Thứ Tư, 20 tháng 4, 2016

Giáo sư gốc Việt thắng giải Pulitzer văn chương Mỹ


Pulitzer dành cho báo chí và văn chương trên toàn quốc Hoa Kỳ đã được thông báo, và một trong những người được vinh dự thắng giải là một nhà văn Mỹ gốc Việt. Người này đang là một giáo sư tại trường đại học University of Southern California (USC).

Tác giả Nguyễn Thanh Việt trong hình do giải Pulizer cung cấp

Trong các phần thưởng cao quí của Pulitzer, giải tiểu thuyết trong mục văn chương được xem là đáng kể nhất. Năm nay giải này được trao cho ông Nguyễn Thanh Việt, một tác giả chào đời tại Việt Nam, theo gia đình tị nạn cộng sản tại Hoa Kỳ vào năm 1975.

The Sympathizer (Cảm Tình Viên) là tác phẩm tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Thanh Việt xuất bản năm 2015 (ông từng viết một cuốn sách nghiên cứu vào năm 2002) , và cũng là một cuốn tiểu thuyết được giới phê bình văn chương Hoa Kỳ đánh giá cao. Tác phẩm này đã giúp cho ông Việt đoạt giải Pulitzer loan báo hôm thứ Hai, 18 tháng Tư, 2016.

Ông Việt là người Việt Nam đầu tiên thắng giải Pulitzer văn chương. Trước đây, trong thời chiến Việt Nam, cũng có một người Việt Nam được trao giải Pulitzer nhưng người đó là một nhiếp ảnh gia của hãng thông tấn AP và được một giải dành cho hình ảnh thời sự.

Ông Nguyễn Thanh Việt không hẳn là một nhà văn toàn thời gian. Công việc “kiếm cơm” chính của ông hiện nay là giảng dạy tại trường USC ở Los Angeles. Kể từ năm 2003, ông giữ vai trò “Associate Professor,” tức là một vị trí đứng giữa một phụ tá cho một giáo sư và một giáo sư đại học toàn thời gian. Ông dạy trong phân khoa Văn Chương và phân khoa Nghiên Cứu Hoa Kỳ và Sắc Tộc (American Studies & Ethnicity) tại trường USC.

Ông Nguyễn Thanh Việt là một di dân gốc Việt, chào đời tại Ban Mê Thuột (sau năm 1975 bị đổi tên thành Buôn Mê Thuột), Việt Nam và đến Hoa Kỳ theo làn sóng tị nạn cộng sản sau tháng Tư năm 1975. Trên một trang web cá nhân, giáo sư/nhà văn cho biết gia đình ông đã tạm cư tại trại Indiantown Gap, Pennsylvania vào năm 1975. Sau ba năm sống ở Harrisburg, Pennsylvania, gia đình ông dọn đến San Jose, California, nơi mà họ đã mở một trong các tiệm bán hàng tạp hóa đầu tiên trong cộng đồng người Việt tại đây, trước khi nơi đây trở thành một nơi phồn thịnh mang tên Thung Lũng Điện Toán.

Trang web cá nhân cho biết ông Việt đã học tại trường tư St. Patrick và Bellarmine College Preparatory tại San Jose. Khi lên đại học, sau một thời gian ngắn học tại UC Riverside và UCLA ở Nam California, ông theo học tại trường UC Berkeley ở Bắc California, nơi ông tốt nghiệp với danh dự cao trong hai lãnh vực văn chương và nghiên cứu sắc tộc. Ông tiếp tục học tại trường Berkeley và tốt nghiệp bằng Tiến Sĩ Văn Chương năm 1997. Sau đó ông dọn đến Los Angeles để nhận việc dạy học tại trường USC, nơi mà ông đã làm việc từ đó cho đến nay.

Ngoài công việc dạy học và viết văn, ông cũng viết bài bình luận về văn hóa cho nhật báo The Los Angeles Times và chủ bút của diaCRITICS, một trang blog dành cho những người viết Việt Nam tại hải ngoại.

Tuy ông Nguyễn Thanh Việt từng viết sách nghiên cứu và nhiều truyện ngắn, nhưng cuốn The Sympathizer là tác phẩm tiểu thuyết dài đầu tiên của ông. Từ khi được xuất bản, tác phẩm “Cảm Tình Viên” này đã nhận được nhiều bài viết khen ngợi và một số giải thưởng như giải First Novel Prize của Center for Fiction năm 2015, giải Carnegie Medal for Excellence In Fiction của hội thư viện American Library Association và giải Asian/Pacific American Award for Literature in Fiction của hội Asian/Pacific American Libraries Association. Cuốn tiểu thuyết này cũng vào vòng chung kết của giải văn chương PEN/Faulkner Award và the PEN/Robert W. Bingham Prize for Debut Fiction.

