Thứ Ba, 10 tháng 11, 2015

Chiến tranh trăm năm giữa Pháp và Anh - Bài 7


Giới thiệu một số chỉ huy hàng đầu của người Anh trong chiến tranh trăm năm-giai đoạn cuộc chiến của nhà Valois

Henry VI – Vua nước Anh

Henry VI (từ ngày 06 Tháng 12 1421 – đến ngày 21 Tháng 5 năm 1471) là vua của nước Anh từ năm 1422- đến1461 và một lần nữa từ năm 1470 đến 1471 và là người tranh chấp ngai vàng của nước Pháp từ năm 1422-1453. Cho đến năm 1437, triều đại của ông bị chi phối bởi nhiếp chính. Các tài liệu đương thời mô tả ông là yêu hòa bình và có đạo đức, không phù hợp với hoàn cảnh cuộc nội chiến đẫm máu còn được gọi là cuộc chiến Hoa hồng được bắt đầu trong thời trị vì của ông. Trong thời gian bị tâm thần ông đã được yêu cầu kết hô với Margaret-Nữ hoàng của Anjou, người nắm quyền kiểm soát vương quốc của ông và cũng góp phần vào sự sụp đổ của chính ông ta cũng như sự sụp đổ của Nhà Lancaster và sự gia tăng của Nhà York.
Thời thơ ấu của Henry VI 
Henry là con duy nhất và là người thừa kế của vua Henry V của nước Anh ( người đã chiến thắng trong trận Azicourt trước quân Pháp ). Ông sinh ngày 6 tháng 12 năm 1421 tại Windsor và đã lên ngôi ở vua của nước Anh lúc mới chín tháng tuổi vào ngày 31 tháng 8 năm 1422 khi cha ông qua đời, do đó ông trở thành người thừa kế ngai vàng nước Anh trẻ tuổi nhất. Hai tháng sau, ngày 21 Tháng Mười năm 1422, ông trở thành vua của nước Pháp sau cái chết của Charles VI-ông ngoại của ông như theo điều khoản của Hiệp ước Troyes năm 1420. Catherine de Valois-mẹ của ông lúc đó mới 20 tuổi và là con gái của Charles VI, đã bị nghi kị một cách nghiêm trọng bởi các quý tộc Anh và điều này đã ngăn cản việc bà có một vai trò đầy đủ trong việc nuôi dạy con trai mình.
Ngày 28 Tháng 9, 1423, các quý tộc đã thề trung thành với Henry VI. Họ triệu tập Nghị viện nhân danh nhà vua và thành lập một hội đồng nhiếp chính cho đến khi vua nên đến tuổi trưởng thành. Một trong những người anh em còn sống sót của Henry V- John, Công tước xứ Bedford, được bổ nhiệm làm quan nhiếp chính chuyên phụ trách cuộc chiến tranh đang diễn ra tại Pháp. Trong khi Bedford vắng mặt, chính phủ Anh được điều hành bởi Humphrey, Công tước xứ Gloucester-người anh em trai còn sống sót khác của Henry V, ông này được bổ nhiệm nhiệm vụ bảo vệ vương quốc và chế độ. Nhiệm vụ của ông bị hạn chế trong việc gìn giữ hòa bình và triệu tập Nghị viện. Henry Beaufort, Đức Giám mục của Winchester (sau 1426 nhậm chức Đức Hồng Y Giáo Chủ)-một người chú họ xa của Henry, có một vị trí quan trọng tại Hội đồng nhiếp chính. Sau khi Công tước Bedford qua đời vào năm 1435, Công tước xứ Gloucester tuyên bố mình là Nhiếp chính vương, nhưng đã vấp tranh cãi bởi các thành viên khác của Hội đồng nhiếp chính.
Từ 1428, gia sư của Henry là Richard de Beauchamp, Bá tước của Warwick, người có cha là nhân vật chủ chốt trong cuộc đảo chính chống lại sự cai trị của vua Richard II ( con trai của Hoàng tử Đen ).
Edmund và Jasper-những người anh em cùng cha khác mẹ của Henry VI, những người con trai trong cuộc tình của người mẹ góa chồng của ông với Owen Tudor, sau này được phong những lãnh địa công quốc. Edmund Tudor là cha của Henry Tudor-người sau đó lên ngôi vua như là Henry VII của Anh quốc ( trâu bò húc nhau ruồi muỗi được, nhà Lancaster và nhà York đều toi, nhà tudor hưởng phước ).
Phản ứng trước buổi đăng quang của Charles VII Valois làm Vua của Pháp ở nhà thờ Reims vào ngày 17 tháng Bảy năm 1429, Henry đã ngay lập tức đăng quang lên ngôi vua Anh trước tuổi tại Westminster Abbey vào ngày 6 Tháng 11 năm 1429, sau đó lễ đăng quang của ông như là vua của Pháp được tiến hành tại Notre Dame de Paris vào ngày 16 Tháng 12 năm 1431, mặc dù phải đến một tháng trước ngày sinh nhật thứ mười sáu của ông tức là ngày 13 Tháng 11 năm 1437 thì ông mới có được một số quyền điều hành độc lập, trước khi cuối cùng nhận được đầy đủ các quyền hạn của hoàng gia khi ông đủ tuổi trưởng thành.
Quản lý chính phủ và các chính sách tại nước Pháp 
Henry đến tuổi trưởng thành vào năm 1437, trong cũng năm đó mẹ ông đã qua đời và ông được giao quyền quản lý chính phủ. Henry- một con người nhút nhát và đạo đức, không thích sự lừa dối và bạo lực đã ngay lập tức cho phép triều đình của mình bị ảnh hưởng bởi một vài quý tộc mà ông yêu thích-những người có những quan điểm xung đột về vấn đề trong cuộc chiến tranh với nước Pháp.
Sau cái chết của Henry V, Anh đã bị vuột mất đà thắng lợi trong Chiến tranh Trăm năm, trong khi bắt đầu với chiến thắng quân sự của Joan Arc, nhà Valois đã đạt được những chiến thắng trên lục địa Châu Âu. Vị vua trẻ-Henry VI ủng hộ một chính sách hòa bình ở Pháp và do đó ông ủng hộ phe chủ trương Hòa bình, đứng đầu là Đức Hồng Y Beaufort và William de la Pole-Bá tước xứ Suffolk và những người đồng chí với họ, trong khi Humphrey-Công tước xứ Gloucester và Richard-Công tước xứ York, những người ủng hộ việc tiếp tục cuộc chiến đã bị nhà vua ghẻ lạnh.
Cuộc hôn nhân với Nữ Hoàng Margaret xứ Anjou 
Đức Hồng Y Beaufort và Bá tước Suffolk thuyết phục nhà vua Henry VI rằng cách tốt nhất để lập lại hòa bình với nước Pháp là thông qua một cuộc hôn nhân với Margaret Anjou, cháu gái của vua Charles VII và Nữ Hoàng Marie xứ Anjou. Henry đã đồng ý, đặc biệt là khi ông nghe nói về sắc đẹp tuyệt vời của Margaret và đã cử Suffolk đi thương lượng với Charles, ông này đã đồng ý với cuộc hôn nhân với điều kiện rằng ông sẽ không cho các của hồi môn theo phong tục và thay vào đó ông ta ( vua Pháp ) sẽ nhận được các vùng đất xứ Maine và Anjou từ tay người Anh. Những điều kiện này đã được nhất trí trong Hiệp ước thành Tours, nhưng việc nhượng lại Maine và Anjou đã được giữ bí mật với Nghị viện vì điều này sẽ làm người dân Anh trở nên cực kỳ giận dữ. Cuộc hôn nhân đã diễn ra vào ngày 23 tháng 4 năm 1445, một tháng sau ngày sinh nhật thứ mười lăm của Margaret.
Henry đã bị dao động khi phải giao nộp các vùng Maine và Anjou cho Charles vì biết rằng hành động này là tương đương với một sự phản bội và sẽ bị phản đối kịch liệt bởi các Bá tước Gloucester và York. Tuy nhiên, Margaret đã được cho là quyết tâm làm cho ông tiến hành việc giao đất này. Khi hiệp ước được công bố vào năm 1446, sự tức giận của nhân dân đã tập trung vào Bá tước Suffolk, nhưng Henry và Margaret đã quyết tâm bảo vệ ông này.
