“Em và các con thương mến,
Được thư này em tìm mọi cách ra thăm nuôi anh. Khi đi
nhớ mang cho anh các thứ cần thiết sau đây:
-Bánh tét: 30 đòn,
-Bánh ếch phơi khô: 100 cái,
-Bánh tổ: 10 bánh,
-Thịt chà bông: 3 ký,
-Gạo sấy; 20 bịch,
-Thuốc lào 3 số 8: 10 bánh,
-Kẹo chuối: 3 gô,
-Đường thẻ: 5 ký,
-Muối mè: 2 gô,
-Sả khô trộn muối, ớt, bột ngọt: 1 bịch lớn,
-Tôm khô: 5 ký,
-Thịt gà ram mặn: 2 con,
-Cà phê: 1 ký,
-Lạp xưởng: 5 ký,
-Sữa hộp: 20 hộp,
-Thuốc lá; 1 cây (mười gói),
-Sữa bột: 5 ký.
Anh luôn cố gắng học tập, lao động tốt để sớm được
Đảng và Nhà Nước khoan hồng xét tha để về sum họp với em và các con.”
Các tù binh xôn xao. Người chắt
lưỡi, kẻ hít hà, khi nghe bức thư với những liệt kê dài thoòng và nặng ký vừa được
đọc. Người ngồi bên phải tôi nói:
“Cầu cả trăm ký.”
Người ngồi bên trái tôi lắc đầu,
nói nhỏ:
“Vợ tôi chắc chắn chẳng làm cách
nào có đủ sức mà mua ngần ấy thứ. Nội chạy gạo nuôi mấy đứa nhỏ đã đủ sặc máu.”
Tôi nhìn người vừa nói với cái
nhìn đồng cảm.
Tên cán bộ công an phụ trách
công tác giáo dục của phân trại nheo nheo mắt đọc tiếp bốn bức thư tương tự nhưng
“nhẹ ký” hơn bức thư vừa đọc.Y ngúc ngúc cái đầu làm cái nón cối màu vàng lệch
qua một bên, y đưa tay sửa lại chiếc nón cối, nói:
“Các anh nào có những bức thư
tôi vừa đọc hãy viết lại thư khác. Xin gì mà xin dữ thế. Các chị phải bán cả nhà
để đi thăm các anh ấy à. Đảng và Nhà Nước ta có bỏ đói các anh đâu. Đã bảo các
anh nhiều lần là “thăm viếng” chứ không phải “thăm nuôi”. Việc nuôi các anh đã
có Đảng và Nhà Nước lo.”
Các tù binh im lặng nhìn
nhau. Tất cả đều há miệng đáp “rõ” khi tên cán bộ giáo dục hỏi:
“Các anh có rõ không?”
Sau đó, đám tù binh đứng lên,
sắp hàng để ra hiện trường lao động.
*
Lật bật rồi cũng có những người
vợ ở miền Nam
đường xa lặn lội mang quà cáp ra miền Bắc thăm chồng.
Hiểu rõ hoàn cảnh của gia đình
mình nên tôi rất ít hy vọng vợ tôi sẽ ra thăm tôi. Thế nên tôi rất đỗi ngạc nhiên,
mừng rỡ khi được gọi tên. Quà cáp vợ tôi mang theo không được như những yêu cầu
của những bức thư bị bắt phải viết lại nhưng cũng đã quá đủ với tôi, người tù cải
tạo đã mười năm.Vì là một cá nhân tiên tiến trong đội nên tôi được ở lại qua đêm
ở nhà tiếp tân với vợ tôi. Chúng tôi đã hàn huyên tâm sự. Vợ tôi kể về chuyện học
hành của các đứa con bây giờ đã lớn. Khi được tôi hỏi làm cách nào vợ tôi có đủ
tiền nuôi con từ bấy đến nay, và có thể mua quà cáp để từ miền Nam ra miền Bắc thăm
tôi, thì vợ tôi cho biết là cũng bắt chước các chị em khác buôn bán làm ăn. Hình
như có điều gì đó nàng không muốn nói với tôi. Lúc tôi tỏ ý muốn ân ái với nàng
thì nàng từ chối với lý do vì sợ phải chửa đẻ. Tôi nuốt nỗi ham muốn khi thấy lý
do của vợ tôi nêu ra là chính xác.
