Thứ Sáu, 10 tháng 4, 2015

Luận Về “Ý TRỜI”


 
                                                                            Trần Xuân Thời
Chúng ta thường đinh ninh rằng mọi việc ở đời đều do Đấng Thiêng liêng quan phòng. Nhưng quan phòng không có nghĩa là định đoạt. Quan phòng hiểu theo nghĩa quan sát, nhận định, hướng dẫn, chứ không hiểu theo nghĩa quyết định, vì Tạo hóa đã cho chúng ta lý trí để suy xét và tự do để hành động. Chỉ khi nào con người có tự do hành động mới chịu trách nhiệm về hành động cuả mình. “God willed man to be left in his own counsel” Sir14:15.
Con người hữu lý khi tin rằng “Hoàng thiên bất phụ hão nhân tâm” (Trời không phụ người hiền đức) hay phúc họa ở đời do phản dưởg có điều kiện (conditioned) tuỳ thái độ của con người  “Vi thiện giả, Thiên báo chi dĩ phúc, vi bất thiện giả, Thiên baó chi dĩ hoạ” ( Ai làm lành thì Trời báo phúc cho, ai làm điều chẳng lành thì Trời lấy họa mà báo cho ) và nhất là “ Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử giã” ( Không biết mệnh Trời thì không phải la người quân tử).
 
Ý niệm về “Ý Trời” là ý niệm chung của nhân gian được hiểu qua nhiều ý nghĩa khác nhau tùy theo tín ngưởng. Chúng ta thử xét qua các ý nghĩa thông thường bàn bạc trong triết lý nhân gian.
Người ta thường nói:
“Sinh tử hữu mệnh, phú qúy tại Thỉên”
hay
“Sống chết bởi tại trời, giầu nghèo là cáỉ số. Dẫu ai ruộng sâu, trâu nái, đụn luá, kho tiền, cũng bất quá thủ tài chi lỗ”. Của cải thế gian là những vật hư nát nên những kẻ vi phú thường bất nhân không lo phân linh hồn thì cũng như những tên mọi giữ của !
Nếu tin hoàn toàn vào số mạng thì chúng ta đã tin vào thuyết định mệnh (determinism). Một khi tin vào số mệnh thì con người có thể có thái độ tiêu cực buông thả, không cố gắng, nhưng không tự trách mình mà phó thác cho số mệnh:
“Cũng liều nhắm mất đưa chân,
Thử xem con tạo xoay vẫn đến đâu.”
Tại sao con người tin vào số mệnh? Có lẻ khi con người được tạo dựng nên ở thế trần cảm thấy mình qúa yếu đuối trước những mãnh lực thiên nhiên, tai ương khốn khó như bão tố, động đất, hạn hán, lụt lội, bệnh tật, thú dữ… đối với con người cổ sơ đó là những thiên tai trời định.
Từ những sự bất lực đó, con người đã tìm giải đáp và cũng là nguồn an ủi là tin vào thần linh. Thần linh có rất nhiều loại như thần hiền, thần dữ, thủy thần, hà bá, sơn thần, thổ thần.... và con người thờ nhiều vị thần khác nhau tạo nên tình trạng đa thần (polytheism) trong đạo giáo nhân gian.
Người Trung Hoa có tục ném thiếu nữ xuống sông tế thần Hà Bá, để thần hà bá vui lòng, bớt giận, khỏi gây thủy tai, lụt lội mỗi khi sông Hoàng Hà hay sông Dương Tử ngập lụt. “Hà bá lấy vợ”.  Biết bao thiếu nữ chết oan vì sự sùng bái mê tín dị đoan này. Người Việt có truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh để giải thích nạn lụt lội hàng năm ở sông Nhị Hà.
Ngoài tín niệm chung của nhân gian, có những tín niệm có hệ thống như các hệ thống tín lý của Khổng Học, Phật Học, Lảo Học. Trừ các tăng sĩ, nho sĩ, trí thức; đa số người bình dân Việt pha trộn cả ba học thuyết vào với nhau, hữu sự vái tứ phương,  trong cuộc sống hàng ngày như: “Lạy Trời, lạy Phật, lạy Thiên Tiên Thánh Giáo, lạy Ông Bà, Cha Mẹ.... ban cho con được tai qua nạn khỏi.” Nhất là những lúc gặp khốn khó thập tử nhất sinh.
Khổng học là một triết thuyết về cách xử thế dựa trên nhân, lễ, nghĩa, trí, tín... Khổng học tin vào Mệnh Trờii (God’s Mandate). Trời trong tâm trí người bình dân là Ngọc Hoàng, là Thượng Đế. “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”. Thuận Thiên thì sống nghịch Thiên thì chết.
