Thứ Năm, 29 tháng 11, 2012

NHÌN QUA VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH


Vạn Lý Trường Thành  Bính âm: Wànlĭ Chángchéng; có nghĩa là "Thành dài vạn lý") là bức tường thành nổi tiếng của Trung hoa liên tục được xây dựng bằng đất và đá từ thế kỷ 5 TCN cho tới thế kỷ 16, để bảo vệ Đế quốc Trung hoa khỏi những cuộc tấn công của người Hung Nô, Mông Cổ, người Turk, và những bộ tộc du mục khác đến từ những vùng hiện thuộc Mông Cổ và MãnChâu.
  Một số đoạn tường thành được xây dựng từ thế kỷ thứ 5 TCN trong đó nổi tiếng nhất là phần tường thành do Hoàng đế đầu tiên của Trung hoa là Tần Thủy Hoàng ra lệnh xây từ năm 220 TCN
và 200 TCN nằm ở phía bắc xa hơn phần Vạn Lý Trường Thành hiện nay của Trung Quốc xây dưới thời nhà Minh ,và hiện chỉ còn sót lại ít di tích.
Một nghiên cứu sơ bộ công bố hồi năm 2009 ước tính công trình có chiều dài 8.850 km (3.948 dặm Anh). Nhưng theo số liệu mới được công bố, Vạn Lý Trường Thành dài 21.196 km, chiều dài này được đưa ra dựa trên một cuộc khảo sát mới nhất. Chiều cao trung bình tường thành là 7m so với mặt đất, mặt trên của trường thành rộng trung bình 5-6m. Vạn Lý Trường Thành bắt đầu từ Sơn Hải Quan trên bờ Biển Bột Hải ở phía đông, tại giới hạn giữa Trung Quốc bản thổ ("đất Trung Quốc gốc") và Mãn Châu đến Lop Nur ở phần phía đông nam Khu tự trị người Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương.[1]
 

 Lịch sử

Trường thành dưới thời nhà Tần. Đỏ: thành, Cam: ranh giới quốc gia của Trung Quốc ngày nay.
Trường thành dưới triều Hán.
Tần Thủy Hoàng
Trường thành dưới thời nhà Minh.
Vạn Lý Trường Thành vào mùa đông, đoạn gần Bắc Kinh
Tranh vẽ Vạn Lý Trường Thành vào năm 1900
Một tường thành có tính chất phòng thủ biên giới phía bắc được xây dựng và duy trì bởi nhiều triều đại trong nhiều khoảng thời gian trong lịch sử Trung . Mục đích chính của nó là bảo vệ người Trung hoa khỏi sự di cư của người Mông Cổ và người Thổ Nhĩ Kỳ. Có năm đoạn thành chính:
  1. 208 TCN (nhà Tần)
  2. thế kỷ thứ 1 TCN (nhà Hán)
  3. thế kỷ thứ 7 (nhà Tùy)
  4. 1138 - 1198 (Thời Nam Tống)
  5. 1368 - 1640 (từ vua Hồng Vũ đến vua Vạn Lịch của nhà Minh)
Đoạn tường thành chính đầu tiên được xây dựng dưới thời cai trị của Tần Thuỷ Hoàng, vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tần với thời gian tồn tại ngắn ngủi. Bức tường này không được xây dựng bởi nỗ lực của một nhóm mà là việc ghép nối nhiều đoạn tường thành của các vùng, từng được xây dựng ở thời Chiến Quốc, vào nhau. Bức tường được nối vào nhau ở thời gian đó làm bằng đất nện với những tháp canh được xây ở các khoảng cách đều nhau. Nó nằm xa hơn về phía bắc so với Vạn lý trường thành hiện tại với điểm cực đông nằm ở Bắc Triều Tiên hiện nay. Chỉ còn ít phần của nó còn sót lại - các bức ảnh cho thấy những ụ đất thấp, dài.
Triều đình bắt người dân phải làm việc để đắp thành, và các công nhân luôn bị nguy hiểm vì có thể bị bọn  giặc cướp tấn công. Bởi vì có nhiều người đã chết khi xây dựng thành, nó được đặt cho cái tên khủng khiếp, "Nghĩa địa dài nhất Trái đất". Có lẽ khoảng một triệu công nhân đã chết khi xây dựng bức tường thành.[2]
Ước tính 300 ngàn lính  với không biết bao nhiêu tội nhân, quan lại phạm lỗi, nho sĩ không tuân lệnh đốt sách... phải làm khổ sai trong miền rừng núi trùng trùng điệp điệp, mùa đông thì lạnh buốt, nước đóng băng, mùa hè thì không khí nóng như nung, mù mịt cát bụi. Trên thành cất những đồn canh, và có đường rộng chạy ngựa được giữa các đồn với nhau. Không biết bao nhiêu lời than thở, bao nhiêu nước mắt của thân nhân những người đó, không văn nhân thi sĩ nào chép lại hết được. Trong dân gian còn truyền lại nỗi khổ của nàng Mạnh Khương: "Nàng thương nhớ chồng, đi 10 ngàn dặm đường để thăm chồng bị bắt đi xây thành, đến nơi thì chồng nàng đã chết rồi. Xung quanh chỉ là rừng núi và đá. Không biết kiếm xác chồng ở đâu, nàng tuyệt vọng, khóc mấy ngày mấy đêm, khóc tới nỗi chính cái thành cũng phải mủi lòng, tự động tách ra cho nàng tìm thấy hài cốt chồng."
Bức tường dài tiếp theo được nhà Hán[3], nhà Tùy, và giai đoạn Thập Quốc xây dựng tiếp với cùng kiểu thiết kế.[4] Nó được làm bằng đất nện với nhiều tháp canh nhiều tầng được xây cách nhau vài dặm. Các bức tường thành cũng đã bị hư hại nhiều và đã lẫn vào phong cảnh xung quanh, bị ăn mòn bởi gió và nước mưa.
Về mặt quân sự, những bức tường này có ý nghĩa về mặt phân chia ranh giới hơn là công sự bảo vệ có giá trị. Chắc chắn rằng chiến lược quân sự của Trung Quốc không diễn ra quanh việc giữ vững bức tường thành.
Vạn Lý Trường Thành ngày nay được xây ở thời nhà Minh, bắt đầu khoảng năm 1368[5] và kết thúc khoảng năm 1640. Ước tính có khoảng 25.000 tháp canh đã được xây dựng dọc theo bức tường.[6] Trong một đoạn trong kinh Koran, các nhà địa lý Ả Rập cũng liên hệ Alexander đại đế với việc xây dựng tường thành. Bức tường này được xây với tầm vóc to lớn bằng những vật liệu tốt (đá cứng được dùng ở các bề mặt và ở trên mặt thành) hơn so với trước đó. Mục đích đầu tiên của bức tường là để ngăn bước những giống người bán du mục phía bên ngoài (như người Mông Cổ dưới sự chỉ huy của hãn vương Altan và Oirats dưới sự chỉ huy của Esen Taiji) vào cướp bóc bên trong Trung Quốc khi họ sử dụng ngựa để di chuyển; hay ngăn cản sự quay trở về của họ với những thứ cướp bóc được.
Vạn Lý Trường Thành thời nhà Minh bắt đầu từ điểm phía đông tại Sơn Hải Quan (山海关), gần Tần Hoàng Đảo, ở tỉnh Hà Bắc gần Vịnh Bột Hải. Kéo dài qua chín tỉnh và 100 huyện, 500kmcuối cùng vẫn còn nhưng đã thành những đống gạch vụn, và hiện nay nó kết thúc ở điểm cuối phía tây di tích lịch sử Gia Dục Quan (嘉峪关), nằm ở phía tây bắc tỉnh Cam Túc tại biên giới với Sa mạc Gobi và những ốc đảo của Con đường tơ lụa. Gia Dục Quan được xây để tiếp đón những nhà du hành dọc theo Con đường tơ lụa. Mặc dù Vạn Lý Trường Thành kết thúc ở Gia Dục Quan, tại đó có rất nhiều "phong hoả đài" (烽火台) trải dài về phía Gia Dục Quan dọc theo Con đường tơ lụa. Những đài quan sát đó dùng dấu hiệu bằng khói để  báo động có xâm lược.
  Năm 1644, người Mãn Kokes vượt qua bức tường thành bằng cách thuyết phục một vị tướng quan trọng là Ngô Tam Quế mở cửa những cánh cổng Sơn Hải Quan để cho người Mãn Châu vượt qua. Truyền thuyết kể rằng quân Mãn Châu mất ba ngày mới vượt hết qua đèo. Sau khi người Mãn Châu chinh phục Trung Quốc, bức tường thành không còn giá trị chiến lược nữa, đa phần bởi vì người Mãn Châu đã mở rộng quyền kiểm soát chính trị của họ ra xa phía bắc, còn xa hơn cả triều Trung Quốc trước đó. Xem thêm ở nhà Thanh (Mãn Châu).
Đoạn tường cuối cùng thời nhà Minh thực sự là một công sự quân sự về một số mặt. Tuy nhiên, các nhà sử học quân sự thường gạt bỏ giá trị thực của bức tường thành vĩ đại này. Người ta tốn rất nhiều tiền của và công sức để xây dựng, duy trì và đóng giữ. Số tiền nhà Minh chi phí vào bức tường này đáng ra có thể để chi vào cải thiện khả năng quân sự khác như mua đại bác kiểu châu Âu hay súng trường. Sự thực là bức tường thành không hề có giá trị trong việc giúp ngăn chặn sự sụp đổ của nhà Minh.