Thế lực của các Bá tước Suffolk và Somerset 
Năm 1447, nhà vua và hoàng hậu cho triệu tập Công tước xứ Gloucester trước Nghị viện về tội phản quốc. Động thái này được xúi giục bởi các kẻ thù của Công tước Gloucester – Bá tước Suffolk, Đức Hồng Y Beaufort lúc này đã già và cháu trai của ông ta-Edmund Beaufort, Bá tước Somerset. Công tước Gloucester đã bị tạm giam tại Bury St Edmunds nơi ông qua đời, có thể là do một cơn đau tim, mặc dù đương thời có tin đồn là ông đã bị đầu độc trước có thể được xét xử.
Công tước xứ York-người thừa kế ngôi vị của Henry VI, đã bị loại khỏi triều đình và cử đi để quản lý Ireland, trong khi các đối thủ của ông ta- các Bá tước Suffolk và Somerset đã được thăng thưởng tước Công, một danh hiệu tại thời điểm đó vẫn thường chỉ được dành cho những người ruột thịt gần nhà vua nhất. Công tước Somerset vốn mới được tấn phong đã được cử sang Pháp để chỉ huy cuộc chiến ( giữa Anh và Pháp ).
Trong các năm tiếp sau của triều đại của Henry, chế độ quân chủ đã trở thành ngày càng không được lòng dân, do những sự cố về mặt luật pháp, trật tự, tham nhũng, đã làm cho những khoản thu từ các lãnh địa của hoàng gia vào triều đình của nhà vua ngày càng giảm sút và đương nhiên Nhà nước đã gặp phải những khó khăn về mặt tài chính cộng với sự mất ổn định của các vùng lãnh thổ mà người Anh đang chiếm đóng tại Pháp. Năm 1447, giới quý tộc Anh đã dấy lên một chiến dịch chống lại Công tước Suffolk-người vốn bị căm ghét nhất trong đoàn tùy tùng của vua và được xem như là một kẻ phản bội của Vương quốc. Henry đã buộc phải điều ông này đi sống lưu vong, nhưng chiếc tàu của Suffolk đã bị chặn lại ở English Channel và cái xác bị băm vằm của ông này đã được tìm thấy trên bãi biển ở Dover.
Năm 1449, Công tước Somerset nhận nhiệm vụ chỉ huy chiến dịch ở Pháp và ông này đã làm tái tạo tình trạng thù địch ở Normandy ( đương nhiên là giữa người Anh và người Pháp ), nhưng tới mùa thu ông này phải tháo lui đến Caen. Vào năm 1450, người Pháp đã chiếm lại toàn bộ tỉnh này (Normandy), vùng đất vốn được chiếm bởi những chiến thắng cực kỳ nhọc nhằn của Henry V. Những người lính được gọi tái ngũ đã không còn được thanh toán đúng hạn, thêm vào đó là tình trạng vô luật pháp ở các quận phía nam của nước Anh, Jack Cade đã cầm đầu một cuộc nổi loạn ở Kent 1450, tự xưng là “John Mortimer”, quân nổi loạn rõ ràng là được sự ủng hộ của Công tước xứ York và đóng quân tại White Hart Inn ở Southwark. Henry VI phải đến London với một đội quân để đè bẹp cuộc nổi loạn, nhưng ông lại phát hiện ra rằng Cade đã bỏ chạy và ông này để lại hầu hết quân đội của mình phía sau trong khi bản thân đã dẫn đầu một lực lượng nhỏ để truy kích quân nổi dậy và gặp được họ ở Sevenoaks. Cuộc tháo chạy đã được chứng minh là một cuộc rút lui chiến thuật: Cade đã thành công trong một cuộc phục kích nhằm vào lực lượng của nhà vua trong trận chiến Solefields và quay trở lại để chiếm London. Cuối cùng, cuộc nổi loạn đã bị đàn áp và London đã được tái chiếm sau một vài ngày nằm trong tay quân phiến loạn, nhưng chủ yếu là bởi những nỗ lực của các cư dân của nó chứ không phải là của quân đội của nhà vua. Ở mức nào đó cuộc nổi dậy cho thấy rằng những cảm giác bất mãn trong dân chúng với Henry VI đang ngày càng lên cao.
Năm 1451, Công quốc Guyenne-vốn nằm trong tay người Anh từ thời vua Henry II cũng đã bị thất thủ ( đương nhiên là vào tay người Pháp ). Trong tháng 10 năm 1452, người Anh lại tổ chức một cuộc hành binh tiến vào Guyenne và tái chiếm Bordeaux và đã thu được một số thắng lợi, nhưng vào năm 1453 Bordeaux đã lại một lần nữa thất thủ làm cho Calais chở thành lãnh thổ duy nhất còn lại của nước Anh trên lục địa Châu Âu.
Henry VI bị điên và Công tước York can thiệp vào triều chính
Vào năm 1452, Công tước xứ York đã được thuyết phục để trở về từ Ireland, ông này đã khẳng định vị trí xứng đáng của mình trước Nghị viện và đặt dấu chấm hết cho một chính phủ tồi tệ. Công tước xứ York là một người rất được lòng dân chúng và ông này đã sớm huy động được một đội quân ở Shrewsbury. Trong khi đó, triều thần của Henry cũng huy động được một đội đội quân có kích thước tương tự như của ông kia ( Công tước xứ York ) ở London. Một cuộc thương thuyết đã được tiến hành ở phía nam London, với việc Công tước York đưa ra một danh sách các khiếu nại và yêu cầu thanh lọc triều đình, bao gồm cả việc bắt giữ Edmund Beaufort, Công tước thứ 2 của Somerset. Ban đầu nhà vua đã đồng ý, nhưng Margaret đã can thiệp để ngăn chặn việc bắt giữ Beaufort. Năm 1453, ảnh hưởng của ông này đã được khôi phục và York đã lại một lần nữa bị cô lập. Phe triều đình cũng đã được tăng cường bằng cách thông báo rằng Hoàng hậu đang mang thai.
Tuy nhiên, khi nghe thấy sự thất thủ lần cuối cùng của Bordeaux trong tháng 8 năm 1453, Henry đã rơi vào tình trạng suy nhược thần kinh và trở nên hoàn toàn vô thức với tất cả mọi thứ đang diễn ra xung quanh mình. Sự kiện này đã kéo dài trong hơn một năm và thậm chí Henry đã thất bại trong việc cho ra đời đứa con trai và là người thừa kế riêng của mình-vị hoàng từ vốn được đặt tên thánh là Edward. Có thể Henry VI đã thừa hưởng bệnh điên từ Charles VI của Pháp- ông ngoại của ông ta và phải sống liên tục trong sự điên rồ trong hơn ba mươi năm cuối của cuộc đời mình.
Trong khi đó Công tước xứ York đã có được một đồng minh rất quan trọng, đó là Richard Neville-Bá tước của Warwick, một trong những Đại quý tộc có ảnh hưởng nhất và có thể còn giàu có hơn cả chính bản thân York. York được bầu làm Hộ quốc công nhiếp chính của Vương quốc Anh trong năm 1454. Hoàng hậu Margaret đã bị loại trừ hoàn toàn khỏi triều đình và Edmund Beaufort đã bị giam giữ trong Tháp London, trong khi nhiều người ủng hộ phe York cho lan truyền tin đồn rằng người con của vua thực chất chính là con của Beaufort. Ngoài ra, trong những tháng mà York làm nhiếp chính ông đã giải quyết được vấn đề bội chi của chính phủ.
Thời kỳ Chiến tranh Hoa Hồng ( sẽ được dịch chi tiết ở phần sau)
Sau một loạt các trận chiến khốc liệt giữa hai nhà Lancaster và York, Henry đã bị lật đổ và bị cầm tù vào ngày 04 tháng ba 1461 bởi người anh em họ của mình, Edward York, người đã trở thành vua của nước Anh với tên hiệu Edward IV. Vào thời điểm này Henry thường xuyên trở nên điên rồ và dường như ông đã cười và ca hát trong khi trận St Albans lần thứ hai nổ ra để giải cứu cho chính ông. Nhưng Edward vẫn có thể chiếm ngôi vua nước Anh, mặc dù ông này không thể bắt tù binh Henry VI và bà hoàng hậu của ông ta, những người này đã chạy trốn đến Scotland. Trong thời gian đầu tiên của triều đại Edward IV, phe Lancaster vẫn tiếp tục kháng cự chủ yếu là dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hậu Margaret và những quý tộc vẫn trung thành với bà ở các quận phía Bắc của nước Anh và xứ Wales. Henry VI-người đã được che chở một cách an toàn bởi các đồng minh của nhà Lancaster ở Scotland, Northumberland và Yorkshire, nhưng cuối cùng ông vẫn bị bắt bởi vua Edward trong năm 1465 và sau đó bị giam giữ tại ngục Tháp London.
