Những ngày còn nhỏ, tôi bị ám ảnh bởi câu hỏi tự mình đặt ra “Tại sao
chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào
khác?”
Tôi lớn lên ở Đà Nẵng. Đường phố quê hương tôi trong khoảng thời gian
từ 1968 đến 1972 có rất nhiều lính Mỹ. Những chiến tàu nhập cảng Tiên
Sa chở đầy chiến xa và súng đạn mang nhãn “Made in USA”. Những đoàn xe
vận tải hiệu Sealand, RMK gần như chạy suốt ngày đêm từ nơi dỡ hàng
ngoài bờ biển đến các kho quân sự chung quanh Đà Nẵng. Tiếng gầm thét
của các phi cơ chiến đấu có đôi cánh gắn đầy bom, lát nữa, sẽ được ném
xuống một nơi nào đó trên mảnh đất Việt Nam. Những câu lạc bộ, được gọi
là “hộp đêm”, mọc đầy hai bên bờ sông Hàn. Mỹ đen, Mỹ trắng chở hàng
quân tiếp vụ đi bán dọc chợ Cồn, chợ Vườn Hoa.
Phía trước tòa thị chính Đà Nẵng, trước rạp hát Trưng Vương hay trong
sân vận động Chi Lăng, gần như tháng nào cũng có trưng bày chiến lợi
phẩm tịch thu từ các cuộc hành quân. Những khẩu thượng liên có nòng
súng cao, những khẩu pháo nòng dài, rất nhiều AK 47, B40, súng phóng
lựu đạn và hàng khối đạn đồng vàng rực. Sau “Mùa hè đỏ lửa” trong số
chiến lợi phẩm còn có một chiếc xe tăng T54 được trưng bày rất lâu
trước tòa thị chính. Không cần phải giỏi ngoại ngữ, chỉ nhìn nhãn hiệu
tôi cũng biết ngay chúng là hàng của Trung Quốc và Liên Xô.
Nhìn viên đạn của Nga và Tàu, tôi nghĩ đến trái tim của người lính trẻ
miền Nam, giống như khi nhìn chiếc chiến đấu cơ của Mỹ cất cánh tôi
chợt nghĩ đến các anh lính từ miền Bắc xấu số đang di chuyển bên kia
sông Thu Bồn. Vũ khí là của các đế quốc. Không có khẩu súng nào chế tạo
ở miền Nam hay miền Bắc. Các bà mẹ Việt Nam chỉ chế tạo được những đứa
con và đóng góp phần xương máu.
Vũ khí của các đế quốc trông khác nhau nhưng nạn nhân của chúng dù bên
này hay bên kia lại rất giống nhau. Nếu tháo đi chiếc nón sắt, chiếc mũ
vải xanh, hai người thanh niên có mái tóc đen, vầng trán hẹp, đôi mắt
buồn hiu vì nhớ mẹ, nhớ em chẳng khác gì nhau. Dù “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” hay “mặt hồ Gươm vẫn lung linh mây trời” cũng là quê hương Việt Nam và nỗi nhớ trong tâm hồn người con trai Việt ở đâu cũng đậm đà tha thiết.
Người lính miền Nam chết vì phải bảo vệ chiếc cầu, căn nhà, xóm làng,
góc phố thân yêu của họ. Nếu ai làm một thống kê để hỏi những lính miền
Nam còn sống hôm nay, tôi tin không ai trả lời muốn “ăn gan uống máu
quân thù” miền Bắc. Họ chỉ muốn sống yên ổn trong hòa bình để xây đắp
lại mảnh đất họ đã “xin chọn nơi này làm quê hương” sau khi trải qua
quá nhiều đau thương tang tóc. Họ phải chiến đấu và hy sinh trong một
cuộc chiến tự vệ mà họ không chọn lựa.
Dân chủ không phải là lô độc đắc rơi vào trong túi của người dân miền
Nam mà phải trải bằng một giá rất đắc. Tham nhũng, lạm quyền, ám sát,
đảo chánh diễn ra trong nhiều năm sau 1960. Có một dạo, tấm hình của vị
“nguyên thủ quốc gia” chưa đem ra khỏi nhà in đất nước đã có một
“nguyên thủ quốc gia” khác. Nhưng đó là chuyện của chính quyền và nhân
dân miền Nam không dính líu gì đến đảng Cộng Sản miền Bắc.