 Tình trạng

Gia Dục Quan đang được sửa chữa
Trong khi một số đoạn gần các trung tâm du lịch được giữ gìn và thậm chí xây dựng lại, tại hầu hết các vị trí bức tường đang bị bỏ mặc không được sửa chữa, được dùng làm chỗ  vui chơi cho những người dân làng và là nơi khai thác đá để làm đường hay làm nhà.[7] Các bề mặt của tường thành còn bị sơn vẽ graffiti. Nhiều phần đã bị phá hủy vì bức thành nằm chắn đường tới các địa điểm xây dựng..[8] Các phần không bị đụng chạm đến hay được sửa chữa là gần những điểm phát triển du lịch và thường bị những người bán hàng rong và khách du lịch làm giảm giá trị.
  Sa mạc Gobi cũng đang tiến sát tới bức tường thành ở một số địa điểm. Một số ước tính rằng chỉ 20% bức tường thành là đang ở tình trạng tốt. Năm 2005, các bức ảnh về một bữa tiệc điên dại trên Vạn lý trường thành xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng Trung Quốc. Chúng đã gây nên sự phẫn nộ bởi vì trong những bức ảnh do người nước ngoài, và người Trung Quốc chụp, những thanh niên uống rượu bia, đi tiểu tiện, đại tiện và có những hành vi tình dục trên bức thành được chiếu ở khắp nước. [9]
Tháng 8 năm 2012, một đoạn dài khoảng 36m của thành bị sụp đổ hoàn toàn.[10]

 Một số cửa quan-cửa ải nổi tiếng dọc Vạn Lý Trường Thành

  • Sơn Hải quancửa ải đầu tiên của Trường Thành, nằm ở nơi giáp ranh giữa hai tỉnh Hà Bắc và Liêu Ninh, khởi điểm của Trường Thành, phía nam của dãy núi Yên Sơn, phía bắc của Biển Bột Hải, do tướng Từ Đạt nhà Minh xây dựng. Tên Sơn Hải quan cũng là do đứng ở nơi đây có thể ngắm được, quan sát được toàn cảnh núi non và biển cả hùng vỹ, với non xanh nước biếc, đồi núi và biển cả soi bóng. Cửa ải này có 4 cửa, cửa phía Đông có một bức hoành phi với dòng chữ "Thiên hạ đệ nhất quan" dài 5,9 m, rộng 1,6 m. Chiều cao của chữ là 1,45 m, rộng 1,09 m do Tiêu Hiển, tiến sĩ, nhà thư pháp nổi tiếng của Nhà Minh viết.
  • Gia Dục quancòn gọi là Hoà Bình Quan, là cửa quan nằm ở khởi điểm phía tây của Trường Thành, trên địa bàn thành phố Gia Dục Quan, tỉnh Cam Túc, xây dựng vào năm thứ 5 Hồng Vũ 1372.
  • Nương Tử quancòn gọi là Vi Trạch Quan, thuộc địa bàn huyện Bình Định, tỉnh Sơn Tây. Địa thế hiểm trở, núi non trùng điệp, dễ phòng khó công nên được mệnh danh là "Tam tấn môn hộ". Hồi đầu nhà Đường, công chúa Bình Dương, con gái thứ 3 của Lý Uyên từng dẫn vài vạn tướng sĩ canh giữ tại đây. Công chúa Bình Dương võ nghệ cao cường, đạo quân của công chúa được gọi là "nương tử quân". Bởi vậy mọi người đổi tên cửa ải này thành Nương Tử Quan. Đến nay trên cánh cửa đông môn thành trì Nương Tử Quan còn có 5 chữ "Trực thuộc Nương tử Quan".
  • Ngọc Môn quan: ở Tiểu Phương Bàn Thành phía tây Huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc. Tên Ngọc Môn Quan là do tất cả đá ngọc sản xuất ở Hoà Điền, Tân Cương thời cổ đều phải đi qua cửa ải này.
  • Biển Đầu quan: cửa ải thuộc huyện Biển Đầu, tỉnh Sơn Tây, một vùng đất không bằng phẳng, phía đông cao, phía tây thấp, nên mọi người mới gọi là Biển Đầu Quan.
  • Nhạn Môn quannằm trên một thung lũng ở huyện Đại, tỉnh Sơn Tây, có khí thế hoành tráng, hai bên là vách núi dựng đứng, chỉ những con nhạn, con én mới bay qua được mà chỉ bay dọc theo thung lũng qua phía trước cửa ải, bởi vậy mọi người mới gọi là Nhạn Môn Quan.
  • Cư Dung quan: ở núi Tử Kinh, huyện Dị, tỉnh Hà Bắc.

 Các tháp canh và trại lính

Tháp canh
Bức tường thành được bổ sung những điểm đóng quân bảo vệ, để những người lính bảo vệ có thế rút lui nếu quân địch quá đông.
Mỗi tháp chỉ có một lối lên duy nhất và các cửa vào cũng như đường lên rất hẹp làm cho những kẻ tấn công dễ bị rối loạn.
Các trại lính và các trung tâm hành chính nằm ở những khoảng cách lớn.

 Các loại vật liệu chính để xây thành

Các vật liệu được sử dụng là những thứ có sẵn gần nơi xây dựng. Gần Bắc Kinh bức tường được làm bằng những khối đá vôi khai thác tại mỏ. Ở những nơi khác có thể là đá granite hay gạch nung. Nếu sử dụng những vật liệu đó, đầu tiên họ dựng hai bức tường sau đó nén đất và gạch đá vào giữa cùng một lớp phủ cuối cùng bên ngoài để tạo thành một khối duy nhất. Ở một số vùng các khối đó được gắn với nhau bằng một hỗn hợp nhớp dính của gạo và lòng trắng trứng.

 Sự công nhận

Bức tường thành nằm trong các danh sách "Bảy kỳ quan thời Trung cổ của Thế giới", tất nhiên nó không nằm trong danh sách truyền thống Bảy kỳ quan thế giới mà người Hy Lạp cổ đại công nhận.
Bức tường thành trở thành Di sản thế giới của UNESCO năm 198.
Người Trung Quốc có câu nói  có nghĩa "Bất đáo Trường Thành phi hảo hán" đã được khắc bia tại trường thành.

 Từ ngoài Trái đất

Một sự tranh cãi từ lâu về việc bức tường thành sẽ thế nào nếu nhìn từ vũ trụ. Quan điểm rằng nó có thể được nhìn thấy từ vũ trụ có vẻ xuất hiện ,trước khi có các chuyến bay của con người vào vũ trụ.
Trong cuốn sách Cuốn sách thứ hai về những kỳ quan của Richard Halliburton năm 1938 có nói Vạn Lý Trường Thành là vật nhân tạo duy nhất có thể nhìn thấy được từ Mặt Trăng, và một truyện tranh tên là "Tin hay không tin của Ripley" ở thời gian đó cũng đưa ra tuyên bố tương tự. Niềm tin này kéo dài và trở thành một truyền thuyết , thỉnh thoảng  xuất hiện cả trong những cuốn sách giáo khoa. Arthur Waldron, tác giả cuốn lịch sử Vạn Lý Trường Thành đáng tin cậy nhất trong mọi ngôn ngữ đã chỉ ra rằng sự tin tưởng vào việc Vạn Lý Trường Thành có thể nhìn thấy được từ mặt trăng cũng giống như sự phấn khích của một số người khi tin rằng có những "kênh đào" trên bề mặt Sao Hỏa vào cuối thế kỷ 19.
  Trên thực tế, Vạn Lý Trường Thành  không thể nhìn thấy bằng mắt thường nếu không có dụng cụ hỗ trợ từ Mặt Trăng, chưa nói đến nhìn từ Sao Hỏa.
Khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trăng khoảng một nghìn lần lớn hơn khoảng cách từ Trái Đất đến con tàu vũ trụ bay trên quỹ đạo gần Trái Đất. Nếu Vạn lý trường thành có thể nhìn thấy được từ Mặt Trăng, thì sẽ dễ dàng nhìn thấy nó từ quỹ đạo gần Trái Đất. Trên thực tế, từ quỹ đạo gần Trái Đất, nó rõ ràng là hơi thấy được, và chỉ trong những điều kiện tốt. Và nó cũng không rõ rệt hơn nhiều vật thể khác do con người tạo ra.
  Một nhà du hành tàu con thoi thông báo rằng "chúng tôi có thể thấy những vật nhỏ như những đường băng sân bay [nhưng]Vạn Lý Trường Thành hầu như không nhìn thấy được từ khoảng cách 180 dặm Anh (290 km) trở lên." Nhà du hành vũ trụ William Pogue cho rằng ông đã thấy nó từ Skylab nhưng phát hiện ra rằng trên thực tế ông đang nhìn vào Đại Vận Hà gần Bắc Kinh. Ông nhận  ra Vạn Lý Trường Thành với ống nhòm, nhưng nói rằng "nó không thể nhìn thấy được bằng mắt thường không có thiết bị hỗ trợ." Một nhà du hành trong chương trình Apollo đã nói không một cấu trúc nào của con người có thể nhìn thấy từ khoảng cách vài nghìn dặm.   Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Jake Garn tuyên bố có thể nhìn thấy Vạn Lý Trường Thành bằng mắt thường từ trên quỹ đạo của tàu vũ trụ đầu thập kỷ 1980, nhưng tuyên bố của ông còn đang bị nhiều nhà du hành vũ trụ chuyên nghiệp khác của Mỹ phản đốiNhà du hành vũ trụ Dương Lợi Vĩ người Trung Quốc sau 21,5 giờ bay vòng quanh Trái Đất đến 14 lần, trở lại mặt đất đã xác minh trên truyền hình là không nhìn thấy được Vạn Lý Trường Thành từ không gian. Điều này dẫn đến việc Trung Quốc phải đính chính lại sách giáo khoa đã đăng thông tin này.
Từ quỹ đạo Trái Đất tầm thấp nó có thể được nhìn thấy với điều kiện thời tiết tốt. Điều này giống như việc có thể thấy các đặc điểm của Mặt Trăng ở những thời điểm nhất định và không thấy chúng vào những thời điểm khác, vì sự thay đổi trong hướng ánh sáng. Vạn Lý Trường Thành chỉ rộng vài mét — kích thước tương đương với đường xa lộ và đường băng — và nó đồng màu với đất đá xung quanh.
Cựu phi hành gia Mỹ Gene Cernan đã nói: "Ở quỹ đạo Trái đất từ 10km đến 320km, Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc quả thực là có nhìn thấy được bằng mắt thường." Ed Lu, Sĩ quan khoa học Expedition 7 trên Trạm vũ trụ quốc tế, nói thêm rằng, "...nó còn khó nhìn hơn nhiều vật khác. Và bạn phải biết cách tìm nó ở đâu."
Leroy Chiao, một nhà du hành người Mỹ gốc Hoa, đã chụp một bức ảnh từ Trạm vũ trụ quốc tế có hình bức tường thành. Nó không rõ đến mức mà ông không biết có phải đã thực sự chụp nó không. Dựa trên bức ảnh đó, một tờ báo nhà nước của Trung Quốc đã kết luận rằng Vạn Lý Trường Thành có thể được nhìn thấy từ vũ trụ bằng mắt thường, trong những điều kiện quan sát tốt, nếu người ta biết chính xác phải nhìn ở đâu [11].
BKTT

Source Internet.