Quay trở lại ngai vàng 
Hoàng hậu Margaret, đang sống lưu vong ở Scotland và sau đó là ở Pháp, quyết tâm giành lại ngai vàng thay mặt chồng và con trai của bà. Cô độc một mình, bà không thể làm gì nhiều. Tuy nhiên, cuối cùng Edward IV đã mất đi hai trong số những người ủng hộ chính của ông: đó là Richard Neville-Bá tước Warwick và em trai của ông (Edward IV )-George, Công tước xứ Clarence. Theo sự xúi giục của vua Louis XI của nước Pháp, họ đã thành lập một liên minh bí mật với Margaret. Sau khi cho con gái của mình kết hôn với Edward xứ Westminster-con trai Henry và Margaret, Bá tước Warwick quay trở lại Anh và đánh bại phe York trong một trận chiến và phục hồi ngôi vị của Henry VI trong ngày 30 tháng 10 năm 1470 (Richard Neville có biệt danh là Gã buôn vua vì ông ta chán dựng vua nhà York lại dựng vua nhà Lancaster). Tuy nhiên, vào thời gian này thực chất Bá tước Warwick và Công tước Clarence thực sự là những nhà cai trị nước Anh nhân danh Henry VI.
Thời gian Henry trở lại ngai vàng kéo dài không đến sáu tháng. Warwick đã sớm làm cho mình lâm vào cảnh khó khăn khi tuyên chiến với xứ Burgundy ( một phần của nước Pháp nhưng vào thời gian này về mặt quân sự xứ này còn áp đảo cả chính quốc của nó ), bởi vì người đứng đầu xứ này đã cho Edward IV những hỗ trợ cần thiết để giành lại ngai vàng của ông ta bằng vũ lực. Ông ta ( Edward IV ) đã giành một chiến thắng quyết định ở trận Tewkesbury ngày 04 tháng 5 năm 1471, Edward của Westminster với danh hiệu Hoàng tử xứ Wales-con trai của Henry VI đã bị giết chết sau trận đánh này.
Ngồi tù và qua đời 
Henry đã bị giam giữ trong ngục Tháp London, nơi ông qua trong đêm ngày 21/22 tháng 5 năm 1471. Khả năng là đối thủ của Henry đã cố giữ cho ông ta còn sống đến thời điểm này và ra tay hạ sát Edward-người con trai của Henry, người vốn là một thủ lãnh ghê gớm hơn rất nhiều của phe Lancasters. Theo quấn sách sử Historie of the Arrivall of Edward IV, một biên niên sử chính thức thiên về Edward VI, thì Henry qua đời vì u sầu khi nghe tin tức về trận Tewkesbury và cái chết của con trai của ông. Tuy nhiên, sau đó có nhiều nghi ngờ rằng Edward VI-người tái đăng quang vào buổi sáng sau cái chết của Henry VI, trong thực tế đã ra lệnh giết chết ông ta.
Ban đầu vua Henry VI được chôn cất tại Abbey Chertsey, sau đó trong năm 1485 xác của ông được chuyển đến nhà nguyện St George-Lâu đài Windsor.

John Lancaster, Công tước thứ nhất của Bedford

 John Lancaster, Công tước thứ nhất của Bedford, (sinh từ ngày 20 tháng 6 năm 1389 – mất ngày 14 tháng 9 năm 1435), còn được gọi là John Plantagenet, là con trai thứ ba còn sống sót của vua Henry IV của Anh quốc với Hoàng Hậu Maria de Bohun và làm phó vương của Anh tại Pháp cho cháu trai của ông -vua Henry VI.Tiểu sử vắn tắtJohn được phong là Bá tước vùng Kendal, Bá tước vùng Richmond và Công tước xứ Bedford trong năm 1414 bởi anh trai của ông-vua Henry V. Ngày 14 tháng Sáu năm 1423, tại Troyes ông đã kết hôn với Anne-con gái của John the Fearless ( công tước xứ Bugundy-Pháp ). Sau cái chết của Anne trong khi sinh nở Paris năm 1432, ông đã kết hôn với Jacquetta Luxembourg. Con ngoài giá thú, ông có một người con gái tên là Mary Plantagenet, bà này đã kết hôn với Pierre de Montferrand (mất 1454).Khi vua Henry V qua đời vào năm 1422, Công tước Bedford ganh đua quyết liệt với người em trai của ông-Humphrey-Công tước xứ Gloucester trong việc nắm quyền kiểm soát Vương quốc Anh. Bedford đã được chính thức phong làm quan Nhiếp chính nhưng ông lại chỉ tập trung vào các trận chiến đang diễn ra ở nước Pháp, trong thời gian ông vắng mặt Công tước Gloucester đã trở thành Hộ quốc công của Anh quốc. Bedford đã nhiều lần đánh bại quân Pháp ở các trận Cravant, Vernuil, Herrings… và giai đoạn đầu của cuộc bao vây thành phố Orléans cho đến khi có sự xuất hiện của Joan Arc ở phía quân Pháp. Vào năm 1431, Bedford đã cố gắng bắt giữ và hành hình Joan Arc tại Rouen sau đó ông dàn xếp cho một lễ đăng quang của vua Henry VI vốn đang là một đứa bé vị thành niên tại Paris. Mặc dù đã hành hình Joan Arc nhưng Bedford vẫn không thể xoay chuyển được chiến cuộc ngày càng trở nên bất lợi cho người Anh, đặc biệt Anne-vợ ông thì Liên minh giữa Anh quốc và xứ Bugundy đã xụp đổ, lúc này không có sự hỗ trợ của quân đội Bugundy, người Anh không thể kháng cự nổi trước sức phản công mạnh mẽ của người Pháp và phải liên tục tháo lui và bại trận bất chấp những nỗ lực của ông ta. John đã chết trong khi Nghị viện của vùng Arras đang được tổ chức tại lâu đài Joyeux Repos của ông ở Rouen và được chôn cất tại Nhà thờ lớn Rouen Cathedral. Ông không để lại một người thừa kế hợp pháp nào.

John Talbot, Bá tước đầu tiên của Shrewsbury

John Talbot, Bá tước đầu tiên của Shrewsbury và cũng làBá tước đầu tiên của Waterford (sinh khoảng năm 1384/1387 tại Blakemere, Shropshire – mất ngày 17 tháng 7 năm 1453 tại Castillon-Pháp), ông còn được gọi là ” Bố già Talbot” và ông cũng là một chỉ huy quân sự quan trọng bậc nhất của người Anh trong cuộc Chiến tranh Trăm năm, ông dường như là người duy nhất nắm giữ chức vụ Nguyên soái của nhà Lancaster ở Pháp.
Tóm tắt tiểu sử 
Ông là hậu duệ của Richard Talbot, một người thuê đất của Walter Giffardtại Woburn và Battledsen trong vùng Bedfordshiretừ năm 1086. Gia đình Talbot là chư hầu phong kiến của nhà Giffard ở vùng Normandy. Hugh Talbot-con trai của ông ta (Richard Talbot)được cấp vùng Beaubec Abbey và nó được xác nhận bởi con trai của ông-Richard Talbot ( trùng tên với Talbot ông) vào năm 1153. Richard Talbot cháu ( chết năm 1175) được kê tên trong Honour of Giffard Giffard ở Buckinghamshiretrong năm 1166. Ông này cũng có một gia sản ở Linton tại Herefordshire và giao choGilbert Talbot-con trai của ông (mất 1231) thừa kế trong năm 1190.Một ông Gilbert Talbot (mất 1274) -cháu trai của ông Gilbert Talbot được vừa nói tới đã kết hôn với Gwenlynn Mechyll. SirRichard Talbot-con trai của họ đã nắm giữ thái ấp Eccleswall Herefordshire nhân danh Sarah-vợ của ông ta-người vốn là em gái của William de Beauchamp. Năm 1331 con trai của Richard Gilbert Talbot (1276-1346) đã được triệu tập vào Nghị viện Anh, hành động này được coi là bằng chứng về pháp lý của tước hiệu nam tước của ông ta. Con trai của Richard Gilbert kết hôn với Elizabeth Comyn và nhận từ vợ quyền thừa kế lâu đài Goodrich Castle ở Herefordshire.
John Talbot là con trai thứ hai của Richard Talbot, Nam tước đời thứ 4 nhà Talbot với Ankaret le Strange-Nữ bá tước thứ đời 7 của nhà Strange ở vùng Blackmere.Richard-em trai của ông( đặt tên giống ông bố) trở thành Tổng-Giám-Mục của thành phố Dublin và kiêm Lord Chancellor ( tương đương chức vụ tể tướng? ) của Ireland và một trong những chính khách có ảnh hưởng nhất ở Ailen vào thời gian của ông.