Sống theo mệnh trời là sống có trung, hiếu, tiết, nghĩa nhằm hướng đến cái chí thiện ở đời. Từ triết thuyết và luân lý làm người tốt và hữu dụng, triết lý giáo dục theo quan niệm của Nho học cốt đào tạo con người trở nên chí thiện “Đại học chi dạo, tại minh minh đức,.tạ thân dân. tại chi ư chí thiện.”, chứ không chỉ  học lục nghệ để mưu sinh.  
Khổng học còn một triết thuyết về phương pháp trị quốc an dân. Chương trình giáo dục của Trung Hoa và Việt Nam suốt mấy ngàn năm văn hiến đều lấy Khổng học làm căn bản như dùng Tứ Thư, Ngũ Kinh làm sách giáo khoa cho sĩ tử. Văn võ bá quan trong các triều đại đều là những người xuất thân tu cửa Khổng, sân Trình, lấy Khổng học làm phương châm hướng dẫn hành động.
Ngưòi bình dân không cần đào sâu ý nghĩa của Thượng Đế trong Khổng học, thường chỉ tin vào Thượng Đế là đấng thiêng liêng, tạo nên vũ trụ, trên tất cả mọi loài thể hiện qua lời cầu khẩn: “Lạy Trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống. Lấy ruộng tôi cầy. Lẩy khúc cá to”.
Phật học, không giải thích số mệnh là do Trời, mà nhấn mạnh vào ý niệm “Nghiệp Chướng” (Karma). Karma, hay nghiệp chướng, là một ý niệm đã có từ hàng ngàn năm trong giáo thuyết của Ấn Độ Giáo (Hinduism) trước khi Đức Phật ra đời. Ấn Độ giáo tin vào thuyết, luân hồi, nghiệp chướng  và nhiều vị thần thánh khác nhau mà thần Siva là vị thần có nhiều quyền lực nhất.
Sau Đại Hội Phật Học kỳ thứ II: ở Ấn Độ thì Phật học chia làm hai môn phái Tiểu Thừa (Hyuayana) và Đại Thừa (Mahayana).
Môn phái Tiểu Thừa khai triển mạnh ở Ấn Độ, Tích Lan.  Môn phái Đại Thừa (Mahayana) của Phật học không phát triển mạnh ở Ấn Độ mà phát triển qua Trung Hoa, Việt Nam…..
Theo thuyết “Nghiệp chướng” thì mọi việc xảy ra ở đời này đều do kiếp trước truyền lại, nói khác đi là do tiền định. Con người vốn sinh ra và lẩn quẩn trong vòng tử sinh, sinh tử. Chết đi rồi lại đầu thai vào người khác hoặc sinh vật khác gọi là luân hồi (rebirth hay reincarnation). Nếu kiếp này sống ác đức, tội lỗi, thì khi chết có thề hoá thân ra con ruồi, con muỗi, con trâu, con bò.... để làm thân trâu ngựa, cho đến khi được giải nghiệp, mới chấm dứt kiếp luân hồi. Có lẽ vì hoá kiếp như vậy cho nên chúng ta không biết loài thú là hiện thân của những linh hồn tội lỗi nào đó. Như vậy trong sinh vật có linh hồn vì thế không được sát sinh.
Nói khác đi, những gì mình chịu đựng hôm nay là do hậu qủa của tiền kiếp (pre life), nghiệp báo. Ví dụ có người tin, sở dĩ chúng ta tha hương là vì nghiệp báo, ông bà chúng ta đã chiếm đất Chàm, đất Chân Lạp, giết hại biết bao dân lành nay bị nghiệp báo... Nghiệp báo cũng là một loại định mệnh do kiếp trước ăn ở thất đức để lại. Do đó nhân sinh phải tím cách giải nhiệp.
Phần tích cực của thuyết Nghiệp báo là dù “Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa” nhưng mà nếu có “thiện tậm”, tu tâm, tích đức, ăn hiền ở lành để tạo lập công đức có thể đạt đến trạng thái giải nghiệp (mosha). Nghĩa là thoát ra khỏi vòng luân hồi nghiệp chướng vào cõi vô vi, niết bàn... hay cõi Tây Phương cực lạc... Khi đó “Buổi sáng, sau khi thức giấc, có thể chu du ba ngàn đại thiên thế giới mà còn đủ thì giờ trở về ăn sáng.”