Nội dung khá phức tạp của The Sympathizer kể lại câu chuyện của một “cảm tình viên” sống tại Miền Nam Việt Nam trước năm 1975, làm việc cho một vị tướng trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, nhưng lại là một gián điệp của Cộng Sản Miền Bắc.

Cảm tình viên này cũng sang tị nạn tại California và tiếp tục làm gián điệp cho cộng sản, trà trộn vào các sinh hoạt của cộng đồng người Việt tị nạn, nhưng nhân vật chính luôn bị xâu xé trong tâm hồn vì những xung đột giữa trách nhiệm của một kẻ gián điệp và sự thật sau ngày cộng sản chiếm đất nước Việt Nam.
Với một lối viết mới, sâu sắc và đầy nghệ thuật, Nguyễn Thanh Việt đã được so sánh với các nhà văn lớn của Tây Phương về cách ông mô tả tâm lý đầy rối rắm nửa tỉnh nửa điên của nhân vật chính, như Joseph Conrad, Graham Green, và lối viết kinh dị với cảnh tượng như trong một cơn ác mộng mơ hồ của Kafka.
Với giải thưởng Pulitzer kèm theo, tác phẩm The Sympathizer chắc chắn sẽ được độc giả Mỹ đón nhận rất nhiều trong những ngày sắp tới. Vấn đề chuyển ngữ sáng các ngôn ngữ khác, kể cả tiếng Việt, cũng sẽ không xa.

Nhà văn Nguyễn Thanh Việt đã có thêm một tác phẩm mới, và đó là cuốn Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War (tạm dịch Không Có Gì Thật Sự Chết: Việt Nam và Hồi Ức Chiến Tranh). Tác phẩm này xem xét một cuộc chiến mà người Mỹ gọi là Cuộc Chiến Việt Nam và người cộng sản VN gọi là Cuộc Chiến Của Người Mỹ.

Nguyễn Thanh Việt (Bebe Jacobs)


Nguyễn Thanh Việt (Anna Min)


Về tác phẩm Cảm Tình Viên (The Sympathizer) của Nguyễn Thanh Việt



Kể từ khi The Sympathizer được xuất bản năm 2015, nhiều bài phê bình văn học đã ngợi khen nội dung cũng như cách hành văn của tác phẩm này của ông Nguyễn Thanh Việt, một giáo sư kiêm nhà văn vừa thắng giải Pulitzer được công bố hôm thứ Hai vừa qua.
Sau đây là một bài phê bình của Philip Caputo, được Phạm Nguyên Trường dịch và đăng trên mạng Vanviet.info. Bài viết này cho thấy nội dung của cuốn tiểu thuyết.
Bìa cuốn Cảm Tình Viên

Đất nước càng mạnh thì người dân càng có xu hướng xem nước mình là nhân vật chính trong những hoạt cảnh đôi khi nhốn nháo, nhưng thường là đầy bi thảm của lịch sử. Chúng ta là như thế, những công dân của một siêu cường quốc, đã xem cuộc chiến Việt Nam là một bi kịch của riêng nước Mỹ, trong đó, những vùng đất hừng hực của voi và cọp chỉ là bối cảnh, còn người Việt Nam thì chỉ những diễn viên phụ.

Quan điểm đó được phản ánh trong văn học - và Việt Nam từng là một cuộc chiến văn chương, nó đã tạo ra một thư viện khổng lồ các tác phẩm hư cấu và phi hư cấu. Trong tất cả những tác phẩm đó, bạn sẽ chỉ tìm thấy một ít (tác phẩm A Good Scent From a Strange Mountain của Robert Olen Butler xuất hiện trong đầu (VĐ - tựa tác phẩm này lấy từ từ ngữ Bửu Sơn Kỳ Hương và cũng đoạt giải Pulitzer văn chương năm 1993)) với các nhân vật nói tiếng Việt.