Bức tranh Úc: Xã hội



Nguyễn Hưng Quốc
 
Đặc điểm nổi bật đầu tiên của xã hội Úc là tính chất đa dạng.
Trước hết là đa dạng về phương diện nguồn gốc. Theo cuộc điều tra dân số năm 2011, một phần tư (24.6%) dân Úc sinh ở nước ngoài, và 43.1%, tức gần một nửa, có ít nhất bố hoặc mẹ sinh ở nước ngoài. 
Tỉ lệ công dân sinh ở nước ngoài ở Úc, như vậy, cao hơn hẳn ở các nước khác (ví dụ, ở Anh: 20.8%; New Zealand: 9.1%; Trung Quốc: 6.0%; Ấn Độ: 5.6%). (Ở Mỹ, theo cuộc điều tra dân số năm 2010, chỉ có 13%, tức khoảng 40 triệu người sinh ở nước ngoài.)

Trong số trên 300 quốc gia gốc khác nhau, 10 quốc gia gốc có người định cư cao nhất tại Úc là:
Quốc gia gốcNgườiTuổi trung bìnhTỉ lệ nam
/100 nữ
'000Năm
Vương quốc Anh1 101.154101.7
New Zealand483.440102.8
Trung Quốc319.03579.8
Ấn Độ295.431125.2
Ý185.468104.7
Việt Nam185.04384.6
Philippines171.23960.6
Nam Phi145.73996.9
Mã Lai116.23983.5
Đức108.06290.6
Những nơi khác2 183.84495.6
Tổng số người sinh ở nước ngoài5 294.24596.1

Nhìn vào bảng trên, chúng ta thấy, nhiều nhất vẫn là những người sinh ở vương quốc Anh, bao gồm Anh, Bắc Ái Nhĩ Lan, Scotland (Tô Cách Lan) và Wales (21%). Thứ hai là người New Zealand (9.1%). Điều này cũng dễ hiểu. Từ năm 1973, hai chính phủ Úc và New Zealand đã thỏa thuận với nhau để công dân hai nước, nếu muốn, có thể sang xứ kia sống và làm việc một cách dễ dàng; hơn nữa, còn được hưởng tất cả các quyền lợi mà công dân nước ấy được hưởng (ví dụ: chính sách an sinh xã hội, bảo hiểm y tế và giáo dục).

Đứng ngay sau hai nước nói tiếng Anh vốn có nguồn gốc chung với Úc ấy là hai nước Á châu: Trung Quốc (6.0%) và Ấn Độ (5.6%). Riêng người Việt thì đứng hàng thứ sáu với 185.000 người. So với cuộc điều tra dân số năm 2006, số người gốc Việt tại Úc tăng lên 26.000 người. Tốc độ tăng trưởng của người gốc Việt từ năm 2006 đến 2011, như vậy, nhanh hơn thời gian giữa hai cuộc điều tra dân số trước đó: từ năm 2001 đến 2006, chỉ tăng có 5.000 người. Số người mới tới Úc này chủ yếu nằm trong hai trường hợp: một là do bảo lãnh (con cái bảo lãnh cho bố mẹ hoặc vợ chồng bảo lãnh cho nhau) và hai là các du học sinh, sau khi tốt nghiệp, xin ở lại Úc.

Từ góc độ di dân, xu hướng nổi bật nhất là sự gia tăng của người Á châu. Trước năm 2007, đứng đầu danh sách người di dân đến Úc là từ Anh (khoảng một phần tư), sau đó là các nước thuộc Âu châu (nhiều nhất là Ý, Hy Lạp và Ba Lan). Nhưng từ đó về sau, tuy Anh vẫn là nước đứng đầu, các nước có số di dân sang Úc đông nhất lại thuộc châu Á. Đứng đầu là người Ấn Độ (từ 2001 đến 2011 tăng trên 200.000 người); sau đó là người Trung Quốc. Người Trung Quốc (không kể người Đài Loan) ở Úc, vào năm 2001, chỉ có 142.780; đến năm 2006, tăng vọt lên 206.591 và bây giờ là 319.000: trong vòng 10 năm, tăng 174.000 người. Số di dân gốc Bangladesh tăng 11.9%; gốc Pakistan tăng 10.2%.

Nhìn chung, từ năm 2001 đến nay, số người gốc Âu châu tại Úc giảm từ 51% xuống 40%. Cùng thời gian ấy, số người gốc Á châu lại tăng từ 24% lên đến 33%.

Ngoài sự đa dạng về nguồn gốc, Úc còn đa dạng về ngôn ngữ. Có tổng cộng trên 300 ngôn ngữ khác nhau hiện đang được sử dụng tại Úc, với những phạm vi và mức độ khác nhau. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh. Vào năm 2011, 81% trẻ em từ 5 tuổi trở lên chỉ nói tiếng Anh trong nhà. Tuy nhiên cũng có 2% hoàn toàn không nói tiếng Anh.
Mười ngôn ngữ được sử dụng nhiều nhất trong các gia đình Úc (không kể trẻ em dưới 5 tuổi) là:

Ngôn ngữ nói ở nhàNgườiTỉ lệ so với dân sốTỉ lệ nói tiếng Anh giỏiTỉ lệ sinh ở Úc
'000%%%

Chỉ nói tiếng Anh15 394.780.7..83.8
Tiếng Quan Thoại319.51.737.59.0
Tiếng Ý295.01.562.143.2
Tiếng Ả Rập264.41.461.938.5
Tiếng Quảng Đông254.71.346.419.9
Tiếng Hy Lạp243.31.365.054.1
Tiếng Việt219.81.239.527.9
Tiếng Tây Ban Nha111.40.662.121.9
Tiếng Hindi104.90.580.29.8
Tiếng Tagalog79.00.466.95.9


Ở trên, chúng ta thấy số người Việt sinh ở Việt Nam hiện đang sống tại Úc là 185.000; ở đây, chúng ta lại thấy có đến 219.800 người nói tiếng Việt ở nhà. Con số chênh lệch gần 35.000 người ấy chính là các trẻ em sinh trưởng tại Úc. Đây là một điều đáng mừng: Các thống kê về ngôn ngữ xã hội học tại Úc cho thấy phần lớn người Việt thuộc thế hệ thứ hai tại Úc vẫn còn nói tiếng Việt trong gia đình. Bởi vậy, người Việt được đánh giá rất cao trong việc bảo tồn tiếng mẹ đẻ. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, số người Việt tự nhận nói tiếng Anh giỏi tương đối ít, chỉ có 39.5%, cao hơn người Tàu nói tiếng Quan Thoại, nhưng thấp hơn hẳn các sắc dân khác.

Ngoài sắc tộc và ngôn ngữ, xã hội Úc còn khá đa dạng về tôn giáo. Trước, Thiên Chúa giáo (bao gồm nhiều nhánh khác nhau, từ Công giáo đến Anh giáo, Chính thống giáo và Tin Lành) chiếm địa vị thống trị tại Úc. Năm 1911, Thiên Chúa giáo chiếm 96% dân số. Một trăm năm sau, vào năm 2011, tỉ lệ này giảm xuống còn 61%. Thì vẫn còn ưu thế. Nhưng không còn độc tôn nữa. Thế vào đó là sự phát triển của các tôn giáo khác, từ Phật giáo đến Hồi giáo và Ấn Độ giáo, và những người tự nhận là không có đạo gì cả.

Dân sốTỉ lệ người sinh ở nước ngoài()
Tôn giáo'000%%

Christian13 150.661.122.9
Catholic5 439.225.324.0
Anglican3 680.017.117.5
Uniting Church1 065.85.011.4
Presbyterian and Reformed599.52.826.3
Eastern Orthodox563.12.643.6
Baptist352.51.628.8
Lutheran251.91.224.5
Pentecostal238.01.132.6
Other Christian960.74.531.0
Non-Christian1 546.37.267.0
Phật giáo529.02.569.4
Hồi giáo476.32.261.5
Ấn Độ giáo275.51.384.3
Do Thái giáo97.30.548.9
Các nhánh khác thuộc Thiên Chúa giáo168.20.857.2
Không tôn giáo4 796.822.322.5
Tổng cộng21 507.7100.026.1


Từ năm 2001 đến 2011, trong vòng 10 năm, số tín đồ không phải Thiên Chúa giáo tăng từ 0.9 triệu lên 1.7 triệu, tức từ 4.9 lên 7.2% dân số Úc. Trong các tôn giáo ngoài Thiên Chúa giáo ấy, nổi bật nhất là Phật giáo (2.5% dân số), Hồi giáo (2.2%) và Ấn Độ giáo (1.3%). Trong ba tôn giáo ấy, hiện nay Phật giáo vẫn lớn nhất, nhưng tốc độ phát triển của Phật giáo trong mười năm qua chỉ tăng 48%, thấp hơn hẳn Ấn Độ giáo (189%) và Hồi giáo (69%). Nhìn vào bảng ở trên, chúng ta có thể thấy ngay hầu hết các tín đồ của ba tôn giáo này đều sinh ở nước ngoài (69.4% đối với Phật giáo; 61.5% đối với Hồi giáo và 84.3% đối với Ấn Độ giáo). Nói cách khác, đó chủ yếu là tôn giáo của di dân.
Nói đến tôn giáo, chúng ta cần ghi nhận sự kiện này: Một số học giả Úc cho một trong những đóng góp lớn nhất của cộng đồng người Việt Nam vào xã hội Úc chính là trong lãnh vực tôn giáo. Giáo sư Desmond Cahill thuộc đại học RMIT nhận định: “Không ở đâu 
sự hiện diện của người Việt Nam lại đáng kể như trong việc làm thay đổi diện mạo tôn giáo tại Úc.”

