Một số trận đánh tiêu biểu trong chiến tranh Trăm năm
Một số trận đánh trong cuộc chiến của nhà Edward năm 1337 -> 1360
Trận Crécy-1346
Bối cảnh
Như đã nói ở phần trước trực hệ trưởng của Nhà Capetian đã qua đời để lại ba người thừa kế nam: Louis X, Philip V và Charles IV. Isabella-người con thứ tư của vua Phillip IV đã kết hôn với Edward II của Anh và năm 1312 bà này đã sinh hạ một cậu con trai được đặt tên là Edward Windsor-đây là người thừa kế tiềm năng cho ngai vàng của Anh quốc ( qua người cha của ông) và Pháp quốc (qua ông nội của ông).
Sau khi Philip VI kế thừa ngai vàng thì người Anh vẫn kiểm soát vùng Gascony. Vùng này sản xuất các loại hàng quan trọng là muối và rượu vang và có lợi nhuận rất cao. Đó là một vùng đất phong riêng biệt nằm lọt thỏm vào vùng đất của vương quốc Pháp hơn là một lãnh thổ của nước Anh. Sở hữu của vùng đất này là một tranh chấp quyết liệt giữa hai vị vua. Philip VI thì muốn Edward công nhận chủ quyền của mình, Edward lại muốn chiếm lại những vùng đất đã bị mất bởi cha. Một thỏa hiệp ” homage ” đã không làm hài lòng không bên nào đã được ký kết vào năm 1329, nhưng trong năm 1331 vì phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng ở quê nhà, Edward đã chấp nhận Philip là Vua của Pháp quốc và từ bỏ tuyên bố của ông về ngôi vua Pháp. Trong thực tế người Anh vẫn giữ vùng Gascony, đổi lại Edward từ bỏ tuyên bố của ông như là một vị vua hợp pháp của nước Pháp.
Năm 1333, Edward III tiến hành một cuộc chiến tranh chống lại David II của Scotland. Philip nhìn thấy cơ hội để đòi lại vùng Gascony trong khi nước Anh đang tập trung sự chú ý về phía bắc. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh này ít nhất ban đầu lại là một thành công nhanh chóng cho quân Anh và vua David đã buộc phải chạy trốn sang Pháp sau khi bị đánh bại bởi vua Edward và Edward Balliol tại Trận Hill Halidon vào tháng Bảy. Năm 1336, Philip đã lên kế hoạch cho một chuyến chinh phạt để khôi phục David lên ngôi Scotland và cũng để chiếm lấy vùng Gascony nhưng đã bị thất bại tại trận Sluys.
Để trả đũa ngày 05 tháng 7 năm 1346, Edward III dong buồm từ Portsmouth với khoảng 750 tàu và 7,000-10,000 lính bắt đầu một cuộc tấn công lớn từ Englis Channel. Đi cùng với ông là Edward, Hoàng tử đen (Edward của Woodstock)-con trai của ông mới gần 16 tuổi, gần đây đã được phong làm Hoàng tử xứ Wales. Ngày 12 tháng 7, Edward đã đổ bộ xuống Hague trong Bán đảo Cotentin của vùng Normandy.
Quân Anh hành quân xuyên qua Normandy. Philip đã tập hợp một đội quân lớn để chống lại ông ta và Edward đã chọn để hành quân về vùng đất thấp phía bắc, tiến hành cướp bóc những vùng ông đã đi qua hơn là cố gắng để chiếm và giữ các vùng lãnh thổ. Trong thời gian này, ông đã có hai trận chiến thành công, đó là trận đột kích vào Caen và Trận Blanchetaque. Cuối cùng không thể lẩn tránh mãi đội quân của Philip, Edward đã bố trí lực lượng của mình cho trận chiến và Philip đã tấn công vào của quân đội ông tại Trận Crécy nổi tiếng. Lực lượng quân đội Pháp với số lượng lớn hơn rất nhiều lần đã thực hiện một loạt các cuộc tấn công từng phần vào bộ binh Anh và cung thủ trường cung xứ Wales, và tất cả các cuộc tấn công đã bị đánh tan tác với tổn thất nặng nề cho đến khi người Pháp buộc phải rút lui. Crécy là một thất bại tan nát đối với người Pháp.
Chỉ huy của các bên đối địch
Chỉ huy bên Anh
Vua Edward III
Edward III (của Windsor) (13 tháng 11 1312 – Ngày 21 tháng 6 năm 1377) là một trong những nhà vua Anh thành công nhất thời Trung cổ. Ông đã phục hồi được quyền lực của hoàng tộc sau thời gian trị vì tai hại của cha ông-Edward II, sau đó Edward III tiếp tục chuyển đổi Vương quốc Anh thành một trong những quốc gia có lực lượng quân sự hiệu quả nhất ở châu Âu. Trong triều đại của ông đã có sự phát triển quan trọng trong cơ quan lập pháp và chính phủ đặc biệt là sự phát triển của Quốc-hội Anh cũng như sự tàn phá của bệnh dịch Black Death. Ông đã ở trên ngôi vị 50 năm, không có nhà vua Anh nào lại có thể trị vì lâu như Henry III trừ George III- vua của Vương quốc Anh.
Edward lên ngôi ở tuổi mười bốn, sau khi cha ông bị truất ngôi. Khi chỉ mới mười bảy tuổi, ông đã cầm đầu một cuộc đảo chính để chống lại, Roger Mortimer – viên quan nhiếp chính và bắt đầu cai trị với tư cách cá nhân của ông. Sau khi đánh bại, nhưng không chinh phục nổi Vương quốc Scotland, ông tuyên bố mình là người thừa kế hợp pháp ngôi vua nước Pháp trong năm 1338, bắt đầu từ những gì sẽ trở thành cuộc chiến trăm năm. Sau một số trở ngại ban đầu, cuộc chiến đã trở nên đặc biệt thuận lợi với nước Anh, những chiến thắng ở Crécy và Poitiers đã dẫn đến Hiệp ước Brétigny rất thuận lợi. tuy nhiên những năm sau của Edward lại được đánh dấu bằng thất bại trên chính trường quốc tế và những xung đột trong nước, chủ yếu là do tính cách bảo thủ và sức khỏe tồi tệ của ông.
Edward III là một con người có tính khí thất thường nhưng cũng có lòng khoan hồng lớn. Ông cũng giống như hầu hết các vị vua bình thường khác, chủ yếu là quan tâm đến chiến tranh. Trong nhiều thế kỷ sau, Edward đã bị tố cáo như là một con người phiêu lưu vô trách nhiệm bởi các nhà sử gia thuộc Whig. Nhưng hiện nay quan điểm này đã thay đổi và các nhà sử gia hiện đại đã tin rằng ông ta đã tạo ra rất nhiều thành tích.
Tiểu sử
Tuổi trẻ
Edward được sinh ra tại Windsor ngày 13 Tháng 11 năm 1312, và được gọi là Edward Windsor trong những năm đầu đời của ông. Triều đại của ông mình-Edward II, đã tràn ngập với những thất bại quân sự, các đại quý tộc nổi loạn và cận thần tham nhũng, nhưng sự ra đời của một người thừa kế nam vào năm 1312 đã tạm thời cải thiện vị trí của Edward II trên ngôi báu. Trong những gì có lẽ là một nỗ lực của cha ông để kéo lại ưu thế của hoàng gia sau nhiều năm bị bất mãn, Edward con đã được phong làm Bá tước của Chester ở lúc chỉ mới mười hai ngày tuổi và chỉ không đến hai tháng sau đó, cha ông đã lập ra cho con mình một triều đình với đầy đủ các cận thần, để ông có thể sống độc lập như thể ông là một nhà quý tộc đã trưởng thành.
Bất mãn với Edward II đã tăng lên một lần nữa khi ông trở nên mê muội vì Hugh Despenser Trẻ. Sự tham lam và bạo lực của ông đã không được nhà vua kiểm soát và ông này có rất nhiều kẻ thù. Sợ rằng phải để lại một mình Despenser ở lại Anh với rất nhiều những người muốn giết ông này, nhà vua với vợ là Nữ hoàng Isabella đến Pháp để đàm phán với ông anh vợ là-Charles IV của Pháp. Sau đó Charles yêu cầu có sự quy phục từ Edward II hoặc từ con trai ông. Nhà vua đã bị thuyết phục bởi Despenser và cha ông đã để cho Edward sang Pháp. Ở Pháp rất nhiều kẻ thù của Despenser đã tụ tập quanh Isabella và họ đã lợi dụng Edward chống lại nhà vua. Để tăng cường liên minh giữa Isabella và Hainault, ông đã đính hôn với Philippa của Hainault. Từ đó một cuộc xâm lược đã được tiến hành và quân đội của Edward II hoàn toàn bỏ rơi ông ta.
Ngày 20 tháng một năm 1327, khi Edward con được mười bốn tuổi, mẹ của ông và tình nhân của bà là Roger Mortimer đã lật đổ nhà vua. Edward lúc này đã trở thành Edward III và đăng quang vào ngày 01 tháng 2, với Isabella và Mortimer là các nhiếp chính. trên thực tế Mortimer là người cai trị Anh, nhưng ông này bị nhà vua trẻ tuổi căm gét và luôn bị làm nhục. Vào ngày 24 tháng 1 năm 1328 nhà vua mười lăm tuổi, kết hôn với Philippa của Hainault mới mười ba tuổi tại York Minster.
Mortimer biết rằng vị trí của ông là rất bấp bênh, đặc biệt là sau khi Philippa có một con trai vào ngày 15 tháng sáu năm 1330. Ông đã sử dụng quyền lực của mình để có được danh hiệu cao quý và chiếm nhiều bất động sản, rất nhiều trong số đó thuộc về Edmund FitzAlan, Bá tước đời thứ 9 của Arundel. FitzAlan, người vốn vẫn trung thành với Edward II trong cuộc đấu tranh của ông với Isabella và Mortimer, đã bị hành hình vào ngày 17 tháng 11 năm 1326. Tuy nhiên Mortimer vốn rất kiêu ngạo và có lòng tham vô đáy nên rất nhiều các quý tộc khác rất căm ghét ông ta, tất cả điều này là không qua được mắt vị vua trẻ.
Vị vua trẻ tuổi và cứng đầu đã không quên số phận của cha mình, tại sao ông đã bị đối xử như một đứa trẻ. Vào lúc gần 18 tuổi, Edward đã sẵn sàng để trả mối thù của mình. Ngày 19 tháng 10 năm 1330, Mortimer và Isabella đang ngủ tại lâu đài Nottingham Castle. Ẩn náu trong bóng đêm, một nhóm trung thành với Edward bước vào pháo đài qua một lối đi bí mật và xông vào phòng của Mortimer. Phe đảo chính tiến hành bắt giữ Mortimer nhân danh nhà vua, và ông này được đưa đến nhà Ngục tháp London. Bị tước đoạt hết đất đai và tước vị, ông đã bị kéo lê trước mặt nhà vua mới 17 tuổi và bị cáo buộc là giả mạo quyền lực của hoàng gia của Anh quốc. Mẹ của Edward có lẽ đã mang thai với Mortimer và bà cầu xin cho lòng thương xót một cách vô ích. Không có xét xử, Edward kết án tử hình Mortimer một tháng sau cuộc đảo chính. Sau khi Mortimer bị hành hình, mẹ của Edward đã bị lưu đày tại lâu đài Castle Rising nơi có báo cáo là bà đã bị sảy thai. Vào ngày sinh nhật thứ 18 của ông, Edward đã hoàn tất việc trả thù và ông đã trở thành người cai trị duy nhất ở Anh quốc.
Những năm đầu của triều đại Edward III
Edward đã lựa chọn nối lại cuộc xung đột quân sự với Vương quốc Scotland nơi mà cha và ông nội của ông đã tham chiến với những thành công khác nhau. Edward đã bác bỏ Hiệp ước Northampton vốn được ký kết trong thời gian nhiếp chính, do đó đổi mới tuyên bố về chủ quyền của Anh với Scotland và kết quả là nổ ra cuộc chiến tranh giành độc lập lần Thứ hai của Scotland.
Có ý định lấy lại những gì mà người Anh cho là của họ, ông đã giành lại quyền kiểm soát Berwick và có được một chiến thắng quyết định Anh tại Trận Hill Halidon trong năm 1333 khi chống lại lực lượng của David II-nhà vua trẻ tuổi của Scotland. Edward III lúc này đặt Edward Balliol trên ngai vàng của Scotland và yêu cầu bồi thường một khoản tiền tương đương 2.000 librates đất tại các quận phía nam – Lothians, Roxburghshire, Berwickshire, Dumfriesshire, Lanarkshire và Peebleshire. Bất chấp những chiến thắng của ông ở Dupplin và Halidon, phe nhà Bruce đã sớm bắt đầu khôi phục và vào cuối năm 1335 sau Trận Culblean thì sự chiếm đóng của nhà Plantagenet ngày càng trở nên khó khăn và phe nhà Balliol đã nhanh chóng sụp đổ.
Tại thời điểm này, năm 1336, John của Eltham, Bá tước xứ Cornwall-em trai của Edward III chết. John Fordun trong quấn Gesta AnnaliaPerth. đã tuyên bố rằng Edward đã giết chết em trai của ông trong một cuộc tranh cãi tại
Mặc dù Edward III đã phải dùng đến một đội quân rất lớn để chiến đấu ở Scotland, bởi vào năm 1337 phần lớn lãnh thổ Scotland đã được phục hồi bằng lực lượng của David II, chỉ để lại một vài lâu đài như Edinburgh, Roxburgh và Stirling thuộc sở hữu của Plantagenet. Những vị trí cỏn con này không đủ để áp đặt sự cai trị của Edward và năm 1338/ 9 Edward đã chuyển từ một chính sách chinh phục sang chính sách ngăn chặn.
Edward phải đối mặt với các vấn đề quân sự trên hai mặt trận; những thách thức từ chế độ quân chủ Pháp. Người Pháp tạo ra ba vấn đề: đầu tiên, họ đã cung cấp hỗ trợ liên tục cho người Scotland qua liên minh Pháp-Scotland. Philip VI bảo vệ cho David II sống lưu vong và hỗ trợ các cuộc tấn của Scotland vào phía Bắc nước Anh. Thứ hai, Pháp tấn công một số thị trấn ven biển Anh, dẫn đến tin đồn ở Anh về một cuộc xâm lược toàn diện. Cuối cùng, của tài sản nhà vua Anh ở Pháp đã bị đe dọa, trong 1337, Philip VI tịch thu công quốc Aquitaine và hạt Ponthieu.
Thay vì tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột bằng cách tỏ lòng tôn kính nhà vua Pháp, Edward tuyên bố chủ quyền với vương miện của nước Pháp như là hậu duệ nam duy nhất còn sống của ông ngoại đã chết của ông, Philip IV. Tuy nhiên người Pháp viện dẫn luật Salic và bác bỏ yêu cầu này và cho rằng Philip VI-cháu trai của Philip IV mới là người thừa kế thực sự, và qua đó làm bùng nổ chiến tranh Trăm năm. Edward đã cho kết hợp biểu tượng tam sư của nước Anh và hoa huệ của nước Pháp thành gia huy trên áo choàng của mình và tự xưng làm vua của cả Anh và Pháp.
Trong cuộc chiến chống lại nước Pháp, Edward đã xây dựng liên minh với một thiểu số các hoàng thân ở Pháp. Năm 1338, Louis IV đại diện của Đế quốc La Mã Thần thánh đã hứa hỗ trợ ông. Tuy nhiên biện pháp này tạo ra những kết quả ít ỏi, chỉ có chiến dịch quân sự chính được thực hiện trong giai đoạn này của cuộc chiến là chiến thắng của hải quân Anh tại Sluys ngày 24 tháng 6 năm 1340, làm 16.000 binh lính và thủy thủ Pháp đã thiệt mạng.
Trong khi đó, áp lực tài chính vào vương quốc bị gây ra bởi các liên minh đắt tiền của Edward đã dẫn đến sự bất mãn ở quê nhà. Đáp lại, ông trở về mà không báo trước vào ngày 30 tháng 11 năm 1340. Để xóa bỏ sự rối loạn, ông đã quyết định thanh trừng chính quyền hoàng gia và phớt lờ về khoản nợ nước ngoài của Anh quốc (người đầu tiên trong số hai nhà vua không trả nợ trong lịch sử Anh quốc) và có thể ông đã góp phần vào sự sụp đổ của ngân hàng Compagnia dei Bardi. Những biện pháp này đã không mang lại sự ổn định trong nước và sau đó một bế tắc xảy ra giữa nhà vua và John de Stratford-Tổng.giám.mục Canterbury.
Edward, tại Nghị viện Anh của Tháng Tư năm 1341, đã buộc phải chấp nhận hạn chế nghiêm trọng đến đặc quyền của mình về tài chính và hành chính. Tuy nhiên, vào tháng Mười năm đó, nhà vua bác bỏ đạo luật này và đã bị Đức Tổng.giám.mục Stratford tẩy chay về mặt chính trị. Các trường hợp bất thường của Quốc.hội năm 1341 đã buộc nhà vua vào trình, nhưng trong những hoàn cảnh bình thường các quyền hạn của nhà vua trong thời Trung cổ Anh đã hầu như không giới hạn, và Edward đã lợi dụng điều này.
Vận may của chiến tranh
Sau nhiều chiến dich không có kết quả tại Lục địa châu Âu, Edward đã quyết định tiến hành một cuộc tấn công lớn trong năm 1346 và căng buồm đi Normandy với một lực lượng là 15.000 người. Quân đội của ông chiếm thành phố Caen và hành quân trên toàn miền Bắc nước Pháp. Ngày 26 tháng 8 ông đã gặp lực lượng vua của Pháp trong trận chiến Crécy và giành được một chiến thắng quyết định. Trong khi đó khi trở về nhà, William Zouche-Tổng.giám.mụcYork đã huy động được một đội quân để chống lại David II, người đã quay trở lại và đánh bại rồi bắt tù binh ông này (David II) tại Trận Cross of Neville vào ngày 17 tháng 10. Với biên giới phía bắc của ông đã được bảo đảm, Edward cảm thấy tự do để tiếp tục cuộc tấn công lớn của ông vào nước Pháp và tiến hành bao vây thành phố Calais, thành phố này đã thất thủ sau gần một năm bị bao vây vào tháng 8 năm 1347.