“Bây giờ mà em bầu bì chửa đẻ
là có nước chết.”
Khi mang những quà cáp vào trại
với dồn nén sinh lý không được thỏa mãn, tôi rất đỗi ngạc nhiên vì những thứ đắt
giá, cần thiết mà vợ tôi đã mang ra cho tôi trong chuyến thăm nuôi. Tôi không hình
dung được công việc làm ăn buôn bán của nàng ra sao. Hồi tôi chưa bị tù tội, vợ
tôi chỉ là người đàn bà nội trợ đảm đang. Gia đình chúng tôi sống nhờ vào đồng
lương sĩ quan cấp tá của tôi chỉ vừa đủ chi tiêu rất dè sẻn.
Tôi im lặng nghe những người
bạn đồng tù kể lể chuyện thăm nuôi. Anh Ân, ở chung đội nhà bếp với tôi, cười tủm
tỉm, nói:
“Bà vợ của tôi bả hay thiệt. Anh biết bây giờ bả cũng
biết mánh mung này nọ. Buông cái này, bắt cái kia. Hết đi buôn gạo tới buôn thuốc
tây, hết đi thịt heo tới đi bột ngọt.”
Anh nhỏ giọng nói với tôi:
“Anh biết, hồi tôi đi tù, bả ôm
đứa con mới sanh mấy tháng.. Tôi đi mà rầu thúi ruột. Nhỏ con gái giờ đã mười
tuổi rồi. Tôi tá hoả lúc bả đưa cái “bao cao su ngừa thai” cho tôi lúc tôi ngỏ ý
muốn ăn nằm với bả. Anh biết, bả mà biết xử dụng ba cái vụ này với mình thì ở
nhà đâu có gì cấm bả đưa cho người khác xử dụng. Chắc bả cũng biết tôi nghĩ gì
nên bả nói: Anh đừng có nghi tầm bậy, tầm bạ. Ba cái này bây giờ được mấy ổng
phổ biến khắp nơi. Tháng nào hội phụ nữ ở trên Phường cũng thông báo chị em phụ
nữ tới lãnh. Thu xếp để đi thăm nuôi anh, đọc trong thư anh viết anh là cá nhân
tiên tiến trong đội, vợ chồng được phép thăm nuôi 48 tiếng nên em mới nghĩ tới
mang theo mấy cái này.”
Lúc tuột quần ra, vợ tôi bả còn
rắn mắc:
“Anh đừng có ghen tuông kỳ cục.
Còn y nguyên đây nè. Anh khám coi nó có mòn miếng nào hôn?”
Anh ta lắc đầu:
“Anh biết, tôi chịu thua bà vợ
luôn. Bả bắt tôi xài hết sáu bao cao su bả mang theo trong hai đêm, mệt muốn bứt
gân luôn.”
Tôi ngạc nhiên nhìn người bạn
hiền lành, ít nói và chợt nhận ra khi một người được hạnh phúc, người đó muốn
chia xẻ với người khác.
*
Một hôm ở nhà bếp tôi gặp
Long, lao động tự giác của đội 6, chuyên phụ trách hái trà của phân trại, cũng
vừa được vợ thăm nuôi. Các tù nhân tự giác thuộc các đội buổi trưa đều được vào
trại để lấy phần ăn. Trong số các tù nhân tự giác, Long là người rất dễ thương.
Thỉnh thoảng anh ta vẫn dúi cho tôi gói trà “móc câu” nước trà xanh, uống vào đăng
đắng lúc đầu nhưng hậu vị rất ngọt. Ở trại cải tạo, sáng sớm hút điếu thuốc lào
ba số 8, chiêu một ngụm nước trà móc câu là một hạnh phúc tuyệt vời. Lâu lâu
anh ta lại dúi cho tôi một gói, nói theo bọn tù hình sự là mới “thửa” được.
