Chuyện xẩy ra vào thời đức Phật còn tại thế.
Có một anh chàng thanh niên mới lớn, khá tuấn tú, lại con nhà giàu, thông minh, hiếu học.... Cạnh làng có một ông thầy dạy võ nghệkiếm cung rất nổi tiếng, rất nhiều học trò đến xin làm đệ tử...và ba má anh chàng khôi ngô tuấn tú kia cũng đến xin cho con ăn học ởđó...
Dù đến sau, nhưng với cá tính dễ thương, siêng năng, cần mẫn mà lại thông minh hiếu học...anh trở thành một học trò giỏi mà ông thầy thương nhất, là một đại đệ tử, là đại sư huynh, có nghĩa là ở một vị trí mà tất cả các học trò khác thèm muốn, ưa thích, mong mỏi...
Do thầy thương quá mà chúng bạn ganh tỵ , sinh ghen ghét mà anh ta không hề hay biết!
Ông thầy tuy già nhưng lại có một cô vợ vừa trẻ lại vừa đẹp, và người đẹp nào cũng biết mình đẹp, xem như ai cũng phải thấy mình đẹp, xem như ai cũng mê thích mình!
Cho nên các anh học trò ganh tỵ mới nẩy ra một cách hại anh chàng thanh niên nói trên.
Các anh xúm nhau to nhỏ, khiến ông thầy thắc mắc mà tra gạn, thì các anh đều nói là họ thấy anh chàng thanh niên kia sanh tâm mê thích cô vợ trẻ của ông thầy...!!!
Ông thầy không tin, vì ông không bao giờ thấy anh có bất cứ thái độ gì khả nghi cả, cho nên ông rầy mắng đám đệ tử xấu mồm, xấu mép.
Thế rồi lời qua tiếng lại, câu chuyện lại thấu đến tai cô vợ trẻ. Cô nghĩ thầm rằng rất có thể anh chàng kia “muốn” mình lắm mà không dám tỏ tình, vã lại cô khá đẹp, chắc hẳn hắn phải thầm thương trộm nhớ...cho nên cô cũng chú ý nhiều về anh ta, dành nhiều ưu đải cho anh ta...và chờ một cơ hội gặp gở riêng...
Và cơ hội đã đến , là có một ngày ông thầy đi vắng, các học trò khác phải đi công việc được giao phó...chỉ còn anh chàng thanh niên đó còn ở nhà một mình, cô vợ tìm cách lại gần, tạo cơ hội cho anh ta gần mình...nhưng từ đầu chí cuối, anh lúc nào cũng ngơ ngác, sợ sệt, miển cưởng...và thậm chí còn sửa lưng nhắc nhở cô ta là bà thầy...và sự từ khướt mạnh mẽ đến nổi tự ái của một người con gái đẹp bị va chạm thật đau, như vậy là nghĩa gì? Quả thật ta không đáng để anh ta chứa trong mắt? anh ta đã khinh thường ta thay vì anh ta phải quì dưới chân ta mà xin tình cảm của ta!
Thế rồi đêm hôm đó cô khóc lóc tỉ tê, nói với ông thầy là thừa lúc không có ai, anh chàng thanh niên đó đã làm hổn, xâm phạm tiết hạnh, phẩm giá của cô... cô thêu dệt đủ thứ một cách chu đáo, cô chẳng những là người đẹp mà cũng là người khôn ngoan, khéo ăn, khéo nói và cả khéo diển, diển như thật, khóc thật, khóc một cách đau đớn, đau lòng! vì tự ái của cô nó đang bị va chạm, cô thấy đau thật!
Bao nhiêu người đã nói, ông không tin, bây giờ chính miệng người đẹp của mình, chung thuỷ với mình nói thì làm sao không tin, đây là “giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước”...ông quyết định phải trị tên học trò hổn láo, xất xược này một phen, không chết cũng ” thân tàn ma dại “ cho vừa với tội dám “vuốt râu hùm”!
Thế là ông gọi anh chàng đến mà nói:
“ Bấy lâu nay, con đủ biết thầy rất yêu thương con vì con siêng năng, chăm chỉ, con học hành lại sáng dạ hơn hết thảy đám còn lại...ta đã đem hết sở đoản, sở trường trao truyền cho con, gần như khó tìm ai có thể chống lại con...nhưng ta còn một bí truyền của gia tộc thật lợi hại, con mà học được thì phải nói là bá chủ thiên hạ, ta đã già, ta phải truyền cho một kẻ xứng đáng nhất nếu không sẽ thất truyền... nhưng ngặt một nỗi là muốn học được nó phải có một điều kiện...”