Trước hết, đối với Công giáo, trong số 3000 linh mục tại Úc, có 120 là người gốc Việt. Đây là số liệu từ năm 2005. Từ đó đến nay hẳn số linh mục gốc Việt còn tăng hơn nữa. Giáo sư Cahill tiên đoán trong tương lai vị thế người gốc Việt trong hàng ngũ linh mục tại Úc sẽ càng nổi trội hơn nữa.

Đối với Phật giáo, vai trò của người Việt cũng rất quan trọng. Số liệu về tôn giáo của từng sắc tộc từ cuộc điều tra dân số năm 2011 chưa được công bố. Tôi chỉ có số liệu từ cuộc điều tra dân số năm 1991: Lúc ấy, cộng đồng người Việt có 46.674 người khai là theo đạo Phật, chiếm 32.72% tổng số Phật tử tại Úc. Trong cuộc điều tra dân số năm 2001, riêng tại tiểu bang Victoria, có 33.145 người Việt theo đạo Phật, chiếm 29.7% tổng số Phật tử trong tiểu bang.

Source http://www.voatiengviet.com/content/buc-tranh-uc-xa-hoi/1553867.html

Giải Pháp Nào Cho Đảo Senkaku/Điếu Ngư?



 
 Trúc Giang MN
1* Mở bài
Việc tranh chấp chủ quyền về quần đảo Senkaku/Điếu Ngư giữa Trung Cộng và Nhật Bản đã có từ lâu. Ngày 7-9-2010, một tàu cá Trung Cộng cố tình đâm vào tàu tuần của Nhật trong vùng biển tranh chấp thuộc Nhật quản lý, đưa đến việc thuyền trưởng Zhan Qixiong và 14 thủy thủ bị Nhật bắt giữ khiến cho Trung Cộng làm ầm lên, đình chỉ xuất khẩu đất hiếm sang Nhật, sau đó, Nhật nhượng bộ, thả thuyền trưởng, 14 thủy thủ và trả chiếc tàu.

Và mới đây, ngày 11-9-2012, chính phủ Nhật mua lại để quốc hữu hoá quần đảo đã khiến cho Trung Cộng nổi giận, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 85 biến cố Mãn Châu, đánh dấu ngày khởi đầu cuộc xâm lăng của Đế quốc Nhật ở phía Bắc Trung Hoa. Trung Cộng cho tổ chức biểu tình chống Nhật đồng loạt trên 85 thành phố. Biểu tình bạo động, đập phá các cơ sở kinh doanh của người Nhật, gây thiệt hại cho Nhật trên 100 triệu USD..

Ngày 15-8-2012, 14 nhà hoạt động Trung Cộng từ Hồng Kông đến đổ bộ lên 3 đảo, đã bị Nhật bắt và trục xuất lập tức.

Ngày 19-8-2012, 150 người Nhật từ Okinawa đến cắm cờ Nhật trên đảo. Tình hình căng thẳng thêm khi Trung Cộng tập trận hải quân lớn, bắn 40 hỏa tiễn, rồi cho 6 tàu hải giám xuất hiện ở vùng biển tranh chấp. Tuần dương Nhật báo cáo, từ ngày 18 đến 24-9-2012, đã có 20 tàu tuần tra của TC xâm nhập lãnh hải Nhật.

Ngày 25-9-2012, Đài Loan nhảy vào tranh chấp, đòi chủ quyền trên quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. 50 tàu cá Đài Loan được 10 tàu tuần duyên yểm trợ đã xâm nhập vùng biển tranh chấp. Đọ sức tay đôi xảy ra. Hai bên dùng vòi ròng phun nước vào nhau, sau đó, tàu Đài Loan rút lui.

2* Tổng quát về quần đảo Senkaku/Điếu Ngư
Quần đảo mang tên Senkaku (Nhật) và Diaoyu (Điếu Ngư) Trung Hoa, (tiếng Anh là Pinnacle) là một nhóm đảo nhỏ không có người ở, nằm về phía Bắc Đài Loan, phía Tây Nam đảo Okinawa của Nhật. Tổng diện tích của 5 hòn đảo là 7 km2. Đảo Senkaku/Điếu Ngư lớn nhất, diện tích 3.82 km2.

Đảo cách bờ biển Phúc Kiến (Hoa Lục) 200 hải lý, cách Đài Loan 120 hải lý và cách Okinawa

200 hải lý.

Cuộc khảo sát năm 1969 do LHQ tiến hành cho biết có tiềm năng lớn về dầu khí thể khai thác,Nhật cho rằng đó là lý do khiến Trung Cộng muốn chiếm quần đảo nầy. Hiện nay, Trung Cộng, Đài Loan và Nhật Bản đang tranh chấp về chủ quyền của quần đảo.

3* Lập luận về chủ quyền
3.1. Lập luận của Trung Cộng
Trung Cộng cho rằng Điếu Ngư phụ thuộc vào Đài Loan do nhà Mãn Thanh cai quản từ thế kỷ 14. Khi nhà Thanh bại trận nên phải ký Hoà Ước Mã Quan (Shimonoseki 1895) nhường vĩnh viễn Đài Loan và Bành Hồ cho Nhật Bản.

Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh tháng 9 năm 1945, Nhật phải từ bỏ chủ quyền trên Đài Loan và Bành Hồ.

Ngày 28-4-1952, tại Đài Bắc, Nhật và Đài Loan (Tưởng Giới Thạch) ký Hiệp Ước hủy bỏ Hiệp Ước Mã Quan năm 1895, cụ thể là trả Đài Loan và Bành Hồ lại cho Tưởng Giới Thạch.

Vì Trung Cộng gắn chặt đảo Điếu Ngư vào Đài Loan cho nên khi trả Đài Loan thì xem như bao gồm cả Điếu Ngư trong đó. Thật ra, Điếu Ngư quá nhỏ, không người ở, cho nên không có tên trong các văn kiện ký kết.

Trong một chiếu chỉ của triều đình Mãn Thanh năm 1893 có ghi việc cho phép thu nhập các thảo mộc trên 3 hòn đảo của nhóm đảo Điếu Ngư nầy. Mới đây, Trung Cộng cho biết đã tìm được tấm bản đồ do một đại tá Pháp tên Pierre Lapie và con trai vẽ hồi năm 1832. Đại sứ TC Liêu Lý Cường tìm được quyển sách ở Brussels, Bỉ. Bản đồ có màu sắc của những hòn đảo giống nhau, nên Trung Cộng xem quần đảo Điếu Ngư thuộc chủ quyền của TC. Bản đồ trong sách mua được ở Bỉ không đủ yếu tố pháp lý để xác nhận chủ quyền.

3.2. Lập luận của Nhật Bản
Nhật Bản cho rằng, trước năm 1858, Senkaku/Điếu Ngư là một đảo hoang, không có người ở, xem như vô chủ. Từ năm 1884, ngư dân Nhật đến đảo nầy khai thác phân chim và lông chim nhưng không gặp một trở ngại nào từ triều đình Trung Hoa, và cũng không có người Trung Hoa nào sinh sống trên đảo cả.

Nhật đã làm thủ tục sát nhập Senkaku/Điếu Ngư vào thành phố Okinawa vào tháng 1 năm 1895, tức trước Hiệp Ước Mã Quan ngày 17-4-1895 một thời gian là 3 tháng, có nghĩa là Senkaku thuộc về Nhật trước khi Nhật chiếm Đài Loan và Bành Hồ.

3.3. Vài nét lịch sử về Senkaku/Điếu Ngư
Nhật đã kiểm soát đảo nầy từ năm 1895.

Năm 1900, một giáo viên Nhật tên Tsune Kuroiwa của tỉnh Okinawa đã đến thăm đảo và đặt tên cho nó là Senkaku Retto.

Khỏang năm 1900, một doanh nhân Nhật tên Koga Tatsushiro đã xây dựng một nhà máy chế biến cá ngừ trên đảo, có 200 công nhân. Việc làm ăn thất bại, nhà máy đóng cửa vào năm 1940 và từ đó đảo vẫn bỏ hoang.

Thập niên 1970, con cháu Koga Tatsushiro bán 4 đảo cho gia tộc Kurihara. Ông Kurihara Hiroyuki sở hữu 3 đảo lớn, trong đó Senkaku lớn nhất, diện tích 3.82 km2, cao 363m, và người em gái làm chủ đảo Kuba (1.55 km2, cao 117m)

Năm 2002, Bộ Nội vụ Nhật thuê 3 đảo của Kurihara Hiroyuki và trả ông nầy 25 triệu Yen mỗi năm. Bộ “Quốc Phòng” Nhật thuê đảo Kuba và trả cho người em gái của Hiroyuki một số tiền không được tiết lộ.

Ngày 11-9-2012, chính phủ Nhật mua lại quần đảo Senkaku/Điếu Ngư và trả cho gia đình Kurihara 2.05 tỷ Yen (26.15 triệu USD) để quốc hữu hoá quần đảo nầy.