Gặp tôi hôm đó, anh ta có vẻ
buồn. Tôi hỏi:
“Sao được vợ ra thăm nuôi mà
không được vui?”
Tôi thấy mặt anh ta sịu xuống,
giọng nói chán nản:
“Bể hết rồi, ông anh. Tan nát
hết rồi, ông anh!”
Tôi lấy phần cơm sắn của mình
và thức ăn được thăm nuôi ra mời Long cùng ăn chung với tôi ở căn phòng thay quần
áo của đội nhà bếp. Tôi im lặng nghe Long kể chuyện.
“Anh biết, cả nửa năm rồi, má
tôi có viết thư báo cho tôi biết là vợ tôi nó đã giao con cho má tôi đi lấy… cán
bộ rồi. Tôi cố không tin. Nhưng mà thơ của má tôi viết sờ sờ ra đó. Được phép
viết thơ cho gia đình ra thăm nuôi tôi cũng cứ viết đại. Người tôi chờ đợi ra
thăm là má tôi. Ai mà dè lại là con vợ tôi.”
Ngưng lại để nuốt mẩu sắn nhão
nhẹt, Long nói tiếp:
“Anh biết nó ra thăm nuôi tôi
với thằng cán bộ chồng mới của nó y như thơ của má tôi đã viết. Anh biết thiệt
hết sức ngỡ ngàng. Tôi lại được thăm nuôi bốn mươi tám tiếng. Anh biết, lúc con
vợ tôi nó giới thiệu với thằng cán bộ nón cối, tôi chết điếng trong lòng. Không
biết phải nói gì. Con vợ tôi nó nói nó ra đây thăm tôi lần cuối cùng, xin tôi
cho phép nó đi lấy chồng khác, vì không biết phải chờ tôi tới bao giờ. Mà nó thì
còn trẻ.”
Tôi nhận đồ thăm nuôi. Tôi nói
với nó tôi sẽ vào trại. Tôi sẽ ký giấy ưng thuận cho nó, từ giờ nó tự do muốn lấy
ai thì lấy. Vợ tôi nó yêu cầu thằng cán bộ ra ngoài để nó nói chuyện với tôi. Nó
yêu cầu được ăn nằm với tôi lần cuối cùng trước khi đi lấy chồng. Tôi vừa giận
mà lại vừa thương con vợ tôi. Sao nó lại đi bày cái chuyện oái oăm. Nó ôm tôi
khóc lóc thảm thiết. Tôi thì nghĩ bụng: nó đã muốn vậy thì cho vậy. Với lại đã
lâu mình cũng thèm khát. Trong hai đêm tôi trút tất cả những hờn giận, thương yêu
vào thân thể con vợ tôi, trong khi bên phòng bên kia thằng cán bộ cứ lăn qua,
trở lại vì không ngủ được. Bốn mươi tám tiếng rồi cũng hết. Vợ tôi và thằng cán
bộ ra về.”
Long chợt bật khóc:
“Anh biết, lúc đó tôi giận
con vợ tôi ghê lắm: tại sao nó lại đặt tôi và thằng cán bộ vào hoàn cảnh trái
ngang. Tôi làm tình với nó để trả thù nó. Để chọc tức thằng cán bộ. Giờ nó về rồi
tôi mới nghĩ lại mà thấy tội cho nó. Không biết rồi nó với thằng cán bộ sẽ sống
với nhau như thế nào. Thiếu gì đàn bà, con gái mà sao thằng cán bộ nó không lấy
mà lại nhè lấy vợ tôi? Bộ hết người rồi sao? Sao con vợ tôi nó lại bày ra cái cảnh
oái oăm?? Mà sao tôi lại đi chấp nhận cuộc chơi một cách kỳ cục?”
Long gạt nước mắt, nói tiếp với
giọng nói ráo hoảnh:
“Tôi không biết con vợ tôi nó
có được hạnh phúc không? Thằng cán bộ nó sẽ đối xử với vợ tôi như thế nào khi nó
đã hai đêm nằm trằn trọc ở phòng kế bên mà nó biết chắc chắn chúng tôi đang làm
chuyện vợ chồng ở phòng bên này.”