 
Phương pháp hay nhất là tu tiên, đến chốn cùng cốc thâm sơn để tu luyện, như Đức Phật đã bỏ gia đình, vợ con, cha mẹ đế nghiệp của tiểu quốc Ca Tì La Vệ để lên núi tu luyện theo như sấm truyền “Đức Phật sinh ra có 32 tướng tốt. Nểu làm vua thì được vị, nếu xuất gia tu hành thì sẻ thành Phật.”
Phật có nghĩa là người đắc đạo, thoát khỏi tục lụy xích xiềng của thế trần và nhất là thoát vòng nghiệp chướng (mosha) và hiện nay đã có hàng hà sa số chư vị Phật ngao du trên ba ngàn đại thiên thế giới.
 
Giải thích về sự hiện hữu của vũ trụ và con người, Phật học cho rằng vũ trụ và con người tự không mà có (The universe is from nothing). Bàn về thánh thần, Thượng Đế, Đức Phật bảo đồ đệ chuyện dời chưa hiểu được, làm sao có thể hiểu được chuyện  thần thánh, có nghĩa là có thoát được nghiệp chướng hay không là do sức con người tự tạo lấy, “tự lực cánh sinh” không nhờ vaò  thánh thần nào giúp sức. Cũng do quan niệm thiếu tính cách thần linh mà Phật học không phát triển mạnh được ở Ấn Độ, vì Ấn Độ là thế giới của thần linh, mà phát triển qua các quốc gia khác.
Phật học thiên về tu thân, tích đức để thoát vòng nghiệp chướng, lo tu luyện cá nhân để mưu cầu phần rỗi mà không bận rộn về đời sống vật chất và phải “Giệt dục”. Sỡ dĩ cuộc đời khổ cực là vì ham muốn và không thỏa mãn đươc sự ham muốn, cho nên phương pháp hay nhứt là giệt sự ham muốn thì bớt khổ.
 Đời là bể khổ vì luân hồi nghiệp chướng, muốn thoát bể khổ phải tu trì để được đắc đạo, thoát cảnh tái sinh. Người bình dân thường nói “Người hiền chết sớm, kẻ dữ sống lâu”, có lẻ hàm dưõng ý nghĩa chết sớm để thoát trần ai khổ lụy là có phước, kẻ dữ sống lâu để bị đọa đày, để đền tội. Vì nghiệp chướng quá nặng nề?
Phật học không đề cập đến Trời, Thượng Đế, nên ý niệm “Ý Tròi” có phần thể hiện hậu qủa của nghiệp chướng do tiền kiếp để lại. Có nghĩa là người bình dân, nếu gặp trở ngại, đời sống khó khăn, gặp nhiều cảnh tai ương có thể an ủi bằng câu “Tại vì nghiệp chướng của tôi như vậy”. Hoặc tại vì luật nhân quả, nghiệp báo, kiếp trước làm ác, báo hại khiến kiếp sau lãnh đủ.
 
Người theo Khổng học có thể giải thích “Ý Trời” là ý của Thượng Đế. Thượng Đế đã an bài mọi sự. “Chung cục thì chỉ cũng tại Trời”. (Nguyễn Du). “Thượng đế rất lớn soi xuống dưới rất rõ ràng, xem xét bốn phương, tìm sự khốn khó của dân mà cưú giúp- Hoàng Hỹ Thượng Đế, lâm hạ hữu hách, giám quan tứ phương, cầu dân chi mạc”. “Điều gì dân chúng ước ao thì Trời cũng chiếu – Dân chi sở dục, Thiên tất tòng chi“ vì “Đã là người, ai cũng đếu  là con của Trời.-Phàm nhân giai, vân Thiên chi tử “
Quan niệm của Nho Sĩ thường có tính cách tích cực hơn là tiêu cực. Con người phải cố gắng hết sức mình làm việc, nếu không đạt được thành công thì không còn tự trách mình mà an ủi bằng mệnh số, đó là do “Ý Trời” như Nguyễn Công Trứ trong lúc hàn vi thường tự an ủi: “Hữu kỳ đức, ắt Trời kia chẳng phụ.”
 
Người Công Giáo khi nói đến “Ý Trời” tức nói đến “Ý Chúa”. Nhiều người nhớ câu “Sợi tóc trên đầu rơi xuống cũng là do ý của Chúa”. Người Công Giáo tin rằng Thượng Đế là đấng tạo nên trời đất, muôn vật.
Ý Trời trong quan niệm của người Công giáo là kết quả công việc làm theo thánh ý Thượng Đế. Vi phạm luật lệ không phải là do ý trời. Tại sao? Tại vì Thượng đế sinh ra con người đã cho con người có lý trí để suy xét, và có tự do để hành động.