3.4. Nhật Bản và Hoa Kỳ kiểm soát Senkaku
Sau khi Nhật bại trận trong Thế chiến thứ 2, Okinawa và quần đảo Senkaku đặt dưới sự chiếm đóng của Hoa Kỳ vào năm 1945. Thời gian nầy, người Nhật muốn đến Okinawa và Senkaku thì phải xin Visa của HK.

Năm 1971, HK trả Okinawa và Senkaku lại cho Nhật Bản, từ đó chính quyền Nhật kiểm soát quần đảo Senkaku/Điếu Ngư.

3.5. Động, thực vật trên đảo
Trên đảo có loài chuột chũi và kiến, và những con dê được thả lên năm 1978. Đảo còn là nơi sinh sống của loài chim hải âu đuôi ngắn.

3.6. Tính chất quan trọng của đảo Senkaku/Điếu Ngư

Ngoài tiềm năng về dầu khí, Senkaku/Điếu Ngư chiếm vị trí quan trọng về quân sự, đó là kiểm soát đường ra vào biển lớn của hải quân Trung Cộng, có thể đe dọa những căn cứ quân sự của Nhật và Hoa Kỳ từ Okinawa, đảo Guam đến Hawaii.

4* Senkaku/Điếu Ngư đối với Công Ước Quốc Tế về Luật Biển
4.1. Công Ước Quốc Tế về Luật Biển
Công Ước QT về Luật Biển (United Nations Convention on Law of the Sea-UNCLOS) xem như Luật QT về biển của LHQ, được các quốc gia tham dự công nhận, ký tên từ ngày 10-12-1982, có hiệu lực kể từng ngày 16-11-1994. Hoa Kỳ không ký tên tham gia.

Những quy định căn bản của Công Ước:

1. Lãnh hải (hải phận-Territorial Sea) của 1 quốc gia là 12 hải lý (22km), nếu có bờ biển đủ rộng.

2. Vùng tiếp giáp lãnh hải (Contiguous zone): 24 hải lý tính từ bờ biển. Quốc gia có quyền thi hành luật pháp về buôn lậu, nhập cư trái phép và gây ô nhiễm…

3. Vùng Đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone-EEZ); 200 hải lý từ bờ biển.

4. Vùng Thềm lục địa (Continental Margin): từ 350 hải lý trở vào bờ biển. (Không vượt ra ngoài 350 hải lý)

Vùng Đặc quyền kinh tế cho phép:

- Tàu thuyền dân sự của các quốc gia khác có quyền lưu thông.

- Tự do hàng không.

- Tự do đặt ống dẫn dầu và dây cáp.

4.2. Senkaku/Điếu Ngư đối với Luật Biển
Căn cứ vào Luật Biển Quốc Tế thì quần đảo nầy:

- Nằm trong vùng Đặc quyền kinh tế của Trung Cộng (Cách Hoa lục 200 hải lý)

- Vừa nằm trong vùng Đặc quyền kinh tế của Nhật (Cách Okinawa 200 hải lý)

2* Hận thù dân tộc trong quá khứ khó xoá bỏ được
2.1. Cuộc chiến tranh Trung - Nhật lần thứ nhất
Do chính sách duy tân của Thiên hoàng Minh Trị, Nhật Bản xây dựng một quân đội hùng mạnh nên có ý đồ mở rộng lãnh thổ sang Đông Nam Á, bắt đầu tấn công Trung Hoa.

Cuộc chiến xảy ra từ ngày 1-8-1894 đến 17-4-1895. Quân nhà Mãn Thanh đại bại chỉ trong vòng 8 tháng.

Bị thất trận, nhà Thanh phải ký Hoà Ước Mã Quan (Shimonoseki 1895) ngày 17-4-1895 nhường vĩnh viễn Đài Loan và Bán đảo Liêu Đông cho Nhật.

Phải cho phép tàu buôn Nhật đi lại trên sông Dương Tử (Trường Giang), do Nhật mở các nhà máy ở các hải cảng.

Đồng thời nước bị đánh bại phải bồi thường chi phí chiến tranh cho Nhật là 340 triệu lạng bạc. (Khoảng 21 triệu mỹ kim)

Nhà Thanh suy yếu, các cường quốc xúm vào xâu xé, buộc phải cắt đất. Nhường Thanh Đảo (Sơn Đông) và Giao Châu cho Đức, Vịnh Quảng Châu cho Pháp, Uy Hải Vệ cho Anh (Sau khi nhường Hồng Kông cho Anh trong Chiến tranh Nha Phiến trước đó).

2.2. Cuộc chiến tranh Trung - Nhật lần thứ hai
Ngày 7-7-1937, quân đội Thiên hoàng tiến đánh và chiếm giữ Bắc Trung Hoa cho đến ngày Nhật đầu hàng Đồng Minh năm 1945.

Sự cai trị của quân phiệt Nhật rất tàn bạo đã gây mối thù sâu sắc giữa 2 dân tộc.

3* Vụ hãm hiếp phụ nữ ở Nam Kinh
Ngày 13-12-1937, quân Nhật chiếm Nam Kinh một cách dễ dàng vì quân Trung Hoa bỏ chạy. (Nam Kinh thuộc tỉnh Giang Tô, nằm dưới Bắc Kinh và sát trên Thượng Hải, đã từng là kinh đô của 6 triều đại)

Quân Nhật bắt đầu thực hiện những hành động tàn ác như cướp bóc, đốt phá, hành quyết tù binh, bắn giết thường dân và nhất là hãm hiếp phụ nữ.

Thời gian đó, những người Tây phương như những nhà truyền giáo, ký giả, thương gia, làm nhân chứng về những vụ thảm sát ở Nam Kinh.

Nhà truyền giáo Harold Timberly đưa ra con số được nhiều quốc gia công nhận là 300,000 thường dân Trung Hoa bị giết.

Hành vi tàn bạo nhất là cuộc thi chặt đầu 100 người giữa 2 sĩ quan Nhật cấp Trung úy, xem ai là người dùng gươm của mình chặt đầu người thứ 100 trước người kia.

Trung úy Toshiaki Mukai thắng cuộc, vì đã chặt được 106 cái đầu, hơn trung úy Tsuyoshi, 105.

3.1. Hãm hiếp phụ nữ
Sau đây là hồi ký của một nhân chứng.

Ba mươi cô gái bị bắt từ một trường ngoại ngữ tối qua, và hôm nay tôi đã nghe nhiều câu chuyện đau lòng về những cô gái bị bắt đó -- một trong số họ mới chỉ 12 tuổi....Tối nay một chiếc xe tải chạy qua và trong đó là tám hay mười cô gái khác, và khi nó chạy qua họ gào lên "Ging ming! Ging ming!"--cứu chúng tôi!. (Nhật ký Minnie Vautrin, 16 tháng 12, 1937)

Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông đã cho rằng 20.000 (và có lẽ có thể lên tới 80.000) phụ nữ đã bị hãm hiếp - họ ở trong độ tuổi từ thiếu niên cho tới già lão (tới 80 tuổi). Những vụ hãm hiếp thường diễn ra ở nơi công cộng ngay giữa ban ngày, thỉnh thoảng trước mặt cả người chồng hay gia đình nạn nhân.

Một số lớn trong những vụ hãm hiếp đó mang tính hệ thống, theo một quy trình với các binh sĩ đi tìm kiếm từng nhà để bắt các cô gái trẻ, rất nhiều phụ nữ bị bắt và bị hiếp dâm tập thể. Những phụ nữ đó bị giết hại ngay sau khi bị hãm hiếp, thường bị cắt xẻo thân thể. Theo một số lời chứng, các phụ nữ khác bị buộc phải vào trại mãi dâm quân đội làm phụ nữ giải trí.

Thậm chí còn có những câu chuyện kể rằng quân đội Nhật buộc nhiều gia đình phải thực hiện các hành vi loạn luân.[9]

Con trai bị buộc phải hiếp mẹ mình, những người cha bị buộc phải hiếp con gái. Một phụ nữ có thai bị binh lính Nhật hiếp dâm tập thể đã sinh con chỉ vài giờ sau đó; đứa trẻ hoàn toàn khỏe mạnh (Robert B. Edgerton, Warriors of the Rising Sun). Những vị sư sãi đã nguyện trọn đời chay tịnh bị buộc phải hiếp các phụ nữ để làm trò vui cho quân Nhật.[9] Đàn ông Trung Quốc bị buộc phải hiếp các xác chết. Bất kỳ sự chống cự nào đều dẫn tới sự hành quyết. Tình trạng hãm hiếp đạt tới đỉnh điểm ngay sau khi thành phố sụp đổ nhưng nó còn tiếp tục kéo dài suốt thời gian chiếm đóng của Nhật Bản.

3.2. Nhà thổ của quân đội Nhật
Các sử gia cho rằng có khoảng 200,000 phụ nữ Triều Tiên và Trung Hoa bị bắt buộc phục vụ trong các nhà thổ của quân đội Nhật trong những năm từ 1930 đến 1940.

Năm 1938, chính phủ Nhật đã ký một văn bản xác nhận sự cần thiết của các nhà thổ trong mỗi tiểu đoàn, và đã đặt mua 321 triệu bao cao su để bảo đảm an toàn cho binh sĩ.

3.3. Quỹ Phụ Nữ Châu Á
Năm 1995, Nhật đã vận động quyên tiền từ dân chúng để thành lập Quỹ Phụ Nữ Châu Á nhằm chi trả tiền bồi thường cho những phụ nữ các nước châu Á bị quân đội Nhật ép buộc làm nô lệ tình dục.

Tuy nhiên, Hàn Quốc cho rằng quỹ nầy không thể thay thế được sự bồi thường và sự xin lỗi chính thức của chính phủ Nhật.