Dân chủ ở miền Nam không phải là sản phẩm của Mỹ được đóng thùng từ
Washington DC gởi qua nhưng là hạt giống do Phan Chu Trinh, Bùi Quang
Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và rất nhiều
nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng nửa thế kỷ trước đã mọc và
lớn lên trong mưa bão. Không chỉ miền Nam Việt Nam mà ở đâu cũng vậy.
Nam Hàn, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Phi Luật Tân và nhiều quốc gia khác, dân
chủ đã phải trải qua con đường máu nhuộm trước khi đơm bông kết trái.
Khác với người lính miền Nam, người lính miền Bắc chết vì viên thuốc
độc bọc đường “thống nhất đất nước”. Bác sĩ Đặng Thùy Trâm bị giết ở
Quảng Ngãi đã uống viên thuốc đó. Anh Nguyễn Văn Thạc, tác giả của hồi
ký “Mãi mãi tuổi hai mươi”
bị giết ở Quảng Trị đã uống viên thuốc đó. Cô bé Trần Thị Hường 17 tuổi
và chín cô gái ở Ngã Ba Đồng Lộc bị bom Mỹ rơi trúng ngay hầm đã uống
viên thuốc đó. Họ không biết đó là thuốc độc. Không biết thì không đáng
trách. Nhà văn Dương Thu Hương trải qua một thời thanh niên xung phong
nhưng chị may mắn còn sống để nhắc cho các thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay
biết “chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người.”
Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào khác?
Thật không công bằng cho đảng nếu tôi chỉ dùng tài liệu trong các thư
viện ở Mỹ để chứng minh âm mưu xích hóa Việt Nam của đảng. Tôi sẽ trích
những câu do đảng viết ra. Theo quan điểm lịch sử của đảng CSVN chiến tranh đã xảy ra bởi vì “Ở
miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa
kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.”
Không ai hình dung “thuộc địa kiểu mới” hình dáng ra sao và đảng cũng chưa bao giờ giải thích một cách rõ ràng.
Sau Thế chiến thứ hai, hàng loạt quốc gia trong đó có những nước vốn
từng là đế quốc, đã nằm trong vòng ảnh hưởng kinh tế và cả chính trị
của Mỹ. Chẳng lẽ 18 nước châu Âu bao gồm Tây Đức, Áo, Bỉ, Pháp, Ý, Anh,
Hòa Lan v.v... trong kế hoạch Marshall chia nhau hàng trăm tỉ đô la của
Mỹ để tái thiết đất nước sau thế chiến thứ hai đều trở thành những
“thuộc địa mới” của Mỹ hay sao? Chẳng lẽ các nước Á châu như Nam Hàn,
Nhật Bản, Đài Loan được viện trợ không những tiền của mà còn bằng cả
sức người để xây dựng lại đất nước họ là “thuộc địa mới” của Mỹ hay
sao?
Chuyện trở thành một “căn cứ quân sự” của Mỹ lại càng khó hơn.
Chính sách vô cùng khôn khéo của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dùng Đệ Lục Hạm
Đội Mỹ làm hàng rào bảo vệ đất nước Thổ ngăn chặn làn sóng đỏ Liên Xô
xâm lược là một bài học cho các lãnh đạo quốc gia biết mở mắt nhìn xa.
Mặc dù là một nước trung lập trong thế chiến thứ hai, để lấy lòng Mỹ,
lãnh đạo Thổ đã tình nguyện gởi 5500 quân tham chiến bên cạnh Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên.
Quân đội Thổ chiến đấu anh dũng nhưng cũng chịu đựng tổn thất rất nặng
nề. Một nửa lực lượng Thổ đã chết và bị thương trong ba năm chiến
tranh. Ngày 18 tháng 2 năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ chính thức trở thành hội viên của NATO và hùng mạnh đến ngày nay.