Cha ông qua đời năm 1396 khi Talbot mới chỉ lên chín tuổi, do đó Thomas Neville-Lord của Furnival đãtrở thành người chồng thứ hai của Ankaret, ông này đã là người có rất nhiều ảnh hưởng lớn lao trong cuộc sống thủa thiếu thời của JohnTalbot. Cuộc hôn nhân cũng tạo cơ hội mang lại một danh hiệu cho người con trai thứ hai của nhà Talbot theo ông bố dượng cũng qua ngả hôn nhân vì Neville không có con trai ( Talbot đã cưới Maud Neville-con gái và cũng là người thừa kế của Thomas Neville).
Khởi đầu lập nghiệp.
Từ 1404 đến 1413, ông phục vụ cho Gilbert-người anh trai cao tuổi của mình trong cuộc chiến ở xứ Wales hay còn gọi là cuộc nổi loạn của Owain Glyndŵr. Sau đó, trong vòng 5 năm sau đó kể từ tháng 2 năm 1414, ông giữ chức vụLord Lieutenant ở Ailen, nơi ông đã tham gia một số trận chiến. Ông đã phải có một loạt các tranh chấp với Bá tước Ormonde và Lord Grey of Ruthin về việc thừa kế trong danh dự vùng Wexford mà ông đang nắm giữ. Những khiếu nại đã được tiến hành để chống lại ông tại chính phủIreland và bạo lực đã nổ ra ở Herefordshire. Những tranh chấp của ông với Bá tước Ormonde đã leo thang thành một mối hận thù lâu dài giữa Lord Shrewsbury ( Talbot) và Tổng-giám-mục Dublin-người anh trai của ông ở một phe với nhà Butler và đồng minh của họ là nhà Berkeley. Sự thù hận đã đạt đến đỉnh cao trong những năm 1440, khi cả hai phe đều bị khiển trách bởi Hội đồng cơ mật bởi tranh chấp này đã làm suy yếu sự thống trị của người Anh ở Ai-len. Cuối cùng sự hòa giải đã đạt được bởi cuộc hôn nhân của con trai của Lord Shrewsbury và con gái-cũng là người thừa kế của Ormonde.
Phục vụ tại Pháp
Cho đến lúc đó chức vụ chính của John Talbot dường như là một Marcher Lord ( một nhà quý tộc tài năng và tin cậy được nhà vua Anh cử đi trấn giữ vùng biên ải, thường là vùng biên giới Anh-xứ Wales, một vùng cực kỳ hỗn tạp ). Năm 1427, ông đã lại một lần nữa đến nước Pháp, nơi ông đã chiến đấu cùng với Công tước Bedford và Bá tước Warwick tại các vùng khác nhau như Maine và và cuộc bao vây thành phố Orléans. Ông đã chiến đấu tại trận Patay vào ngày 18 tháng 6 năm 1429, tại trận này ông đã bị bắt làm tù binh và bị giam giữ trong bốn năm.
Ông được phóng thích để đổi lấy với Jean Poton de Xaintrailles-một viên thống chế của Pháp và trở về Anh vào tháng 5 năm 1433. Ông ở lại đó cho đến khi trở lại Pháp cùng với Bá tước Somerset.
Talbot là một người lính táo bạo và tích cực, có lẽ là một viên Đại úy táo bạo nhất của thời đại đó. Ông và binh lính của ông luôn luôn sẵn sàng để chiếm lại một thị trấn và giáng trả mọi bước tiến của quân Pháp. Phương châm của ông là tổ chức các cuộc tấn công nhanh chóng và tích cực. Ông được khen thưởng bằng cách được bổ nhiệm làm thống đốc và Trung tướng( lieutenant general ) ở Pháp và Normandy vào năm 1434, Công tước Bedford đã phong cho ông làm Bá tước của Clermont ( một vùng đất của Pháp ).
Tháng 1 năm 1436, ông đã dẫn đầu một lực lượng nhỏ bao vây Kyriell và đánh bại cả La Hire cùng với Xaintrailles tại Ry ởgần Rouen. Năm sau đó tại Crotoy sau khi tiến hành một cuộc đột kích táo bạo vào Somme ông đã làm cho một lực lượngquân Burgundy rất đông ( lúc này người Bugundy lại đã về phe người Pháp )phải tháo chạy tán loạn. Trong tháng Mười Hainăm 1439, sau một cuộc tấn công tạt sườn bất ngờ vào doanh trại của quân Pháp, ông đã đánh tan một đội quân tinh nhuệ đông khoảng 6000 người của Nguyên soái Richemont và năm sau đó ông tái chiếm thành phố Harfleur. Năm 1441 ông truy kích quân Pháp bốn lần tới tận sông Seine và sông Oise với một nỗ lực vô ích để ép họ phải tham chiến.
Lord của Shrewsbury
Khoảng tháng 2 năm 1442, Talbot trở lại Anh để yêu cầu tiếp viện khẩn cấp cho Công tước xứ York lúc này đang trấn thủ tại vùng Normandy. Trong tháng 3 theo mệnh lệnh của nhà vua tất cả các con tàu đã được trưng dụng cho mục đích này ( tăng viện) và bản thân Talbot phải đứng ra chịu trách nhiệm tập hợp các con tàu từ các cảng London và Sandwich.
Trong Whit Sunday-Chủ Nhật Trắng ngày 20 tháng 5, Henry VI trao tặng ông danh hiệu Comes Salopie, dịch là Bá tước của Shropshire nhưng bất chấp điều này, ông thường được biết đến như là Bá tước của Shrewsbury. Chỉ năm ngày sau đó để đáp ứng yêu cầu tái tăng viện Talbot đã quay trở lại Pháp vào tháng Sáu và cập cảng tại Harfleur. Trong thời gian này ông đã được gặp mặt Eleanor-người con gái đã 6 tuổi của ông lần đầu tiên và gần như chắc chắn là làm cho Nữ Bá tước Margaret ( vợ thứ hai của ông ta) mang thai một đứa trẻ khác.
Trong tháng 6 năm 1443, Talbot lại quay trở lại nước Anh để yêu cầu quân tiếp viện thay mặt cho Công tước York, nhưng vào thời gian này thay vì gửi sang Pháp một đội quân nằm dưới sự chỉ huy của Edmund Beaufort-em rể của Shrewsbury, Nghị viện Anh đã từ chối. Sir Christoper- người con trai của ông đã ở lại nước Anh và ngay sau đó anh này đã bị ở tuổi 23 bằng một ngọn thương và bởi một trong những người của mình-Griffin Vachan Treflidian vào ngày 10 tháng 8 tại Cawce, quận Salop.
Dũng sỹ Achilles của người Anh
Năm 1445ông được bổ nhiệm bởi vua Henry VI ( trên danh nghĩa là vua của nước Pháp) làm Nguyên soái tại Pháp. Bị bắt tại Rouen năm 1449 ông đã hứa sẽ không bao giờ mặc giáp để chống lại nhà vua Pháp một lần nữa và ông đã thực hiệnđúng với lời của mình. Tuy nhiên, mặc dù đã không trực tiếp tham gia chiến đấu, ông vẫn tiếp tục chỉ huy lực lượng quânAnh để chống lại người Pháp. Ông đã bị đánh bại và giết chết trong trận Castillon gần Bordeauxvào năm 1453, đây là một trận đánh có hiệu lực kết thúc sự thống trị của người Anh tại vùng lãnh thổ Aquitaine-một trong những nguyên nhân chính của cuộc chiến tranh trăm năm. Trái tim của ông được chôn trong ô cửa của nhà thờ St Alkmund Whitchurch, Shropshire.
Mặc dù Talbot thường được nhớ đến như là một chiến binh vĩ đại, một số người đã đặt ra những nghi ngờ về tài cầm quâncủa ông. Đặc biệt là họ cho rằng các cuộc tấn côngmang tính dại dột. Tốc độ và sự dữ dội là những yếu tố quan trọng để tạo ra thành công và chiến thắng trong các cuộc chiến thời trung cổ và không những vậy Talbot còn đòi hỏi phải có tính bất ngờ. Hơn nữa, ông thường ở vị trí ép đối thủ vàomột trận chiến mà họ không sẵn sàng. Trong thất bại của ông tại trậnPatay năm 1429, ông đã được khuyên bởi Sir John Fastolf-người sau đó đã bị đổ lỗi cho thất bại, rằng không nên tham chiến, nhưng lúc đó người Pháp đang được truyền cảm hứng từ Joan Arc và họ đã cho thấy một tinh thần chiến đấuchưa từng có – họthường tiếp cận một vị trí của quân Anh với một sự cẩn thận trọng cao đó.