Hollywood còn dĩ Mỹ vi trung (coi Mỹ là trung tâm) hơn nữa. Trong những phim như “Apocalypse Now” và “Platoon,” người Việt Nam (thường thì những người châu Á khác đóng vai người Việt) chỉ là những vai phụ, nhiệm vụ chính dường như chỉ là chết hoặc than khóc giữa những đống tro tàn của ngôi làng đã bị thiêu rụi.

Điều đó đã đưa tôi đến với cuốn tiểu thuyết đầu tay tuyệt vời – The Sympathizer của Nguyễn Thanh Việt. Nguyễn, sinh ra ở Việt Nam nhưng lớn lên ở Hoa Kỳ, mang tới cho ta bức tranh đặc biệt về chiến tranh và hậu quả của nó. Cuốn sách của ông lấp đầy khoảng trống trong văn học, cho những người trước đây chưa có tiếng nói lên tiếng, trong khi buộc những người còn lại trong chúng ta nhìn vào các sự kiện cách đây 40 năm với ánh sáng mới.

Nhưng cuốn tiểu thuyết bi hài kịch này vượt ra ngoài bối cảnh lịch sử, đủ sức rọi sáng chủ đề phổ quát hơn: quan niệm sai lầm và sự hiểu lầm liên tục giữa Đông và Tây, và tình trạng tiến thoái lưỡng nan về đạo đức mà người ta buộc phải lựa chọn không phải giữa đúng và sai, mà giữa hai cái đúng. Nhân vật chính là một người vô danh - người kể chuyện, một nhân vật đáng nhớ dù nặc danh, là một người Việt đã Mỹ hóa với một trái tim và tâm trí bị phân chia. Tài khéo của Nguyễn trong việc mô tả tính cách nước đôi này có thể sánh với các bậc thầy văn chương như Conrad, Greene và Le Carré.

Tính nước đôi, theo nghĩa đen, nằm ngay trong máu của nhân vật chính, vì đấy là một người con lai, con trai ngoài giá thú của một bà mẹ người Việt, tuổi teen (người mà anh ta yêu thương) và một linh mục Công giáo người Pháp (người mà anh ta ghét). Việc anh được giáo dục ở Hoa Kỳ, nơi anh ta học nói tiếng Anh đúng điệu và có thêm một mối quan hệ yêu-ghét khác, đấy là đất nước mà anh ta cảm thấy đã đặt ra quá nhiều từ “siêu” (siêu thị, siêu cao tốc, Super Bow, v.v.) “từ ngân hàng liên bang của tính tự đại của mình” – càng mở rộng thêm sự chia rẽ trong tính cách của anh ta.

Khả năng làm xiếc của người kể chuyện nhằm tạo ra sự cân bằng giữa hai thế giới là điểm mạnh và cũng là điểm yếu của tác giả, như ông đã làm cho rõ trong dòng mở đầu:

“Tôi là gián điệp, một người đang ngủ, một con quỷ, một người có hai bộ mặt. Có lẽ, không có gì ngạc nhiên, tôi còn là một người có hai bộ óc, … có thể nhìn thấy mọi vấn đề từ cả hai phía. Đôi khi tôi tâng bốc mình rằng đây là một tài năng,” anh ta tiếp tục, nhưng “tôi tự hỏi, tôi có cái gì để được gọi là tài năng. Nói cho cùng, tài năng là cái mà bạn sử dụng, chứ không phải cái sử dụng bạn. Bạn không thể không sử dụng tài năng, tài năng sở hữu bạn – đó là một mối nguy.”

Câu chuyện của nhân vật chính, dưới hình thức một lời thú tội được viết cho một người đàn ông bí ẩn, được gọi là “người chỉ huy,” bắt đầu vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi lực lượng Cộng Sản đã tiến sát Sài Gòn. Người kể chuyện là sĩ quan phụ tá cho “viên tướng,” (một trong mấy nhân vật, tương tự như người kể chuyện, không bao giờ được nhắc đến tên), giám đốc cảnh sát quốc gia của Nam Việt Nam và cùng với nó, Lực Lượng Đặc Nhiệm, tức là cảnh sát mật.