Trong khi đó, Nhật cho rằng vụ việc đã được giải quyết xong bằng việc bồi thường cho các nạn nhân với số tiền trọn gói là 300 triệu USD.

Vấn đề lịch sử xâm chiếm Triều Tiên của Nhật, bao gồm cả việc nô lệ tình dục là trở ngại cho quan hệ hai nước, nhất là trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền về đảo Dokdo/Taeshima của hai nước hiện nay.

4* Đơn vị 731 của quân đội Nhật
Đơn vị 731 của Nhật là một đơn vị nghiên cứu và phát triển vũ khí hóa-sinh của Quân đội Hoàng gia Nhật Bản, đơn vị này đã tiến hành nhiều thí nghiệm nguy hiểm trên cơ thể người trong chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai (1937-1945) và chiến tranh thế giới thứ hai. Nó được coi là một trong những tội ác chiến tranh khét tiếng nhất của người Nhật.

Hơn 10.000 người, tức là khoảng 600 người mỗi năm bị Hiến binh Nhật bắt giữ để làm vật thí nghiệm cho dự án 731.

Theo Hội thảo quốc tế về tội ác của chiến tranh vi khuẩn năm 2002 , số người bị giết lên tới hơn 200.000 gồm binh lính và dân thường Trung Hoa.

Tổng tư lệnh Ishii Shiro, Trung tướng Masaji Kitano, Cục phòng chống dịch bệnh và xử lý nước Quân đội Quan Đông, là thủ phạm.
5* Những cuộc xét xử
Năm 1948, toà án Tokyo kết án tử hình tướng Iwane Matsui về Tội ác chống loài người. Các tướng Hisao Tani, Rensuke Isogai bị toà Nam Kinh kết án tử hình.

Theo Hiệp ước ký kết giữa Tướng McArthur và Nhật hoàng Hirohito, thì chính hoàng đế và toàn thể các thành viên trong gia đình hoàng gia sẽ không bị truy tố. Do đó, hoàng tử Asak, là một sĩ quan cao cấp tại thành phố ở thời điểm xảy ra vụ thảm sát không bị kết án.

Nhiều người Triều Tiên cao niên còn căm thù đối với người Nhật trong thời kỳ đô hộ nước họ. Hàng trăm ngàn người Triều Tiên bị đưa ra chiến đấu ở tuyến đầu và làm việc như nô lệ trong những điều kiện vô cùng cực khổ. Phụ nữ Triều Tiên bị đưa vào phục vụ sinh lý cho quân dội Nhật.

6* Chiến tranh thương mại Nhật-Trung có thể xảy ra hay không?
6.1. Kinh tế Nhật không dễ bị trừng phạt
Trước những cuộc biểu tình bạo loạn chống Nhật, hai tờ báo Nhân Dân và China Daily cho rằng: “Nền kinh tế Nhật sẽ bị thiệt hại nghiêm trọng nếu Trung Cộng áp đặt việc trừng phạt kinh tế đối với nước nầy và thiệt hại kinh tế Trung Cộng tương đối thấp”. Tuy nhiên, trang Tài Chánh Bắc Kinh cho rằng 2 tờ báo nầy “nói cho sướng mìệng” chứ không dựa vào phân tích dữ kiện.

Trang Tài Chánh Bắc Kinh phân tích:

Nền kinh tế Nhật mang tính toàn cầu với phẩm chất kỹ thuật rất cao, trái lại nền công nghiệp của Trung Cộng cơ bản có chất lượng thấp. Mỗi năm, Trung Cộng phải nhập cảng linh kiện và bộ phận rời kỹ thuật cao của Nhật để lắp ráp thành sản phẩm xuất khẩu trên toàn cầu. Khi Nhật bị nạn sóng thần thì nền công nghiệp xe hơi của Trung Cộng và ngay cả Mỹ cũng bị chao đảo.

Nhật đứng đầu thế giới về khoa học, kỹ thuật. 700,000 nhà nghiên cứu với một ngân khoản 130 tỷ USD mỗi năm. Những phát minh quan trọng trong ngành điện tử, ôtô, máy móc, robot công nghiệp, hoá chất, quang học, kim loại, không gian... Khoa học gia Nhật chiếm giải Nobel nhiều nhất châu Á. (18 người). Nhật có khả năng sản xuất bom nguyên tử trong vòng 90 ngày.

6.2. Ám ảnh nạn thất nghiệp ở Trung Cộng
Nếu chiến tranh thương mại xảy ra, Nhật sẽ đóng cửa các nhà máy ở Trung Cộng thì hàng triệu lao động sẽ bị thất nghiệp.

6.3. Thiệt hại của Trung Cộng về du lịch

Mỗi năm có 3.3 triệu người Nhật đi du lịch ở Trung Cộng, trong khi đó, chỉ có 1 triệu người Hoa đi du lịch và kinh doanh đến Nhật. Vừa qua, hảng hàng không Nhật hủy bỏ 40,000 vé máy bay đặt trước để du lịch đến Trung Cộng, nếu chiến tranh thương mại xảy ra thì ngành du lịch Trung Cộng sẽ bị thiệt hại đáng kể.

6.4. Tất cả đều thua
Theo tờ Wall Street Journal thì các công ty Mỹ, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia, Đức, Thái Lan đều có mối quan hệ chằng chịt không thể tách rời ra đối với Nhật, cũng như đối với Trung Cộng, do đó, nếu chiến tranh thương mại nổ ra thì tất cả đều bị tác động rất lớn ở tầm mức quốc tế.

“Đây là một cú đòn nặng nề giáng vào nền kinh tế thế giới”, nhà kinh tế Andy Xie, chuyên gia của ngân hàng Morgan Stanley nhận xét như thế.

Chuyên gia kinh tế châu Á, Sarah McDowell thuộc hảng HIS Global Insight nêu nhận xét, Trung Cộng chỉ hù doạ suông vậy thôi, và hai nước sẽ duy trì quan hệ thương mại để tránh những hậu quả to lớn cho cả hai.

Trung Cộng và Nhật Bản phụ thuộc về kinh tế của nhau, Trung Cộng hiểu rõ như thế, do đó chiến tranh thương mại rất khó có thể xảy ra.

7* Giải pháp tòa án quốc tế Vì Công Lý
Sở dĩ Nhật quốc hữu hoá quần đảo Senkaku/Điếu Ngư là do ý muốn đưa vấn đề tranh chấp chủ quyền ra Toà Án Quốc Tế Vì Công Lý, bởi vì tòa nầy chỉ xét xử những vụ tranh chấp của các quốc gia với nhau.

Ngày 26-9-2012, Thủ tướng Nhật Yoshihiko Noda tuyên bố rằng, Nhật sẽ giành thắng lợi nếu vụ tranh chấp lãnh thổ được đưa ra Toà Án Quốc Tế Vì Công Lý, khi trả lời phỏng vấn báo chí bên lề kỳ họp Đại Hội Đồng LHQ ở New York ngày nói trên.

Toà Án QT Vì Công Lý (International Court of Justice-ICJ) là một bộ phận trực thuộc LHQ, thụ lý và giải quyết tranh chấp các vấn đề giữa các quốc gia thành viên. Tòa được thành lập năm 1945, tọa lạc tại thành phố Den Haag (La Haye, The Hague) thuộc Hòa Lan.

Vì toà ICJ không có tính cưỡng chế, nhiều trường hợp phán quyết của toà không được thi hành nên việc tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư sẽ không được giải quyết bằng luật pháp quốc tế. Phán quyết của toà án nầy chỉ mang tính chính trị, là cho thế giới biết, ai là chủ quyền của quần đảo, nhưng phải được hai bên cùng nạp hồ sơ xin toà xét xử.

8* Okinawa nơi tập trung không lực của Hoa Kỳ
Tờ Thanh Niên Tham Khảo của Trung Cộng có bài viết “Okinawa đang trở thành “tổ chim diều hâu” của lực lượng trên không của HK tại châu Á- Thái Bình Dương”.

Máy bay cánh xoay MV-22 Osprey, máy bay tuần tra săn tàu ngầm P-8A Poseidon, máy bay chiến đấu tàng hình F-35 Lightning II và F-22 Raptor cùng với phi cơ chiến tranh điện tử Boeing EA-18G Growler đã triển khai tại những căn cứ Futenma, Kadena thuộc Okinawa.

5 loại phi cơ chiến đấu uy lực nhất của HK đã chọn Okinawa làm đại bản doanh. Từ khi Washington tuyên bố quay lại châu Á Thái Bình Dương thì Đông Bắc Á trở thành khu vực để Ngủ Giác Đài trang bị vũ khí tối tân nhất. Hàng không mẫu hạm (HKMH) hạt nhân, tàu ngầm hạt nhân tấn công lớp Virginia (2.4 tỷ USD/chiếc), tàu tác chiến tàng hình ven bờ LCS (Litteral Combat Ship) siêu chiến hạm tàng hình Zamwalt DDG-1000 (3 tỷ USD/chiếc), phi cơ tàng hình ném bom tầm xa, tốc độ siêu thanh B-2 (929 triệu USD/chiếc), phi cơ cảnh báo sớm…

8.1. Phi cơ chiến đấu tàng hình F-22 Raptor và F-35 Lightning II
F-22 Raptor

F-22 Raptor tàng hình, tấn công mặt đất, tác chiến điện tử và trinh sát vô tuyến. Là phi cơ thế hệ 5 duy nhất hiện được đưa ra xử dụng từ năm 2005 (195 chiếc, giá 130 triệu USD/chiếc).

Đối thủ của F-22 Raptor là chiếc Chengdu J-20 của Trung Cộng. J-20 bay thử 15 phút khi Bộ trưởng QP/HK Robert Gates đang viếng nước nầy. Sẽ đưa vào xử dụng từ 2017-2019. Công nghệ tàng hình của J-20 được cho là ăn cắp từ chiếc F-117 vốn bị bắn rơi ở Kosovo năm 1999 hoặc kỹ thuật của chiếc B-2 Spirit được lấy bằng cách nào đó.