 
John Fastolf
 
Sir John Fastolf ( sinh trong khoảng năm 1378 – chết ngày 5 tháng 11 năm 1459) là một hiệp sĩ Anh trong Chiến tranh Trăm năm, người đã có một danh tiếng kéo dài hơn trong thực tế bởi đã trở thành nguyên mẫu của Sir John Falstaff trong một vở kịch của Shakespeare. Tuy nhiên, nhiều sử gia cho rằng ông cũng rất xứng đáng để trở nên nổi tiếng nhờ chính khả năng của bản thân, không chỉ trong tư cách là một người lính mà còn như là một người bảo trợ cho văn học, một tác giả viết về chiến lược chiến thuật quân sự và có lẽ còn gần như là một nhà tư bản công nghiệp ở thời đầu.Thủa thiếu thời và những năm đầu tiên của sự nghiệpÔng là con trai của một quý ông ở vùng Norfolk, Sir John Fastolf Caister-on-Sea, và được cho là đã làm Hộ sỹ ( Hiệp sỹ học nghề ) từ Thomas Mowbray-Công tước xứ Norfolk từ khoảng trước năm 1398. Ông phục vụ cho Bá tước Thomas Lancaster ở Ai-len trong khoảng thời gian những năm 1405 và 1406. Ông tuyên bố đã đến được đất thánh Giê-ru-sa-lem khi còn là một cậu bé như vậy thì ông phải là thành viên của đoàn tùy tùng của Henry Bolingbroke, sau đó là của Henry IV của Anh quốc.Hôn nhân
Năm 1408, ông kết hôn với Millicent, góa phụ của Sir Stephen Scrope Castle Combe ở Wiltshire. Cuộc hôn nhân này đã mang lại cho ông rất nhiều của cải.
Sự nghiệp của Fastolf ở Pháp
Ông phục vụ trong xứ Gascony năm 1413 và ở miền Bắc nước Pháp từ 1415 đến 1439, nơi ông phục vụ dưới Henry V và anh em trai của nhà vua, Công tước của Bedford. Ông đã tham gia vào cuộc bao vây thành phố Harfleur năm 1415 nhưng đã bị ốm nặng và phải quay về nhà và do đó bỏ lỡ mất trận Agincourt, mặc dù ông đã quay trở lại để bảo vệ Harfleur chống lại các nỗ lực tái chiếm thành phố của người Pháp trong mùa đông năm 1415-1416. Ông là chỉ huy đội cận vệ riêng của Bedford và là Thống đốc của các tỉnh Maine và Anjou và trong tháng 2 năm 1426 ông đã lập ra một đại đội Hiệp sỹ-Knight Companion và là thành viên của Most Noble Order of the Garter. Fastolf cũng được bổ nhiệm làm hiệp sĩ của Order of Golden Fleece ( Hiệp sỹ Lông cừu vàng? ) nhưng vinh dự này đã bị thu hồi vào năm 1429. Nhưng cũng trong năm đó, ông đã được bổ nhiệm thay Sir John Talbot, Bá tước thứ nhất của Shrewsbury-cũng là chỉ huy trực tiếp của ông và ông cũng trở thành một chủ đề gây nhiều tranh cãi sau khi kết thúc cuộc bao vây thành phố Orleans ( vấn đề công-tội ). Trong thời gian ở Pháp ông trở thành Nam tước của Sillé-le-Guillaume và do đó trở thành thành viên của giới quí tộc cao cấp, một vị trí mà ông không bao giờ có thể đạt được khi còn ở quê nhà.
Thành công và thất bại
Sau một chuyến quay trở lại Anh để thăm nhà trong năm 1428, ông quay trở lại với cuộc chiến và vào ngày 12 tháng Hai năm 1429 khi phụ trách hộ tống một đoàn xe tải chở đồ tiếp vận cho quân Anh đang bao vây Orléans ông đã đánh bại liên quân Pháp-Scotland trong trận Herrings ( Cá trích). Trong cuốn tiểu sử của ông
The Real Falstaff (xuất bản năm 2010), Stephen Cooper ( tác giả ) đã cố tái hiện lại vị trí của trận chiến này. Ngày 18 tháng 6 cùng năm, một đạo quân Anh lớn dưới sự chỉ huy của các chỉ huy Fastolf và Talbot đã phải hứng chịu một thất bại nghiêm trọng tại Patay. Theo nhà sử học Pháp Jehan de Waurin-người sống tại thời đó thì thảm họa bắt nguồn từ sự dại dột của Talbot và Fastolf chỉ chạy trốn khi sự kháng cự là vô vọng. Một số tài liệu khác ghi chép rằng ông ta đã tỏ ra hèn nhát và sự thật thì John-Công tước xứ Bedford lần đầu tiên đã tước danh hiệu Order of the Gater của ông, mặc dù sau quá trình điều tra ông đã được phục hồi danh dự.Fastolf tiếp tục phục vụ chiến đấu ở Pháp và chiếm được sự tin cậy bởi Bedford và Richard York. Cuối cùng ông chỉ trở về nhà trong năm 1440 khi đã qua tuổi sáu mươi. Tuy nhiên, ông tiếp tục mắc vào những vụ bê bối, và trong cuộc nổi loạn của Cade trong 1451, ông bị buộc tội nổi loạn-đây là nguyên nhân gây ra những thảm họa cho người Anh qua việc phải “giảm bớt quân ở Normandy”.
Đối đầu với Joan Arc
Trong cuộc bao vây thành phố Orleans năm 1429, người Pháp đã có ý định từ bỏ thành phố sau khi họ nghe tin đồn (trong đó có những tin đồn đúng sự thật) rằng John Fastolf đang đến với một lực lượng lớn quân Anh để tăng cường cho quân bao vây. Jean Dunois (còn được gọi là “Con hoang của Orleans”) đã quyết định không nói điều này với Joan và để đẩy nàng ra khỏi vị trí chỉ huy trọng yếu nhưng đã nhận được câu trả lờinổi tiếng của nàng.”
Bastard Bastard, nhân danh Chúa tôi ra lệnh cho ngài biết rằng ngay sau khi ngài nghe được tin Fastolf xuất hiện, ngài sẽphải cho tôi biết. Nếu hắn ta đi qua được mà tôi không biết thì tôi thề với ngài rằng tôi sẽ cắt cái đầu của ngài xuống “.Các chỉ huy Pháp đã thừa nhận rằng nàng nói đúng và nàng ( đương nhiên là cùng quân đội Pháp) đã thành công trong việc đánh bại cuộc bao vây này.Joan Arc
dẫn đầu quân Pháp tiến đến các thị trấn nằm trong thung lũng sông Loire và triển khai bao vây thành phốJargeau trong ngày 12 tháng 6 năm 1429, mặc dù Fastolf đã cố gắng tập trung binh lính và tăng cường phòng thủ bằng cả hỏa khí sử dụng thuốc súng. Sau kết quả của một chuỗi các thất bại bất ngờ, Talbot và Fastolf đã chọn giải pháp đối đầu với quân Pháp trong một trận chiến để chấm dứt các thành công của họ ( quân Pháp ) việc này đã dẫn đến trận chiến Patay nơi mà hầu như Fastolf chỉ chạy thoát thân trong gang tấc (ông đã tháo chạy tới Paris) và Talbot đã bị bắt làm tù binh (Joan đã dẫn đầu đội quân Pháp này và đã có mặt trong trận chiến mặc dù nàng đóng vai trò như thế nào trong đó thì còn đang là điều gây nhiều tranh cãi ).