*
Câu chuyện của hai người bạn
tù được vợ thăm nuôi càng làm tôi âu lo về vợ tôi và cuộc sống gia đình. Đêm đêm
tôi trằn trọc nhìn những con chuột đói đuổi nhau trên mái nứa. Tôi lo sợ những
bất trắc, đã và đang, xảy đến cho gia đình tôi. Có phải vợ tôi, cũng như bao
nhiêu người đàn bà miền Nam
khác, là những cành đào trôi ngược trong cuộc đời giông bão hiện tại?
Những âu lo không có nhiều thời
gian trong trại cải tạo. Cái đối diện thường trực của những người tù là cái đói.
Là đợi chờ vô vọng một ngày về.
Cuối cùng rồi tôi cũng được
trở lại với đời sau khi đã trải qua những tầng địa ngục.
Tôi có cái may mắn là khi trở
về chẳng phải đứng trước ngôi nhà đổi chủ. Tôi cũng chẳng phải ngỡ ngàng khi bước
vào nhà thấy có nón cối bộ đội úp sẵn trên bàn, dép râu Bình Trị Thiên nằm dưới
sàn nhà, kế bên, con chó già không nhìn ra chủ cũ.
Khi tôi trở về nhà cửa vẫn như
xưa. Các con tôi đã lớn. Thằng con rất đẹp trai và có vẻ thông minh. Hai đứa
con gái đang ở vào lứa tuổi: Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi!
Tôi cám ơn Trời, Phật đã giúp
đỡ gia đình tôi. Tôi thầm hãnh diện là gia đình mình vẫn còn nguyên vẹn trong
khi biết bao gia đình khác đã tan nát vì hậu quả của chiến tranh.
Tiệc đoàn viên rất là ấm cúng.
Vợ tôi có già đi vì năm tháng nhưng tôi thấy nàng vẫn đẹp như xưa. Nàng, đối với
tôi, quả là một chinh phụ của thời đại mới. Nàng đã thay tôi: dạy con đèn sách
thiếp làm phụ thân.
Gia đình chúng tôi, đối với mọi
người, là một gia đình hoàn toàn hạnh phúc trong cái xã hội đã nhuốm độc dược cộng
sản.
*
Như những người tù cải tạo khác,
tôi được Hoa Kỳ nhận cho định cư trong Chiến Dịch Nhân Đạo.
Ngày từ giã quê hương, tôi muốn
hôn lên mặt đất thầm hẹn một ngày về khi đất nước không còn bị cai trị bởi một
chủ nghĩa bạo tàn.
Cửa thiên đường đang rộng mở.
Tôi đã thầm tính toán với số tiền truy lãnh, với ngôi nhà được chính phủ Mỹ cấp
phát, với số tiền 2.000 đô-la được Đức Giáo Hoàng cho ngay khi tới phi trường
Bangkok. Với ngần ấy thứ, tôi vẽ cho gia đình tôi một tương lai tươi sáng.
Tôi hân hoan bước lên phi cơ
nơi phi trường Tân Sơn Nhất ngày càng bệ rạc vì những chủ nhân ông mới. Những
chú công an, nhưng nhân viên quan thuế rất là dễ dãi với những Lưu, Nguyễn của
thời đại mới. Nhìn đâu cũng bắt gặp những nụ cười. Vợ tôi biếu chú công an gói
555, chú nhân viên quan thuế hộp xì gà, cô tiếp viên một thỏi son ngoại quốc.
Chuyến bay xa dần quê hương mà tôi đã buồn đau, sung sướng trong gần sáu mươi năm
trời, đáp xuống Thái Lan đất Phật nhưng lại là nơi xuất phát những tên hải tặc
gieo đau thương kinh hoàng cho người Việt Nam vượt biển trong mười mấy năm
qua. Hai ngàn đô-la của Đức Giáo Hoàng theo lời đồn đãi là một vỡ mộng ban đầu.