Cũng trong năm 1348, bệnh dịch Black Death đã lan vào Châu Âu và đã giết chết một phần ba hoặc hơn nữa dân số nước Anh. Điều này có nghĩa là không đủ nhân lực để tiến hành một chiến dịch lớn. Các chủ đất lớn phải vật lộn với tình trạng thiếu nhân lực và tình trạng lạm phát đã dẫn đến chi phí lao động cao vọt. Cố gắng để khắc phục tình huống này, nhà vua và Quốc.hội đã ban hành Pháp lệnh về người làm công (1349) và Điều lệ về người làm công (1351). Tuy nhiên bệnh dịch hạch đã không dẫn đến một sự cố toàn diện cho chính phủ và xã hội và số nhân khẩu được nhanh chóng phục hồi một cách đáng kể.
Năm 1356, con trai của Edward, Edward, Hoàng tử đen, đã giành một chiến thắng tuyệt vời tại trận Poitiers. Lực lượng Anh ít hơn rất nhiều không chỉ đẩy lui người Pháp mà còn bắt tù binh vua Pháp, John II. Sau khi một loạt các chiến thắng, người Anh đã nắm giữ số tài sản lớn ở Pháp, vua Pháp bị giam ở Anh và chính phủ trung ương Pháp đã gần như hoàn toàn sụp đổ. Cho dù yêu cầu bồi thường của Edward đến vương miện của Pháp ban đầu thật ra chỉ là một mánh khóe chính trị, nó bây giờ dường như là trong tầm tay. Tuy nhiên, một chiến dịch trong năm 1359 với mục đích để hoàn tất các cam kết nhưng lại không thành công. Do đó năm 1360, Edward chấp nhận Hiệp ước Brétigny, theo hiệp ước này ông từ bỏ tuyên bố của mình về ngôi vua nước Pháp nhưng được bảo đảm rằng chủ quyền của tài sản của ông ở Pháp là đầy đủ.
Thời gian sau của triều đại III
Trong thời gian đầu của triều đại của ông, Edward đã tỏ ra năng động và thành công, trong những năm sau ông đã trở nên ỳ vì những thất bại quân sự và xung đột chính trị. Các công việc hằng ngày của quốc gia đã thu hút hơn Edward hơn những chiến dịch quân sự, do đó, trong thập kỷ 1360 Edward ngày càng dựa vào sự giúp đỡ của các thuộc hạ của mình, đặc biệt là William Wykeham. Là một kẻ mới phất, Wykeham đã được bổ nhiệm làm Lord Privy Seal (quan chưởng ấn) trong năm 1363 và Lord Chancellor vào năm 1367, mặc dù những khó khăn trong sự kết nối chính trị cùng với thiếu kinh nghiệm của ông ta, Quốc.hội đã buộc ông này phải từ chức chancellorship trong năm 1371.
Càng tạo thêm các khó khăn cho Edward là những cái chết của người mà ông tin cậy nhất, một số do sự tái phát của bệnh dịch hạch từ năm 1361-1362. William Montacute- đồng hành của Edward III trong cuộc đảo chính 1330, đã chết năm 1344. William de Clinton, Người đã ở cùng với nhà vua tại Nottingham đã qua đời năm 1354. Một trong những Bá tước của năm 1337, William de Bohun, đã qua đời năm 1360 và năm tiếp theo là Henry Grosmont, có lẽ là viên đại úy ưa thích nhất của Edward đã chết vì dịch hạch. Cái chết của họ để lại phần lớn các Thành viên Quốc.hội trẻ hơn và tự nhiên là phù hợp với các hoàng tử hơn là với nhà vua.
Người con trai thứ hai của nhà vua, Lionel Antwerp, cố gắng để quy phục lực lượng tự trị của các lãnh chúa người Anglo-Ailen ở Ireland. Nhưng chiến dịch đã không thành công, và nó chỉ kéo dài sự chiếm đóng của người Anh theo Điều luật Kilkenny trong năm 1366.
Tại Pháp, trong khi đó, trong thập kỷ sau Hiệp ước Brétigny là một trong yên bình tương đối, nhưng trên 8 tháng Tư, 1364 John II đã chết trong giam cầm ở Anh, sau khi không thành công cố gắng để nâng cao tiền chuộc của riêng mình tại nhà. Ông đã được thừa kế bởi nhà vua Charles V mạnh mẽ, người đã tranh thủ được năng lực của vị Nguyên soái đầy tài năng Bertrand du Guesclin. Năm 1369, chiến tranh ở Pháp lại bắt đầu với một chiều hướng và John của xứ Gaunt-người con trai trẻ tuổi của Edward đã được trao trách nhiệm chỉ huy một chiến dịch quân sự. Những nỗ lực này đã không thành công và với Hiệp ước Bruges trong năm 1375 các tài sản lớn của Anh ở Pháp đã bị giảm xuống chỉ còn là các thị trấn ven biển Calais, Bordeaux và Bayonne.
Thất bại quân sự ở nước ngoài và áp lực liên quan đến tài chính của chiến dịch quân sự đã dẫn đến sự bất mãn chính trị tại quê nhà. Vấn đề này đã lên đến đỉnh cao ở nghị viện vào năm 1376 và trở thành cái gọi là Good Parliament. Quốc.hội được triệu tập để ban hành sắc thuế mới, nhưng House of Commons nắm lấy cơ hội để giải quyết những khiếu nại cụ thể. Đặc biệt, những lời chỉ trích đã được nhắm vào một số các cố vấn thân cận nhất của nhà vua. Lord Chamberlain William Latimer và Lord Steward John Neville, 3 Baron de Raby Neville. Alice Perrers- người tình của Edward, người đến lúc đó được coi như nắm quá nhiều quyền lực so với vị vua già, đã bị đuổi khỏi triều đình. đã bị miễn nhiệm khỏi vị trí của họ.
Tuy nhiên đối thủ thực sự của Quốc-hội, người vốn được hỗ trợ bởi những Đại quý tộc hùng mạnh như Wykeham và Edmund de Mortimer, Bá tước thứ 3 Earl của Max, lại là John của Gaunt. Cả nhà vua và Hoàng tử đen vào thời gian này mất khả năng điều hành Triều chính do bệnh tật, Gaunt đã nắm quyền kiểm soát chính phủ Anh, nhưng rồi ông này cũng đã buộc phải nhượng bộ những đòi hỏi của Quốc.hội, nhưng sau cuộc họp Quốc-hội trong năm 1377, hầu hết các thành tựu của nó đã bị đảo ngược.
Tuy nhiên bản thân Edward đã không làm gì nhiều trong thời kỳ này, sau khoảng năm 1375, ông đóng một vai trò hạn chế trong chính phủ. Khoảng 29 tháng 9, 1376 ông bị bệnh và bị áp xe (có tin đồn là ông bị bệnh lậu). Sau một thời gian ngắn hồi phục vào tháng Hai, nhà vua đã chết vì một cơn đột quỵ tại Sheen, ngày 21 tháng Sáu. Ông được kế tục bởi cháu trai mười tuổi của mình, Vua Richard II-con trai của Hoàng tử đen vì ông này cũng đã qua đời vào ngày 8 tháng 6 năm 1376.
Edward, Hoàng tử đen
Edward của Woodstock, Hoàng tử xứ Wales, Công tước xứ Cornwall, Hoàng tử của Aquitaine, (15 tháng 6 năm 1330 – Ngày 08 tháng 6 1376) là con trai cả của vua Edward III của Anh và Philippa của Hainault, và là cha của vua Richard II của Anh quốc.
Ông được gọi là Edward của Woodstock-nơi ông được sinh ra và sau này ông được gọi một cách phổ biến là Black Prince. Ông là một nhà lãnh đạo quân sự đặc biệt, chiến thắng của ông trước người Pháp ở Crécy và Poitiers làm cho ông ta trở nên rất nổi tiếng. Năm 1348 ông trở thành người đầu tiên Knight of the Garter, tổ chức mà ông là một trong những người sáng lập.
Edward qua đời một năm trước cha của ông và trở thành Hoàng tử xứ Wales đầu tiên không để trở thành vua của nước Anh, thay vào đó là con trai ông- Richard II, một cậu bé vị thành niên đã lên ngôi sau cái chết của Edward III.
Edward sinh ngày 15 tháng 6 năm 1330 tại Woodstock Palace ở Oxfordshire. Ông đã được lập làm Bá tước của Chester vào ngày 18 Tháng 5 năm 1333, Công tước xứ Cornwall ngày 17 tháng 3 năm 1337 và cuối cùng là Hoàng tử xứ Wales vào ngày 12 tháng năm 1343 khi ông mới gần mười ba tuổi. Ở Anh, Edward đã từng là một nhiếp chính tượng trưng trong thời kỳ những năm 1339, 1340 và 1342, trong khi Edward III đang tham gia vào các chiến dịch. Ông được dự kiếnsẽ tham dự tất cả các cuộc họp Quốc-hội và ông đã tham gia vào các cuộc đàm phán với giáo hoàng về cuộc chiến tranh 1337.
Edward đã được nuôi lớn cùng với người chị em họ của ông-Joan, “The Maid Fair của Kent.” Edward đã được giáo hoàng Innocent VI làm phép rửa tội bởi vì quan hệ họ hàng của họ là tương đối gần (như khi Edward III kết hôn với Philippa của Hainault, người chị em họ của ông) và đã kết hôn với Joan trong ngày 10 tháng 10 năm 1361 tại lâu đài Windsor, cuộc hôn nhân này tạo ra một số tranh cãi, chủ yếu do thực tế là kết hôn với một người đàn bà̀ Anh là lãng phí một cơ hội để hình thành một liên minh với một thế lực ngoại quốc.
Khi ở Anh, nơi cư trú chính của Edward là ở Wallingford Castle trong Berkshire (Bây giờ Oxfordshire) hoặc Berkhamsted Castle trong Hertfordshire.
Ông từng là đại diện của nhà vua Anh tại Aquitaine, nơi ông và Joan nắm giữ một Triều đình vốn được coi là một trong những hoàng gia xuất sắc trong mọi thời gian. Đây là khu nghỉ dưỡng của các vị vua phải sống lưu vong, như James IV của Majorca và Peter của Castile.
Peter của Castile, bị đẩy khỏi ngai vàng của mình bởi anh trai ngoài giá thú-Henry của Trastámara, ông này xin dâng các lãnh địa của mình ở vịnh Biscay cho Edward vào năm 1367, để đổi lấy viện trợ của Hoàng tử đen trong việc khôi phục ngai vàng của mình. Edward đã thành công trong Trận Najera trong đó ông đánh bại hoàn toàn các lực lượng Pháp và Castilian do Bertrand du Guesclin chỉ huy.
Hoàng tử đen trở lại Anh trong tháng 1 năm 1371 và qua đời vài năm sau đó sau khi mắc một căn bệnh lâu dài có thể bị ung thư hoặc bệnh đa xơ cứng.
Edward và tinh thần thượng võ
Edward đã sống trong một thế kỷ của sự suy giảm trong lý tưởng hiệp sĩ. Sự hình thành Knight of the Garter, một tổ chức của hoàng gia Anh mà Edward là một thành viên sáng lập, thể hiện một sự thay đổi đối với chủ nghĩa quốc gia và xa rời việc tham gia các cuộc thập tự chinh-vốn vẫn là đặc trưng của quý tộc Anh trong hai thế kỷ trước. lập trường của Edward trong quá trình này dường như phần nào chia rẽ. Edward hiển thị tuân theo các nghĩa vụ đạo đức điển hình thông qua đóng góp hào hiệp của ông vào tòa Nhà thờ chính Canterbury trong suốt cuộc đời của ông.
Một mặt, sau khi bắt được John the Good-Vua của Pháp, và người con trai út của ông ta tại Poitiers, ông đối xử với họ một cách cực kỳ tôn trọng, ông còn cho phép John quay trở về nhà và cùng cầu nguyện với John tại tòa Nhà thờ chính Canterbury. Đáng chú ý là ông cũng cho phép một ngày trước Trận Poitiers để hai bên có thể thảo luận về trận chiến sắp tới và để Hồng y Périgord có thể đàn phán hòa bình.
Mặt khác, tinh thần hiệp sỹ của ông cũng bị thay thế nhiều lần bởi chủ nghĩa thực dụng. Hoàng tử đen đã sử dụng lặp đi lặp lại chiến thuật chevauchée (đốt cháy và cướp bóc các thị trấn và các trang trại) vốn không phù hợp với quan niệm của tinh thần thượng võ, nhưng nó đã khá hiệu quả trong việc hoàn thành các mục tiêu của chiến dịch của ông và làm suy yếu sự thống nhất và nền kinh tế của nước Pháp. Trên chiến trường, chủ nghĩa thực dụng áp đảo tinh thần thượng võ cũng đã được chứng minh qua việc các bên ngày càng sử dụng nhiều pháo binh, các kị sỹ xuống ngựa để chiến đấu cùng với cung thủ trường cung và tấn công ở bên cánh. Hơn nữa, ông đặc biệt có thái độ khắc nghiệt và khinh thường đối với các tầng lớp thấp trong xã hội, biểu hiện bằng các loại thuế má nặng nề khi đánh vào công quốc Aquitaine và do đó ông đã gây ra những vụ thảm sát tại Limoges và Caen. Hành vi của Edward là điển hình của một số lượng ngày càng tăng các hiệp sĩ Anh và giới quý tộc ở cuối thời Trung cổ- những người càng lúc càng ít quan tâm hơn tới lý tưởng cao cả của tinh thần thượng võ, những hành vi mà sau này sẽ ảnh hưởng nhiều đến các nước khác.
Danh sách các chiến dịch lớn mà Hoàng tử Đen tham gia và ý nghĩa của nó
- Chiến dịch Flanders năm 1345 ở mặt trận phía Bắc-đây là một chiến dịch có rất ít ý nghĩa và kết thúc sau ba tuần khi một trong những đồng minh của Edward đã bị ám sát.
- Chiến dịch Crécy trên mặt trận phía Bắc và nó làm tê liệt quân đội Pháp trong khoảng mười năm, cho phép người Anh tiến hành cuộc bao vây Calais mà chỉ gặp rất ít những kháng cự của quân chính quy của đối phương trước khi bệnh dịch hạch nổ ra. Ngay cả khi quân đội Pháp đã phục hồi, lực lượng họ được triển khai chỉ khoảng tương đương một phần tư quân số mà họ đã triển khai ở Crécy (như được cho thấy tại trận Poitiers). Vùng Normandy đã hầu như nằm trong sự kiểm soát của người Anh, nhưng họ lại quyết định tập trung vào miền Bắc nước Pháp, để vùng Normandy nằm dưới sự kiểm soát của chư hầu và đồng minh của nước Anh.
- Cuộc bao vây Calais, ở đó người dân phải chịu những hoàn cảnh tồi tệ nhất và họ phải ăn thịt chó và chuột. Cuộc bao vây đã tạo cho người Anh và chư hầu khả năng kiểm soát suốt cả miền Bắc nước Pháp trước khi có nền hòa bình tạm thời do bệnh dịch hạch Cái chết đen
- Chiến dịch phản công ở Calais, sau đó Calais vẫn nằm trong tay người Anh.
- Les sur Mer Espagnols hoặc trong trận Winchelsea trên kênh English Channel, đó là một chiến thắng có chút ít ý nghĩa Pyrrhic (chiến thắng với cái giá đắt đỏ, thậm chí làm người chiến thắng suy kiệt), để ngăn chặn các cuộc tấn của người Tây Ban Nha vào quận Ess.e.x của Anh quốc.
- Cuộc cướp bóc vĩ đại trong năm 1355 trong vùng Aquitaine-Languedoc, nhằm mục đích làm tê liệt nền kinh tế của miền Nam nước Pháp và gây nên sự bất mãn của nông dân Pháp với nhà vua của chính họ. Các cuộc tấn công chinh phục vào khu vực vùng “đệm” tạo cơ hội mở ra một liên minh với các nước láng giềng trong vùng Aquitaine mà xứ Navarre của Charles the Bad là một tiểu quốc đáng chú ý nhất, và gây ra xu hướng làm cho nhiều vùng thuộc nước Pháp muốn có quyền tự chủ và làm cho nước Pháp không còn là một vương quốc thống nhất nữa.
- Cuộc chinh phục vùng Aquitaine đem lại sự kiểm soát vững chắc hơn cho người Anh vào vùng đất này để mang lại nhiều nguồn tài nguyên đất đai và vật lực để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh của Edward.
- Chiến dịch Poitiers ở vùng Aquitaine-Loire làm tê liệt quân đội Pháp trong vòng 13 năm, gây ra tình trạng hỗn loạn và chính sự hỗn loạn lại là căn nguyên của Hiệp ước Bretigney được ký kết trong năm 1360. Sau chiến dịch này, nước Pháp không còn bất kỳ vị chỉ huy quân đội danh tiếng nào, mọi thách thức đều dồn vào Charles the Wise (Charles VII-vị vua Pháp lên thay thế John II) và các quý tộc Pháp bị giết chết ở Crécy và Poitiers còn nhiều hơn cả bởi bệnh dịch Cái chết đen.
- Chiến dịch Reims, chiến dịch mà sau đó hòa bình cuối cùng đã đạt được với Hiệp ước Bretigny. Tuy nhiên, theo các điều khoản tương tự, người Anh chỉ rời khỏi khoảng một phần ba các vùng đất chiếm được của Pháp chứ không là hơn một nửa như họ sẽ phải thực hiện theo Hiệp ước London. Điều này là do thất bại trong việc chiếm Reims dẫn đến sự cần thiết của một lối đi lại an toàn trong nước Pháp. Kết quả là, một hiệp ước nhỏ hơn đã được đồng ý và Edward III đã buộc phải bỏ tuyên bố của ông lên ngôi vua Pháp. Pháp vẫn còn bị buộc phải trả một khoản tiền khổng lồ khoảng bốn lần tổng sản phẩm nội địa hàng năm của Pháp để chuộc John the Good. Các khoản tiền chuộc được trả được, tuy nhiên vẫn còn thiếu một chút so với yêu cầu của người Anh và John the Good đã không bao giờ được trả lại cho người Pháp. Như vậy, chiến dịch này mang lại nhiều kết quả khác nhau, nhưng chủ yếu là có ý nghĩa tích cực cho Edward. Một điều đáng nhớ là Edward III không bao giờ thực sự từ bỏ yêu cầu của mình đối với ngai vàng của và rằng khoảng một nửa lãnh thổ của Pháp đã bị kiểm soát bởi các chư hầu của người Anh.