Trong những năm 1950 nhà sử học McFarlane thuộc đại học Oxford đã phát hiện ra rằng Fastolf có một số tiền lớn ở Phápvà ông đã cố gắng để chuyển chúng trở lại nước Anh và đầu tư vào bất động sản. Vào thời điểm đó danh tiếng của ông bị lẫn lộn giữa cái tốt và cái xấu. Một người đầy tớ đã viết về ông rằng: ” ông là một con người tàn bạo, không bao giờ biếtthương hại và có lòng thương xót” và nhận xét này đã trở thành nổi tiếng bởi nó được ghi trong bức thư của Paston. Bên cạnh việc sở hữu các tài sản của vợ, ông còn có các bất động sản lớn tại Norfolk và Suffolk, một ngôi nhà tại Southwark ở London và ông cũng sở hữu the Boar’s Head Inn. Địa điểm tòa nhà của ông ở Southwark được biết đến như là Fastolf Place hoặc Palace đã được khai quật vào những năm 1990 nhưng người ta chỉ còn tìm thấy một vài phần của lớp đá ốp.Từ
năm 1435 mặc dù đã nghỉ hưu ông vẫn viết rất nhiều bức thư khuyến cáo chính phủ Anh thời đó về chiến lược và chính sách để theo đuổi cuộc chiến ở Pháp. Chúng được lưu giữbởi ngài William Worcester-thư ký của ông và cuối cùng được xuất bản bởi giáo sư Joseph Stevenson trong thế kỷ XIX. Ông cũng là trung tâm của những cuộc hội đàm văn học quan trọngmà nó đã tạo ra bản thảo của ông bằng tiếng Pháp và tiếng Anh.N
hững năm cuối đời ông gặp nhiều rắc rối bởi các vụ kiện tụng, tranh chấp liên quan đến bất động sản của mình ở vùngĐông Anglian, lúc này ông được sự giúp đỡ của cả Paston và Sir William Yelverton và phe chủ chiến tại triều đình Anh quốc, các mâu thuẫn giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa cuối cùng đã dẫn đến cuộc chiến tranh được gọi là nội chiến Hoa Hồng. Paston và Yelverton lại là hai trong số các nhân vật chính trong các trận chiến vì đống tài sản của ông sau khi ông qua đời. Fastolf có xu hướng thông cảm với Richard Plantagenet-Công tước đời thứ 3 của xứ York, người mà ông đã được biết đến và phục vụ tại Pháp, nhưng sẽ là một sự cường điệu khi nói rằng ông là ‘một Yorkist-người của phe York.’ Ông là một người goá vợ trong suốt thập kỷ cuối cùng của cuộc đời mình, khi ông sống tại Southwark và Caister và ông không có người thừa kế. Dường như ông là một nhân vật sống cô đơn và đã cố gắng để phác thảo kế hoạch thành lập một trường Cao đẳngChantry ở Lâu đài Caister Castle.
Chết và chôn cất
Ông qua đời tại Caister trong tháng 11 năm 1459. Ông được chôn cất bên cạnh vợ mình-bà Millicent ở tu viện St Benet’s Abbey trong một lối đi đặc biệt xây dựng ở phía Nam của nhà thờ tu viện St Benet. Trong thập niên cuối của cuộc đời ông có một đồng minh chính trị gần gũi và cũng là một người bạn-Paston John, một chủ đất Norfolk, người trở nên nổi tiếng qua các bức thư của nhà Paston, đó là một bộ sưu tập gồm hơn 1.000 hiện vật tương ứng giữa các thành viên của gia đình Paston. Di chúc trên giường bệnh của ông đặt John Paston vào vị trí như là một chấp hành viên và là người thừa kế của ông đã dẫn đến những vụ kiện tụng kéo dài nhiều năm. Các tàn tích của St Benet’s Abbey mang một vẻ đẹp ma mị nhưng người ta vẫn có thể đến tham quan cũng như những tàn tích của lâu đài Caister Castle. Lâu đài đã không bao giờ trở thành một trường Cao đẳng Chantry như Fastolf dự định. Thay vào đó nó được chuyển giao cho gia đình Paston. Phần lớn tài sản của Sir John qua bà Magdalen đã được chuyển đến trường Cao đẳng Oxford nơi ông được nhớ đến như một ân nhân .

Richard York-Công tước thứ 3 của York

Richard-Công tước thứ 3 của York, Bá tước thứ 6 của March, Bá tước thứ 4 của Cambridge và Bá tước thứ 7 của Ulster, thông thường ông được gọi là Richard York (sinh ngày 21 tháng 9 năm 1411 – chết ngày 30 tháng 12 năm 1460) là một đại quý tộc hàng đầu của Anh quốc và cũng là chắt của vua Edward III. Ông thừa kế những bất động sản lớn và phục vụ trong nhiều phần khác nhau của lãnh thổ Anh tại Pháp vào cuối của cuộc Chiến tranh Trăm năm và cuối cùng tại Anh ông đã trở thành Hộ quốc công trong khi Henry VI bị điên. Xung đột giữa ông với Margaret của Anjou-vợ của Henry và các thành viên khác trong triều đình của Henry là một yếu tố hàng đầu trong các biến động chính trị của nước Anh vào giữa thế kỷ mười lăm và cũng là nguyên nhân chính của cuộc nội chiến Hoa Hồng. Cuối cùng Richard đã cố gắng để đòi ngôi vị nhưng đã được thuyết phục rằng ông sẽ chỉ trở thành vua cái chết của Henry. Trong vòng một vài tuần sau thỏa thuận này ông đã chết trong một trận chiến. Mặc dù Richard không bao giờ trở thành một nhà vua, ông là cha của Edward IV và Richard III ( những vị vua Anh thuộc nhà York và là những ông vua Anh cuối cùng thuộc giòng Plantagnet ).Cha của ông đã bị tử hình và bị tịch thu tài sản vì tội tham dự vào vụ Southampton Plot chống lại vua Henry V vào ngày 5 tháng 1415. Do đó Richard không có quyền thừa kế những vùng đất cũng như danh hiệu từ cha mình. Tuy nhiên, người chú về bên nội của ông-Edward Norwich, Công tước đời thứ 2 của York, người đã bị giết chết trong trận Agincourt ngày 25 tháng 10 năm 1415 đã không có con và Richard đã trở thành thừa kế nam gần nhất của ông ta.Sau một số do dự Henry V đã cho phép Richard kế thừa danh hiệu và các vùng đất của Công quốc xứ York. Với ít danh hiệu hơn nhưng lại nhiều bất động sản lớn hơn lãnh địa bá tước của March cũng đã rơi vào tay ông sau cái chết của người chú về đằng mẹ-Edmund Mortimer, Bá tước đời thứ 5 Earl March vào ngày 19 tháng 1 năm 1425. Lý do cho sự do dự của Henry là người ta nói rằng Edmund Mortimer đã vài lần công bố rằng ông ta có quyền đòi hỏi ngai vàng-Anh quốc cao hơn Henry IV của nước Anh-cha của Henry V và điều này rất thuận lợi cho các phe phái nổi loạn chống lại ông. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời của mình, Mortimer vẫn luôn là một người ủng hộ trung thành của Nhà Lancaster.
Richard York hoàn toàn được thừa hưởng tuyên bố đòi ngôi vua Anh từ Mortimer và Cambridge khi ông thừa kế bọn họ và ông cũng trở thành nhà Đại quý tộc giàu có và quyền lực nhất ở Anh quốc chỉ sau có nhà vua.
Tuổi thơ và giáo dục
Là một đứa trẻ mồ côi, việc quản lý các khoản thu nhập từ lãnh địa của Richard đã trở thành tài sản của Hoàng gia. Mặc dù rất nhiều vùng đất của người chú ở York đã được cấp vĩnh viễn cho ông ta và những người thừa kế nam của ông, những diện tích đất còn lại tập trung ở Lincolnshire, Northamptonshire, Yorkshire, Wiltshire và Gloucestershire là rất đáng kể. Do đó các giám hộ của cậu bé mồ côi coi đó là một món quà có giá trị cao từ Hoàng gia vào tháng Mười năm 1417 những lãnh địa này đã được cấp cho Ralph Neville-Bá tước đầu tiên của Westmoreland, còn cậu bé Richard sống dưới sự giám hộ của Sir Robert Waterton. Ralph Neville là cha của một gia đình rất lớn ( hai vợ, 23 đứa trẻ, 20 người trong số họ có thể trưởng thành ) và có nhiều con gái cần lấy chồng. Và có sự sắp xếp từ trước, vào năm 1424 ông này tổ chức đính hôn Richard lúc này mới 13 tuổi Cecily Neville với-con gái của mình mới 9 tuổi.
Trong tháng 10 năm 1425 khi Ralph Neville qua đời ông, để lại quyền giám hộ York cho bà vợ góa của ông, Joan Beaufort. Lúc này công việc giám hộ thậm chí còn thu được nhiều giá trị hơn nữa bởi vì Richard đã lại được thừa kế bất động sản của Mortimer sau cái chết của Bá tước March. Những thái ấp này tập trung ở vùng xứ Wales và trong biên giới Anh-xứ Wales ở xung quanh Ludlow.
Có rất ít tài liệu ghi lại thời thơ ấu của Richard. Ngày 19 tháng Năm năm 1426 ông được phong tước hiệp sĩ tại Leicester bởi John Lancaster-Công tước đầu tiên của Bedford, em trai của vua Henry V. Trong tháng 10 năm 1429 (hoặc có thể sớm hơn) cuộc hôn nhân của ông với Cecily Neville đã được cử hành. Ngày 6 tháng 11 ông có mặt tại lễ đăng quang chính thức của Henry VI tại Westminster Abbey. Sau đó ông theo Henry sang Pháp để có mặt tại lễ đăng quang của ông này như là vua của nước Pháp tại Notre Dame trong ngày 16 tháng 12 năm 1431. Cuối cùng, ngày 12 tháng năm 1432 ông đủ tuổi trưởng thành và được giao toàn quyền kiểm soát các bất động sản của mình.