Nhưng người kể chuyện còn là một gián điệp hai mang, một điệp viên bí mật của Cộng Sản, có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của viên tướng và Lực Lượng Đặc Nhiệm. Người bạn thân nhất của anh ta là Bon, một sát thủ hoạt động trong chương trình Phượng Hoàng (Phoenix) của CIA, “một người yêu nước chân chính,” tình nguyện tham gia chiến đấu sau khi Cộng Sản giết bố của anh ta vì tội làm trưởng thôn.
Người chỉ huy của người kể chuyện là người miền Bắc, tên là Man, cũng là một người bạn cũ. Thật vậy, cả ba gồm người kể chuyện, Bon và Man là bạn cùng trường từ thời trung học, đã từng thề thốt trung thành với nhau bằng cách trích máu ăn thề. Mối quan hệ phức tạp này, với người kể chuyện đứng ở giữa, bị giằng xé bởi lòng trung thành đầy xung đột, là thực đơn cho những vụ phản bội bi thảm, hết lần này đến lần khác.

Thông qua một nhân viên C.I.A., tên Claude, người kể chuyện đã hối lộ để chuẩn bị cho viên tướng, vợ của ông và đại gia đình của họ di tản sang Mỹ bằng đường hàng không. Bon và vợ con cũng sẽ được đưa đi. Người kể chuyện muốn ở lại và giữ địa vị của mình trong nước Việt Nam thống nhất, nhưng Man, tin rằng viên tướng và nhóm của ông ta sẽ tiến hành cuộc phản cách mạng từ nước ngoài, đã giao cho anh ta nhiệm vụ mới, thực ra là tiếp tục nhiệm vụ cũ: “Viên tướng không phải là người duy nhất có kế hoạch tiếp tục chiến đấu,” Man giải thích. “Chiến tranh đã diễn ra quá lâu, họ không thể dừng lại một cách đơn giản như thế được. Chúng ta cần phải có người theo dõi chúng.”

Nguyễn cho ta thấy hình ảnh cực kỳ hấp dẫn về sự sụp đổ của Sài Gòn, hỗn loạn, lộn xộn và khủng bố, khi người kể chuyện cùng với những người khác chạy trốn dưới cơn bão hỏa lực của Việt Cộng và quân đội Bắc Việt. Vợ và con của Bon bị giết trước khi máy bay cất cánh, thêm hai cái chết nữa để anh ta phải báo thù.

Món hổ lốn nhiều tình tiết của câu chuyện được trình bày trong 50 trang đầu của cuốn tiểu thuyết, sau đó thì diễn ra chậm hơn. Từ khởi đầu ngắn gọn, dữ dội như thế, chúng ta sẽ chuyển sang trải nghiệm của người kể chuyện trong vai của người tị nạn kiêm điệp viên ở Los Angeles. Anh ta làm công việc văn phòng với vị giáo sư cũ của mình, có tình cảm với một phụ nữ Mỹ gốc Nhật đã lớn tuổi và gửi thư cho Man (viết bằng mực hóa học), qua trung gian ở Paris. Ở đây, cuốn tiểu thuyết trở thành vừa kinh dị vừa có tính châm biếm xã hội. Nếu bạn thích tác phẩm khôi hài được vẽ bằng than củi, thì đây là phần vui nhất của cuốn sách, mặc dù nó đôi khi bị mất giá vì những nhận xét đáng lẽ nên dành cho những show diễn trên truyền hình chứ không phải dành cho một cuốn tiểu thuyết nghiêm túc.

Hoạt động gián điệp của người kể chuyện dẫn anh ta đến một bước đột phá vào ngành công nghiệp điện ảnh. Anh ta được một đạo diễn thuê, (ông đạo diễn này có nét giống Francis Ford Coppola), để tìm người Việt trong một trại tị nạn ở Philippines đóng những vai phụ trong bộ phim (gần giống với Apocalypse Now). Nguyễn khéo léo xử lý âm thanh luôn biến đổi của các trường đoạn, lúc vui, lúc buồn, trong quá trình người kể chuyện tìm cách làm những việc mà Nguyễn đã làm: phi Mỹ hóa bức tranh về chiến tranh. Nhưng, khác Nguyễn, anh ta đã thất bại.

Sau đó, không khí trở nên buồn bã hơn. Người kể chuyện rơi vào mạng lưới của sự lừa dối và phản bội, do vai trò kép và sự phân li trong tâm hồn anh ta giăng ra. Sự nghi ngờ của Man chứng tỏ là chính xác: Viên tướng và một số người cứng rắn khác, cảm thấy có tội vì đã không chiến đấu cho đến chết, kéo lê cuộc đời nhàm chán của họ ở Mỹ (viên tướng là chủ một cửa hàng bán rượu), lập kế hoạch cho một cuộc đổ bộ phản cách mạng, với sự giúp đỡ của một nghị sĩ cánh hữu.