- Cuộc vây hãm Limoges trong năm 1370 ở vùng Aquitaine, sau đó Hoàng tử Đen là đã phải dừng các công việc của mình lại không chỉ vì bệnh tật và các vấn đề tài chính, mà còn do sự tàn ác khủng khiếp của cuộc bao vây, quấn sử Froissar cho thấy có vụ thảm sát đến khoảng 3.000 cư dân của vùng này. Vì không có Hoàng tử, các nỗ lực chiến tranh của người Anh chống lại Charles the Wise và Bertrand Du Guesclin đã bị tiêu diệt. John of Gaunt-người anh em ruột của Hoàng tử Đen đã không quan tâm với cuộc chiến ở Pháp, mà hướng nhiều hơn sự chú ý của ông vào cuộc chiến kế vị ở Tây Ban Nha.
- Vua Edward III và hoàng tử Đen lại dong buồm đến nước Pháp từ Sandwich với 400 tàu chở 4.000 kị sỹ và 10.000 cung thủ, nhưng sau sáu tuần vì thời tiết xấu và hướng đi bị thay đổi, họ đã phải hướng trở lại nước Anh
William de Bohun-Bá tước Northampton (năm 1312-1360)
William de Bohun, bá tước đầu tiên của Northampton, một người anh em họ và người bạn tận tâm của Edward III, đã hai lần làm trung úy của nhà vua tại Anh và trong nội chiến Bretonvà một chỉ huy hàng đầu của Anh trong giai đoạn đầu tiên trong chiến tranh Trăm năm, ông là người con trai thứ năm của Humphrey de Bohun-bá tước của Hereford và Es***, và Elizabeth-con gái của Edward I, trong tháng 10 năm 1330, ông cầm đầu vụ bắt giữ Roger Mortimer-bá tước của March tại lâu đài Nottingham, từ đó bắt đầu sự cai trị cá nhân của Edward III. Bohun từng chiến đấu ở Scotland trong đầu thập kỷ 1330 và năm 1336 đã tham gia đàm phán một thỏa thuận ngừng bắn Anh-Scotland. Trong năm 1332, Bohun nhận được vùng đất trước đây thuộc về người chú của vua, Thomas của Brotherton-Bá tước Norfolk, và trong năm 1335 kết hôn với Elizabeth, góa phụ của người thừa kế Bá tước March. Ngày 16 tháng 3 năm 1337, Bohun được được thụ phong làm Bá tước của Northampton, một trong sáu Bá tước mới được tấn phong để mở rộng số lượng các nhà quý tộc Anh nhằm tăng cường những chỉ huy quân sự trong cuộc chiến sắp tới với Pháp. Bá tước Northampton đã đàm phán cho Edward với Pháp và các đồng minh tiềm năng trong vùng đất thấp trong năm 1337-38 và, trong năm sau, được nhà vua cử làm liên lạc với Hội đồng Anh. Ông chiến đấu trong chiến dịch năm 1339 tại miền Bắc nước Pháp và trong trận chiến hải quân Sluys, chiến dịch mà ông đã cho nhà vua vay £ 800. Trong tháng 7 năm 1340, ông bị giam giữ một thời gian ngắn tại Brussels như là một con tin về các khoản nợ lớn của nhà vua và chỉ thoát khỏi đó bằng cách bỏ trốn khỏi nhà giam để về với quân đội Anh và với Edward III trong tháng 11. Bá tước Northampton đã phát biểu thay mặt nhà vua với John Stratford, tổng.giám.mục của Canterbury, trong cuộc khủng hoảng chính trị năm 1340-1341. Ông được bổ nhiệm làm trung úy của nhà vua tại Anh vào 20 tháng 7 năm 1342, Bá tước Northampton đã tiến hành một cuộc bao vây vào Brest và đánh bại Charles của Blois, ứng cử viên do Pháp hậu thuẫn cho danh hiệu công tước Morlaix vào ngày 30 tháng 9. Sau đó ông bao vây Nantes trước khi từ chức trung úy của nhà vua vào ngày 02 tháng tư năm 1343 để tham gia vào các cuộc đàm phán hòa bình được đề xuất bởi Clement VI như một phần của thỏa thuận ngừng bắn Malestroit. Với sự sụp đổ của các cuộc đàm phán, Northampton đã được tái bổ nhiệm trung úy tại Anh vào ngày 24 tháng 4 năm 1345. Ông đã chiến đấu tại Crécy trong tháng 8 năm 1346 và tại cuộc bao vây năm Calais 1347 cho đến khi tháng Giêng, khi ông một lần nữa lại từ chức chức trung ú́y ở Breton để tiến hành các cuộc đàm phán với người Pháp và Flemings. Ông được nhận vào Order of the Garter trong tháng Chín năm 1349, Ông trở về Scotland trong thập kỷ 1350 và phục vụ như là người quản lý các tù nhân của các chiến dịch rồi đô đốc của Hạm đội phía Bắc và chỉ huy trưởng của Lâu đài Carlisle. Năm 1359-60, vị bá tước trở này về Pháp và phục vụ trong Chiến dịch Rheims và chứng kiến việc ký kết Hiệp ước Bretigny. Ông mất ngày 16 tháng chín 1360.
Beauchamp Thomas, Bá tước Warwick ( năm 1314-1369)
Thomas Beauchamp, bá tước thứ 11 của Warwick và là một đồng đội quan trọng và đặc biệt nhất của Edward III, ông tham gia vào hầu hết các trận đánh và chiến dịch ban đầu của chiến tranh trăm năm. Beauchamp chỉ là một đứa trẻ khi cha của ông-Guy de ự quyền sở hữu vùng đất Warwick đến Hugh Despenser the Elder-sủng thần của ông ta, nhưng vị bá tước trẻ tuổi và cuộc hôn nhân của anh ta được giao phó cho Roger Mortimer-vị bá tước tương lai của March, người có con gái kết hôn với Bá tước Warwick trong khoảng 1327. Trong tháng hai năm 1329 trong khoảng thời gian cai trị của bố vợ ông và Nữ hoàng Isabella cho phép Warwick được phong tước hiệp sĩ và chiếm lại đất đai của mình, mặc dù ông vẫn còn chưa đủ tuổi. Trong thập kỷ 1330, Warwick đã chiến đấu tại Scotland, nơi ông được bổ nhiệm làm chỉ huy quân đội trong năm 1337. Năm 1339, ông cùng với Edward III đến Pháp và năm 1340 đã có mặt tại cuộc bao vây Tournai và tham gia vào các cuộc đàm phán dẫn tới cuộc ngưng bắn Esplechin. Từ tháng 9 năm 1340 cho đến tháng 5 năm 1341, Vị bá tước này cũng bị giam cầm trong Malines như vật bảo lãnh cho việc thanh toán các khoản nợ của nhà vua. Năm 1342, Warwick phục vụ tại cuộc bao vây của Vannes tại Anh và trong năm 1346 và chiến đấu bên cạnh Edward-Hoàng tử đen, tại Crécy nơi mà ông ta đã được gặt hái đáng kể về danh tiếng quân sự được nâng cao. Warwick đã có mặt tại các cuộc bao vây Calais trong năm 1347 và đi cùng với Hoàng tử đen trong các chiến dịch Che vauchee xuyên qua miền nam nước Pháp trong năm 1355. Sử gia Geoffrey Baker viết rằng Warwick và các đồng chí của ông đã chiến đấu những con sư tử tại Poitiers trong tháng 9 năm 1356 và trong năm 1359-1360, ông này cũng tham gia Chiến dịch Rheims và là một trong những nhân chứng tại buổi lễ ký kết Hiệp ước Bretigny. Bá tước Warwick cũng đã được hào phóng ban thưởng cho sự phục vụ của ông và được bổ nhiệm làm bá tước Thống chế của quân đội Anh năm 1344 và nhận được một món quà của hơn £ 1.300 trong năm 1347. Năm 1348, nhà vua cấp cho Warwick một khoản trợ cấp hàng năm 1.000 đồng mark và cũng đã chọn ông làm một thành viên sáng lập của the Order of the GARTER, chỉ sau có Edward-Hoàng tử Đen và Henry của Grosmont-công tước vùng Lancaster. Trong thập kỷ 1360, ông cũng phục vụ cho Hoàng tử đen ở Aquitaine và tham gia thập tự chinh ở Phổ và đã dẫn đầu một phái đoàn ngoại giao đến Scotland. Về việc nối lại cuộc chiến trong 1369, Warwick đã đi cùng với John của Gaunt-công tước của Lancaster, đến Calais, nơi mà tin tức về sự xuất hiện của vị bá tước này được cho là đã thuyết phục Philip the Bold-công tước của Bourgogne, rút quân đội của ông khỏi vùng này. Sau đó Warwick đã tham gia vào chiến dịch chevauche’e của Gaunt vào Normandy, khi trở về Calais vị bá tước này đã mắc phải dịch bệnh và qua đời vào ngày 13 Tháng 11 năm 1369.
CHỈ HUY QUÂN ĐỘI PHÁP
Philip VI (năm 1293-1350)
Philip VI là nhà cai trị đầu tiên trong rất nhiều thế hệ của người Pháp đã bại trận trong tay người Anh. Ông ta được sinh ra trong năm 1293 và cha của ông-Charles, Bá tước của Valois, Anjou và Maine là người em trai của vua Philip IV và cũng là ông nội của Louis IX. Mẹ của ông ta là Marguerite-con gái của vua Charles II của Naples ở niền Nam Italy. Khi mà bản thân Philip thừa kế các xứ Valois, Anjou và Maine, thì anh họ của ông-Charles trở thành vua của nước Pháp.
Đăng quang vào năm 1328, Philip VI chết vào năm 1350 và là vị vua Pháp nhà Valois đầu tiên cai trị nước Pháp tới tận năm 1589. Philip được tưởng nhớ đến như một chính trị gia sắc xảo và tinh khôn hơn là một chiến binh, và là một người cực kỳ thận trọng về những vấn đề về quân sự.
Charles II-Bá tước của Alencon
Charles II-Bá tước của Alencon, là người em trai của nhà Vua Philip VI, Ông ta là một chiến binh thực thụ hơn so với nhà vua và trước khi xảy ra thảm họa ở Crécy thì ông là một chỉ huy quân sự hoàn toàn thành công. Ví dụ như trong năm 1330 ông đã chiếm được thành phố Saintes-lúc này đang nằm trong tay người Anh ở miền phía Tây của nước Pháp bất chấp rằng ở đó có một lượng lớn quân Anh đồn trú. Người ta không biết rằng liệu những hoạt động sau khi công chiếm thành phố Saintes có được duyệt bởi Vua Philip VI không, chỉ có điều những vị trí đầu tiên của Edward III đã bị buộc phải đầu hàng. Thật không may những thành công của ông ta ở Saintes có thể làm cho vị Bá tước của Alencon một ấn tượng sai lầm về cả năng lực của ông lẫn sức mạnh của người Anh.Tuy nhiên, ông ta vẫn là một trong những cố vấn có kinh nghiệm nhất cho vua Philip và John, Công tước xứ Normandy-người con trai ốm yếu của Philip, người mà sau này trở thành vua John II , và hỗ trợ cho Charles of Blois trong những cố gắng của ông ta để tái chiếm Nantes-thủ đô mang tính lịch sử của xứ Brittany. Sự tham dự của Alencon vào cuộc thương thuyết đã phá vỡ một liên minh Anglo-Flemish ở gần Bouvines mà không phải đánh trận đã cho thấy rằng ông ta là người thông minh về ngoại giao.
John of Luxembourg
John of Luxembourg là con trai của một Hoàng đế Đức. Bản thân ông ta có một cái gì đó fgiống như một hiệp sỹ lang thang, với những kỹ năng mã thượng về tài lãnh đạo và chỉ huy cũng như là hoàn toàn trung thành với nước Pháp. Vùng Bohem mà bây giờ là một phần lãnh thổ của Cộng Hòa Séc, có triều đình địa phương của nó bị tuyệt tự sau vụ ám sát của Wencelas III in 1304. Các quý tộc người Bohem đã chuyển sang chọn Triều đình Luxembourg-một dòng tộc Đức bị ảnh hưởng nặng nề bởi người Pháp. Và kết quả là cậu bé 14 tuổi John of Luxembourg đã trở thành nhà vua của vùng Bohem vào năm 1310. Sự nhiệt tình về tinh thần mã thượng đã là động cơ để ông ta tham gia vào các chiến dịch Thập tự chinh ở Lithuania ( các năm 1328-29, 1337 và 1345) chiến dịch ở Italy (1330-31) và tại chính vùng Bohem.Sự quan tâm của John of Luxembourg là hoàn toàn về hướng về phương Tây (ý nói tuy ông ta làm vua của Bohem một vùng ở Đông Âu). Những vùng đất của tổ tiên của ông nằm ở những vùng vỡ vụn của Đế quốc Thánh thần vốn bao quanh nước Pháp. Ở đó tầng lớp quý tộc nói tiếng Pháp trong khi tầng lớp bình dân sử dụng rất đa dạng tiếng Đức vùng Đất thấp mà người Pháp đánh đống làm một như là Thiois. Trong suốt tuổi thành niên, John of Luxembourg luôn luôn là một cận thần, một người lính và một nhà ngoại giao trung thành với Triều đình Pháp. Như là một người mà Philip VI tin tưởng nhất, ông ta đã được ủy quyền quản lý miền Tây Nam nước Pháp in năm 1338 -> 39, và chiến đấu bên cạnh nhà vua ở Cambrai, và lập ra một phần của đội thương thuyết đã phá vỡ một liên minh Anglo-Flemish ở Bouvines. John of Luxembourg cũng là một trong những người hỗ trợ chính về tài chính cho chiến dịch Crécy của Philip VI trong năm 1346, vào thời gian đó ông ta chưa già lắm nhưng gần như bị mù lòa.
Carlo Grimaldi
Carlo Grimaldi, II Grand là một trong 4 gia đình đứng đầu ở Genoa thời Trung cổ. Nhà Grimanldi là Guelph, những người ủng hộ truyền thống của Giáo hoàng khi phải đối đầu với đối thủ của họ là Đế quốc La Mã Thánh thần. Như vậy suy rộng ra thì họ cũng là bạn của người Pháp, những người vốn là lực lượng ủng hộ Giáo hoàng mạnh mẽ nhất. Hậu quả là Grimaldi thường chiến đấu ở Pháp như là lính đánh thuê, chỉ huy quân sự hoăchj Đồng minh. Ranieri-bố của Carlo đã từng là Lãnh chúa của vùng Ventumiglia từ năm 1329 tới 1335 cho tới khi bị đảo chính bởi Ghibbeline ( vốn ủng hộ Đế chế). Bốn năm sau đó Genoa mệt mỏi vì cuộc cãi cọ giữa các quý tộc của nhà Guelph và Ghibbeline, đã chọn Simon Boccanegra làm Tổng trấn mới, nhưng ở vùng Ventumiglia nơi mà Carlo Grimaldi đã dành lại được quyền kiểm soát đã từ chối quyền điều hành của vị tổng trấn mới. Trong năm 1341 Carlo mua lại vùng Monaco từ nhàv Spinola và vùng này cùng với vùng Ventumiglia và Roquebrune đã trở thành những nơi tị nạn của những gia đình Genoa Guelph. Carlo Grimaldi và rất nhiều những thành viên của gia đình ông ta và những người phụ thuộc vào họ thường luôn ủng hộ Philip của nước Pháp trong cuộc chiến của ông này chống lại Edward III của nước Anh. Lãnh thổ của nhà Grimaldi thì rất nhỏ nhưng sức mạnh hải quân của họ thì hoàn toàn có giá trị. Họ cũng chuẩn bị chiến đấu với các hạm đội được cung cấp bởi đối thủ Ghibbeline của họ-nhà Doria. Lần đầu tiên trong lịch sử của nó, vùng tự trị Monaco đã được công nhận khi mà Carlo và Antoine-anh trai của ông ta được phong làm đại diện của Giáo Hội của vùng Provence. Trong năm 1346 Carlo Grimaldi đã tạm thời bị đuổi khỏi quyền lực ở Monaco bởi một cuộc đảo chính ở địa phương đúng vào lúc ông ta đang hoàn toàn cung cấp các hỗ trợ cho Philip VI và làm cho ông ta bị thương nặng trong trận chiến Crécy.
Kế hoạch xâm lược Pháp của người Anh
Nước Pháp trước khi có cuộc xâm lược của vua Anh-Edward III năm 1346
Sáu thế kỷ rưỡi sau khi sảy ra các sự kiện, người ta vẫn không thể biết được ý định ban đầu của Edward III, mặc dù có vẻ như một chiến lược lớn theo đó nhiều đội quân hội tụ về Paris từ Normandy, Flanders, Anh và Gascony là điều cực kỳ khó, Dường như Edward hy vọng sẽ chinh phục các vùng ven biển phía Bắc, sau đó thêm chúng vào Anh, nơi các đồng minh của ông đã làm rất tốt. Nếu vậy, kế hoạch đã được chứng minh là không thể và chiến dịch của Edward đã ít nhiều trở nên một chevauchee (trận càn quét) hoặc đột kích lớn. Mặt khác tất cả các chiến dịch của người Anh trong năm 1344-1359, trong đó có cả trận Crécy chỉ đơn giản là có thể gây những bất ổn về mặt chính trị để làm trầm trọng thêm những yếu điểm của Philip VI. Do đó mục đích về quân sự của Edward có thể là sẽ tăng cường, củng cố yêu cầu của ông ta về vương miện của nước Pháp
Người ta cho rằng sau khi hạm đội của Edward khởi hành quay trở về nhà thì nó đã được chất đầy chiến lợi phẩm sau sự sụp đổ của thành phố Caen, ông ta đã không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc hành quân bộ đối để đến địa điểm có đồ cung cấp mà ông ta hy vọng sẽ gặp chúng tại La Crotoy tại Ponthieu. Dường như là Edward III không muốn đánh một trận lớn với Philip cho đến khi ông liên kết với những đồng minh người Fleming, do đó, việc phải rút lui sẽ là những tin tức khó chịu nhất. Tuy nhiên một khi không thể tránh khỏi một trận chiến, thì kế hoạch của Edward III là rõ ràng ông rằng muốn đánh nhau với các kỵ binh Pháp hơn là bộ binh của họ. Do đó, ông ta đã tìm cách kích động để đối phương tung ra các đợt tấn công bằng kỵ binh ngược từ dưới thấp lên trên cao vào những đội hình bộ binh phòng ngự được chuẩn bị tốt. Một khi cuộc tấn công của người Genova bị đánh bại thì tất nhiên là chính xác những gì Edward III mong muốn đã xảy ra.