Rồi những chuyến bay kế tiếp đưa những Lưu, Nguyễn bất đắc dĩ đến thiên đường hạ
giới Hoa Kỳ. Căn nhà thuê mướn cho cả gia đình là vỡ mộng thứ hai. Và số tiền
truy lãnh cũng chỉ là những tin đồn.
Có điều mấy đứa con tôi đã lớn.
Chúng nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh của Xứ Cơ Hội.
Chúng tôi không may đến Mỹ vào
lúc nền kinh tế nước này đang trên đà xuống dốc. Tiền trợ cấp buổi ban đầu đã
giảm. Dù sao tôi vẫn còn có cái an ủi là được Tự Do và không còn lúc nào cũng
lo sợ sẽ bị đưa trở lại nhà tù như lúc còn ở Việt Nam.
Tôi rất đỗi đau long khi nghe
tin một người bạn tù, quen biết hồi cải tạo, vì sự tan vỡ của gia đình, đã treo
cổ tự tử. Tôi không bao giờ chọn giải pháp tiêu cực và bi thảm đó. Tôi đã không
chết ở những địa danh muỗi mòng đỉa vắt, mịt mù sương lam chướng khí, chẳng lẽ
tôi lại chết ở xứ đất tiền, đất bạc này?
Tôi quyết làm lại một cuộc đời
khác. Tôi không muốn sống mãi với những nỗi buồn đau. Tôi muốn các con tôi có một
tương lai. Và nhất là tôi muốn vợ tôi được hạnh phúc trong quãng đời còn lại; bởi,
nàng đã phải hy sinh quá nhiều. Bởi, nàng là một người vừa được phục sinh. Nàng
là một cành mai nhị độ.
Tôi muốn kể lại đây một lần
chuyện đau buồn của đời tôi mà cuộc chiến tranh dai dẳng giữa hai miền Nam, Bắc
đã gây ra…
Như đã biết, tôi là một tù
binh đã trải qua những tầng địa ngục từ Nam chí Bắc. Khi còn sống sót trở về,
gia đình vẫn còn nguyên vẹn chớ không phải chia lìa, tan nát như những gia đình
khác thì tôi có gì mà phải đau buồn. Sự thực thì không phải như vậy. Hạnh phúc
nào chẳng ẩn giấu những nỗi khổ đau. Đôi khi hạnh phúc của người này lại là bất
hạnh của kẻ khác. Và hạnh phúc không phải là sự vừa ý. Và người ta chỉ thực sự
hạnh phúc khi biết tha thứ.Xin đừng thắc mắc với những “triết lý ba xu” của tôi.
Xin hãy vui lòng nghe tôi kể
tiếp câu chuyện.
*
Đêm sum họp đầu tiên, sau bữa
cơm gia đình, những ly champagne làm tôi ngầy ngật. Tôi thấy vợ tôi vô cùng lộng
lẫy như đêm tân hôn mấy chục năm về trước. Các con tôi đã rút vào phòng. Tôi ôm
hôn vợ tôi và ngỏ ý muốn ân ái với nàng. Nhưng nàng lắc đầu từ chối với lý do là
nàng đang tới kỳ kinh nguyệt. Nàng lui vào phòng khép cửa lại.Tôi nằm trên bộ
sa-lông với cơn thèm muốn dục tình tràn ứ cơ thể. Có lẽ vì mệt mỏi, vì rượu sau
bao nhiêu năm mới được uống lại, tôi thiếp đi chẳng biết bao lâu. Khi thức giấc,
tôi thấy đèn trong phòng vợ tôi vẫn còn sáng. Cơn thèm muốn lại nổi lên. Tôi gõ
cửa. Câu trả lời chỉ là những tia sáng hắt ra từ những khe hở. Tôi nghe hình như
có tiếng khóc. Tôi xoay nắm cửa mới biết là cửa phòng đã khóa.