F-35 Lightning II

F-35 Lightning II là phi cơ chiến đấu tàng hình hiện đại nhất của thế hệ 5. Đặc tính đa nhiệm vụ: không chiến (Tiêm kích), tấn công mặt đất (cường kích) và ném bom. Được đưa vào xử dụng ngày 15-12-2006. F-35A cất cánh bình thường. F-35B cất cánh đường bay ngắn, đáp xuống thẳng đứng như trưc thăng. F-35C dành cho hàng không mẫu hạm. (giá 236 triệu USD/chiếc)

Đối thủ của chiếc F-35 là chiếc Shenyang J-31 (F-60) của TC và chiếc T-50 (PAK FA) của Nga.

Ngày 31-10-2012 vừa qua, TC cho bay thử thời gian 10 phút chiếc nầy mang số 31001, trước khi Bộ trưởng QP/HK Leon Panetta đến viếng Bắc Kinh.

8.2. Phi cơ cánh xoay MV-22 Osprey
Phi cơ cánh xoay MV-22 Osprey được thiết kế để xử dụng vừa là một chiếc trực thăng, vừa là một phi cơ thường. Cánh có thể xoay 90 độ để đưa chong chóng phía trước hướng lên trời như trực thăng, và ngược lại. Là phi cơ vận tải có vũ khí tự vệ. Chở nhiều quân hơn và các vũ khí năng hơn trực thăng, nhưng có tốc độ cao hơn và bay xa hơn trực thăng.

8.3. Phi cơ săn tàu ngầm Boeing P-8 Poseidon
Chiếc Boeing P-8 Poseidon được thiết kế để săn tàu ngầm và dọ thám điện tử. Săn tàu ngầm bằng ngư lôi và hoả tiễn tấn công dưới mặt nước. Chống hỏa tiễn từ tàu ngầm phóng lên, thường hoạt động hỗn hợp với máy bay do thám không người lái. Ngày 24-9-2012, Boeing cho biết đã nhận 1.9 tỷ USD để sản xuất thêm 11 chiếc sau khi đưa ra xử dụng 3 chiếc.

P-8A Poseidon là phi cơ chống tàu ngầm hiện đại nhất hiện nay.

8.4. Phi cơ chiến tranh điện tử EA-18G Growler
Chiếc Boeing EA-18G Growler được thiết kế để trang bị cho hàng không mẫu hạm, nhiệm vụ tác chiến điện tử. Năm 2009, Hải quân HK đã có 58 chiếc và đang có kế hoạch mua thêm 90 chiếc cho 10 phi đội. Được trang bị hệ thống để xoá bỏ việc gây nhiễu của đối phương, cho phép liên lạc nội bộ bằng tiếng nói, trong khi hệ thống thông tin của đối phương không hoạt động vì bị nhiễu sóng.

Được trang bị hỏa tiễn để tự vệ và để phá các đài radar của đối phương. Là loại phi cơ vô cùng lợi hại, làm mất khả năng liên lạc và chỉ huy của đối phương. Hai chỗ gồi. Tốc độ 1.8 mach (1,188mph)

Vũ khí của HK được xem là chính xác và có hiệu quả, bởi vì, từ khi thử nghiệm, sản xuất, đưa ra thực tế chiến trường, rút kinh nghiệm, đôi khi bằng xương máu, rồi đưa trở lại sản xuất để sửa đổi cho hoàn hảo hơn. Trung Cộng thì trái lại, kỹ thuật do ăn cắp khiến cho hàng nhái không bảo đảm giống hệt hàng thật 100%, nhất là chưa thực sự tham gia chiến trường.

8.5. Sức mạnh của hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ
Ngày 3-10-2012, theo trang mạng Time thì HK đã đưa 2 HKMH USS George Washington và USS John C. Stennis đến gần vùng biển tranh chấp Nhật-Trung cùng với một lực lượng đặc nhiệm TQLC. Ngoài ra, chiến hạm USS Bonhomme Richard cùng với 2,000 TQLC đã xuất hiện ở vùng biển Philippines.

Việc triển khai một lực lượng vô cùng hùng hậu với các vũ khí khí hiện đại nhất thế giới, đến vùng biển tranh chấp, đã đặt ra nhiều câu hỏi về mục đích của Hoa Kỳ.

Mỗi HKMH có một Liên đoàn tác chiến gồm 10 chiến hạm được trang bị vũ khí hiện đại nhất như hệ thống AEGIS, phát hiện và chận đánh hỏa tiễn từ xa. Trên mỗi HKMH có 90 phi cơ đủ loại có khả năng xuất kích 200 phi vụ mỗi ngày.

Ngoài lực lượng áp đảo ở Okinawa, HK ngày càng siết chặt thiên la địa võng đối với Trung Cộng.

9* Hoa Kỳ thiết lập đài Radar và viễn vọng kính ở Úc
Ngày 14-10-2012, hai Bộ trưởng QP HK và Úc công bố “Quân đội Mỹ sẽ triển khai một đài Radar và một viễn vọng kính không gian tiên tiến ở Australia, một phần trong kế hoạch tái tập trung ưu tiên của Mỹ ở châu Á-TBD.”

Trạm Radar C-band sẽ phát hiện hoả tiễn đạn đạo (Ballistic missile) có đường đi qua 3 giai đoạn, là được phóng thẳng lên trời, vượt ra ngoài bầu khí quyển, đi trong vùng không có sức hút của trái đất, rồi lại quay về mặt đất để đánh vào mục tiêu,.

Viễn vọng kính để quan sát bên ngoài vũ trụ ở quỹ đạo cách trái đất 35,000km. Hai thứ trang bị nầy nhằm kiểm soát, con đường mà TC đang nổ lực đi vào vũ trụ bằng những con tàu không gian và vệ tinh.

Ngoài ra, HK và Úc cũng đang thảo luận về việc cho quân đội Mỹ xử dụng các phi trường và quân cảng của Úc, cũng như việc gia tăng số TQLC Mỹ ở căn cứ Darwin.

Quyết tâm trở lại châu Á của Mỹ được thể hiện qua việc TT Obama đến viếng Miến Điện trong những ngày đầu của nhiệm kỳ hai nầy. Ngày 15-11-2012, Bộ trưởng QP/HK cũng vừa ký một hiệp thỏa thuận, mục đích tăng cường vai trò của quân đội Thái trong nền an ninh khu vực và an ninh hàng hải, tái khẳng định các quan hệ chiến lược và hợp tác quân sự Thái-Mỹ.

10* Kết luận
Liệu chiến tranh vũ trang có thể xảy ra hay không?

- Trung Cộng không dám gây chiến vì không đủ sức mạnh quân sự để chiến thắng Mỹ-Nhật.

- Mặc dù vũ khí Nhật vượt trội hơn của Trung Cộng về mặt kỹ thuật, nhưng Nhật không dám gây chiến vì số lượng vũ khí kém hơn về hỏa tiễn, tàu ngầm, tàu chiến, phi cơ chiến đấu, bỏ bom…. Sau thế chiến 2, Nhật không được phép thành lập quân đội và điều 9 Hiến pháp ghi như sau: “…cam kết vĩnh viễn không phát động chiến tranh như một phương tiện để giải quyết xung đột quốc tế”.

- Hoa Kỳ cũng không muốn gây ra chiến tranh với Trung Cộng, vì kinh tế chưa phục hồi và nhất là đã thấm mệt sau 2 cuộc chiến lâu dài ở Trung Đông. Hơn nữa quyền lợi kinh tế giữa hai nước không cho phép họ tách rời ra được. Nhật nhờ Hoa Kỳ bảo vệ, nhưng Mỹ không muốn chiến tranh thì cũng trớt quớt.

Ba quốc gia liên hệ không muốn chiến tranh vậy thì một giải pháp nào cho vấn đề chủ quyền của quần đảo Senkaku/Điếu Ngư?

Đó là giải quyết theo “luật giang hồ”, mạnh được, yếu thua. Kẻ mạnh đặt ra luật chơi nhưng luật chơi của người văn minh dễ chịu và hợp lý hơn luật của bọn bành trướng tham lam Trung Cộng.

Chiến lược HK ở châu Á nhằm mục đích bao vây, kiềm chế, răn đe hơn là tiêu diệt, vì cả ba phía liên hệ, Nhật, Trung Cộng và Mỹ đều hưởng lợi về mặt kinh tế của nhau. Gầm gừ, khua chiêng giống trống, đánh giặc miệng ồn ào rồi cũng tự kiềm chế, trở về tình trạng cũ, gác tranh chấp qua một bên, hợp tác cùng phát triển.

Ngày 15-11-2012, Ngoại trưởng Clinton tuyên bố tại Úc: “Thái Bình Dương đủ rộng cho tất cả chúng ta. Chúng tôi ủng hộ một nước Úc có những quan hệ chặt chẽ và đa dạng với tất cả các quốc gia châu Á-TBD và trên thế giới, kể cả với Trung Quốc, vì chúng tôi cũng mong muốn điều tương tự cho mình”. Có thể hiểu là HK cũng muốn có quan hệ chặt chẽ với Trung Cộng, vì TBD đủ rộng cho “tất cả chúng ta” cùng sống chung với nhau. (Úc, Trung Cộng và Hoa Kỳ)

Giấc mộng làm chúa tể hoàn cầu của TC chỉ có thể thực hiện được khi nào nước nầy thực sự là một siêu cường số một về kinh tế và quân sự, nhưng TS Kissinger cho biết, còn lâu TC mới thực hiện được cái tham vọng đó.

Trúc GiangMinnesota tháng 11 năm 2012
 
Source Internet.