Người kể chuyện giúp lập kế hoạch, nhưng lại gửi báo cáo cho Man. Tuy nhiên, để tránh bị lộ, anh ta buộc phải tham gia vào hai vụ ám sát. Một nạn nhân là “thiếu tá nhậu nhẹt,” sĩ quan cũ của Lực Lượng Đặc Nhiệm trước đây, người kia là một nhà báo người Việt, làm cho một tờ báo ở California. Những đoạn mô tả các vụ giết người căng thẳng, phức tạp về mặt tâm lý, đầy mê hoặc. Lương tâm của người kể chuyện trở nên rách nát như toàn bộ con người của anh ta. “Sự ăn năn về cái chết của viên thiếu tá nhậu nhẹt rung lên trong tôi vài lần một ngày, kiên trì như người đòi nợ,” ông nghĩ.


Cuối cùng, viên tướng cũng tập hợp một đội quân xuất thân từ những cựu chiến binh của Nam Việt Nam, được người Mỹ vũ trang và tài trợ. Man, biết rõ kế hoạch, ông ta ra lệnh cho người kể chuyện ở lại Mỹ, ngay cả khi đội quân này quay trở lại châu Á, nhưng, một lần nữa, anh ta lại bị lòng trung thành đã bị chia đôi vò xé. Anh ta cảm thấy phải đi để cứu Bon, người anh em kết nghĩa của mình, khỏi chết trong một nhiệm vụ mà anh ta tin chắc là một nhiệm vụ có tính tự sát. Anh ta thấy mình rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan quen thuộc, “Không biết làm sao tôi có thể phản bội Bon, đồng thời lại có thể cứu anh.”

Tình anh em kết nghĩa mạnh hơn hệ tư tưởng. Người kể chuyện tham gia đội quân của viên tướng. Có thể đoán trước được những chuyện sẽ xảy ra; mọi chuyện đều có thể xảy ra với người kể chuyện và Bon, nhưng tôi không muốn đưa ra bất cứ điều gì, trừ việc nói rằng trong chương cuối cùng, cuốn Cảm Tình Viên là một thành công của thể loại phi lý, có thể đã được viết bởi Kafka hay Genet.

Khi câu chuyện dần được hé mở, nhân vật chính đưa ra nhiều khám phá đáng ngạc nhiên, trong đó có bản sắc của ông chủ của chính viên chỉ huy – chính ủy. Trong những cuộc thẩm vấn, người kể chuyện tạm thời bị mất trí; nhưng trong cơn điên loạn tâm trí của anh ta lại trở nên rõ ràng. Anh ta thấy rằng cuộc cách mạng mà anh ta đã hy sinh quá nhiều đã phản bội lại anh và phản bội tất cả những người đã chiến đấu vì nó – như tất cả các cuộc cách mạng vẫn thường làm.

Ngay cả những người chỉ huy cũng phải thừa nhận rằng thành quả của chiến thắng đã bị thối rữa và đến lượt mình, người kể chuyện phải nhận ra “câu chuyện đùa này, về việc làm sao mà một cuộc cách mạng chiến đấu vì độc lập tự do lại có thể làm ra những điều còn ít giá trị hơn cả số không.”

Nhưng mặc khải đã tạo được một sự hiểu biết sâu sắc, nó đã cứu anh ta khỏi tuyệt vọng hoàn toàn: “Bất chấp tất cả – vâng, bất chấp tất cả mọi thứ, khi đối mặt với không có gì,” anh ta viết ở cuối lời “thú nhận” – cũng là cuối tác phẩm này, “chúng tôi vẫn coi mình là người cách mạng. Chúng tôi vẫn là những người hy vọng nhất, người cách mạng tìm kiếm cuộc cách mạng, mặc dù chúng tôi sẽ không cãi khi được gọi là người mơ mộng bị bỏ bùa mê… Chúng tôi không thể là những người đơn độc! Hàng ngàn người khác phải nhìn chằm chằm vào bóng tối như chúng tôi, bị những ý nghĩ đầy tai tiếng, những hy vọng ngông cuồng và kế hoạch bị cấm đoán kẹp chặt. Chúng tôi nằm đợi thời điểm thích hợp và sự nghiệp chính nghĩa, mà ở thời điểm này, chỉ đơn giản là muốn sống.”
Source Internet.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.