Tôi bực dọc trở lại chỗ nằm với
lòng ấm ức. Tôi cố dỗ giấc ngủ mà chẳng tài nào ngủ được. Trong cơn mê tỉnh chập
chờn, tôi bỗng nghe có tiếng ngã xuống của một chiếc ghế ở trong phòng của vợ tôi.
Tôi gõ mạnh cửa nhưng chẳng có tiếng trả lời của vợ tôi. Tôi tông mạnh cửa phòng
để kịp nhìn thấy vợ tôi nằm sóng soài trên nền gạch, trên tay còn nắm chặt những
tờ giấy. Ngọn đèn vẫn tỏa sáng. Mấy chai lọ nằm chỏng trơ bên cạnh nàng. Tôi hoảng
hốt la toáng lên. Các con tôi thức dậy. Tôi biết vợ tôi đã dùng thuốc ngủ để
quyên sinh. Tôi vội vàng đưa nàng đến bịnh viện. Tôi van xin bác sĩ, hãy cứu dùm
vợ tôi. Tôi đau xót nhìn nàng nằm im như một xác chết. Vị bác sĩ mới là đáng ghét
làm sao. Ông ta nói như một cái máy: “Ông hãy an tâm, chúng tôi sẽ cố gắng. Nhưng
mà bà nhà đã dùng quá nhiều thuốc ngủ nên tình trạng rất trầm trọng.” Tôi như kẻ
mất hồn. Tôi van vái Trời, Phật nếu có kẻ phải chết xin để tôi chết thế cho nàng
- người chinh phụ của thời đại mới đã thay chồng nuôi dạy con cái nên người.
*
Vợ tôi nằm im lìm như một xác
chết trong ba ngày đêm. Tôi đọc đi, đọc lại nhiều lần bức thư còn hoen những giọt
nước mắt của vợ tôi:
“Anh yêu và các con thương mến,
Khi anh đọc bức thư này cũng là lúc em lìa bỏ cõi đời.
Xin anh hãy tha thứ cho em về những việc làm nhơ nhớp chỉ vì em muốn có tiền để
nuôi sống các con và thăm nuôi anh. Ngay sau khi anh đi cải tạo một tháng theo
lệnh của Ủy Ban Quân Quản, em cảm thấy bơ vơ và lo sợ vô cùng. Từ khi vợ chồng
mình chung sống với nhau cả gia đình mình chỉ sống nhờ vào đồng lương của anh.
Rồi các con cái ra đời. Anh vất vả ngược xuôi lo cho mẹ con em. Nhờ chắt chiu
dành dụm mà gia đình mình không đến nỗi túng thiếu. Khi những người thắng trận
tràn vào thành phố, không có anh em không biết xoay sở cách nào. Em đã cố gắng
bắt chước các chị em khác đi buôn bán để kiếm sống qua ngày. Nhưng anh biết em
đâu có nói dối được với khách hàng. Lại không biết cách bắt mối với tài xế, lơ
xe để dấu hàng khi qua các trạm thuế vụ. Do đó, sau vài chuyến đi buôn em đã
cụt vốn, đành phải bán lần hồi những gì mà vợ chồng mình đã mua sắm để mà sống
qua ngày. Chiếc xe Honda anh vẫn dùng để làm phương tiện tới sở làm mỗi ngày
được bán để mua sắm trong lần thăm nuôi anh ở trại Suối Máu, là vật đáng giá
sau cùng. Khi nhận được thư anh gửi từ miền Bắc là lúc gia đình chẳng còn gì để
bán. Lúc đó cũng là lúc thằng con vừa được trở về nhà với chứng bệnh sốt rét
sau hai năm đi thanh niên xung phong. Vừa đọc thư anh liệt kê những món cần
thiết, vừa nhìn những đứa con ốm yếu xanh xao, cùng âu lo với mẹ mà lòng em
quặn thắt. Có lúc em định bán cái nhà để đi thăm nuôi anh nhưng sợ bán đi rồi
thì mấy mẹ con sẽ ở đâu. Thế nên em đã làm một chuyện vô cùng dại dột là đã
“ngủ với kẻ thù” để có tiền chữa bệnh cho con và đi thăm nuôi anh. Ngày ngày em