 Ông A Dong và Bà E và tổ phụ của nhân loại có lý trí để hiểu lời Chúa khi Chúa phán không được ăn trái cấm, nhưng vì bị quỷ Satan cám dỗ ăn trái cấm nên bị Chúa đuổi ra vườn địa đàng, từ đó phải làm việc đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có ăn!
Thế thì với lý trí để suy xét, tự do hành động, con người phải chịu trách nhiệm về hành vị của mình. Giả thử Chúa sinh ra mọi người bình thường có thân thể và trí tuệ giống nhau nhưng đời sống mỗi người lại khác nhau có phải đó là tại ý trời hay không?
Yes and No. Có và không. Có vì Ý Trời là ý mà Chúa an bài cho mỗi người, bất kể lương hay giáo một vị thể khác nhau trong xã hội để mỗi người một việc thi hành nhiệm vụ mà Trời đã giao phó. Tuy nhiên, phải lưu ý là khi Trời giao phó sự việc cho mỗi cá nhân, dựa vào khả năng riêng biệt của mỗi người do sự cố gắng và tự tạo và cho con người tự do hành động.
Hành động thành công hay thất bại là đo cá nhân. Những cá nhân có thành tâm thiện ý thường là những người sáng suốt vì tâm hồn được bình an, tâm trí được thông minh sáng lạng rất dễ thành công. Không phải là ý Trời, nếu ngược lại những cá nhân thích sống ích kỷ, hay ganh tị, không hiểu vai trò đã được giao phó, có thái độ thù hận ganh ghét như thái độ của Caen thì tâm hồn bối rối, mất sự bình an, từ đó kém sáng suốt, vụng về mà cá nhân phải chịu trách nhiệm về thái độ của mình.
Nếu chúng ta biếng nhác, không chịụ học hỏi, không chịu làm việc để lâm vào tình trạng đói khổ, thua sút mọi người, say sưa, phạm tội, trí tuệ lụn bại, thiếu sáng suốt, làm việc ngoài vòng cương tỏa, không làm việc hết mình, không theo thánh ý Thượng Đế, thì kết quả chúng ta phải gánh lấy, không phải là ý Trời.
Như thế, những gì con người thực hiện với thành tâm thiện ý tức là làm việc thiện theo thánh ý Chúa, kết qủa đạt được hoàn hảo hay không phải là quan trọng, điều quan trọng là chúng ta có cố gắng hay không? Có được ơn Chúa soi sáng, được sự bình an trong tâm hồn, có cảm được sự hữu dụng của đời sống?
Thánh Phao Lồ trước khi trở thành Kitô hữu đã tự ý giết hại Kitô hữu. Khi trở thành tông đồ của Chúa vẫn cảm thấy ân hận về những việc ông đã làm (1Tim 1: 2-15).
Thiên Chúa đã chọn Phao Lổ để nhắn nhủ nhân loại là kẻ có tội lỗi như Phao Lô cũng còn thánh hóa được. Trong thư gởi Giáo hữu Thành Corinto, Thánh Phao Lổ đã viết: “Tôi không xứng đáng được gọi là Tông Đồ của Chúa, nhưng nhờ ơn Phúc Ngài ban, tôi mới được như ngày hôm nay”. “I am... not worthy to be called an apostle... but by the grace of God, I am what I am (1Corinthians 15: 19-10).
Như vậy, tội lỗi của quá khứ không nhất thiết làm cản trở cuộc sống trong tương lai, miễn là có thành tâm hối cải sẽ được trở thành người hữu dụng.  Ai cũng có thể tự cải thiện và Trời sẽ ban ơn cho họ dựa trên sự cố gắng cá nhân của mỗi người. Do đó, không nên oán Trời trách người mà phải trách mình trước. “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân.”
Trời tạo nên con người và rất chính xác khi điều khiển vũ trụ, cũng như biết rõ người nào thích hợp để được giao phó trách nhiệm, sự xứng đáng đó dựa trên công việc, sức cố gắng của mỗi cá nhân, Trời phán xét dựa trên công việc của con người làm chứ không phải dựa vào lời đàm tiếu của người khác.“God judges us by what we do, not by what others say”.