Kế hoạch phòng thủ của người Pháp
Philip VI đã hầu như không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải áp dụng một chiến lược phòng thủ, trong đó lực lượng địa phương phải cố gắng bảo vệ những thị trấn trên đường tiến quân của người Anh và quấy nhiễu những kẻ xâm lược, trong khi đó thì nhà vua nhanh tróng tập hợp một đội quân để đối mặt với họ một cách công khai. Nếu tình hình trở nên không thể đối với người Anh trong việc quản trị các vùng lãnh thổ mà họ đã chinh phục, thì sau đó một khoảng thời gian người Pháp có thể sẽ tại chiếm lại chúng. Trong thực tế đây là những gì đã xảy ra ở Normandy. Chỉ có ở Calais thì quân xâm lược mới xác định chiếm giữ những gì mà họ mới chiếm được. Sau khi quân đội của Edward III vượt qua sông Seine, Philip VI có thể đã hy vọng rằng bằng cách truy kích người Anh một cách khốc liệt, ông có thể khuyến khích họ rời khỏi Pháp mà không cần phải có một trận chiến lớn. Hy vọng này đã bị tan vỡ khi ông nhìn thấy quân Anh đã ở vào một vị trí được chuẩn bị tốt ở Crécy
Khi một trận chiến lớn trở thành là điều không thể tránh khỏi, kinh nghiệm trước đây của Philip có thể đã quay trở lại đánh lừa ông ta. Tại Cassel trong năm 1328 một cuộc tấn công kỵ binh Pháp hoàn hảo vào cánh của người Flemish đã mang lại co ông một chiến thắng nhanh chóng, những thành công khác của vua Philip tại Buironfosses năm 1339 và Bouvines năm 1340 là những trận “ bất chiến tự nhiên thành”, tại đó việc (Philip VI) cố tình lảng tránh một trận chiến quyết định đã hai lần đánh bại những chiến dịch trước đó của Edward III. Nhưng chiến thuật này đòi hỏi phải có một vị trí chính trị mạnh mẽ. Sự tàn phá được gây ra bởi người Anh kể từ khi họ đổ bộ xuống Normandy, chưa kể đến những lời chế nhạo của những người mô tả chiến thuật của ông là “hành vi của một con cáo chứ không phải là của một con sư tử”, vua Philip đã phải chịu áp lực cho một hành động dứt khoát.
Cuộc xâm lược
Một lực lượng rất lớn quân Anh được tập hợp ở Portsmouth vào tháng 5 và tháng 6 năm 1346, mặc dù không lớn như Edward III đã hy vọng. Việc tuyển binh cũng chậm hơn so với dự định. Tuy nhiên, Vua Edward III cũng phải chấp nhận nguy cơ phơi bày đất nước của mình ra cho những cuộc tấn của người Scotland ( hiện đang là Đồng minh của Pháp ) bằng việc tuyển quân ở khắp mọi nơi ngoại trừ những quận xa nhất ở phía bắc. Dường như ít nhất một nửa quân đội là những tay cung thủ, ngoài ra họ còn bao gồm thợ mỏ, thợ rèn, kỹ thuật viên cầu phà, thợ mộc, người dựng lều trại, bác sĩ giải phẫu, sỹ quan, binh lính và kị sỹ.
Kết quả là quân Anh có một lực lượng từ khoảng 10,00 và 15.000 nghìn người và cần có ít nhất là 750 chiếc tầu để vận chuyển. Sự tập trung của đội tàu này đã bị trì hoãn bởi các cơn bão và điều kiện thời tiết tương tự. Những chiếc tàu lớn nhất là những chiếc Cog 200 tấn, nhưng vì thiếu những chiếc tàu phù hợp có nghĩa là những chiếc tầu 10 tấn cũng đã được trưng dụng, chúng có thể bao gồm cả những con tàu chạy ven biển và chúng đã đưa một số lượng rất lớn thực phẩm đến điểm tập trung quân. Bản thân Edward III đã đến Porchester Castle vào ngày 1 tháng Sáu để giám sát các hoạt động. Trong lúc này chính phủ Anh đã sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền tận dụng tình cảm chống Pháp. Sau đó quân đội đã được trả trước thêm một khoản lương từ một đến hai tuần và các cảng London, Dover, Winchelsea và Sandwich được khóa chặt để ngăn chặn tin tức về hạm đội Anh đang chuẩn bị xâm lược lược Pháp có thể bị dò gỉ. Không có chiếc tàu được phép ra khơi cho đến sau một tuần sau khi hạm đội Anh đã khởi hành, ngoại lệ duy nhất là những con tầu mà Sir Hugh Hastings và những người của ông đã dùng để đến Flanders
Mọi người hoàn toàn không được biết rằng vào lúc nào thì Edward III cho thay đổi kế hoạch cuối cùng của ông, nhưng có thể đã có một cuộc họp bí mật vào khoảng ngày 20 tháng Sáu. Trước đây người ta đã giả định rằng hạm đội sẽ giong buồm đến Gascony và các con tàu được chuẩn bị cho một cuộc hành trình kéo dài hai tuần. Nhưng sau đó Edward III hoặc là đã thay đổi kế hoạch của mình hoặc lúc này mới nói với các chỉ huy của ông về kế hoạch thật của mình, đó là tiếp đất ở bán đảo Cotentin thuộc xứ Normandy.
Một cuộc xâm lược khác được tung ra từ xứ Flanders, được hỗ trợ bởi Sir Hugh Hasting, một hiệp sĩ đến từ Norfork với một lực lượng nhỏ được chở trên 18 chiếc sà lan, bao gồm 250 cung thủ và một số kị sỹ. Ngày 24 tháng Sáu, những người đứng đầu các thành phố Ghent, Bruges và Ypres đã chấp nhận nằm dưới sự chỉ huy của người Anh và vào ngày 16 tháng 7 Hasting đã đến được Ghent, nơi mà các lực lượng Flemish đang tập hợp dưới sự chỉ huy trên danh nghĩa của Bá tước Henry xứ Flanders. Trong khi đó những thủ lĩnh của các thành bang láng giềng như Brabant và Hainault lại đồng ý hỗ trợ có Philip VI của nước Pháp, tạo thế cân bằng với liên minh của Edward.
Người Pháp biết rằng cuộc xâm lược từ nước Anh đã sắp xảy ra, nhưng họ đã bị cản trở bởi không biết điểm đến của các hạm đội Anh. Việc chuẩn bị các công trình phòng thủ đã được tiến hành từ ngày 18 tháng Ba, ở tại Brittany hoặc Gascony như là các mục tiêu dự kiến (những nơi mà người Pháp dự kiến người Anh sẽ đổ bộ xuống). Charles của Blois cho tuyển dụng một số lượng lớn binh lính ở Brittany và tuyển cả binh lính người nước ngoài, trong khi đó vào tháng Năm, Philip VI gửi lực lượng tăng viện được rút ra từ các đội quân của Công tước Normandy ở xứ Gascony.
Việc điều động này làm cho chỉ còn một vài đơn vị đồn trú rải rác và một số lính bắn nỏ người Genova ở Normandy và Picardy, nơi tình trạng khẩn cấp đã được công bố với những cố gắng thô sơ để khóa những bến cảng chỉ bằng những cây cọc gỗ nhọn. Rõ ràng là vua Philip hy vọng sẽ đánh chặn được người Anh ngay trên biển và một cuộc tổng kiểm kê các tầu vận tải có sẵn đã được thực hiện. Ít nhất là người Pháp có 78 chiếc tàu lớn đã được trưng thu và đang trang bị tăng cường những chiếc tháp bằng gỗ ở Hạ Normandy và một số lượng tầu còn lớn hơn nữa ở vùng Thượng Normandy và Picardy. Các sĩ quan và lính bắn nỏ Genova được cử lên trên các con tàu này để phục vụ như là một lực lượng phụ trợ cho một lực lượng đáng kể các tầu chiến kiểu Galley của người Genova. Thật không may là đội tàu galley của người Genova đã bị trì hoãn trong quá trình di chuyển và chỉ đến Pháp vào tháng Tám. Lực lượng tiên phong của họ đã rời Nice dưới sự chỉ huy của Carlo Grimaldi vào ngày 06 tháng 5, nhưng họ đã không thể vượt qua Vịnh Biscay sớm hơn. Sau đó họ đã bị phân tán bởi một cơn bão ở biển Đại Tây Dương và phải hạ buồm tránh bão tại cửa sông Tagus ở Bồ Đào Nha-nơi mà họ phải ở lại đó cho đến đầu tháng Bảy.
Quay trở lại Pháp, Chales của Blois đã phát động một cuộc tấn công lớn tại xứ Brittany nhưng ông này đã bị một thất bại nặng nề ở Saint-Pol de Leon vào ngày 09 tháng 6. Ở xứ Gascony Công tước xứ Normandy đã không thể có bất cứ tiến bộ nào trong cuộc bao vây của ông vào cứ điểm Aiguillon của người Anh. Một cuộc tấn công trực tiếp đã thất bại, lực lượng bao vây bị thiếu lương thực và những toán quân đi kiếm lương thảo của họ đã bị liên tục quấy nhiễu bởi những lực lượng có cảm tình với người Anh. Sau đó, vào cuối tháng Sáu Philip VI mới nhận ra rằng mối đe dọa chính là ở phía bắc và điều đến đó vị Nguyên soái của nước Pháp cùng với một phần của đội quân của Công tước xứ Normandy. Ông này được giao nhiệm vụ kiểm soát thành phố Harfleur trên cửa sông Seine và vị Bá tước của xứ Flanders cũng đã được gửi đến tham gia phòng thủ với ông. Các vị Thống chế Pháp khác có lẽ cũng đã được triệu hồi từ phía nam, những biện pháp phòng thủ, cảnh báo cũng được tăng cường dọc theo bờ biển Chanel và lệnh triệu tập đã được gửi đi để tuyển dụng gấp một đội quân ở miền Bắc nước Pháp. Người Scotland đã không phá vỡ thỏa thuận ngừng bắn của họ với người Anh, nhưng họ sẽ đột kích dọc theo biên giới phía Bắc của Anh một khi Edward phá vỡ thỏa thuận ngừng bắn của ông với nước Pháp. Bức thư cấp bách của Philip gửi đến vua David của Scotland vào tháng Sáu có viết rõ ràng rằng: “Tôi cầu xin ngài, tôi khẩn nài ngài với tất cả những gì mà tôi có thể, vì quan hệ họ hàng và tình bạn giữa chúng ta. Xin ngài hãy làm cho tôi những gì mà tôi sẽ sẵn sàng làm cho ngài trong cuộc khủng hoảng như vậy và xin ngài hãy làm điều đó một cách nhanh chóng và triệt để như là với sự giúp đỡ của Chúa mà ngài có thể. ” ( Thực tế thì vua David của Scotland đã sẵn sàng ra tay đột kích vào miền Bắc nước Anh để chia lửa cho người Pháp, nhưng rất đáng buồn là ông ta cũng đã bại trận và bị cầm tù ở Anh, hoàn cảnh của ông này cũng tệ chẳng kém Philip VI sau trận Crecy)
Edward III lên tàu vào ngày 28 tháng Sáu và sau nhiều ngày bị trái gió, ông đã cho giong buồm đến Yarmouth từ Isle of Wight, nơi ông đợi phần còn lại của hạm đội. sau đó gió không thuận lợi đã buộc toàn bộ hạm đội lớn của Anh quay trở lại Portsmouth và Forrland. Vào ngày 03 tháng 7 Edward III lại lần nữa ra lệnh khởi hành đến Yarmounth, theo sau tầu của ông là phần còn lại của hạm đội cho đến khi các con tàu thả neo ở xa tận Needles, một lần nữa gió lại đổi hướng làm cho chiếc neo chở nên không an toàn, buộc họ phải quay trở lại bến cảng Portsmouth trong một khoảng thời gian chín hoặc mười ngày. Cuối cùng, vào ngày 11 tháng 7 hạm đội lại ra khơi với gió và thủy triều hoàn hảo và tập hợp tại ngoài khơi St Helens. Tại đó Edward III đã đưa các bức thư mệnh lệnh có gắn niêm phong cho các thuyền trưởng của ông ta trước khi gần 1,000 con tàu các loại khởi hành đi Normandy. Họ đã đến đích vào trước bình minh ngày 12 và cho neo các con tàu ở ngoài một bãi biển rộng ở Saint-Marco bên ngoài Saint-Vaast-la-Hogue. Hạm đội của người Genova được gửi đến chặn họ vẫn còn ở đâu đó ở phía nam của La Rochelle, và chỉ có một số các tàu Pháp neo tại các bến cảng khác nhau đang chờ họ. Mười bốn chiếc đang đóng ở Satn-Vaast và tám chiếc tầu vũ trang nặng nhất đã bị đốt cháy bởi quân xâm lược. Các cọc gỗ dùng để chặn các bến cảng không gây ra những vấn đề nghiêm trọng cho quâm xâm lược Anh và các thị trấn bị bỏ rơi đã bị chiếm đóng.
Lực lượng chính của quân Pháp lúc này chủ yếu là đang đóng ở phía bắc của sông Seine, chỉ để lại Thống chế Robert Bertrand làm chỉ huy trưởng vùng biên giới biển với rất ít quân tuy nhiên. Tuy nhiên ông đã lên kế hoạch để sử dụng các lực lượng dân binh ở Saint-Vaast vào ngày mà người Anh đến. Vì vậy Bertrand đã tập hợp khoảng 300 người dân địa phương vốn được đào tạo rất nghèo nàn và tiến hành một cuộc phản công nhanh không thành công vào buổi sáng ngày hôm đó. Tuy nhiên sau đó người Anh đã đổ bộ được vài ngàn người lên trên bờ, do đó Bertrand phải rút lui về phía nam với các thuộc hạ của mình, đồng thời ông cố gắng tập hợp thêm lực lượng ở những địa phương mà ông đã rút quân qua.
Khoảng giữa trưa thì vua Edward đã đổ bộ lên bờ và theo Froissart, ông đã bị vấp ngã trong bước đầu tiên của mình lên bãi biển. Một số người coi hành động này như là một điềm xấu, nhưng Edward III được cho là đã trả lời “Tại sao lại vậy? Ta nhìn nhận cú ngã như là điều rất thuận lợi cho ta, đó là tín hiệu cho thấy vùng đất này muốn có ta. ” Sau đó nhà vua phong tước hiệp sĩ cho một số quý tộc trẻ tuổi để đánh dấu lần phục vụ quân sự đầu tiên của họ, trong những quý tộc trẻ tuổi này có cả Edward Hoàng tử xứ Wales-con trai ông ta. Tiếp sau đó những người thuộc Hoàng tộc leo lên một ngọn đồi để khảo sát khu vực này. Godfrey de Harcourt và Bá tước của Warwick được chỉ định làm hai Thống chế của quân Anh, Bá tước Arundel được phong làm Nguyên soái, Bá tước Huntingdon nhận được lệnh bảo vệ đội tàu chiến với 100 kị sỹ và 400 cung thủ.
Từ ngày 13-17 tháng 7 quân Anh vẫn tiếp tục đổ bộ người và đồ cung cấp và lên bờ trong khi vẫn tiếp tục đột kích ra các vùng xung quanh. Vào ngày 14 thành phố Barfleur đã bị tấn công từ cả trên đất liền và từ biển. Thành phố đã đầu hàng và một số công dân hàng đầu của nó đã bị bắt giữ để đòi tiền chuộc trong khi các thị trấn đã bị cướp phá và đốt cháy, cũng như chín chiếc tàu chiến tại bến cảng. Chiến lợi phẩm bao gồm vàng, bạc và đồ trang sức và theo Froissart, “Có rất nhiều của cải mà ngay cả những người đi theo phục vụ cho quân đội đã cảm thấy áo lông thú cũng không còn có giá trị” sau đó quân cướp phá đã cho đốt cháy Nhà thờ Abbey of Notre Dame du Voeu tại Cherbourg, mặc dù họ đã không thể chiếm được tòa lâu đài của thành phố. Trong thực tế khoảng diện tích 35 km xung quanh địa điểm đổ bộ đã bị tàn phá, cư dân của nó bị buộc phải bỏ chạy vào rừng hoặc đi bộ về phía nam và trở thành người tị nạn.
Lúc này quân Anh được chia thành ba đạo binh. Một đạo đi dọc theo bờ biển, một đạo dưới sự chỉ huy của Edward III ở hướng trung tâm, trong khi đó đạo binh thứ ba theo một con đường tiếp tục tiến vào nội địa. Giờ đây Bá tước của Northampton dường như đã được phong làm Nguyên soái và Edward III đã ra lệnh rằng không nên tàn sát và phá hủy các tài sản của dân chúng nữa, mặc dù dường như mệnh lệnh này không có ảnh hưởng vào hành vi của binh sĩ của ông. Hầu hết các con tầu của hạm đội Anh đã được gửi về quê nhà, nhưng một đội tầu lớn gồm khoảng 200 chiếc vẫn đi dọc theo bờ biển, và phá hủy hoặc bắt giữ bất cứ những con tàu của người Pháp nào mà họ tìm thấy và việc triệt phá đã tạo ra một vành đai rộng 8 km để làm suy yếu căn cứ của lực lượng hải quân Pháp.
Chevauchée ( cướp phá ) hay chinh phục?
Vào ngày 18 tháng bảy việc bốc dỡ từ các con tàu đã hoàn tất, những con ngựa đã được nghỉ ngơi, các đồ vật tư đã được sắp xếp một cách có tổ chức và bánh mì đã được nướng cho một vài ngày sắp tới, mặc dù người Anh vẫn phải đi kiếm thức ăn cho ngựa trên một địa bàn rộng lớn. Godfrey Harcourt, người mà gia đình của ông có nhiều bất động sản ở cuối phía nam của bán đảo Cotentin, đã nhanh chóng chứng tỏ giá trị của mình như là một trong những chỉ huy trinh sát hàng đầu của quân Anh. Với một lực lượng xung kích gồm 500 kị sỹ và 1,000 cung thủ, ông đã hành quân tiến về phía trước khoảng 30 km và ở bên phải của đạo binh của nhà vua. Đạo quân tiến theo đường ven biển đã thực sự được chỉ huy bởi các Bá tước của Northampton và Warwick. Đạo quân tiến theo đường nội địa hoạt động như đội hậu quân dưới sự chỉ huy của Thomas Hatfield-Giám mục Durham.