Với lòng tôn kính thầy như cha mẹ, xem như có xử chết mình cũng cam lòng...vì ơn cha mẹ, thầy như trời biển...nên anh khẳng khái thưa trình:
“Bấy lâu con ở đây với thầy, thầy dành cho con niềm ưu ái con có cảm nhận, thầy thương con nhiều nhất ai cũng biết...cho nên bất cứđiều gì thầy bảo con dù chết cũng phải làm theo.”
Ông thầy vuốt râu mĩm cười thầm nghĩ là cá đã cắn câu mà rằng:
“Chuyện này không phải muốn con chết, mà là kẻ khác chết....vì con không thực hiện đúng theo yêu cầu thì ta không thể dạy cho con bí kíp gia truyền này được.... đó là con phải giết chết cho đủ 1000 nhân mạng, khi đủ số thì về gặp thầy, còn bây giờ thì con đi đi...”
Quả là người quá hiền lương, thầy là trên hết, thầy là lẽ phải, thầy khiến chết cũng phải chết!...đó là luật bất thành văn thời đó.
Cái gì phải đến đã đến, anh bắt đầu giết người... mà lại là kẻ vô tội trong tay không một tấc sắt mà anh lại là một tay kiếm trẻ, giỏi giang! Chỉ cần vung gươm lên là có đầu rươi, máu chảy, rồi tiếng la, tiếng khóc hải hùng của kẻ xung quanh... bao âm thanh hình ảnh đó đã làm anh, một kẻ hiền lương thật sự, chưa bao giờ chứng kiến cảnh thê thảm, mà lại do anh làm ra, đó là một sự thật đã rồi, không còn chối cải, không còn biến đổi được nữa, anh không chịu nỗi cảnh này nữa, bất giác anh bổng phát cười lên, cười sặc sụa và chống gươm đi vềhướng rừng núi!
Và kể từ đó cái tên “Ưng Quạt Ma La” của anh không còn ai nhắc đến mà thay vào đó một tên khác : “Vô Não” đồng nghĩa với “không có óc”, đồng nghĩa với “ thằng điên, thằng khùng!”...tuy điên khùng nhưng anh vẫn còn nhớ là phải giết cho đủ 1000 mạng người, cứ mỗi lần giết được một người là anh ta chặt một lóng tay , kết vào dây, đếm tới đếm lui và mang vào cổ...
Anh ở trong rừng vì không ai dám chấp chứa anh, bà mẹ nghe tin, thương con, len lén đem cơm để gần đâu đó cho anh có thức ăn qua ngày để không chết đói, và như thói quen anh vẫn tìm thấy cơm ở cùng chỗ mà nuôi kiếp sống thừa, không ai thừa nhận một con người điên loạn lại sát nhân khét tiếng có máu lạnh, lại là người quá giỏi kiếm cung thì ai có thể khống chế được anh!?
Cho đến một ngày, một ngày mà chỉ cần giết thêm một người nữa là anh hoàn tất nhiệm vụ... ngó quanh ngó quẩn, anh thấy một bà già, đó chính là người mẹ khốn khổ của anh, đem cơm đến cho con, anh rút gươm định thanh toán...thì anh thấy có một sa môn vừa đến...
Anh đổi ý, định chém vị sa môn này, nhưng lạ kỳ thay, anh thấy sa môn chạy vòng vòng, anh cứ chém hụt hoài, anh bổng la lên:” Bớ sa môn, tại sao ông chạy hoài, ông phải dừng ngay, dừng ngay tức khắc!”....
Vị sa môn này là đức Phật, ngài nói :” Ta đã dừng lại từ lâu, ta đã dừng lại từ vô lượng kiếp ( đã dừng từ vô số kiếp đã qua), chỉ còn có ngươi vẫn còn điên đảo trong vòng luân hồi!”