trang điểm thật đẹp, em hẹn bán thân xác cho những kẻ thù có chức, có quyền (và
dĩ nhiên là phải có tiền). Em đã qua tay hết người này đến người khác, sau ba
năm cầm đồ bán đạc. Những năm sau đó, cái em mang đi bán là cái trinh tiết,
danh giá của một người đàn bà đã có chồng. Em không muốn các con không được đi
học. Em muốn khi lớn lên chúng được đầy đủ kiến thức như ngày xưa chúng ta đã
bàn tính với nhau. Em không muốn anh phải âu lo, thiếu thốn ở những trại giết
người của những kẻ thắng trận. Em đã làm-đàn-bà-để-sống với ước muốn duy nhất
là được gặp lại mặt anh để giao lại các con cho anh. Nhơ nhuốc này chẳng làm
sao mà rửa sạch chỉ trừ cái chết. Em từ chối ăn nằm với anh vì em nghĩ rằng em
không còn xứng đáng với anh. Các con không biết được những việc làm nhơ nhuốc của
mẹ nó. Em đã qua mặt được mọi người lối xóm. Ai cũng khen em là người đàn bà
đảm đang vì em đã khéo léo che đậy những việc làm nhơ nhớp của mình. Em không
muốn lừa dối anh. Em xin lấy cái chết để tạ tội cùng anh - người chồng mà em
suốt đời yêu thương và kính trọng. Anh hãy đốt lá thư này sau khi đọc xong. Em
không muốn tâm hồn các con bị vẩn đục vì có một người mẹ không xứng đáng. Xin
anh hãy chiều em một lần cuối cùng - như từ bấy lâu nay anh vẫn chiều em.
Vĩnh biệt anh.
Người vợ tội lỗi của anh.”
Tôi hoa mắt lên. Tôi đọc đi, đọc
lại bức thư nhiều lần. Thì ra những điều lo sợ của tôi lúc còn ở trong trại cải
tạo là sự thật. Những giòng chữ như nhẩy múa trước mặt tôi.
Tôi đã chạy như bay đến bệnh
viện khi được thằng con trai báo tin là vợ tôi đã được cứu sống. Tôi lao vào căn
phòng có vợ tôi đang nằm im lìm, thoi thóp. Tôi kịp giữ nàng lại lúc nàng cố gắng
lấy sức tàn để đập đầu vào tường tự sát một lần nữa. Tôi ôm nàng và khóc như chưa
bao giờ được khóc. Tôi van xin nàng hãy vì tôi, vì các con mà sống.
Tôi quỳ xuống lạy nàng ba lạy
và nói với nàng:
“Đã chẳng phải em đã chết ba
ngày, ba đêm rồi đó sao. Em bây giờ đã là một người khác.”
Tôi nói miên man những ý nghĩ
rất thực của mình:
“Em không có lỗi gì với anh cả.
Tất cả chỉ là cái hoàn cảnh trái ngang mà chúng ta phải gánh chịu. Bằng cái chết
em đã sống lại trong anh, em lại càng cao quý hơn trong anh; bởi, em đã sống thực
với em.”
Chúng tôi ôm nhau. Và khóc.
*
Mùa Xuân năm đầu tiên ở xứ lạ,
tôi viết tặng “cành mai nhị độ” của tôi hai câu lục bát:
“Sau lần vấp ngã đứng lên
Cảm ơn nhau: vẫn đi bên cuộc đời.
Môi buồn lại nở nụ cười
Mắt hoen ố lệ lại ngời tin yêu.”
với tin tưởng rằng mùa Đông
buốt giá rồi sẽ qua đi, để từ đó, bắt đầu một mùa Xuân nắng ấm.
NGUYỄN THIẾU NHẪN
(Trích trong Người Đàn
Bà Mang Thai Trên Biển Đông, tuyển tập Nguyễn Thiếu Nhẫn, do tuần báo Tiếng Dân
&Văn Bút VNHN/Vùng Tây Bắc Hoa Kỳ tái bản lần thứ 2).
Source Internet.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.