Cuối cùng thì người Anh cũng rời Saint-Vaast vào ngày 18 tháng Bảy, họ hành quân dọc theo đường hẹp để đến Valognes, nơi Edward III đã ngủ qua đêm trong một căn nhà thuộc sở hữu của Công tước xứ Normandy. Ngày hôm sau quân Anh lại đốt cháy Montebourg trước khi trú đêm tiếp theo ở điểm phân chia giữa Saint-Côme-du-Mont và Coigny, tại đây vua Edward biết được rằng cây cầu bắc qua Douve đã bị phá hỏng. Vì chỉ còn có một con đường hẹp được đắp cao khác-nhưng không thể dùng nó để vượt qua các đầm lầy xung quanh, các nhóm thợ mộc đã phải sửa chữa cây cầu này xuốt đêm. Carentan –một thị trấn lớn gần đó có dự trữ rất nhiều vật tư, nhưng rất nhiều trong số đó đã bị phá hủy khi quân Anh đốt nơi này. Chống cự là rất tối thiểu, rõ ràng bởi vì đơn vị đồn trú là người của Godfrey de Harcourt. Và có lẽ một số quân tiếp viện đã được để lại để kiểm soát thị trấn này trong khi người Anh tiếp tục di chuyển và mang theo những công dân hàng đầu của vùng này với họ để đòi tiền chuộc.
Giống như nhiều nơi khác ở bán đảo Cotentin, thị trấn Carentan đã sớm bị quân Pháp tái chiếm, đội quân đồn trú phản bội của nó đã được gửi đến Paris và bị hành hình. Ngoài ra, tất cả những gì mà Thống chế Robert Bertrand có thể làm là quấy rối đà tiến quân của các kị sỹ Anh trong khi sự kháng cự có hiệu quả lại được chuẩn bị tại Caen, nơi mà vị Nguyên soái của nước Pháp-Công tước Raoul II d’Eu, đã cho chuyển quân đội có sẵn của mình bằng tàu đến từ Harfleur. Không đủ binh lính để đồn trú ở tất cả những lâu đài trong con đường tiến quân của người Anh và chỉ một số ít trong số nhưng tòa lâu đài được bảo vệ khi Robert Bertrand liên tục phải rút lui.
Tuy nhiên người Anh đã bị kìm chân bởi những đầm lầy rộng lớn giữa Saint-Côme và Carentan, giữa Saint-Lo và Bayeux, nơi có một số con đường đắp cao đã được người Anh xây dựng lại. Bertrand đã có ý định bảo vệ Saint-Lo, nhưng cuối cùng ông nhận ra nó là không thể bởi một lần nữa người Anh đã lại xây dựng được một cây cầu vượt qua sông Vire, nên ông đành phải từ bỏ thị trấn cho số phận của nó. Đạo quân của Edward III lúc này đã phải chờ gần ba ngày ở bên ngoài Saint-Lo trước khi đạo quân ở ven biển có thể tiến lên đến chỗ của ông ta. Sau đó các cánh quân Anh tập hợp lại và chất các chiến lợi phẩm của họ vào các toa xe trước khi di chuyển về phía trước. Thời gian này các bá tước của Warwick và Suffolk-Lord Thomas Holland và Reginald Cobham và đạo quân của họ tiến về phía bên trái, đốt cháy và phá hủy tất cả những thứ lọt vào tầm ngắm của họ, trong khi ở bên cánh phải lực lượng của Godfrey de Harcourt cũng làm như vậy. Có tin đồn rằng quân Pháp đã tập trung rất đông xung quanh tu viện dòng Xitô ở Torigny, điều này đã làm cho lực lượng chính của người Anh phải thay đổi hướng về phía Cormolain; toán quân xung kích cũng tiến về Torigny và sau đó bắt kịp đạo quân chính. Trong hai ngày sau Edward di chuyển rất thận trọng, với hậu đội chỉ hơi vượt quá điểm bắt đầu của lực lượng xung kích vào buổi sáng ngày hôm trước (tiến quân theo kiểu quấn chiếu?). Khi lực lượng đi đầu của đại quân của Anh nằm trong tầm nhìn của thành phố Caen vào tối ngày 24, trong khi đó đội tàu 200 chiếc vẫn đi theo quân đội dọc theo bờ biển, họ căng buồm đi ngược lên sông Orne và đến Caen vào cùng một thời điểm. Vào thời gian này đoàn tàu đã được chất quá đầy những đồ cướp bóc đến nỗi họ không thể chở thêm tất cả các chiến lợi phẩm quân đội đã giành được.
Thành phố Caen nằm ở giữa một đồng bằng mở mà không có sự phòng vệ của điều kiện tự nhiên. Thành phố được phân chia giữa phố cổ và phố mới bởi dòng sông Odon. Những công sự đổ nát của nó được xây dựng từ thế kỷ thứ 11 bao gồm một phần là bức tường bằng gỗ và một phần là một bức tường đá với đầm lầy ở một bên. Thành lũy duy nhất đáng kể là một tòa lâu đài ở rìa phía bắc của thị trấn. Bên ngoài thành phố các tòa lâu đài Abbaye aux Dames và Hommes Abbaye aux có những bức tường phòng thủ, nhưng không có đủ binh lính để đồn trú ở đó. Lực lượng phòng thủ Caen lúc này được chỉ huy bởi Raul d’Eu, người cũng có một đơn vị nhỏ lính bắn nỏ người Genova, khoảng 800 hiệp sĩ Norman và những kị sỹ cùng với dân binh của thành phố, tổng cộng khoảng 4,000 người. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để tăng cường cho những bức tường phòng thủ cũ bằng các chiến hào và hàng rào những cọc nhọn, trong khi khoảng 30 chiếc tàu nhỏ điều khiển bởi lính bắn nỏ đã được thả neo trong dòng Odon ở giữa thị trấn cũ và thị trấn mới.
Edward III có nhiều binh lính, nhưng ông này lại thiếu những thiết bị bao vây hạng nặng và quân phòng thủ người Pháp từ chối hạ vũ khí, thậm chí họ còn ném phái viên của Edward III-tu sĩ Geoffrey của Maldon vào tù. Rạng sáng ngày 26 tháng 7 đội quân của Hoàng tử xứ Wales đốt chỗ họ trú qua đêm tại Cheux và tiến lên xung quanh Caen để tiến vào Dames Abbaye aux. Vua Edward thành lập sở chỉ huy ở vùng ngoại ô phía Tây trong khi hậu đội Anh dựng lều trại của họ ở xa hơn nữa. Khi nhìn thấy kích thước của quân Anh, các chỉ huy Pháp quyết định từ bỏ khu phố cổ và tập trung quân đội của họ trong thị trấn mới, nơi mà mặc dù nằm trên đảo Saint-Jean, nhưng lúc này đã bị tách biệt khỏi tòa lâu đài vốn được chỉ huy bởi vị Giám mục của Bayeux. Tương tự thì những người dân của Caen cũng tập trung ở thị trấn mới. Thật không may những chiếc tháp của đồn lũy Pont Saint-Pierre lúc đó lại ở phía bên trái của con sông này, do đó, một rào chắn được làm vội vã đã được thêm vào ở phía bắc. Tệ hơn nữa mức nước của dòng sông Odon đã xuống rất thấp trong mùa hè rất khô một cách đáng chú ý năm đó.
Vào đầu buổi sáng, khu phố cổ rõ ràng đã bị chiếm mà không có kháng cự và các đội quân thuộc quyền chỉ huy của các Bá tước Wawick, Northampton và Talbot tấn công Pont Saint-Pierre nhưng không thu được thành công. Do đó một nhóm bộ binh người Anh và xứ Wales được gửi đến cách Odon khoảng 200 mét, hoặc bằng một cây cầu tại Boucherie hoặc qua một thành lũy không có người bảo vệ. Nhưng họ vẫn phải vượt qua đội tàu của quân Pháp đóng ở giữa sông, hai chiếc tầu bị đốt cháy và phần còn lại rút lui khi người Anh tiến vào khu phố mới. Lực lượng phòng thủ Pont Saint-Pierre lúc này đã bị bao vây. Một số chiến binh người Pháp bao gồm Robert Bertrand đã chiến đấu phá vây để đến được toà lâu đài, những người khác bao gồm Count d’Eu đã phải chạy trốn đến các tòa nhà cao tầng cho đến khi họ có thể đầu hàng, nhưng rất nhiều người đã bị giết ngay tại chỗ. Những tù nhân có giá trị cao đã được đưa trở lại nước Anh cùng với Bá tước Huntingdon-ông này đang bị ốm. Nhiều vụ thảm sát, khủ.ng bố và cướp bóc sau đó: trên 2.500 cư dân của Caen đã bị thiệt mạng, 500 người trong số họ đã được chôn trong một ngôi mộ tập thể tại nhà thờ Saint-Jean.
Sau đó người Anh nghỉ ngơi trong khoảng năm ngày và họ đốt phá các vùng nông thôn xung quanh một cách có hệ thống. Ngày 29 tháng 7 vua Edward cũng đã gửi một bức thư tới Quốc-Hội Anh, yêu cầu họ tuyển gấp thêm các kị sỹ và khoảng 1,200 cung thủ từ các khu vực chưa vét sạch đàn ông, cùng với số lượng lớn tiền, đạn dược và 100 tàu mang lực lượng tăng viện tới nước Pháp. Lực lượng tiếp viện đã đổ bộ xuống tại Le Crotoy ở phía bắc của Somme trong vùng lãnh thổ của Ponthieu nơi mà người Anh đã hoàn toàn chinh phục.
Phản ứng của người Pháp
Có vẻ như Philip VI của Pháp đã có thông tin về cuộc xâm lược vào ngày 16 tháng Bảy và ông đã dành hai tuần tiếp theo để tổ chức một cuộc triệu tập quân đội tại Paris và Amiens. Ngày 22 hoặc 23 Philip đã đến nhà thờ lớn Saint Denis để nhận lá cờ thánh Oriflame thiêng liêng vốn chỉ được sử dụng trong công cuộc phòng thủ nước Pháp.
Vào ngày 25 ông tiến xuống vùng thung lũng sông Seine trong khi quân Pháp được tập hợp từ mọi hướng. Ông cũng lại tiếp tục gửi một lá thư tới vua David của Scotland, người đã tiến hành các cuộc đột kích vào Cumberland vào cuối tháng Bảy. Tuy nhiên, người Scotland lại không sẵn sàng để tiến hành một cuộc xâm lược toàn diện và họ lại ký một thỏa thuận ngưng bắn hai tháng với các lãnh chúa ở miền bắc nước Anh. Philip VI vội vã về Rouen, mối quan tâm chính của ông là làm sao để ngăn chặn không cho Edward chiếm lấy thành phố này và chặn không cho quân Anh vượt qua sông Seine. Các đội tàu galley của người Genova cũng đã đến vào đầu tháng Tám và vì đã quá muộn để ngăn chặn cuộc xâm lược này từ trên biển nên thủy thủ đoàn của nó gia nhập vào đội quân của Philip như lực lượng bộ binh. Trong khi đó vào ngày 31 Bá tước Enisieux và Philip vượt qua sông Seine và bắt đầu di chuyển một cách thận trọng về phía kẻ thù. Ngày 2 tháng Tám Giáo hoàng đã gửi hai đoàn thương lượng hòa bình và những đoàn thương thuyết này được cho là đã đến được doanh trại của người Pháp.
Vào lúc này Philip VI đã được cảnh báo về một cuộc xâm lược sắp xảy ra của người Flemish và khi đó chỉ còn có một vài đơn vị đồn trú thưa thớt của Pháp ở gần biên giới phía Bắc, hầu hết dân binh và những đơn vị khác được tập hợp tại Amiens đã được lệnh quay trở lại bảo vệ chiến tuyến ở sông Somme. Chỉ huy trên danh nghĩa của người Flemish là Bá tước Henry của Flanders, mặc dù Sir Hugh Hasting mới là chỉ huy thật sự. Ngày thứ 2 họ rời Ypres và hành quân qua Baileut để tới gần sông Lys. Ở đây có những cuộc đụng độ nhỏ ở Estaires. Merville và Saint-Venant trước khi Hugh Hasting dẫn đầu đạo quân Flemish dùng mưu mẹo đánh lừa quân Pháp để tấn công tạt sườn họ. Cuộc hành binh của họ là rất chậm chạp nhưng sau ngày 14 tháng tám họ đã đến được Bethune nơi mà họ tiến hành một cuộc bao vây.
Ngày nay người ta không biết được rằng Edward III và lực lượng Flemish thông tin liên lạc với nhau bằng cách nào, nhưng chắc chắn là họ phải có sự truyền thông với nhau. Còn đối với Philip, ông quyết định triển khai phòng thủ ở sông Seine hơn là phải chịu nguy cơ đặt bản thân nằm ở giữa các con sông và lĩnh mối đe dọa mới từ người Flemish. Quân đội của ông quay trở về Rouen và tất cả các cây cầu nối chúng với Paris đều đã bị phá hỏng hoặc bảo vệ bằng lực lượng mạnh. Các thị trấn ở phía nam của con sông được uỷ quyền phóng thích các tù nhân của họ nếu họ cần nhiều lực lượng dân binh ( từ những người bị giam trong tù ) được tập hợp tại Amien và lực lượng này lại được lệnh gia nhập với đạo quân của Philip.
Khi người Anh tiến về phía bờ phía nam của sông Seine, đã gần như có hoảng loạn ở Paris và John của Luxembourg được gửi tới để giữ các kị sỹ trong sự kiểm soát trong khi các lực lượng dân binh ở Paris chuẩn bị để phòng thủ thành phố. Rõ ràng là Edward III đã rất sáng tạo: quân đội của Philip VI vẫn còn rất nhỏ, rất nhiều binh sỹ người Genoses đã bị phân tán trong đơn vị đồn trú và Philip mắc phải một nguy cơ dàn trải rộng lực lượng quá mỏng của ông dọc theo bờ sông Seine. Trong trường hợp này Philip quyết định lập sở chỉ huy của mình tại Saint-Denis, trong khi phần lớn quân đội của ông ta lại đóng trại tại Saint-Clound ở gần đó. Xa hơn về phía Nam Công tước trẻ tuổi của xứ Normandy vẫn còn ngoan cố bao vây chiếm lấy tòa lâu đài Aiguillon. Ít nhất cho đến khi vua Philip gửi mệnh lệnh trực tiếp ra lệnh cho ông này hành quân xuống phía Bắc: trong ngày 20 Tháng 8 cuối cùng thì vị công tước đã rời trại của mình và vượt qua Garone.
Người Anh rút khỏi Caen vào ngày 31 tháng Bảy và để lại một lực lượng nhỏ để phong tỏa các tòa lâu đài. Tuy nhiên các đơn vị đồn trú của Pháp nhanh chóng chuyển sang phản công và giết chết hầu như tất cả số quân Anh được để lại ở Caen. Edward III đã hành quân qua Troarn, Argences và đến Lisieux vào ngày 1 tháng Tám. Ông bắt gặp phái đoàn thương thuyết hòa bình của hai vị Hồng y. Sau hai ngày đàm phán mà không được kết quả gì, không những vậy những binh sĩ cứng đầu người xứ Wales đã lấy trộm 20 con ngựa từ đoàn tùy tùng của các vị giáo chủ.
Được biết rằng Philip đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công, người Anh lúc này tiến lên một cách thận trọng hơn. Họ có thể đã dừng lại để tổ chức một hội đồng quân vào hôm thứ 6 và hội đồng này quyết định thay đổi hướng tiến về phía Rouen vào ngày hôm sau và đến được con sông Seine ở điểm thuộc Elbeuf. Có thể Edward đã hy vọng chiếm lấy Rouen vào lúc nó không được bảo vệ, nhưng một trinh sát dưới sự chỉ huy của Godfrey de Harcourt đã phát hiện ra rằng quân Pháp đã ở trong thành phố và các cầu qua sông Seine đã bị phá hủy. Đây là một bước thụt lùi và lúc này Edward đã phải quyết định chấp nhận một cuộc đua tới Paris hoặc cố gắng vượt qua con sông để liên kết với đồng minh Flemish của ông ở Picardy. Cây cầu tại Pont de l’sArche đã cho thấy rằng nó được bảo vệ quá mạnh mẽ và Philip VI luôn bám sát người Anh từ bờ phía Bắc. Tuy nhiên, quân xâm lược đã tàn phá một dải đất có diện tích rộng hơn 30 km về phía nam của sông Seine. Họ đốt phá Louviers và Gaillon và đã không thành công khi tấn công một tòa lâu đài nơi mà cả Sir Richard Talbot và Sir Thomas Honland đều bị thương. Trong ngày mùng 9 người Anh cũng không thể chiếm được Vernon. Ngày hôm sau một toán quân đột kích vượt qua sông Seine và đã chiếm La Roche-Guyon bằng một cuộc tấn công, nhưng địa điểm này không phải là nơi thích hợp cho toàn bộ quân đội vượt qua sông.
Tại Freneuse các vị hồng y trở lại với đề nghị cuối cùng của Philip VI về các điều khoản của hòa bình, bao gồm cả một liên minh hôn nhân giữa hoàng tộc nhà Valois và Plantagenet, nhưng Edward đã không quan tâm tới vấn đề này. Chỉ còn lại rất ít điểm có thể vượt sông để đến đến được Paris và người Anh đã thử tất cả. Một số điểm ở trên phía thượng nguồn gần Meulan, quân Pháp đã cười nhạo, chế giễu sự thất vọng của người Anh khi họ phải tụt quần và chổng mông lên ( backside ) để qua sông. Philip VI phải chống lại sự cám dỗ để qua sông vì sợ rằng người Anh sẽ đột ngột tấn công vào Paris và vào ngày 13, ông đã quay trở lại thủ đô của mình. Ở đây (Paris) người dân đã có thể nhìn thấy khói bay lên chỉ một vài km về phía tây và phía tây nam, nơi những toán cướp phá người Anh đang hoành hành. Thậm chí Edward còn đưa ra một lời thách thức cho một cuộc chiến ở phía nam của Paris và vào ngày 15 Philip VI dẫn quân của mình về phía nam của thành phố, quân Pháp đã bài binh bố trận một cách sẵn sàng.
Tất nhiên thách thức của Edwrd là một thủ đoạn chiến thuật. Cách duy nhất để hội binh với đồng minh người Flemish của ông là xây dựng lại một trong những cầu qua sông Seine và Poissy đã được lựa chọn. Thị trấn bị tàn phá và cư dân của nó, bao gồm cả chị gái của vua Philip, đã bỏ trốn sang Paris. Lúc này các kỹ sư người Anh bắt đầu bắt tay vào làm việc và buổi chiều ngày 15 một chiếc cầu đơn về cơ bản đã được hoàn thành. Philip VI nhận được tin này và ngay lập tức cho chuyển một đơn vị trên đường hành quân từ Amiens tới để phá việc xây cầu, nhưng khi họ đến được Poissy thì quân Anh đã qua sông đủ đông để đẩy lùi họ. Nhưng không những Edward III cũng không cho toàn quân của mình vượt qua sông Seine ngay lập tức mà đợi để xem quân của mình đốt phá tới tận các cửa ô của thành phố Paris, mà cả Philip VI cũng không vội vã để hành động ngay lập tức mà đơn giản chỉ ngồi xem người Anh sẽ rẽ vào lối nào.