Về phương diện vũ trụ, sự chính xác của Thượng Đế thật mầu nhiệm, sự vận hành cua các tinh tú, mặt trời, mặt trăng, quả đất đều được sắp xếp vận hành trong qũy đạo một cách chính xác. Các nhân vật thông thái, các khoa học gia về vũ trụ là những người khâm phục sự mầu nhiệm của Hoá Công và nhờ vào sự chính xác của Hoá công  mà đoán trúng những hiện tượng sắp xảy ra. Họ là những người chịu tìm tòi học hỏi, cố gắng tìm hiểu sự vận hành của vũ trụ để đem kiến thức truyền lại cho hậu thế.
 Thượng đế đã tạo nên mọi sự, mọi sự đã có sẵn, phần còn lại là bổn phận của con người phải tìm tòi học hỏi để hiểu biết ý định của Thiên Chúa. “Không biết mệnh Trời thì không phải là người quân tử - Bất tri Thiên mệnh, vô dĩ vi quân tử giã”.
Ví dụ, trong năm 1993, các nhà thiên văn học đã biết được rằng ngày 3 tháng 11 năm 1994 sẽ có Nhật thực kéo dài 4 phút, 51 giây. Nhật thực (eclipse) sẽ được thấy toàn điện ở các qụốc gia Bolivia, Brazil, và biển Nam Đại Tây Dương.
Đó là hiện tượng về thiên vân, về sự vận hành của vũ trụ do Thiên Chúa tạo dựng, sở dĩ các nhà Thiên-văn-học tiên liệu một cách đích xác mà không sợ sai là vì sự vận hành của vũ trụ do Thiên Chúa tạo dựng một cách chính xác. Đến giờ phút nào thì hiện tượng gì xảy ra, đó là “Ý Trời”. Và con người có nhiệm vụ tìm hiểu và đoán được Ý Trời, nếu không thì xem như chưa tu luyện đủ để đạt đến giai đoạn “Nhi tri Thiên Mệnh”.  
Ai dày công tu thân, tích đức, cố gắng học hỏi, làm việc sẽ hiểu được Thiên Ý, hiểu được sự vận hành của vũ trụ, hiểu đươc thế thái nhân tình, hiểu được phương cách làm việc, hiểu được đường hướng phải làm, được chương trình, kế hoạch phải thực hiện.
Muốn biết Ý Trời phải làm theo Ý Trời. Thiên Chúa bảo chúng ta đừng bao giờ nản lòng, (not lose your heart: Luke 18:1), phải cố gắng làm việc, học hỏi (obligation to study) và cầu nguyện (pray) để được ơn Thiên Chúa, được sự bình an trong tâm hồn, để được soi sáng, thì dù kết qủa có thế nào chăng nữa vẫn thể hiện thiện ý, vì:
“Thiện tâm ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài nằm với chữ tai một vần.”
Có tài chế ra nguyên tử để làm điều thiện như làm máy phát điện, chữa bệnh.... là hợp “Ý'Tròi”.  Nhưng dùng tài để chế bom nguyên tử sát hại nhân loại tức là phản “Ý Trời” là gây tai họa. Thiên bất dung gian. Có khoa học mà vô lương tâm sẽ gây bại hoại cho tâm hồn “Science sans conscience n'est que ruine de l’âme”.
Sao mùa Đông giá rét, nhân dịp Xuân về, muôn hoa đua sắc thắm thể hiện Ý Trời. Chúng ta hãy làm việc hữu ích cho nhân quần xã hội, với thiện tâm, trong tình yêu nhân hậu, đúng theo gương sáng của Đức Phật, sống từ bi hi xã, trung hiếu tiết nghĩa của Đức Khổng Tử sống xứng đáng đạo làm người Việt cao qúy và luôn luôn thể hiện đức bác ái của Thiên Chúa trong đời sống hàng ngày.
Tai ương khốn khó là những thử thách “có gió cả mới có hay cây cứng, không đường dài nào biết ngựa hay.” Nên đối phó với những thử thách một cách tâm thường an lạc, dù vật đổi sao dời (Act of God) thì vẫn yên tâm sống đức hạnh “phú qúy bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” có chí thì nên vì:
“Trời đâu riêng khó cho ta mãi
Vinh nhục dù ai cũng một lần.”
Lạc quan, tin tưởng, quyết chí tu thân và hành động chính thực là nhiệm vụ chung của chúng ta thì thân sẽ không tật bệnh, tâm sẽ không phiền não, kết qủa thế nào chăng nữa thì cũng có thể yên tâm vì chúng ta đã làm việc hết mình, phần còn lại là do “Ý Trời” vậy.
Gẫm thay muôn sự tại Trời.
                              Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thân cao mới đưọc phần thân cao” (Nguyễn Du)
Trần Xuân Thời

Source Internet.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.