng như tinh thần. Chẳng hạn như nhờ người nông dân chúng ta có cơm
ăn, nhờ người công nhân chúng ta có áo mặc, có xe đi, có đồ dùng, có nhà ở.
Chẳng hạn như nhờ người thầy thuốc, y tá, sức khỏe chúng ta được chăm sóc, nhờ
người thầy giáo, kiến thức chúng ta được mở mang, trí tuệ sáng suốt. Ðó là chưa
kể trâu bò cày ruộng, con ngựa kéo xe, con chó giữ nhà, lạc đà vận chuyển.
Người biết tu tâm dưỡng tánh, phải báo đáp ơn xã hội, bằng sự siêng năng làm
việc, giúp người giúp đời, làm tất cả mọi sự mọi việc ích lợi cho mọi người,
không phung phí thực phẩm, sản phẩm, của cải, vật dụng, dù do chính mình bỏ
tiền ra mua. Tại sao vậy? Bởi vì, đó là công lao của xã hội, và nhiều người
khác đang thiếu thốn, nhiều chúng sanh khác đang cần những thứ đó, dùng không
hết thì đem cho, không nên phí của!
3. Chúng ta sống trong một quốc gia thái
bình thạnh trị, có nhiều phúc lợi xã hội, cơm no áo ấm, sung túc tiện nghi, an
cư lạc nghiệp. Người biết tu tâm dưỡng tánh, phải báo đáp ơn quốc gia, bằng sự
cố gắng làm một người dân lương thiện, làm người có lương tâm chức nghiệp, góp
phần xây dựng đất nước, không phá rối trật tự trị an của xã hội, không gây đau
khổ cho những người khác sống chung quanh, không làm những chuyện lợi mình hại
người, không lợi dụng kẽ hở của luật pháp để hại người, kiếm tiền bạc triệu,
sống cho sung sướng, không viết thư rơi, không đâm bị thóc, không chọc bị gạo,
không tạo tranh chấp, không gây oán thù. Mình muốn sống đời an lạc hạnh phúc,
nên giúp đỡ người khác cũng sống an lạc hạnh phúc như mình. Nhờ đó tâm trí được
thanh tịnh, sống được an vui, thác về cõi lành, cực lạc thiên đàng, khỏi sợ địa
ngục, không cần chúc tụng, ở trên mặt báo!
4. Sau hết trên hết, những người trải
đời, dù già hay trẻ, thấy được vô thường, hiểu biết nhân quả, tội nghiệp phước
báu, có được chánh kiến, hành bát chánh đạo, do ơn Tam Bảo, chỉ dạy thực rành,
giúp đỡ chúng sanh, thoát ly sanh tử, luân hồi nghiệp báo, tránh khỏi khổ đau,
hãy mau thức tỉnh, tu tâm dưỡng tánh, đừng đợi đến ngày, nhắm mắt xuôi tay,
chẳng may phải đọa, vào ba đường ác, địa ngục ngạ quỉ, hoặc là súc sanh, không
ai cứu được, dù có niệm Phật, cho đủ mười tiếng, hoặc mười ngàn tiếng, cũng vậy
mà thôi, đã quá muộn rồi! Người biết tu tâm dưỡng tánh, phải báo đáp ơn Tam
Bảo, bằng sự tinh tấn tu tập, cung kính cúng dường, bằng cách dừng nghiệp và
chuyển nghiệp, chấm dứt tạo tội tạo nghiệp, bằng cách giúp đỡ người khác tu tâm
dưỡng tánh, tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn.
Chúng ta thử suy gẫm câu chuyện sau đây:
Có một đàn bò đang đi trên đường vào lò sát sinh để bị giết làm thịt. Những con
bò đó vẫn báng nhau, húc nhau, chen nhau, lấn nhau, nghinh nhau, nghịch nhau.
Chúng không biết rồi đây, chỉ trong phút giây, cuộc đời của chúng sẽ bị kết
thúc thê thảm biết là dường nào. Chúng không biết gì cả, chỉ biết đấu tranh,
giành giựt, hơn thua, cho đến giây phút cuối cùng của mạng sống. Người đời
thường nói: đồ ngu như bò! Tuy nhiên người đời có thông minh hơn chăng? Thử xét
cõi đời được bao năm, mà con người vẫn sống trong cơn mê: bon chen, đấu tranh,
giành giựt, chèn ép, chà đạp, chửi bới, thưa gửi, kiện tụng, đụng độ, hơn thua
nhau từng lời nói, ghìm nhau từng cử chỉ, thù oán nhau từng hành động, chấp
chặt từng chuyện làm ơn nhỏ nhặt, chất chứa từng chuyện thù oán lặt vặt, đến
chuyện hận thù không đội trời chung. Con người thường có tâm chấp ngã, cho nên
ích kỷ, chỉ muốn chính mình, gia đình mình, bà con mình, giòng họ mình, tổ chức
mình, dân tộc mình, bất cứ cái gì dính tới mình, đều đứng hạng nhứt! Ngoài ra
thì mặc kệ, sống chết mặc bây, tụi này sung sướng, như vậy đủ rồi! Thực là hởi
ôi, cõi đời nổi trôi, vô cùng vô tận!
Tóm lại, chuyện ân oán là chuyện dài của
con người, của cõi đời phiền não khổ đau, nói mãi không bao giờ cùng. Cho dù
suốt đời, chúng ta luôn luôn, làm chuyện ân nghĩa, cho bất cứ ai, nhưng nếu chỉ
cần, một lần mà thôi, từ chối giúp người, lập tức chúng ta, gặp ngay oán thù!
Người đời phủi sạch tất cả những gì tốt đẹp người khác đã làm cho họ, trong suốt
một khoảng thời gian dài, chỉ ghi nhớ một việc bất như ý sau cùng mà thôi, xong
rồi dứt đẹp! Trên cõi đời này, chữ "Ân" ít gặp, chữ "Oán"
khắp nơi. Chính vì những quan niệm như vậy, cho nên con người luôn luôn lăn lộn
trong sanh tử luân hồi, trong phiền não khổ đau, vay trả trả vay, triền miên
suốt đời, không bao giờ dứt. Trong kinh sách, Chư Tổ có dạy:
Làm việc có nghĩa, đem lại an lạc hạnh
phúc, cho mình và cho người. Là tâm tỉnh ngộ.
Làm việc vô nghĩa, đem lại phiền não khổ
đau, lợi mình hại người. Là tâm cuồng loạn.
Cuồng loạn theo tình niệm: thương
ghét, ân oán. Lâm chung bị nghiệp lôi.
Tỉnh ngộ không theo tình, tâm bình tĩnh
thản nhiên. Lâm chung chuyển được nghiệp.
Source Internet.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.