Lời nói của ngài như một dòng suối mát rót vào tâm khảm anh, một cái gì đau đớn uất nghẹn từ đáy lòng, có một cái gì u uất khó diển bày, anh cảm thấy một niềm thống khổ dâng lên, một nỗi cô đơn, lạc lõng từ vô thức sống lại, anh bỗng sa nước mắt đầm đìa, trên đời này có lẽ anh đang là người cùng khổ nhất, cô đơn nhất, làm sao lại có một người thấu hiễu được mà nhổ đi một cây gai nhọn đã ghim sâu vào một tử huyệt của anh, như người vừa qua một cơn mê, một cơn ác mộng, cơn ác mộng đảo điên tâm hồn anh, cơn ác mộng đảo điên cuộc đời anh, anh chợt thốt rằng:
” Con gặp ngài thật quá trễ! Quá trễ tràng! Bây giờ bàn tay con đã đẫm đầy máu, bàn tay đã giết đi bao mạng người vô tội con còn con đường nào để mà đi?”
Phật hỏi:” Giả sử có 1 căn phòng tối tăm cả 500 năm, nếu có diêm quẹt, phải cần bao lâu để đốt cho căn phòng sáng lên?”
Anh nói:” Thưa ngài, chỉ cần trong tíc tắc, khi đốt cháy diêm quẹt là căn phòng sáng lên”
Phật nói:” căn phòng tăm tối 500 năm, nhưng chỉ cần đốt diêm quẹt trong tíc tắc là căn phòng sáng, mà không cần 500 năm mới sáng! ...cũng vậy chúng sanh vô minh từ vô lượng kiếp, nhưng chỉ cần trong tíc tắc, ánh sáng trí huệ loé sáng lên là bóng tối vô minh, bóng tối tội lỗi sẽ bị đẩy lui ngay”
Thế rồi anh xin quy y theo Phật...
Sau đó không lâu, Vua xứ đó đến thinh xá viếng Phật, thấy thần sắc không an của vua, Phật hỏi: ” vì cớ gì mà bệ hạ không vui?”
Vua trả lời là:” Trẫm nghe nói trong núi gì đó, có một tên ăn cướp, võ nghệ cao cường, chuyên môn chận đường dân chúng đi qua núi, giết người cướp của không gớm tay, ngày nào chưa tìm ra tên cướp đó, trẫm quả thật ăn không ngon ngủ không yên!”
Phật trả lời:” Tên cướp mà ngài muốn nói đứng cách ngài bảy bước!”
Vua giật nẩy mình:” Ngài bảo sao? Thật vậy sao?”
Phật nói :” ngài muốn biết ngọn ngành thì cứ đến hỏi!”
Vua thật kinh ngạc khi nhìn lại là sa môn còn trẻ tuổi, thanh tú, hiền khô... làm sao lại là tên cướp khát máu ? Vua lần tới hỏi chuyện... thì ra chính là hắn! Nhưng thật là tội tình! Bây giờ không còn điên dại, đã biết cải tà qui chính, nhà vua mừng vì không cần lo nghĩchuyện làm sao bắt tên cướp nữa và muốn cúng dường suốt đời cho vi sa môn này cho đến ngày đắc quả...
Sa môn trẻ nói:” Hạ dân đã vi phạm tội khó tha thứ, không biết bao giờ chuộc lại hết lỗi lầm, bệ hạ tha chết đã là phước báu vô vàn...không lòng nào nhận của cúng dường của bệ hạ!”
Dù được vua đã quy y theo Phật nên có lòng nhân từ, cảm thông nỗi bất hạnh ngoài muốn ấy, nên ân xá, không bắt tội; nhưng luật Nhân Quả đâu tha cho vị sa môn này, mỗi ngày đi khất thực, lúc nào cũng mang đầu đầy máu me về vì thân nhân người chết còn oán hận, họ chọi đá, làm nhiều hành động hung hãn để trả thù cho hả mối thù. Vì đã là sa môn nên dù sao họ cũng không quyết liệt đòi mạng, hơn nữa thấy thái độ nhẫn nhục, khứng chịu mà không chút nào ta thán, một thái độ đã phục thiện, ăn năn, hối cải về những ác nghiệp đã tạo tác, nên họ cũng không đành nhẫn tâm lấy mạng vị sa môn này !
Ấy thế mà cái khó khăn thật sự mà sa môn phải đối diện là không thể nào hành thiền được! cứ bắt đầu để tâm lắng đọng là bao nhiêu hình ảnh khủng khiếp hiện ra, bao nhiêu tiếng kêu la thảm thiết, máu chảy thịt rơi đã được ghi nhận một cách tự nhiên, rồi bây giờ cũng tự nhiên hiện hành...khiến lòng ăn năn hối hận cứ dằn xé tâm hồn mãi.