Giai đoạn ở Pháp năm 1436-1439
Trong tháng 5 năm 1436, một vài tháng sau cái chết của Bedford, York được bổ nhiệm thay thế ông kia làm Trung úy của Anh quốc tại Pháp. Cuộc chinh phục của Henry V ở Pháp không thể được duy trì mãi mãi, hoặc là Vương quốc Anh cần thiết phải chinh phục thêm các vùng lãnh thổ để đảm bảo sự lệ thuộc vĩnh viễn của người Pháp, hoặc thừa nhận sự tồn tại của các lãnh thổ này để đạt được một thỏa hiệp. Trong khi Henry VI còn nhỏ tuổi, Hội đồng nhiếp chính của ông đã lợi dụng những điểm yếu của nước Pháp và liên minh với người Burgundy để làm tăng tài sản của nước Anh, nhưng sau khi Hiệp ước Arras được ký kết ( năm 1435), người Burgundy không còn công nhận yêu cầu của vua Anh về ngôi vị của vua Pháp nữa.
Việc bổ nhiệm York là một trong một số các biện pháp ngăn chặn và cố gắng duy trì các tài sản của Anh trên đất Pháp sau cái chết của Bedford cho đến khi vua Henry VI đủ tuổi trưởng thành. Việc Paris thất thủ trước quân Pháp (đích đến ban đầu của ông) đã làm cho quân đội của ông phải chuyển tới Normandy. Cùng hợp tác với các Đại úy của Bedford, York đã thu được một số thành công đáng kể như thu hồi lại Fecamp và giữ Pays de Caux, trong khi ông cũng thiết lập được trật tự và công lý tại Công quốc Normandy. Tuy nhiên, ông không hài lòng với các điều khoản mà theo đó ông được bổ nhiệm tại Pháp, chúng làm cho ông phải lấy nhiều tiền để thanh toán tiền lương cho quân lính của mình và các chi phí khác từ bất động sản riêng của chính mình. Thời hạn ở Pháp của ông chỉ được được kéo dài vượt quá mười hai tháng so với khế ước gốc và ông trở lại Anh vào tháng 11 năm 1439. Mặc dù có vị trí như là một trong những quý tộc hàng đầu của vương quốc, ông đã không có tên trong Hội đồng cơ mật của Henry VI khi quay trở về.
Quay lại Pháp một lần nữa năm 1440-1445
Henry lại điều York sang Pháp một lần nữa vào năm 1440 sau khi một cuộc đàm phán hòa bình với người Pháp bị thất bại. Ông được tái bổ nhiệm Trung úy tại nước Pháp vào ngày 02 Tháng 7, lần này ông nhận được những quyền hạn cuối cùng đã được cấp cho Bedford trước đó. Vào năm 1437, York đã có thể tin tưởng vào sự trung thành của những người ủng hộ Bedford bao gồm cả Sir John Fastolf và Sir William Oldhall.
Tuy nhiên vào năm 1443 Henry lại bổ một chỉ huy
mới,đó chính là John Beaufort-Công tước đời thứ nhất của Somerset, người phụ trách một đội quân gồm 8.000 binh sỹ, ban đầu đội quân này được dành để giải vây cho xứ Gascony. Đội quân này đã hút hết nhân lực và các nguồn lực khác mà York rất cần tại thời điểm đó, khi ông đang chiến đấu quyết liệt để giữ bằng được biên giới của vùng Normandy. Không chỉ có vậy, điều khoản trong việc bổ nhiệm Somerset có thể đã gây cho York cảm giác rằng vai trò của ông như là một vị Phó vương rất hiệu quả tại toàn bộ lãnh địa của nhà Lancaster tại Pháp đã giảm xuống chỉ còn là thống đốc của vùng Normandy. Quân đội của Somerset đã không đạt được một thắng lợi nào và cuối cùng phải quay trở về Normandy nơi mà ông này lăn đùng ra chết. Điều này có thể là sự khởi đầu của lòng thù hận mà York đã nuôi dưỡng với nhà Beaufort mà sau này nó đã trở thành một trong những nguyên nhân của cuộc nội chiến.
Thái độ của ông là phản đối kịch liệt việc Hội đồng cơ mật đầu hàng và giao nộp vùng Maine để đổi lấy một phần việc mở rộng thỏa thuận ngừng bắn với người Pháp và một cô dâu Pháp cho Henry, đã làm cho ông bị đẩy đi làm Phó vương ở Ireland ngày 30 Tháng 7. Trên một khía cạnh nào đó đây là một bổ nhiệm hợp lý vì Richard đang nắm danh hiệu Bá tước Ulster và có những bất động sản đáng kể ở Ireland, nhưng đây cũng là một cách thuận tiện loại bỏ ông ta khỏi chính trị ở cả Anh và Pháp. Thời hạn làm việc của của ông là mười năm, đây là một quyết định nhằm gạt ông ta ra khỏi triều đình Anh trong thời gian đó.
Những vấn đề trong nước giữ ông ở lại Anh cho đến tháng 6 năm 1449, nhưng cuối cùng ông đã lên đường cùng với Cecily (người đã mang thai vào thời điểm đó) và một đội tùy tùng đông khoảng 600 người. Điều này cho thấy ông đã dự kiến lưu trú ở lại đó một thời gian. Tuy nhiên, với tuyên bố thiếu tiền để trang trải cho các tài sản của mình ở Anh, York đã quyết định trở về Anh. Tình trạng tài chính của ông có thể thực sự có vấn đề, kể từ giữa những năm 1440 ông đã nợ Hoàng gia gần 40.000 £ và thu nhập từ các bất động sản của ông đã giảm.
Lãnh đạo phe đối lập năm 1450-1452
Trong năm 1450 việc bị bại trận liên tiếp trong mười năm trước đó đã tạo nên tình trạng bất ổn chính trị nghiêm trọng tại Anh. Vào tháng Giêng, Adam Moleyns-Thành viên của Hội đồng Cơ mật và Đức-Giám-mục của Chichester đã bị hành hình bởi đám đông ( theo kiểu Lynch ). Cũng trong tháng này ủy viên trưởng của Hội đồng cơ mật của nhà vua, William de la Pole-Công tước thứ nhất của Suffolk, đã bị ám sát trên đường đi lưu vong. Hạ viện yêu cầu nhà vua phải trả lại các khoản tài trợ cho đất đai và tiền bạc mà ông đã chi tiêu vào những mục mà ông yêu thích.
Trong tháng sáu, tại các hạt Kent và Suss.e.x đã dấy lên một cuộc nổi dậy. Dưới sự lãnh đạo của Jack Cade (lấy tên Mortimer), họ nắm quyền kiểm soát của London và giết chết John Fiennes, Nam tước đầu tiên của Saye và là quan Trưởng Ngân khố Tối cao của nước Anh. Trong tháng 8 cùng năm, các thị trấn cuối cùng được nắm giữ tại Normandy đã rơi vào tay người Pháp và những dòng người tị nạn đã làm ngập lụt nước Anh.
Ngày 07 tháng Chín, York đổ bộ xuống tại Beaumaris. Phải lẩn tránh một nỗ lực của Henry VI nhằm để chặn bắt ông ta và tập hợp những người ủng hộ, York đến London vào ngày 27 tháng 9. Sau một cuộc họp (và có thể có cả bạo lực) mà không đi đến một kết luận nào với nhà vua, York tiếp tục tăng cường tuyển binh cả ở vùng Đông Anglia và ở phía tây. Bạo lực ở London lại bùng lên khi Somerset trở lại Anh sau sự sụp đổ của những vùng lãnh thổ của Anh ở Normandy, nên ông này được giam vào trong ngục Tháp London cho sự an toàn của chính mình. Trong tháng 12 Nghị viện Anh bầu chọn viên thị thần của York-Sir William Oldhall làm diễn giả.Lập trường công khai của York là phải cải cách, đòi hỏi phải có một chính phủ tốt hơn và truy tố những kẻ phản bội-những người đã làm mất miền Bắc nước Pháp. Đánh giá bởi những hành động sau này của ông, người ta có thể thấy được một động cơ ẩn hơn – đó là sự hủy diệt nhằm vào Somerset vốn lúc này đã sớm được phóng thích từ tòa tháp London. Mặc dù có một thế lực to lớn, York vẫn còn thực sự thiếu một sự hỗ trợ nào đó ở bên ngoài Nghị viện và duy trì lực lượng riêng của mình.