Nhật Bản là một ví dụ khác. Trong cuốn phim tài liệu Thế Giới Thiếu Mỹ
(The World Without US) đạo diễn Mitch Anderson trích lời phát biểu của Thủ tướng Nhật Yasuhiro Nakasone “Nếu
Mỹ rút khỏi Nhật Bản, chúng tôi phải dành suốt mười năm tới chỉ để lo
tái võ trang trong nhiều mặt, kể cả sản xuất võ khí nguyên tử”. Một
quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới với Tổng Sản Lượng Nội
Địa năm 2011 lên đến 5855 tỉ đô la nhưng dành vỏn vẹn một phần trăm cho
ngân sách quốc phòng chỉ vì Nhật dựa vào khả năng quốc phòng của Mỹ và
sự có mặt của 35 ngàn quân Mỹ. Khác với chủ trương “đánh cho Mỹ cút
ngụy nhào” của Hồ Chí Minh, trong một thống kê mới đây, 73 phần trăm công dân Nhật biết ơn quân đội Mỹ bảo vệ họ.
Đứng trước một miền Bắc điêu tàn sau mấy trăm năm nội chiến và thực dân
áp bức, một giới lãnh đạo nếu thật tâm thương yêu dân tộc trước hết
phải nghĩ đến việc vá lại những tang thương đổ vỡ, đưa đất nước ra khỏi
cảnh đói nghèo, lạc hậu. Ngay cả thống nhất là một ước mơ chung và có
thật đi nữa cũng cần thời gian và điều kiện. Con người trước hết phải
sống, phải có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, học hành trước khi nghĩ đến chuyện
đoàn tụ với đồng bào và bà con thân thuộc.
Ngoại trừ các lãnh đạo Cộng Sản, trên thế giới chưa có một giới lãnh
đạo thể hiện lòng yêu nước bằng cách giết đi một phần mười dân số, đốt
cháy đi một nửa giang sơn của tổ tiên để lại, dâng hiến hải đảo chiến
lược cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mà gọi đó là “thống nhất đất
nước” và “hòa hợp dân tộc”.
Cũng trong tài liệu chính thức của đảng, ngay cả trước khi ký hiệp định
Geneve và khi Việt Nam chưa có một dấu chân người lính Mỹ nào, hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng CSVN đã nghĩ đến chuyện đánh Mỹ “Hiện
nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở
thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi
việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ".
Vào thời điểm trước 1954, dân tộc Việt Nam thật sự có một mối thù không
đội trời chung với Mỹ sâu đến thế sao hay giới lãnh đạo CSVN chỉ vẽ
hình ảnh một “đế quốc Mỹ thâm độc đầu sỏ” như một lý do để chiếm toàn
bộ Việt Nam bằng võ lực, và cùng lúc để phụ họa theo quan điểm chống Mỹ
điên cuồng của chủ nô Mao Trạch Đông sau cuộc chiến Triều Tiên?
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau gần một thế kỷ với bao nhiều tổn thất máu
xương, tù ngục, mục tiêu Cộng Sản hóa Việt Nam của đảng cuối cùng đã
đạt được. Lê Duẩn, trong diễn văn mừng chiến thắng vài hôm sau đó đã
nói “vinh quang này thuộc về đảng Lao Động Việt Nam quang vinh, người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Lời phát biểu của họ Lê nhất quán với nghị quyết của đại hội Đảng Cộng
sản Đông Dương do Trần Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm, ghi rõ: "Vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách
mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm
thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và sau đó
chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.”
Mới đây, Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN, trong chuyến viếng thăm Cu Ba, cũng lần nữa khẳng định “Ngay
khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý
tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội
là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam....
Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội
hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng
hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn
tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước
Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác –
Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Nhiều người cho rằng Nguyễn Phú Trọng nói những câu lạc hậu, lỗi thời
mà không biết mắc cỡ. Tôi tin y nói một cách chân thành và hãnh diện.
Nhờ tài lãnh đạo mà đảng CSVN đã tồn tại dù cả một hệ thống xã hội chủ
nghĩa lớn mạnh như Liên Xô đã phải sụp đổ.
Đối diện với thời đại toàn cầu hóa, nội chung chủ nghĩa Mác về mặt kinh
tế đã phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu tồn tại của đảng nhưng cơ chế
nhà nước toàn trị sắc máu theo kiểu Lê Nin, Stalin chẳng những được duy
trì mà còn củng cố chặt chẽ và nâng cấp kỹ thuật cao hơn. Dù ngoài
miệng có hát bài hòa hợp hòa giải thắm đượm tình dân tộc, bên trong,
các chính sách của Đảng vẫn luôn kiên trì với mục tiêu toàn trị và bất
cứ ai đi ngược với mục tiêu đó đều bị triệt tiêu một cách tàn nhẫn.