Trung Quốc đánh thức sự trỗi dậy của Nhật Bản

Trung Quốc đánh thức sự trỗi dậy của một nước Nhật Bản hiếu chiến

Peter Hartcher

Isaac Newton không hề nghĩ tới sự quyết đoán của Trung Quốc khi ông viết định luật nổi tiếng thứ ba của vật lý - đó là tất cả các lực đều tạo ra một phản lực bằng nó và theo hướng ngược lại.
Nhưng dường như định luật này đúng với tình hình chính trị giữa các cường quốc của khu vực Châu Á -Thái Bình Dương. Trong năm 2010, một Trung Quốc đang trỗi dậy đã quyết định theo đuổi một đường lối quyết đoán kiểu mới để tuyên bố chủ quyền trên các lãnh thổ các nước khác đã tuyên bố chủ quyền. Và các cường quốc khác trong khu vực đang bắt đầu đưa ra các phản lực.

Đầu tiên là Mỹ. Tổng thống Barack Obama "chuyển trục" về châu Á là một phản lực trực tiếp chống lại Trung Quốc. Bây giờ Nhật Bản đang cho thấy một số dấu hiệu muốn đẩy lùi Trung Quốc.

Thông báo rằng hai chính trị gia nổi tiếng nhất của Nhật Bản đang phối hợp lực lượng để tạo ra một đảng chính trị mới là một bước ngoặt trong lịch sử thời hậu chiến của khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.

Shintaro Ishihara, thống đốc lâu năm của Tokyo, giã từ nhiệm sở của mình để lập ra một "lực lượng thứ ba" trong chính trị Nhật Bản cùng với sự hợp tác của thị trưởng thành phố Osaka, Toru Hashimoto. Việc tạo ra Đảng Phục hưng Nhật Bản của họ được công bố 10 ngày trước đây.

Mục đích công khai của họ? "Nếu Nhật Bản tiếp tục đi như thế này, nó sẽ chìm xuống hố và chết", Ishihara nói.
Ông hứa hẹn sự hồi sinh của một nền kinh tế đã trì trệ trong hai thập kỷ qua và sự khôi phục của niềm tự hào dân tộc. Sự lựa chọn của từ "khôi phục" rất có chủ ý - một tham khảo đến Minh Trị Duy Tân, đã biến đổi từ một nước Nhật lạc hậu, phong kiến thanh một cường quốc hiện đại kiểu phương Tây.

Cả hai người đàn ông này đều là những chú diều hâu chống Trung Quốc và theo chủ nghĩa quốc gia gây tranh cãi, những người ủng hộ Nhật Bản từ bỏ "hiến pháp hòa bình" lập ra sau chiến tranh và tiến hành một cuộc tái vũ trang lớn.

Không phải là Nhật Bản không có quân đội. Mặc dù hiến pháp mà Mỹ áp đặt lên Nhật Bản quy định quốc gia này không được duy trì bất kỳ lực lượng vũ trang nào, và mặc dù ngân sách quốc phòng tương đối nhỏ, Nhật Bản đã có lực lượng hải quân lớn thứ tư thế giới và là đối tác hàng đầu tiếp cận lĩnh vực công nghệ quân sự của Mỹ.

Trong những năm gần đây, Ishihara và Hashimoto đã bày tỏ sự ủng hộ việc Nhật Bản cần trang bị cho mình vũ khí hạt nhân, một viễn cảnh đáng báo động cho nhiều người Nhật và một số nước láng giềng. Một tờ báo hàng ngày hàng đầu ở Hàn Quốc, Dong-A Ilbo, đã lên tiếng báo động về "tư tưởng cực đoan cánh hữu" của hai người này.

Seoul có lý do để lo lắng. Hàn Quốc có tranh chấp lãnh thổ với Nhật Bản và lịch sử cay đắng với các cuộc xâm lược và chiếm đóng của Nhật Bản.

Đặc biệt là Ishihara, người đang sôi lên muốn đánh nhau với Trung Quốc. Là một nhà văn 80 tuổi, một trong số những nhân vật theo chủ nghĩa quốc gia hiện đại đang thịnh hành ở Nhật, đã so sánh chiến thuật của Trung Quốc nhằm gây sức ép lên Tokyo trong các vụ tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giống như những tên mafia.

Khi Bắc Kinh thắt chặt việc xuất khẩu đất hiếm sang Nhật, một nguyên liệu cần thiết để sản xuất các sản phẩm điện tử, Ishihara cho biết: "Những gì Trung Quốc đang làm là rất tương tự như những gì các nhóm tội phạm có tổ chức làm gì để mở rộng lãnh địa của họ''.

Ông khinh thường bất kỳ thủ tướng Nhật Bản nào đã từng thực hiện nhượng bộ với Bắc Kinh.
"Nhật Bản có thể trở thành ngôi sao thứ sáu trên lá cờ quốc gia của Trung Quốc", trừ khi nó đứng lên chống lại Bắc Kinh, ông ta nói. Ông đã lập luận rằng Nhật Bản "không nên ngần ngại" đi đến chiến tranh chống lại Trung Quốc.

Và năm nay, trong động thái đối kháng chống lại Trung Quốc chưa từng có bởi các quan chức Nhật Bản thời hiện đại, Ishihara đã tìm cách mua lại, dưới tên của chính quyền khu vực Tokyo, một nhóm đảo đang có tranh chấp với Trung Quốc. Và Ishihara đề xuất xây dựng công trình trên chúng.

Những cái gọi là hòn đảo này thực ra chỉ là tập hợp vô dụng của tám tảng đá lớn không có người ở. Chúng được biết tới như là Quần Đảo Senkaku ở Nhật, và Diaoyu ở Trung Quốc. Giá trị của chúng nằm ở chỗ chủ sở hữu chúng có thể tuyên bố chủ quyền hàng hải và các đặc quyền kinh tế đối với tài nguyên dưới đáy biển, mà dường như có bao gồm cả dầu mỏ.

Các đảo này được sở hữu bởi một công dân Nhật, Ishihara đã mua chúng và xây dựng trên chúng. Đây là một hành vi không có mục đích pháp lý. Nó được thiết kế như một hành động khiêu khích thuần tuý đối với Bắc Kinh.

Để loại bỏ ý đồ này, chính quyền quốc gia Nhật bước vào cuộc và mua lại hòn đảo. Mục đích của chính quyền quốc gia là vô hiệu hoá Ishihara. Thủ tướng Yoshihiko Noda nói chính quyền ông không có ý định xây dựng gì trên các đảo này. Ishihara đã bị cản trở.

Nhưng bằng cách quốc hữu hóa các đảo, Nhật Bản vô tình làm chính phủ Trung Quốc - và người dân Trung Quốc - nổi cơn thịnh nộ. Đây là nguồn gốc của cuộc bạo động gần đây nhất, cái đã tạo ra tổn hại cho nền kinh tế của cả hai nước.

Triển vọng của Đảng Khôi Phục Nhật Bản là gì? Nhật Bản đang hướng đến một bầu cử sớm vào ngày 16/12. Một cuộc thăm dò của hãng tin tức Kyodo hai ngày trước đã xếp đảng này ở vị trí thứ hai, sau đảng đối lập Dân Chủ Tự Do, nhưng trên cả đảng Dân Chủ đang cầm quyền.

Đảng này không có nhiều hy vọng là sẽ tự thân nó tạo ra được một chính phủ - đảng này quá mới và không có nhiều thời gian để tổ chức. Nó đã nói sẽ chỉ đưa ra số ứng cử viên tranh cử bằng một nửa số ghế bâof trực tiếp.

Thế như khi mà không có đảng nào có khả năng dành đa số, điều này cũng có nghĩa là Đảng Khôi Phục Nhật Bản sẽ là thành viên quan trọng của một chính phủ liên hiệp.

Hành vi khiêu khích mới đây nhất của Ishihara đối với Trung Quốc là đề nghị một sự liên minh giữa Nhật Bản và hai quốc gia tranh chấp lãnh hải tích cực nhất với Trung Quốc, đó là Việt Nam và Philippines.
Ông ta cũng đề nghị duy trì liên minh với hoa kỳ: "Tuy nhiên, liên quan đến sự xâm lấn của Trung Quốc trên vùng lãnh hải, Nhật Bản chia sẻ mối quan tâm chung với Việt Nam và Philippines và có thể tạo thành một liên minh với các quốc gia về vấn đề này''.

Hashimoto và Ishihara đang tận dụng sự thất vọng ngày càng tăng của các cử tri Nhật Bản dành cho một trong hai chính đảng. Tuy nhiên, sự gây hấn của Trung Quốc đang cung cấp cho hai người này một mục đích và nền tảng mới.
Sẽ là một sai lầm sâu sắc trong lịch sử nếu quyết định tăng cường và mở rộng tranh chấp chủ quyền của Bắc Kinh không chỉ làm hàng xóm lo ngại và làm hồi sinh cam kết của Hoa Kỳ trong khu vực - Trung Quốc đã đạt được những hậu quả không trông đợi này - mà còn tái vũ trang cho kẻ thù lịch sử của nó, đó là Nhật Bản.

Người dân Nhật Bản ủng hộ hiến pháp hiện tại của họ và phản đối vũ khí hạt nhân. Nhưng Trung Quốc đang mở cho những người theo chủ nghĩa quốc gia mới ở Nhật Bảm một lối đi, và họ đang tận dụng cơ hội này.

Trong những năm 1980, thủ tướng đầu tiên của Singapore, Lý Quang Diệu, trong một lần khuyên nhủ không nên theo đuổi các vụ kiện tụng chống lại những thương vụ thành công của Nhật Bản lúc đó, đã nói: "Nhật Bản là những thương gia tốt, nhưng họ còn là những chiến binh tốt hơn". Và ông không nghĩ rằng sức mạnh chiến đấu của các chiến binh Nhật đã chết, chúng chỉ tạm dừng hoạt động. Trung Quốc nên cẩn thận không đẩy các nước láng giềng quá xa.


Peter Hartcher là biên tập viên quốc tế.
 
Source Internet.