Cuộc chạy đua tới Somme
gày 16 Tháng 8 quân cướp phá người Anh đột kích vào hướng Chartres để tạo ấn tượng rằng Edward đang hướng về phía nam, nhưng thay vì vậy Edward cho vượt sông và chốt ở phía bắc. Ngay sau khi tin tức này được xác nhận, Philip đã cho phá hủy cây cầu ở Saint-Cloud để phòng ngừa và đồng thời ông dẫn quân của mình về phía bắc. Có thể là ông đã gửi bộ binh của mình tiến trước khi chính bản thân mình cùng xuất phát với các kỵ binh vào ngày 18 và trong ngày đầu tiên Philip đã vượt qua một khoảng cách ấn tượng dài đến 55 Km
Trong cuộc đua tới Somme này người Anh đã bắt đầu trước nhưng người Pháp đã giành chiến thắng. Quân đội của Philip VI được tăng cường thêm những đội quân sung sức bao gồm cả những người của Jaime I-vua của Majoca. Mỗi ngày người Anh trung bình tiến nhanh gấp ba lần so với lúc ở Normandy. Trước khi tới Beauvais đội tiên phong của người Anh dưới sự chỉ huy của Godfrey de Harcourt đã đánh tan lực lượng dân binh của Amiens đang trên đường tới Paris. Hoàng tử xứ Wales tại thời điểm đó muốn tấn công vào chính Beauvais, nhưng Edward đã nói với ông này rằng hãy tiếp tục tiến quân. Tại phía Bắc của Beauvais người dân ở Poix-có lẽ là những dân binh địa phương-đã tấn công vào những toán quân Anh lạc ngũ và quân của Edward đã phải tiêu tốn mất một khoảng thời gian để quay trở lại và đốt cháy thị trấn của họ để trả đũa.
Chẳng bao lâu người Anh đã phải từ bỏ một số toa xe hành lý của họ để đổi lấy tốc độ, nhưng vùng nông thôn ở phía nước lại trống rỗng và không có thực phẩm dự trữ, bắt buộc người Anh phải tung ra các toán lục lọi tìm kiếm và điều này làm chậm lại tốc độ hành quân của Edward. Lúc này người Pháp đã vượt qua người Anh, các toán quân đầu tiên của họ đã đến được Somme vào ngày 20 tháng Tám. Lực lượng bộ binh đến sau và giờ đây người dân xứ Picardy đã cảm thấy yên tâm và họ bắt đầu tấn công vào các nhóm quân xâm lược cô lập. Trong ngày 20 Edward đến được Camps-en-Amienois, khoảng 25 km về phía nam của Somme. Tuy nhiên hậu đội của quân Anh đã bị trì hoãn vì bị tấn công ở Poix và kết quả là nhà vua đã phải chờ để họ bắt kịp. Trong ngày 22 Edward phải cho các binh sĩ của ông lúc này đã quá mệt mỏi và đói dừng lại nghỉ ở Airaines-thị trấn nhỏ có phòng thủ, sau khi đội quân đồn trú của nó đã triệt thoái về Pont-Remy. Đêm đó thành phần chính của quân Pháp cũng đã đến Amiens. Lúc này Philip VI đã có ưu thế về mặt quân số và ông đã ra lệnh phá hủy hoặc đồn trú trong tất cả các cây cầu ở Somme nếu chúng có các công sự kiên cố.
Edward III có rất ít lựa chọn. Ngày 22 ông ta đã gửi các tóan quân đi để trinh sát các cầu ở Somme, trong khi một lực lượng lớn đã tiến đến Acheux để thiết lập một căn cứ tiền duyên. Các toán trinh sát – đột kích lớn hơn dưới sự chỉ huy của Godrey de Harcourt, đã cố gắng chiếm lấy cây cầu ở Pont Remy nhưng đã bị đây lui trở lại, Bá tước Warwick cũng cho biết rằng các cây cầu ở Long, Longpre và Picquigny được phòng thủ quá mạnh mẽ. Người Anh dường như bị mắc kẹt, nhưng Edward đã vào lãnh thổ nhà; Ponthieu đã từng là quận hạt của ông cho đến khi nó bị tịch thu bởi Philip VI tại thời điểm bắt đầu của cuộc chiến và một số trong các chỉ huy của ông biết về khu vực. Có thể Edward đã hệ thống phòng thủ của Abbeville từ Caubert Hill, trong khi các Bá tước Warwick và de Harcourt tấn công vào thị trấn. Dường như họ đã bị đẩy lui và chắc chắn là người Anh đã rời khỏi Airaines một cách vội vàng vào sáng ngày 23, người Pháp đầu tiên xuất hiện sau khoảng hai giờ sau khi người Anh cuối cùng rời đến Acheux. Tại Oisemont các hiệp sĩ và dân binh tại địa phương đã tiến hành một cuộc tấn công nhưng họ đã bị đánh tan bởi các cung thủ trường cung người Anh.
Edward đã có sự lựa chọn: chiến đấu tại nơi ông muốn hoặc rút lui tới Saint-Valery và lên tàu về nhà, hoặc vượt qua sông Somme ở lối qua khe cạn Blanchetaque. Cái tên này có liên quan đến một vỉa núi đá vôi lộ thiên và vỉa đá này đã làm cho lòng sông chảy một cách khá phẳng lặng và có thể nó đã được biết đến bởi các chỉ huy người Anh kể từ khi nơi này trở thành một điểm chính thức để vượt sông Somme. Rất nhiều câu chuyện khác nhau nói rằng người Anh có thông tin về địa điểm này bằng cách mua lại từ một tên vô lại người Pháp bị bắt tại Oisemont, hoặc từ một Hộ sỹ (Hiệp sỹ tập sự ) trong đội tùy tùng của một hiệp sĩ người Flemish phục vụ cho Edward và từ một người Anh vốn đã sống ở gần Oisemont nhiều năm… Vì vậy có lẽ chúng là sự giải thích cho việc Edward III chọn pháo đài này để chuyển đến đó một đội quân lớn với đoàn xe tải nặng và quan trọng hơn là về thủy triều ở địa phương.
Blanchetaque chắc chắn không phải là một nơi lý tưởng cho một đội quân lớn để vượt qua một con sông lớn. Tuy nhiên, trước khi bình minh ngày 24 tháng tám người Anh đã đến gần rìa phía nam của Saigneville và họ đợi thủy triều xuống thấp. Khoảng tám giờ sáng các kị sỹ có thể đi qua, theo sau là bộ binh và các toa xe. Thực tế là họ đã làm như vậy trong vòng một giờ, sự kiện này cho thấy họ đã vượt qua theo một hàng dọc tương đối rộng với một đội hậu cần đáng kể.
Người Pháp cũng khởi hành vào lúc bình minh, Philip VI gửi Godemar du Fay đi để canh chừng bờ phía Bắc với 500 kị sỹ và 3,000 binh sĩ bộ binh. Ông này đến vào lúc các binh sĩ Anh dẫn đầu đã vượt sông. Lính bắn nỏ người Genoses của Godemar du Fay đã gây ra một số thiệt hại cho người Anh và các kị sỹ của ông đã lao xuống con sông này để để tấn công vào đội quân tiên phong của đối phương dưới sự chỉ huy của Hugh Despenser, Reginald Cobham và Bá tước của Northampton. Nhưng người Pháp có quá ít quân nên đã bị đánh bại, một số đã bị truy kích đến tận phía đông Abbeville, những người khác có lẽ đã chạy đến phía tây, đến tận vùng đất cao giữa Port-le-Grand và Noyelles. Vào thời điểm hậu đội Anh vượt sông thì cuộc chiến đã qua. Trên bờ phía nam đội tiên phong của Pháp dưới sự chỉ huy của John Luxembourg đã bắt giữ một vài toa xe của người Anh, nhưng lúc này nước thủy triều đã tăng nhanh, quân đội của Edward III đã tiến được về phía bắc của sông Somme và Philip đã đến được phía nam.
Hiện vẫn còn nhiều tranh cãi về con đường Edward III đã đi từ Blanchetaque để đến Crécy. Trong giữa thế kỷ 14 ở phía bắc bờ biển của Somme là đầm lầy và Le Croytoy-một bến cảng nhỏ không thoát nước, bến cảng này sẽ là một hòn đảo khi thủy triều lên. Tương tự Maye và Authie-các cửa sông của Somme không bị thoát nước, đầm lầy của nó ăn sâu vào phía nội địa, do đó đây không phải là một con đường ven biển thực tiễn. Rừng của Crécy che phủ phần lớn khu vực giữa Somme và Authie và được chia cắt bởi sông tiểu Maye, trong khi đó xa hơn về phía nam rừng Cantatre vào ngày nay chỉ còn là một phần cô lập tách biệt. Phần còn lại của Ponthieu bao gồm những khu đất canh tác nông nghiệp được chấm phá bởi các làng mạc và cối xay gió.
Edward III cũng còn phải xem xét các hoạt động của đồng minh người Flemish của ông. Ngày 16 Tháng 8 quân phòng thủ của Pháp ở Bethune được chỉ huy bởi Godfrey D’Annequin đ đánh bại một cuộc tấn công mà chính trong trận này Henry Flanders đã bị thương. Trong ngày 22 d’Anneqin biết được rằng một lực lượng nhỏ hơn của người Flemish ở quanh quẩn đâu đó gần Lillers cũng đã bị thiệt hại nặng, nên ông đã liều tung ra một đợt tấn công và đã rất thành công. Các quân lính người Flemish bắt đầu quay ra cãi lẫn nhau và vào ngày 24 họ từ bỏ cuộc bao vây và rút lui về Merville.
Cùng ngày lực lượng quân Anh dưới sự chỉ huy của Sir Hugh Despenser đã chiếm Noyeller, Le Crotoy và Rue nhưng không thấy có dấu hiệu nào về việc một hạm đội Anh vốn chuyên chở các vật tư chiến tranh cần thiết sẽ xuất hiện. Philip đã không cố gắng để tấn công khi họ vượt qua sông Somme tại Blanchetaque nhưng quân Anh cũng đã quá mệt mỏi từ đầu đến chân. Trong ngày 25 Edward biết được rằng đồng minh của ông đã rút lui và Philip trở lại Abbeville để quyết định bước đi tiếp theo của ông này. Có lẽ vào thời điểm này thì Edward III đã quyết định rằng kể đó quân đội của ông không còn có thể vượt trội so với người Pháp, và họ cần phải có một chỗ đứng chân ở gần đó-đó chính là Crécy. Vì vậy Warwick. Cobham, Suffolk và Godfrey de Harcourt đã được cử lên phía trước trong khi lực lượng chính của Anh di chuyển chậm dọc theo con đường duy nhất xuyên qua khu rừng theo hướng những ngọn đồi nhìn ra Crécy để giữ chân người Pháp càng lâu càng tốt trong Abbville.
Địa hình của chiến trường
Thực địa thung lũng Vallee des Clercs nhìn từ chiếc cối xay gió nổi tiếng của Crécy
Edward đã chọn một vị trí phía bắc của thung lũng nông gần sông Maye. Đó là rìa bên cạnh của một đồng bằng nhấp nhô, với làng Estrées ở phía đông và Wadicourt ở phía bắc-đông, các thôn làng này có thể được bao quanh bởi các vườn cây ăn trái. Khoảng sống núi thấp giữa Wadicourt và Crécy dài khoảng hơn hai cây số với một chiếc cối xay gió hướng ra chính Crécy. Đằng sau đó chính là Crécy-Grand Wood, nó sẽ che chở cho một phần hậu quân và sườn bên phải của quân Anh. Thung lũng Vallee des Clercs chỉ là một vị trí sâu hơn một chỗ trũng trong các vùng đất cao tại đó vốn chạy từ Wadicourt đến Maye. Nó dài khoảng hai km và tại điểm thấp nhất của nó cũng không thấp hơn 35 mét so với vùng cao nguyên xung quanh. Một số học giả Pháp cho rằng có ba tầng đất canh tác theo kiểu bậc thang cổ xưa hoặc thời trung cổ ở phía trước của cánh quân trung tâm của người Anh, mặc dù điều này không được đề cập trong các bản tài liệu gốc. Có một điểm u bò theo hướng phía dưới cái dốc, nhưng nó không gây trở ngại cho một cuộc tấn công của kỵ binh và thậm chí còn ít cản trở hơn nữa cho bộ binh. Nếu có một hàng rào tự nhiên như vậy thì nó có thể nằm ở phần đầu của sống núi.
Vua Edward đã phác họa đội hình chiến đấu của mình với một tốc độ rất nhàn nhã trong buổi sáng ngày 26 tháng Tám. Người của ông đã được chia thành ba đạo quân trong khi họ hành quân. Đội tiên phong trên danh nghĩa thuộc quyền chỉ huy của vị hoàng tử trẻ xứ Wales, mặc dù ông có giám quân là Godfrey de Harcourt, đóng quân ở gần Crécy và theo dự kiến sẽ là nơi hứng những đợt tấn công của quân Pháp, đạo quân Trung tâm hay là đạo quân nằm dưới sự chỉ huy của nhà vua hành quân vượt qua họ và đóng quân ở vị trí sống núi giữa Crécy và Wadicourt. Đạo hậu quân nằm dưới sự chỉ huy của các Bá tước Northampton và Arundel tiếp tục di chuyển xa hơn nữa và chiếm vị trí giữa đạo quân của nhà vua và Wadicourt. Khi nhìn thấy phía trước của làng Crécy quân Anh tiếp tục thành lập một đạo quân tiên phong, một đạo quân trung tâm và một đạo hậu quân, Nhưng tất cả các nhà bình luận đều cho rằng Edward đã biết rằng quân Pháp sẽ tấn công từ Vallee des Clercs. Ngựa (của các kị sỹ ) được buộc bên trong một pháo đài dã chiến được lập nên bởi các toa xe phía sau cánh phải và một loạt các hố bẫy được đào rải rác để phá vỡ các đợt tấn công của kỵ binh đối phương. Cánh quân bên phải thuộc quyền của Hoàng tử Đen xứ Wales có vẻ như đóng ở đoạn lưng chừng dốc.
Vị trí chính xác của các cung thủ Anh là một vấn đề còn phải bàn cãi. Có thể họ đã được định vị ở mỗi bên của một đạo binh như các cánh và rất gần với những kị sỹ. Cũng có thể họ đã lùi trở lại khi người Pháp tấn công nhiệm vụ của họ không phải là tham gia chiến đấu tay đôi với đối phương. Như Viillan-nhà sử người Ý công bố thì họ đứng sau những kị sỹ. Sử gia Froissart lại sử dụng thuật ngữ herce hoặc “harrow” mà cho đến nay người ta vẫn còn chưa hiểu rõ, nhưng có vẻ như các sử gia đã không chú ý tới một sự tương tự giữa thuật ngữ “ herce “ của Froissart và đội hình được gọi là El Haz “the closely pack bundle” của Don Juan Manuel-nhà lý luận quân sự Tây Ban Nha trong thế kỷ 14. Tất nhiên có thể rất nhiều nguồn cung cấp thông tin của Froissart sẽ đến từ Hoàng tử Đen sau chiến dịch Tây Ban Nha của ông. Nhìn chung, có bằng chứng cho thấy rằng các cung thủ đã đứng thành các đơn vị tương đối gần nhau và có thể di chuyển xung quanh một cách có kiểm soát.
Sau đó có những câu hỏi về các khẩu súng người Anh, rõ ràng là chúng ở bên cánh phải của người Anh. Chúng có thể là loại đã tạo ra những trận pháo kích nhỏ vốn được sử dụng trong một phần ở miền Nam Châu Âu để bảo vệ các công sự dã chiến. Đoàn xe hành lý của Edward III đã ở rất gần Crécy Grange và khu rừng, có thể chúng (các khẩu pháo) được bao quanh bởi các toa xe với một của mở đơn nhưng đủ gần để các cung thủ được cung cấp các bó mũi tên một cách nhanh chóng trong trận đánh.
Vào ngày trận đánh Vua Edward đã dậy rất sớm và cùng với Hoàng tử xứ Wales tập hợp rất nhiều thông tin liên lạc, có thể quân Anh vẫn đã đóng ngay tại chỗ họ đã chiếm vị trí trước đó. Thức ăn được nấu trong đoàn hành lý, các chiến binh được phép rời khỏi vị trí của họ trong một vài thời gian để ăn và đi vệ sinh. Mỗi cung thủ đều ký hiệu vị trí của mình với cây cung của chính anh ta, mỗi kị sỹ đều cầm chiếc mũ sắt của mình trên tay. Mệnh lệnh cuối cùng của Edward khi người Pháp đã đến trong tầm nhìn là không bắt tù binh cũng như bất kỳ chiến binh nào cũng không được rời vị trí của mình để tìm kiếm chiến lợi phẩm.
Cuộc hành quân của người Pháp tới Crécy không phải là một cuộc hành binh vô tổ chức như một số nhà sử học đã nói. Cũng không phải rằng kế hoạch của vua Philip VI là không đủ năng lực như một số người đã tin là như vậy. Tuy nhiên, ông không được toàn quyền điều khiển quân đội của mình như là Edward III. Quay trở lại Abbeville từ Blanchetaque vào ngày 24, Philip VI ở lại đó suốt ngày 25 có lẽ vì một số toán quân của mình vẫn còn trên đường tới gia nhập với ông ta. Jaime I-nhà vua lưu vong của Majorca đã đến nơi cũng như Charles con trai của John de Luxembourg, người được nhà vua phong làm vua của La Mã vào tháng Bảy năm 1346, cũng như anh rể của Edward III-Bá tước John de Hainault ( Em rể là vua Anh quốc, anh vợ là chư hầu của Pháp) và một số các vương công trẻ tuổi người Đức; vị Bá tước của Savoy và Louis-em trai của ông này đến ngày 25. Philip cũng đã biết rằng cuộc bao vây nhằm vào Bethune đã bị từ bỏ và người Anh không thể ngay lập tức hội binh với đồng minh người Flemish của họ.Quân Pháp hành quân như thế nào là một câu hỏi chưa có câu trả lời của trận Crécy, chắc chắn giờ đây lực lượng của Philip là quá lớn và được chia ra giữa Abbeville và Saint-Riquier. Ông biết rằng việc truy kích quân Anh phải được tiếp tục vào ngày hôm sau và quân đội của ông đã khởi hành vào lúc bình minh và bị buộc phải để lại các khẩu pháo của họ sau khi phải chuyển sang di chuyển với tốc độ cao. Khói đã bốc lên cao từ hướng Noyelles và đội quân tiên phong của Pháp đang dẫn đầu theo hướng đó, nhưng quân thám mã đã sớm có báo cáo rằng Anh đã không còn ở đó nữa. Tại thời điểm này quân Pháp đang căng ra dọc theo con đường từ Abbeville đến Noyelles, sau đó họ nhận được mệnh rẽ phải hướng tới Crécy và Hesdin. Đội quân tiên phong và có lẽ ngay cả Philip VI dường như đã đi được hơn nửa đường để đến Noyelles trước khi họ quay lại dọc theo con đường được gọi là “Valois Path” sau đó tiếp cận với các tuyến đường của người Anh và các tuyến này thường được gọi là “Le Che min de L’Armée”. Lúc này lực lượng bộ binh của Vua Philip được lệnh tiến lên phía trước kỵ binh để đề phòng chống lại các cuộc phục kích có thể có khi hành quân qua giữa các khu rừng Crécy và Cantatre, có lẽ quá trình hành quân này đã làm cho lính bắn nỏ người Genova bị tách rời khỏi các tấm lá chắn pavise của họ vốn lúc này đang nằm trong đoàn xe hành lý. Xung quanh khoảng thời gian này, một toán thám mã cũng đã được gửi về phía trước dưới sự chỉ huy của Miles de Noyers-viên hiệp sỹ cầm gia huy của hoàng gia, để đi cùng với Jran de Beaumont và Henri le Moine của Basle.