Dưới chế độ Cộng Sản, không những người dân bị ràng buộc vào bộ máy mà
cả các lãnh đạo cũng sinh hoạt trong khuôn khổ tổ chức và nghiêm chỉnh
thực thi các nguyên tắc lãnh đạo độc tài sắc máu do đảng của họ đề ra.
Điều đó giải thích lý do giọng điệu của những cựu lãnh đạo Cộng Sản như
Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn An, Nguyễn Khoa Điềm sau khi rời chức vụ giống
như những người vừa được giải phẫu thanh quản, nói dễ nghe hơn nhiều so
với thời còn trong bộ máy cầm quyền. Họ không phải là những người
“buông dao thành Phật” nhưng chỉ vì họ đã trở về với vị trí một con
người bình thường, ít bị ràng buộc trong cách ăn cách nói, cách hành
xử, cách khen thưởng và trừng phạt như khi còn tại chức.
Giới lãnh đạo Cộng Sản được trui rèn trong tranh đấu, được huấn luyện
chính trị từ cấp đội, cấp đoàn trước khi giữ các vị trí then chốt trong
đảng và nhà nước CS. Họ nắm vững tâm lý và vận dụng một cách khéo léo
tâm lý quần chúng để phục vụ cho các chính sách của đảng trong từng
thời kỳ. Sau biến cố Thiên An Môn, để đánh lạc hướng cuộc đấu tranh đòi
dân chủ của thanh niên sinh viên, nhà cầm quyền Cộng Sản Trung Quốc
khai thác lòng căm thù chính sách quân phiệt của Nhật đã xảy ra từ thế
kỷ trước. Lợi dụng việc Bộ Giáo dục Nhật bản liệt kê biến cố tàn sát
Nam Kinh như một tai nạn trong sách giáo khoa, nhà cầm quyền Trung Quốc
đã khuyến khích hàng chục ngàn thanh niên sinh viên Trung Quốc biểu
tình suốt 3 tuần lễ trước tòa đại sứ Nhật. Việt Nam cũng thế. Trong
chiến tranh biên giới 1979, các lãnh đạo CSVN đã lần nữa sử dụng thành
công viên thuốc độc bọc đường “bảo vệ tổ quốc”. Máu của hàng vạn thanh
niên Việt Nam đổ xuống dọc biên giới Việt Trung phát xuất từ tình yêu
quê hương trong sáng và đáng được tôn vinh, tuy nhiên, nếu dừng lại một
phút để hỏi, họ thật sự chết vì tổ quốc hay chỉ để trả nợ xương máu
giùm cho đảng CSVN?
Với tất cả thông tin được phơi bày, tài liệu được giải mật cho thấy,
cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” mà giới lãnh đạo CSVN đưa ra thực chất
chỉ là cái cớ. Không có một người lính Mỹ nào đến Việt Nam, đảng vẫn
cộng sản hóa miền Nam cho bằng được. Bộ máy tuyên truyền tinh vi của
đảng thừa khả năng để nghĩ ra hàng trăm lý do khác để đánh miền Nam.
Đảng CSVN là nguyên nhân khiến cho nhiều triệu người Việt vô tội ở hai
miền đã phải chết một cách oan uổng, bao nhiêu thế hệ bị suy vong, bao
nhiêu tài nguyên bị tàn phá và quan trọng nhất, chiếc còng Trung Quốc
mà đảng thông đồng để đeo trên cổ dân tộc Việt Nam mỗi ngày ăn sâu vào
da thịt nhưng không biết làm sao tháo gỡ xuống đây.
Nói theo cách viết của nhạc sĩ Việt Khang “Việt Nam ơi thời gian quá nửa đời, và ta đã tỏ tường rồi”, chiến tranh xảy ra tại Việt Nam mà không ở đâu khác chỉ vì Việt Nam có đảng Cộng Sản.
Ngoại trừ các em, các cháu bị nhào nặn trong nền giáo dục ngu dân một
chiều chưa có dịp tiếp xúc với các nguồn thông tin khách quan khoa học,
nếu hôm nay, những người có học, biết nhận thức mà còn nghĩ rằng cuộc
chiến kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 là cuộc chiến “chống Mỹ cứu
nước”, những kẻ đó hoặc bị tẩy não hoàn toàn hoặc biết mình sai nhưng
tự dối lòng để tiếp tục sống cho hết một kiếp người.
Cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ đất nước hiện nay, do đó, còn rất khó
khăn, đôi gánh non sông còn rất nặng và hành trình tự do còn khá xa
xôi.
Sau 37 năm, “hàng triệu người buồn” như ông Võ Văn Kiệt nói, nếu chưa qua đời, hôm nay vẫn còn buồn.
Nhưng người buồn không phải chỉ từ phía những người lính Việt Nam Cộng
Hòa bị buộc buông súng, từ phía nhân dân miền Nam bị mất tự do mà còn
là những người miền Bắc, cả những người trong đảng CS đã biết ra sự
thật, biết mình bị lừa gạt, biết mình đã dâng hiến cả một cuộc đời trai
trẻ cho một chủ nghĩa độc tài, ngoại lai, vong bản.
Gần mười năm trước tôi kết luận bài viết về ngày 30 tháng 4 bằng ba
phân đoạn dưới đây và năm nay, tôi kết luận một lần nữa cũng bằng những
dòng chữ đó để chứng minh một điều, tuổi trẻ của tôi có thể qua đi
nhưng niềm tin vào tuổi trẻ trong tôi vẫn còn nguyên vẹn.
Như lịch sử đã chứng minh, chính nghĩa bao giờ cũng thắng. Không có vũ
khí nào mạnh hơn sức mạnh đoàn kết dân tộc. Chỉ có sức mạnh Đoàn Kết
Dân Tộc, chúng ta mới có khả năng bảo vệ được chủ quyền và lãnh thổ
Việt Nam, chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng
vượt lên những hệ lụy quá khứ để hướng vào tương lai tươi sáng cho đời
đời con cháu mai sau và chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới
có khả năng phục hồi sự kính trọng Việt Nam trong lân quốc cũng như
trong bang giao quốc tế.
Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ý nghĩa mà chúng ta đã biết, còn là ngày
để mỗi chúng ta nhìn lại chính mình, ngày để mỗi chúng ta tự hỏi mình
đã làm gì cho đất nước, và đang đứng đâu trong cuộc vận hành của lịch
sử hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn cảnh sống khác nhau, quá khứ
khác nhau, tôn giáo khác nhau và mang trên thân thể những thương tích
khác nhau, nhưng chỉ có một đất nước để cùng lo gánh vác. Đất nước phải
vượt qua những hố thẳm đói nghèo lạc hậu và đi lên cùng nhân loại.
Không ai có quyền bắt đất nước phải đau nỗi đau của mình hay bắt đất
nước phải đi ngược chiều kim lịch sử như mình đang đi lùi dần vào quá
khứ. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam không nằm trong tay thiểu số lãnh
đạo CSVN. Tương lai dân tộc không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN.
Sinh mệnh dân tộc Việt Nam do chính nhân dân Việt Nam quyết định. Và do
đó, con đường để đến một điểm hẹn lịch sử huy hoàng cho con cháu, chính
là con đường dân tộc và không có một con đường nào khác.
Ba mươi bảy năm là một quảng đường dài. Chúng ta đã hơn một lần trễ hẹn
với non sông, nhưng không phải vì thế mà không còn cơ hội. Cơ hội vẫn
còn đó nếu chúng ta biết đoàn kết, thấy được hướng đi chung của dân tộc
và thời đại. Chúng ta có nhiều quá khứ nhưng đất nước chỉ có một tương
lai, đó là tương lai tự do, dân chủ, nhân bản và khai phóng cho những
ai, sau những điêu tàn đổ vở, còn biết nhận ra nhau, còn biết yêu
thương mảnh đất thiêng liêng, vinh quang và thống khổ Việt Nam.
Source http://danlambaovn.blogspot.com.au/2012/04/cau-hoi-thang-tu.html
Cuộc chiến tranh thật vô nghĩa, tất cả chỉ là mục đích chính trị.
Trả lờiXóaCảnh cửa địa ngục đang mở chờ Trung Quốc
Tin tức nóng hổi
‘Vụ Thủ Thiêm không thể dàn xếp được nữa’
Đại biểu quốc hội mà không hiểu luật