Mãi cho đến một hôm, sau khi đi khất thực về, thấy thần sắc lo âu khác thường, Phật bèn hỏi sa môn:” Hôm nay có việc gì xẫy ra cho con vậy?”
Sa môn nói:” Hôm nay trên đường về, ngay ngã ba, có một chòi dựng tạm thời cho một thiếu phụ đang bị sanh khó, để nếu ai có thể giúp được thì giúp, nghe tiếng kêu đau đớn của thiếu phụ con cảm thấy xót xa mà không làm sao giúp cho thiếu phụ này!”
Phật nói:” Vậy con hãy đến và nói với người thiếu phụ rằng: Tôi xin hồi hướng (trao, chuyển) tất cả công đức mà tôi có được cho cô sanh dễ dàng, được mẹ tròn con vuông”
Sa môn đau khổ mà rằng:” Con nào có chút công đức gì để hồi hướng, chỉ có tội lỗi giết người, biết bao giờ con mới tạo ra được chút công đức để hồi hướng!”
Phật nói:” Con cứ nghĩ đến công đức kể từ khúc quanh cuộc đời mà con đã quy y cho đến nay.
Khi con nghe tiếng kêu khóc đau đớn mà lòng con còn nổi lên lòng thương xót, lòng bi thương chứng tỏ trong con, chủng tử (hạt giống) lành, chủng tử công đức vẫn còn trong con, chúng sẽ nẫy mầm khi đủ duyên (đủ điều kiện, có cơ hội)...bấy nhiêu cũng đủ hồi hướng công đức cho thiếu phụ đó.”
Sa môn yên lòng theo lời dạy của đức Phật đến nói...
Sau đó thiếu phụ cũng sanh đẻ suông sẻ, mẹ tròn con vuông...
Chuyện hồi hướng công đức này có ảnh hưởng gì hay không trong sự sinh nở của thiếu phụ kia...nhưng lại mang một năng lực thật tốt đẹp cho vị sa môn là dần dần những hình ảnh ghê gớm kia lui dần, không còn quấy nhiễu mà thay vào đó một tình thương nhẹ nhàng khi nghĩ đến hình ảnh ngây thơ, dễ thương, vô tội của trẻ thơ...
Sa môn nghĩ đến khi mới chào đời, sa môn cũng là một trẻ thơ dễ thương, vô tội như bao trẻ thơ trên đời! Sa môn thường sống với tình thương mến ấy khiến năng lực từ bi hỉ xả trong lòng của sa môn càng ngày càng tăng trưởng; các hạt giống thiện sẵn có giờ đây có cơ hội nẫy mầm trong lòng người có đầy nhẫn nại, có niềm tin, có quyết chí.
Dưới sự gần gủi, dìu dắt của Đức Phật mà sa môn dần dà cổi bỏ đi lớp áo oan nghiệt và chứng quả khiến mọi người chung quanh vô cùng ngạc nhiên vì trước kia không hề có một tia hy vọng vớt vát lại được....
-oo0oo-
Câu chuyện này muốn nói lên một hoàn cảnh bi đát, cây muốn lặng mà gió chẳng muốn ngừng, để đưa đẩy một người thật dễ thương lâm vào một tình huống khốn khổ , khốn cùng, mạt vận... khi mà trên đời không còn một chỗ dung thân, khi mà cái quý báu nhất của một con người là khối óc đã bị tước đoạt, tương lai không còn, quá khứ chỉ là tội lỗi...
Ưng Quạt Ma La, tuy rủi mà còn may là gặp Phật chỉ vài lời khai thị, dìu dắt mà một người đang điên loạn, điên đảo trong nghiệp chướng bỗng quay về chánh đạo và đạt đạo, chấm dứt trôi lăn trong sinh tử luân hồi.
Còn chúng ta, tuy không được sanh ra trong thời Phật, nhưng với giáo Pháp mà ngài tận lòng chỉ bày trong suốt 49 năm hoằng hoá cũngđủ cho ta theo đó mà tu học...
Tất cả vinh hoa, phú quý, người thân thương... mình có, rồi cũng không còn theo ta qua kiếp sau mà chỉ có nghiệp lành ác theo ta...