Phần lớn quân Pháp hành quân dọc theo con đường từ Abbeville và một số đã sử dụng những con đường khác nhau phía đông của rừng của Cantatre, trong khi những người khác thậm chí có thể đã đi trực tiếp từ Abbeville qua hướng Hesdin. Sự kiện này có thể đã gây ra trạng thái nhầm lẫn của quân Pháp khi họ đến được phía đông của Crécy. Lúc này các kị sỹ đã tạo nên một khối hỗn loạn ở phía sau lực lượng bộ binh người Genova vốn có kỷ luật hơn, các chỉ huy của họ vẫn cho rằng họ đang cố gắng để đuổi kịp người Anh vốn dường như đang rút lui về phía bắc. Bản thân con đường này thời trung cổ có thể là một con đường La Mã xuôi từ Cancy, Mancheville, Fontaine-Maye và Estrées-les-Crécy.
Có thể là bộ phận đi đầu của quân Pháp đã đi qua Foitaine vào giữa buổi chiều, các toán trinh sát nói với Philip rằng kẻ thù của ông đã thiết lập một vị trí được phòng thủ mạnh mẽ ở bên trái của đội hình hành quân của ông, có lẽ trong tầm nhìn của các toán tiền quân của quân Pháp. Có vẻ như đã có một số trì hoãn trước khi Philip ra lệnh tạm dừng. Có lẽ ông đã lên kế hoạch để hạ trại tại Estrées. Lực lượng bộ binh người Genova dưới sự chỉ huy của Carlo Grimaldi và Odone Doria đã quá mệt mỏi sau một cuộc hành quân kéo dài. Đằng sau họ là số lượng lớn các kị sỹ lúc này tỏ ra khá vô tổ chức. Phần lớn lực lượng bộ binh và dân binh người Pháp cùng với hành lý vẫn tiếp tục kéo đến, trong khi hàng đoàn những người dân địa phương kéo đi đông đặc giữa Somme và Crécy với hy vọng người Pháp sẽ một đòn tấn công để tiêu diệt. Các đội bộ binh khác có lẽ chỉ mới đến được Abbeville.Trong khi các vị thống chế của ông hết phi ngựa lên rồi lại phi xuống để cố gắng ngăn chặn các kị sỹ lúc này đang xô đẩy nhau về phía trước trong sự háo hức trừng phạt kẻ thù vốn đã tàn phá tan tành quê hương của họ, Philipl VI tổ chức một hội đồng quân sự với các chỉ huy cao cấp của mình. Ông đã nhận được những lời khuyên trái ngược nhau, chỉ huy của toán quân lại thúc giục ông phải chờ đến ngày mai trước khi tấn công các vị trí được chuẩn bị tốt người Anh, một số lại cho rằng thay vào đó là nên tấn công vào lâu đài Labroye, nơi mà họ có thể tổ chức lại và khóa hướng hành quân về phía Bắc của người Anh, một số khác lại yêu cầu tiến hành một cuộc tấn công ngay lập tức trước khi đối phương kịp đối phó. Philip đã chọn giải pháp sau cùng, dường như ông nhận ra rằng gần như sẽ không thể giữ được sự nhiệt tình của quân đội của ông nếu từ bỏ khỏi chiến trường trong tầm nhìn của kẻ thù của họ.
Khi Philip quyết định tấn công, những rối loạn có vẻ như trở nên càng tệ hơn khi đơn vị này cố gắng tranh giành vượt qua những con đường của đơn vị kia, người sau đẩy người đi đằng trước tiếp tục tiến lên. Nhà sử gia Froissart nói ” sự rối loạn này hoàn toàn bị gây ra bởi niềm tự hào vì mỗi hiệp sỹ đều muốn qua mặt người hàng xóm của ông ta, mặc dù các Thống Chế đã ra sức làm việc để giữ đội ngũ” Rất ít các chỉ huy của họ có kinh nghiệm về một cuộc chiến tổng lực, nhưng những kị sỹ Pháp vẫn rất tự tin. Các hiệp sĩ Pháp có uy tín cao nhất trong những quốc gia Thiên Chúa giáo và trong quân Pháp có nhiều cựu binh lâu năm có thứ hạng cao đặc biệt là trong số những binh sỹ người Genova.
Lực lượng quân Pháp có số lượng gần tương đương với quân Anh mà họ phải đối mặt ở sườn phía bên kia của thung lũng Vallee des Clercs, nhưng trong quân đội Pháp có thể những người đã thực sự vào trận chiến lại ít hơn. Chắc chắn là Philip đã biết về sức tàn phá của các cung thủ trường cung người Anh nhưng có lẽ ông này tin rằng lính bắn nỏ người Genova của ông có thể tạo ra một hỏa lực có thể đối trọng với sức mạnh và độ chính xác của các cung thủ Anh được bởi vì họ ( cung thủ Anh) hầu như không được mặc giáp. Dường như là Philip đã dự kiến rằng trận chiến sẽ diễn ra trong một thời gian ngắn ngủi nên bắt đầu muộn vào cuối buổi chiều một chút cũng không thành vấn đề.
Sự bài binh bố trận của quân đội hai bên
Pháp có lẽ là bí ẩn lớn nhất của trận Crécy với nhiều nguồn đã đề cập đến rằng họ được tổ chức từ 4 -> 9 đơn vị hoặc tuyến tấn công, Ngoài những bộ binh người Genova được tổ chức tốt, đội quân thực sự của Philip có thể bao gồm hai, ba hoặc bốn đoàn kỵ binh đơn lẻ vốn rất khó sử dụng (vì họ chưa từng tác chiến phối hợp), có lẽ cùng với bộ binh ở các cạnh sườn của họ hoặc vẫn còn tiếp tục kéo đến từ phía sau. Các kị sỹ dưới sự chỉ huy của Công tước Alençon và John de Luxembourg đã hình thành lên tuyến chiến đấu đầu tiên, có lẽ với đội của Alençon ở chếch về bên phải và đội của John de Luxembourg có sự hỗ trợ của các đội quân người Genova. Lực lượng riêng của Philip VI cộng với người của vua Majorca và các nhà quý tộc cấp cao khác bao gồm cả Charles con trai của John de Luxembourg có thể đã tạo nên lực lượng dự bị.
Có lẽ đạo quân của Hoàng tử xứ Wales là ở gần với người Pháp nhất. Lúc này người Pháp đã không cho phất lá cờ Oriflamme thiêng liêng lên, điều này chỉ ra rằng không có một quân xâm lược nào có thể được bắt làm tù binh và khoảng 5 giờ chiều Philip VI đã ra lệnh cho bộ binh người Genova tiến lên mà không có những chiếc khiên pavises của họ, đây là điều trái với chiến thuật đối đầu trực tiếp bình thường của họ ở Italia. Mặc dù điều phổ biến là bộ binh thường hình thành tuyến đầu trong các cuộc chiến tranh Ý, người Genova thường được sử dụng để phục vụ trong những đội quân có cấu trúc rất cao, trong những đội quân này họ được hỗ trợ bởi những đội kị binh có độ chuyên nghiệp cao. Cho nên không lấy gì làm ngạc nhiên khi họ không quen tiến lên phía trước sau khi phải ở phần cuối của một cuộc hành quân kéo dài mà không có sự chuẩn bị thích hợp và cũng không có những tấm lá chắn pavise của họ hoặc có đủ dự trữ đạn dược và với ánh nắng mặt trời đang lặn chiếu vào mắt họ. Khiếu nại của các sĩ quan chỉ huy của họ đến Công tước Alençon đã bị bỏ qua, nhưng sau đó đã được lấy làm bằng chứng để chứng minh rằng người Genova đã phản bội lại nghĩa vụ. Tuy nhiên, họ vẫn lập đội hình dưới sự chỉ huy của Ottone Doria và dường như đạo quân của Hoàng tử xứ Wales là mục tiêu của họ. Người Genova có từ 2,000-6,000 người, ít hơn rất nhiều so với các các cung thủ trường cung Anh ở phía bên kia, có lẽ ngay chỉ so với người trong đội quân của Hoàng tử xứ Wales.Trong âm thanh của tiếng kèn trống, lính bắn nỏ Genova và các tay giáo di chuyển về phía trước trong ba giai đoạn, từng bước dừng được báo hiệu bằng các tiếng hét cho phép các binh sĩ bộ binh điều chỉnh các hàng quân của họ. Truyền thuyết thường cho rằng có những con quạ bay qua khu vực này lúc họ tiến lên ( điềm xấu ), nhưng quan trọng hơn là một cơn bão bất ngờ-cơn mưa đầu tiên trong vòng sáu tuần. Sự kiện này làm cho mặt đất trơn trượt và trong ngày hôm đó sau khi mưa kết thúc đáy của chiếc thung lũng Vallée des Clers đã trở thành một chiếc đầm lầy rộng đến 250 m2 từ ngã ba của nó với sông Maye. Mưa cũng làm ướt dây của các cây nỏ của người Genova và làm cho chúng bị mất đáng kể sức công phá. Jean de Venette nói rằng các cung thủ trường cung người Anh đã cất dây cung của họ và giữ chúng khô ráo trong những chiếc mũ sắt. Tuy nhiên, điều này chỉ đơn giản là không thể làm được với những cây nỏ và dây nỏ của người Genova càng chở nên kém co dãn khiến họ dễ dàng bị chiếm ưu thể bởi các cung thủ trường cung người Anh-đối thủ của họ. Nó cũng cho phép người Anh để tận dụng loại vũ khí duy nhất vốn chiếm ưu thế của họ trên thực tế; họ có thể bắn mũi tên với tốc độ cao và có khả năng dội những trận mưa tên theo kiểu giót dầu (hoặc bắn cầu vồng). Về tính chính xác, phạm vi và sức xuyên phá… cùng các lợi thế khác cần phải có lại nằm ở phía người Genova.
Vai trò của bộ binh người Genova có thể là làm gián đoạn đội hình của kẻ thù bằng tên nỏ và rồi các kỵ binh hỗ trợ sẽ tận dụng lợi thế này để phá vỡ đội hình của đối phương. Trong thực tế, người Genova đã khai hỏa vào lần dừng lại thứ ba, khoảng 150 mét từ quân Anh. Họ đã bắn vào mục tiêu ở ngược lên trên ngọn đồi khi mặt trời xuống thấp và gần như chiếu trực tiếp vào mắt họ-đây là một bất lợi lớn cho những người đang cố nhằm trực tiếp mũi tên của mình vào đối phương. Khi bắt đầu bắn, người Genova đã trúng một cơn bão mũi tên từ cánh quân của Hoàng tử xứ Wales và những khẩu súng của người Anh cũng thêm vào tiếng ồn, sự khủ.ng bố tinh thần và thương vong. Froissart nói rằng các khẩu súng này mỗi khẩu đã bắn hai hoặc ba phát vào người Genova, các khẩu súng này sau một lần bắn thì rất khó để nạp đạn nhanh hơn so với bất kỳ loại vũ khí nguyên thủy nào. Villani đồng ý rằng tác động của các khẩu súng là đáng kể và giữ ý kiến rằng sau đó trận pháo kích vẫn tiếp tục dội xuống vào các đợt tấn công của kỵ binh Pháp trong trận chiến: “Các khẩu súng của người Anh dùng bi sắt đúc làm đạn … chúng đã tạo ra những tiếng ồn như tiếng sấm và tạo ra nhiều thiệt hại cho người và ngựa … người Genova đã liên tục bị bắn trúng bởi các cung thủ và pháo thủ … (vào cuối trận) toàn bộ đồng bằng bị bao phủ bởi xác những người đàn ông bị bắn trúng bởi các mũi tên và đạn pháo. “
Vì không có các tấm lá chắn pavise của họ, lại không đủ tầm bắn và bị đối thủ của họ chiếm ưu thế, người Genova dao động và sau đó chạy ngược trở lại. Người ta cho là họ đã bị tấn công bởi những kị sỹ Pháp-những người có nhiệm vụ giám sát họ và mặc dù điều này khó có thể xảy ra, dường như Bá tước Alençon đã kết luận rằng người Ý đã bị mua chuộc để phản bội lại vua Philip. Mặt khác, Jean de Venette cũng cho rằng một số kị sỹ đã tấn công vào bộ binh của họ, “mặc dù tất cả những người lính bắn nỏ Genova đã cầu xin với tiếng kêu lớn”. Khả năng người Anh đã chuyển làn bắn sâu vào đội hình quân Pháp đã gây ra sự nhầm lẫn này và đây cũng là dịp để đặt câu hỏi kỵ binh đã ở đâu cùng với người Genova trong thời gian tiến quân ban đầu của họ.
Ý tưởng cho rằng Philip đã ra lệnh cho các kị sỹ của mình phi ngựa qua những người Genova đang bị thương là điều gần như không thể vì nó sẽ hủy hoại sự gắn kết của một đợt tấn công của kỵ binh. Nhiều khả năng Bá tước Alençon tiến lên khi nhìn thấy một cơ hội để tung ra một đòn tấn công vào người Anh, có lẽ bởi vì tin rằng họ (người Anh) sẽ chưa sẵn sau khi chỉ phải đối mặt với người Genova. Có điều rõ ràng rằng các kị sỹ đã không quan tâm để tránh né các bộ binh đang bị thương và gây ra thương vong hơn nữa khi họ phi ngựa ngang qua. Có hay không việc người Pháp phi ngựa dẵm vào người Genova đang bị thương thực sự là điều vẫn chưa được biết. Bản thân Cralo Grimaldi cũng đã bị thương nặng mặc dù người ta không rõ rằng ông bị trúng tên khi nào.
Lúc này chỉ còn lại lực lượng kỵ binh của Philip VI đã sẵn sàng (ý là bộ binh người Genova đã hoàn toàn tan rã). tuy nhiên họ phải tấn công ngược lên trên cao và phi ngựa qua các khu vực lầy lội, qua các xác chết và người bị thương của bộ binh của họ để lại tấn công vào một kẻ thù vốn đã rất tự tin bởi chiến thắng trước đó và hầu họ ( quân Anh ) như được bảo vệ một cách không thể quan sát được bởi những chiếc hố bẫy ngựa để tiêu diệt những con ngựa của người Pháp. Không lấy gì làm ngạc nhiên khi đợt tấn công đầu tiên của Bá tước Alençon đã thất bại. Ông này dường như đã phi ngựa vượt qua các cung thủ Anh và nhằm vào chiếc cờ hiệu của Hoàng Tử xứ Wales-người vốn được bao quanh bởi những kị sỹ Anh đã xuống ngựa chiến đấu. Nhưng trước khi ông ( Bá tước Alençon ) đến được mục tiêu thì rất nhiều kỵ binh của ông đã bị trúng một hoặc nhiều cơn bão mũi tên. Nhiều con ngựa bị bắn trúng, trong khi những con ngựa khác bị lao vào những chiếc hố bẫy, các con vật này chết và bị thương nằm xếp hàng như những chú heo con nằm bú một con lợn nái.
Các mũi tên gây ra thiệt hại nhiều hơn đến những con ngựa hơn là những kị sỹ, nhưng nhiều người đã bị ngã ngựa khi cuộc tấn công thất bại. Đội hình đã bị phá vỡ, những con ngựa hoảng sợ và bỏ chạy, hoặc nằm xuống, từ chối di chuyển. Như Jean le Bel mô tả, “Những trận mưa tên của người Anh được dẫn bắn với một kỹ năng tuyệt vời vào đám lính kỵ binh làm cho những con ngựa của họ từ chối tiến lên phía trước dù chỉ một bước. Một số nhảy ngược trở lại cào cắn một cách điên loạn, một số con khác lại trở nên ghê gớm, một số lại chạy ngược trở lại phía sau ngược hướng với kẻ thù của họ, những con khác chỉ đơn giản là nằm thẳng cẳng ra mặt đất những kị sỹ của chúng thì chẳng biết có thể làm gì với chúng cả. “Những kị sỹ Anh lúc này lại nhảy lên ngựa và tấn công vào quân Pháp đang hỗn loạn. Một số nguồn tin cho rằng người Pháp đã đến được vị trí của người Anh và Bá tước Alençon đã chém đổ được lá cờ hiệu của Hoàng tử xứ Wales nhưng gần như chắc chắn đây là một huyền thoại anh hùng.Các kị sỹ của John de Luxembourg đã được gửi tiếp vào cuộc chiến, dường như họ đang di chuyển về phía trước khi chỉ huy của họ nhận ra rằng Alençon đang gặp rắc rối, Chắc chắn ông (John de Luxembourg ) đã nhận thức được tình hình và hỏi về nơi đóng quân của Charles-con trai ông cũng là vua của La Mã . Một số các cố vấn của John cảnh báo ông nên bỏ chạy, nhưng thay vào đó vị chiến binh già đã gần như mù lòa này đã ra lệnh cho các tùy tùng của ông buộc lại yên ngựa của họ trước khi chính ông dẫn họ xung phong lên tấn công vào Hoàng tử xứ Wales. Theo nhà sử gia Froissart, yêu cầu cuối cùng của ông là “Je vous requers Tres especiallement que vous me meniez si’avant que me puisse ferir un coup d’epee” ( Tôi yêu cầu các bạn đưa tôi tiến lên càng xa càng tốt trong lúc này để hy vọng rằng tôi có thể hua thanh kiếm lên một lần nữa)
Bất kể sự thật là như thế nào thì lúc này các kị sỹ của John de Luxembourg đã triển khai tấn công và lao vào cuộc chiến với tiếng thét “Prague!” của họ (John de Luxembourg là vua của vùng Bohem), họ đã tấn công vào quân Anh với những thành công lớn hơn. Theo Frossart: “Một số lãnh chúa và hiệp sĩ và hộ sỹ ở toán quân người Pháp chiến đấu bên cạnh một số người Đức và người vùng Savoy, đã vượt qua các cung thủ của Hoàng tử xứ Wales và phi ngựa ngược lên trên để tấn công các kị sỹ của ông ta (Hoàng tử xứ Wales) bằng kiếm, chiến đấu tay đôi với sự dũng cảm tuyệt vời … tất cả tinh hoa của tinh thần thượng võ Anh đều đã tập trung xung quanh để bảo vệ Hoàng tử xứ Wales ” Trong trận cận chiến này John de Luxembourg và những tùy tùng của ông đều đã bị kéo xuống từ những con ngựa của họ và bị giết chết..Buổi sáng hôm đó vua Philip đã đưa cho John của Hainault (anh vợ của Edward III) một con ngựa đen, ông này đã đưa nó cho người mang cờ hiệu của mình-Sir John de Fusselles. Cưỡi trên con ngựa chiến tuyệt vời này Fusselles đã phi ngựa xuyên qua tuyến phòng tuyến của quân Anh và đến tận phía bên kia. Tuy nhiên, con vật này đã bị giật mình bởi một mũi tên và rơi vào hố bẫy và làm cho người cưỡi nó bị mắc kẹt, phải đến khi viên kiếm đồng của Fusselles chạy xung quanh vị trí người Anh và giải phóng chủ của cậu ta trước khi họ có thể quay trở lại bằng những cách khác nhau.