Nào ai bảo đảm mình sẽ luôn an khang, suông sẻ mãi mãi trong vô lượng kiếp về sau... chỉ cần một kiếp nào đó, mình sinh ra với đôi mắt khuyết tật, là xem như cuộc đời ấy, mình chỉ sống trong bóng tối của khổ đau... Ai trên đời này sẽ là người (dù là người thân yêu nhất) có thể bù đắp cho ta tất cả các mất mát mà bóng tối đã đem đến?
Không ai dám chắc là trong vô lượng kiếp tới, mình không bao giờ vướng vào một tai hoạ khủng khiếp, khủng khiếp đến nỗi cha mẹ, chồng/vợ thương ta vô cùng cũng không thể nào thông cảm ta nổi mà gở rối cho ta ra khỏi vòng oan khiêng nghiệp chướng... mà chỉ có chính ta với phước lành đã tạo (trong kiếp đã qua) còn sót lại mới kéo níu, đưa đẩy ta tìm ra con đường tự gở rối các nghiệp dữ thay vào các nghiệp lành qua ngã từ bi và trí huệ.
Chỉ khi nào thấy được chân giá trị này, mình mới có đủ kiên trì, quyết tâm tu tập, chuyển hoá tất cả chủng tử xấu, giải thoát ta ra khỏi cám dỗ, ra khỏi cuộc đời đầy dẫy trắc trở và cô đơn
Nhiều người cho rằng đạo Phật là đạo bi quan!
Vậy mình hãy quán xét xem đạo Phật có bi quan chăng ?
Bây giờ giả sử mình không theo đạo Phật, hoặc mình chỉ có tiếng là theo đạo Phật mà chưa biết gì về đạo, thì xem trong đời của mình thật ra vui hay khổ: dĩ nhiên có vui, nhưng tính ra khổ nhiều hơn vui! vì sao?
Vì mình muốn quá nhiều, mình muốn hạnh phúc và đi tìm hạnh phúc; nhưng hạnh phúc mình có, thật sự nữa đêm thức giấc, hỏi kỷ lại xem, nó có quả là hạnh phúc mình tìm chăng, hay chỉ là tạm gọi. Khi nào mình không còn phập phồng lo mất hạnh phúc thì lúc ấy mình có hạnh phúc; nhưng mà lở khi người phối ngẫu không còn gần ta vì sinh ly hay tử biệt, ta còn hạnh phúc khi xa người mình thương yêu chăng?
Nhưng thật ra trên đời này mình cần rất nhiều thứ đóng góp cho hạnh phúc chứ không riêng gì người phối ngẫu. Nào là sự nghiệp, danh vọng ta muốn được trơn tru, nào là con cái ta luôn trơn tru như ý ta muốn, hễ đường học vấn xong thì lại tìm người phối ngẫu cho con cái được hạnh phúc...
Tất cả mình đều muốn được ưu ái hơn hết mọi người thì mình mới chịu hạnh phúc, thì mình sẽ chẳng bao giờ hạnh phúc...
Nói thế sẽ có người bảo rằng: “thiểu dục tri túc” đó là an ủi để mình đừng đòi hỏi quá đáng. Nhưng có khi mình chấp nhận không đòi hỏi...vậy mà bao phiền não vẫn thường lui tới viếng ta... thì hạnh phúc vui vẻ làm sao được?
Do vậy mình phải chấp nhận cuộc đời thường đem đến đau khổ.
Đạo Phật chỉ cho ta biết tại sao ta rước khổ, làm cách nào giải quyết cái khổ tận gốc rể, khi giải quyết xong thì an lạc, thì hạnh phúc vĩnh cửu, không còn chút bóng dáng khổ đau ám ảnh ta nửa!
Và biết bao người đã thành đạt cứu cánh này, sau đức Phật!
Cho nên Đạo Phật không bi quan, vì bi quan là đầu hàng, là khuất phục, là chịu đựng, là than thở...trong khi theo đạo Phật là mình phải an vui trong khi tu tập, trường kỳ, bền bỉ, tin tưởng ...để đạt đến một an vui vĩnh cữu thì sao gọi là bi quan?
Cho nên ta phải lạc quan tiến bước trên con đường thênh thang hướng về nẻo giải thoát.
Xin nguyện đem công đức này, nếu có, hướng về khắp tất cả: đệ tử và chúng sinh, đều trọn thành Phật đạo.
Xin tặng những ai đã/đang/ sẽ có tâm đạo.
Viết xong ngày 17/3/06
Diệu Châu (TH)
Source Internet.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.