Tranh vẽ cảnh John de Luxembourg đã đánh ngã và xuýt nữa bắt sống Edward-Hoàng tử xứ Wales
Hoàng tử Đen được cứu thoát và rồi ông lại tiếp tục đứng dậy chiến đấu
Trong đợt tấn công của John de Luxembourg, Hoàng tử Edward bị bắt tù binh trước khi ông được giải cứu bởi người mang cờ hiệu của mình-Sir Richard Fitz Simon. Ông này (Richard Fitz Simon ) được cho là đã phải bỏ lá cờ hiệu xuống để bảo vệ Hoàng tử của mình, nhưng điều này được coi là trái với nhiệm vụ của một hiệp sỹ mang cờ hiệu và đây có thể là một truyền thuyết để giải thích tại sao lá cờ hiệu bị hạ xuống trong một thời gian ngắn. Nguồn từ người Flesmish cho rằng Bá tước của Hainault giằng lá cờ từ tay của Fitz Simon cho đến khi ông này và Sir Thomas Daniel lại dựng nó lên một lần nữa. Trong khi đó, Bá tước của Northampton nhận được một tin nhắn từ Godfrey de Harcourt và gửi đơn vị của ông ở đó gần nhất-đơn vị được chỉ huy bởi Bá tước của Arundel, để trợ giúp cho vị Hoàng tử. Sir Thomas Norwich cũng viết thư đến nhà vua để xin tiếp viện có thể là, theo Froissart thì nhà vua Anh đã trả lời như sau ” ngài Tomas, con trai của tôi đã chết hoặc gục ngã do bị thương chưa mà nó không thể tự giúp chính mình? Trong trường hợp này thì chưa, do đó câu trả lời nổi tiếng của Edward III là ” Tôi ra lệnh rằng thằng bé phải được phép kiếm một chiếc đinh thúc ngựa ( ám chỉ danh hiệu Hiệp sỹ ) cho nó, đó là mong muốn của tôi nếu hôm nay là ngày của nó, vinh quang của ngày hôm nay thuộc về nó và những người tôi đã giao nó cho họ. ” Nhiều khả năng Edward từ vị trí của mình trên sống núi đã nhìn thấy đợt phản công của Arundel và nhận ra rằng mối nguy hiểm đã qua.
Lúc này cả hai chỉ huy của kị binh Pháp là Alençon và Luxembourg đều đã chết, nhưng người Pháp vẫn tiếp tục tiến hành tới 13 đợt tấn công bằng kỵ binh nữa, mỗi đợt tấn công của họ lại để lại rất nhiều người đã chết và bị thương ở phía trước các vị trí của người Anh. Nhất là ở trước mặt đạo quân của Hoàng tử xứ Wales mặc dù đơn vị của Bá tước Northampton cũng bị tấn công. Ở cánh trung tâm dường như Edward III chỉ gửi quân tiếp viện khi cần thiết, lực lượng tiếp viện bao gồm vị Giám mục Durham và 20 hiệp sĩ để giúp con trai mình.
Các cuộc tấn công của Pháp trở thành hoảng loạn và vỡ vụn, cho đến khi hoàng hôn xuống Edward III đã ra lệnh cho người Anh tiến lên. Những con ngựa đã được đưa ra và sau khi thành lập các đội hình controi, kị binh của người Anh bắt đầu tấn công. Hầu hết những gì còn lại của quân đội Pháp đã bỏ chạy mặc dù những tùy tùng riêng của Philip VI vẫn đứng vững với 50 -> 70 tay thương cùng với các đơn vị kỵ binh và các dân binh của vùng Orleans. Ngựa của Philip đã bị giết chết hai lần dưới chân ông và có thể ông đã bị trúng một mũi tên vào hàm và viên hiệp sỹ cầm cờ hiệu của ông đã bị giết chết, cả hai lá cờ hiệu của hoàng gia và Oriflamme đều bị bắt giữ. Cuộc chiến vẫn tiếp tục cho đến tối, bộ binh người Anh, xứ Walsh và Cornish tiến lên phía trước để giết những người bị thương và choáng váng đang nằm rải rác xung quanh Vallee des Clercs. Có những nỗ lực muộn mằn để bắt tù binh một số kẻ thù, Godfrey de Harcourt đã không thành công trong việc cố gắng để cứu mạng sống của John de Harcourt-anh trai của ông. ( ko biết ông sau chiến đấu cho phe nào)
Cuối cùng, Bá tước Hainault sống sót sau cuộc tấn công của John de Luxembourg và có lẽ cùng với một số những người khác đã túm lấy Philip VI và kéo ông ta ra khỏi bãi chiến trường. Chỉ còn một số ít người theo họ trốn đến lâu đài Labroye, nơi mà nhà vua Pháp phải rất khó khăn thuyết phục được đơn vị đồn trú nhận ra mình. Ngày hôm sau Philip đã đến Doullens. Quay lại bãi chiến trường ở Crécy, vua Edward không cho quân của mình truy kích quân Pháp đang bỏ chạy, có thể ông này cho rằng các đội quân Pháp khác còn đang kéo đến. Theo tài liệu để lại thì Edward cho chiếc cối xay gió nổi tiếng để chiếu sáng bãi chiến trường trong những giờ đầu tiên của buổi đêm, ngày hôm sau nhiều toa xe của quân Pháp đã bị đốt cháy cùng với bất cứ những thứ gì mà người Anh không thể sử dụng được.Trong suốt đêm đó và sáng sớm đầy sương mù của ngày hôm sau các binh sỹ Pháp vốn bị tách ra khỏi các chỉ huy của họ, đã đi lang thang xung quanh la hét mật khẩu khi họ cố gắng để tìm bạn bè và người thân. Nhiều người bị tìm thấy bởi người Anh và tất cả đã bị giết vì người chiến thắng vẫn bắt tù binh. Một đội quân Pháp khoảng 2,000 người vốn không biết gì về kết quả của trận chiến và đã trú đêm trên đường đến từ Abbeville. Họ là lực lượng dân binh từ Roen và Beauvais, được hộ tống bởi Bá tước Louis của Blois và Công tước Raoul của Lorraine-anh rể của ông. Edward III đã tung Warwick, Suffolk và Northampton tấn công họ, Quân Anh đã đóng giả quân Pháp ra chào đón họ và sau đó triển khai tấn công ( các chỉ huy và quý tộc Anh vào thời điểm đó sính dùng tiếng Pháp ). Sau đó những người này nhận ra sai lầm của mình và bỏ chạy mặc dù khá nhiều trong số họ đã thiệt mạng trong đó có cả công tước Raoul của Lorraine.Các nhà tu sỹ của tu viện Crécy Grange chăm sóc cho những người Anh bị thương. Những người đã qua đời trong khi cứu chữa được họ chôn cất trong trong góc của một cánh đồng mấp mô và chỗ này không bao giờ cò được sử dụng để canh tác. Người Anh cũng muốn phát hiện về toàn bộ chiến thắng của họ và Edward III ra lệnh cho Reginald de Cobham để tập hợp những người có thể nhận biết qua huy hiệu trên áo choàng để xác định những người đã chết. Không có tài liệu nào về chi tiết này còn tồn tại, nhưng theo Jean le Bel thì người Pháp bị mất 9 Bá tước, 12,000 hiệp sĩ và 15,000-16,000 người khác. Đây là một con số bị cường điệu hóa và thậm chí Geoffrey le Baker ước tính tổng số là 4,000 quý tộc và hiệp sĩ bị giết trên cả hai phía, nhưng có lẽ vẫn là quá nhiều. Một con số được công bố có vẻ đúng sự thật hơn là khoảng 1,542 người ( chỉ riêng các quý tộc và hiệp sỹ ).Nhiều người có kinh nghiệm nhất trong đoàn quân của Philip VI đã tử trận ở Crécy, nhưng thay vì cố gắng để tập hợp những lực lượng còn lại, ông này lại rút lui về Amiens, nơi ông gặp Charles-vua của La Mã và lúc này đã trở thành vua của Bohemia, John của Hainault, Bá tước của Namur và Louis Bá tước mới của Flanders. người của họ đã bị phân tán nên các chỉ huy không còn cách nào ngoài việc lên đường trở về nhà.Tuy nhiên, trước khi làm như vậy Philip VI đã ra lệnh hành hình tất cả những “kẻ phản bội” người Genova. Nhiều người đã bị giết trước khi sự giận dữ của nhà vua nguội đi và cũng không đáng ngạc nhiên khi những người Genova sống sót cũng đã đi về nhà. Philip cưỡi ngựa một phần tách biệt đến Pont Saint-Maxence qua rừng Hallate khoảng 56 km về phía bắc Paris. Trong khi đó con trai của ông-Công tước John của Normandy cuối cùng cũng đến được Paris vào ngày 08 tháng 10, trước khi quay lại đón cha mình từ Pont Saint-Maxence.
Sau trận đánh
Sau khi kết thúc trận Crécy người Anh di chuyển chậm rãi lên phía Bắc với tốc độ chỉ 16 km /ngày. Họ ở lại gần bờ biển với hy vọng nhận được nguồn cung cấp bằng đường biển, và lại một lần nữa phá hủy một khu vực rộng 30 km, công chiếm Etaples và tiến hành một cuộc tấn công bất thành công vào Montreuil-sur-Mer.
Vào ngày 1 tháng 9 quân đội của Edward nghỉ ngơi tại Neufchatel và ngày hôm sau họ dừng lại ở Womille ở phía bắc Boulogne để xem xét tình hình. Quân Anh tại Caen đã bị tiêu diệt bởi quân Pháp đồn trú trong lâu đài và Edward nhận ra rằng ông không còn có thể giữ lại vùng Normandy được nữa. Đây là một nỗi thất vọng nặng nề cho những người quý tộc gốc Norman-những người là nòng cốt của quân đội Anh. Lúc này Edward quyết định triển khai bao vây Calais thay vì Boulogne bởi vì nó sẽ là một căn cứ tốt hơn cho các hoạt động trong tương lai và gần gũi hơn với các đồng minh người Flemish của ông.
Ngày 03 tháng 9, Wisant-chiếc cảng cổ xưa đã bị phá hủy và vào ngày 4 đội quân tiên phong của quân Anh đã đến được đầm lầy bao quanh Calais. Ngày hôm đó hạm đội Anh cũng đã tấn công Boulogne nhưng đã bị đẩy lui. Sau đó họ đã liên hệ với Vua Edward, ông này lại viết một lá thư yêu cầu gửi người và vật tư cho cuộc bao vây sắp tới vào Calais. Một vài ngày sau đó, các đội tàu cung cấp vốn được chờ đợi trong nhiều ngày đã đến từ nước Anh dưới sự chỉ huy của Sir John Montgomery.
Khoảng thời gian này cuối cùng Godfrey Harcout không còn hy vọng nhận được bất cứ thứ gì từ người Anh và bỏ đi đến Brabant.Quân đội Pháp thất bại trong chiến dịch Crécy đã là đề tài tranh luận nóng bỏng trên cả hai bờ của English Channel. Rõ ràng quân đội của vua Philip đã không dàn quân đúng cách trong trận chiến, cuộc tấn công của họ đã bắt đầu quá muộn trong ngày và nhiều cuộc tấn công bằng kỵ binh của họ có phối hợp rất kém.
Tuy nhiên, sẽ là sai lầm khi đổ lỗi tất cả thất bại vào các kị sỹ Pháp hay vào lính bắn nỏ Genova. Các cuộc tấn công cũng không mất tổ chức hơn bình thường, trong khi những kị sỹ có khả năng quay lại, tập hợp để tái tạo lại những cuộc tấn công thì ta phải thấy họ có khả năng điều khiển ngựa, kỷ luật, dũng cảm và có kiểm soát một cách tuyệt vờiLý do cho sự thành công của người Anh được ưa chuộng nhất bởi các sử gia người Anh là sự vượt trội của các cây cung so với các cây nỏ. Carlo Grimandi tự thừa nhận rằng lính bắn nỏ Genova có phạm vi bắn quá ngắn so với các cung thủ trường cung Anh, trong khi Villani cho biết khi cung thủ Anh bắn được ba mũi tên thì lính bắn nỏ mới chỉ bắn được một. Các khả năng của các cung thủ trường cung chiếm ưu thế hoàn toàn so với lính bắn nỏ là hoàn toàn đúng, tuy nhiên có được kết quả đó cũng một phần do cơn mưa và cơn mưa này đã làm cho những phát bắn nỏ trở nên kém hiệu lực.Những cung thủ trường cung Anh có kỹ năng cao đã trở thành một cái gì đó tương tự như lực lượng tinh nhuệ vốn được tuyển dụng từ các gia đình quý tộc Anh, nhưng rõ ràng lại bị giới hạn cho sức mạnh quân sự mới của Anh quốc.
Điều đáng chú ý là quân Anh vẫn chỉ chiến đấu tốt ở những trận đột kích và những trận đánh mở, nhưng họ không bao giờ có được hiệu quả tương tự trong chiến tranh bao vây. Tuy nhiên, tác động tâm lý của trận đánh là rất lớn với người Anh và sự tự tin của họ tăng vọt lên cao. Những binh lính trở về nhà đã lan truyền ý tưởng rằng rất dễ dàng trong việc chiếm đóng nước Pháp và mặc dù những người này thường phải bán chiến lợi phẩm của họ thấp hơn giá trị thực sự của nó, Thomas Walsingham đã viết rằng: “Những người phụ nữ đã được lợi gì, họ là người không được sở hữu bất cứ thứ gì từ các chiến lợi phẩm của Caen và Calais và những thành phố khác ở nước ngoài dưới dạng quần áo, lông thú, mền bông và đồ dùng. “Sự thay đổi thái độ này đã làm cho Edward III dễ dàng hơn nhiều trong việc tuyển quân ở trong nước và đã có trường hợp của thăng tiến từ cung thủ-thứ hạng khiêm tốn tới kị sỹ và đội trưởng của thập kỷ 1350. Chiến thắng của Edward III cũng được coi là bằng chứng của Thiên Chúa chấp thuận cho tuyên bố về sở hữu ngai vàng của tại Pháp, như John Erghome của Yorkshire đã viết: “Thiên Chúa đã ban cho người Anh sức mạnh của vũ khí trong cuộc chiến chống người Pháp vì lợi ích mà họ có trong vương quốc Pháp” Trong khi đó Philip VI chở thành cái bia cho những lời chế giễu cụ thể.
Tại nước Pháp tác động của trận thất bại ở Crécy và sau đó là sự thất thủ của Calais là những vấn đề chính trị và quân sự, các kỵ sỹ đã học được bài học phải cảnh giác với các cung thủ trường cung Anh, không phải quá nhiều cho bản thân họ mà là cho những con ngựa dễ bị tổn thương của họ. Và các kị sỹ Pháp cũng bắt đầu xuống ngựa để chiến đấu mặc dù chiến thuật cơ bản của họ vẫn là tấn công. Chiến dịch của Edward III có thể chỉ giành chiến thắng trên một lãnh thổ nhỏ và chỉ giữ lại được Calais, nhưng hậu quả của nó là tạo ra thiệt hại rất lớn trên toàn miền Bắc nước Pháp và là một thảm họa chính trị cho Philip VI. Về tâm lý tác động là ngược lại so với những gì đã thấy ở Anh: Crécy là một cú sốc lớn cho giới quý tộc Pháp và danh tiếng của tầng lớp hiệp sĩ đã bị mai một. Quan điểm của Pháp về người Anh điển hình thường là không tốt: họ luôn cho rằng người Anh là những người bạo tàn, cặn bã đê tiện của nhân loại… và trong tương lai hai nước này còn thù địch với nhau hàng trăm năm nữa, có lẽ phải đến chiến tranh thế giới I thì họ mới chịu đứng cùng một chiến tuyến.
Ở bên ngoài nước Pháp trận Crécy có tác động ít đến nghệ thuật quân sự của các quốc gia hơn là người ta dự đoán mặc dù các cung thủ và kị sỹ người Anh đã nhanh chóng được hoan nghênh như là những lính đánh thuê ở Italia. Carlo Grimandi một lần nữa lại chở thành Lãnh chúa của Monaco và là nhà thầu quân sự hàng đầu trong việc tuyển dụng lính đánh thuê người Genova, và rồi ông ta cũng phục hồi đầy đủ để tham gia những cuộc viễn chinh khác trước khi chết vào năm 1357. Ranieri-con trai ông cũng gần như chở thành vua của Menton, và vẫn là một người chư hầu trung thành của nước Pháp cũng như hầu hết các thành viên khác của gia đình Grimaldi. Hậu duệ của Carlo Grimaldi vẫn sở hữu Monaco cho đến ngày nay.
Source: http://nghiencuulichsu.com/2015/09/04/chien-tranh-tram-nam-giua-phap-va-anh-bai-2/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.