Trong tháng 4 năm 1451, Somerset đã được phóng thích từ tòa tháp và được bổ nhiệm làm Đội trưởng ở Calais. Khi Thomas Young-một thành viên Hội đồng Cơ mật ủng hộ York, cũng là người đứng đầu vùng Bristol, đề xuất rằng York phải được công nhận là người thừa kế ngai vàng thì ông này ngay lập tức được tống vào tòa tháp ngục và Nghị viện bị giải tán. Henry VI đã bị nhắc nhở vì những chậm trễ trong cải cách, mà một số trong số đó là cách để khôi phục lại trật tự công cộng và cải thiện tài chính của Hoàng gia. Thất vọng bởi thiếu quyền lực chính trị, York đã về nghỉ hưu ở Ludlow.
Sau đó giữa York và các thân cận của nhà vua Henry VI liên tục nổ ra các tranh chấp, cuối cùng các
tranh chấp này đã nổ ra thành cuộc nội chiến Hoa hồng kéo dài 30 năm ( phe York-Hoa hồng trắng và phe Lancaster-Hoa hồng đỏ), chi tiết của cuộc nội chiến này sẽ được đưa chi tiết ở các phần sau.Bản thân Richard York trong trận St. Albans lần thứ nhất đã hạ thủ được kẻ mà mình căm gét nhất, đó là Bá tước
Somerset, sau đó ông tiến được vào London bỏ tù nhà vua Henry VI. Ông muốn xử tử Henry VI và lên làm vua nhưng nhiều thành viên của Nghị viện không đồng ý vì họ đơn giản là chỉ muốn trừ bỏ một vài cận thần bị căm ghét xung quanh nhà vua mà thôi. Phe Lancaster ra sức tập hợp và tăng cường lực lượng ở phía Bắc nước Anh với sự trợ giúp của người Scotland ( những người luôn mong người Anh phải chìm đắm trong nội chiến để khỏi quấy rầy họ)
Đối mặt với mối đe dọa tấn công từ Percys và với việc Margaret Anjou cố gắng để có được sự hỗ trợ của tân vương James III của Scotland, York, Bá tước Salisbury và Edmund-Bá tước của Rutland-con trai thứ hai York dẫn đầu một đoàn quân tiến về phía Bắc vào ngày 02 tháng 12 năm 1460. Họ đến được thành trì Sandal Castle của phe York vào ngày 21 tháng 12 và thấy rằng tình hình rất xấu và ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Lực lượng trung thành với Henry đã kiểm soát thành phố York và lâu đài Pontefract ở gần đó cũng đã nằm trong tay thù địch. Ngày 30 tháng Mười Hai, York và lực lượng của ông tiến ra từ Sandal Castle. Lý do để họ hành binh như vậy là một điều không rõ ràng, có thể họ đã bị mắc mẹo lừa của phe Lancastrian, bị phản bội, hoặc đơn giản là sự dại dột của York. Lực lượng Lancaster đông hơn đã tiêu diệt đội quân của York trong trận chiến Wakefield. York đã bị giết chết trong trận chiến này. Edmund của Rutland đã bị chặn bắt khi ông này cố gắng chạy trốn và bị chặt đầu, có thể bởi John Clifford, Nam tước de Clifford thứ 9 để trả thù cho cái chết của người cha của mình trong trận St Albans lần thứ nhất. Bá tước Salisbury chạy thoát nhưng đã bị bắt và hành hình vào đêm hôm sau.
York đã được chôn cất tại Pontefract, nhưng cái đầu lâu của ông bị phe Lancaster cho đội một chiếc vương miện bằng giấy và bêu trên một ngọn giáo rồi trưng bày trên Micklegate Bar tại York để hiển thị chiến thắng của họ. Sau đó phần xác còn lại của ông đã được chuyển đến nhà thờ St Mary và All Saints, Fotheringhay. Các con trai của ông vẫn tiếp tục cuộc chiến, họ cũng đã thu được nhiều thắng lợi, giết được nhiều kẻ thù và lên ngôi vua Anh như là Edward IV và Richard III và rồi họ cũng lại ngã gục trên chiến trường. 

Một số trận đánh tiêu biểu trong giai đoạn cuộc chiến của nhà Valois

Trận bao vây thành phố Orléans
The Siege of Orléans (1428-1429) đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc Chiến trăm năm giữa Pháp và Anh. Sự kiện này là chiến thắng quân sự lớn đầu tiên của Joan d’Arc và cũng là thành công quân sự lớn đầu tiên mà người Pháp thực hiện được sau khi bị đánh bại bởi người Anh tại Agincourt vào năm 1415. Giai đoạn đầu của cuộc bao vây này đánh dấu đỉnh cao của sức mạnh của người Anh trong những giai đoạn sau của cuộc chiến. Việc nắm giữ thành phố có ý nghĩa chiến lược và biểu tượng cho cả hai bên của cuộc xung đột. Sự đồng thuận giữa các tài liệu đương thời cho thấy vị nhiếp chính của Anh-John Plantagenet, sẽ thành công trong việc thực hiện ước mơ của Henry V là sẽ chinh phục toàn bộ nước Pháp nếu Orléans thất thủ. Trong vòng nửa năm người Anh dường như đã chiến thắng, nhưng cuộc bao vây đã sụp đổ sau chín ngày sau khi Joan. d’Arc đến OrléansCuộc bao vây Orléans nổ ra trong Chiến tranh Trăm năm, xung đột giữa các nhà cai trị của Pháp và Anh về uy quyền tối cao của nước Pháp. Cuộc xung đột đã bắt đầu trong năm 1337 sau khi Edward III của Anh đã quyết định tuyên bố với báo chí của mình để lên ngôi Pháp, yêu cầu bồi thường một phần dựa trên thừa kế cổ từ William the Conqueror và tăng cường bằng cách kế thừa từ những cuộc hôn nhân chiến lược.Sau một chiến thắng quyết định tại Agincourt vào năm 1415, người Anh đã đạt được thế thượng phong trong cuộc xung đột, chiếm phần lớn miền Bắc nước Pháp. Theo Hiệp ước Troyes năm 1420, Henry V của Anh đã trở thành nhiếp chính của Pháp. Qua hiệp ước này, Henry đã kết hôn Catherine, con gái của Charles VI-vua Pháp lúc đó và sau đó sẽ kế thừa ngôi vua của Pháp cái chết của Charles. Charles Dauphin, con trai của Charles VI và là người thừa kế ngai vàng nước Pháp trước khi hiệp ước Troyes được ký kết, sau đó ông này đã bị truất quyền thừa kế.Thành phố Orléans nằm trên sông Loire ở phía bắc miền trung nước Pháp. Trong thời gian của cuộc bao vây này, nó là thành phố cuối cùng ở vùng cực bắc vẫn trung thành với Hoàng gia Pháp. Người Anh và người Burgundy-đồng minh của họ kiểm soát phần còn lại của miền Bắc nước Pháp, bao gồm cả Paris. Orléans được định vị trên một con sông lớn làm cho nó trở thành trở ngại cuối cùng cho một chiến dịch vào miền Trung nước Pháp. Người Anh đã kiểm soát được bờ biển phía Tây Nam nước Pháp.
Phe đảng Armagnac
Là đại bản doanh của công tước của Orleans, thành phố này có ý nghĩa biểu tượng chính trị đầu thế kỷ mười lăm. Bá tước Orléans cầm đầu một phe phái chính trị được gọi là Armagnacs-những người bác bỏ Hiệp ước Troyes và ủng hộ tuyên bố về ngai vị vua Pháp của vua Charles VII vốn đã bị truất ngôi. Phe này đã hoạt động trong hai thế hệ. Kết quả là Công tước của Orléans là một trong những rất ít chiến binh vẫn còn bị giam giữ làm tù nhân mười bốn năm sau trận Agincourt bởi người Anh.
Theo đạo luật mã thượng của tinh thần hiệp sỹ, một thành phố đầu hàng một đội quân xâm lược mà không chống cự sẽ được hưởng sự đối xử khoan dung từ người cai trị mới của nó. Một thành phố chống cự dữ dội có thể phải chờ đợi một sự chiếm đóng khắc nghiệt. Trong tình hình này những vụ thảm sát là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Theo cách lý luận này vào cuối thời Trung cổ, thành phố Orléans đã leo thang cuộc xung đột và bắt buộc người Anh phải sử dụng bạo lực, do đó sau khi quân xâm lược kết thúc cuộc chinh phục họ sẽ tiến hành trả thù cực kỳ dữ dội vào công dân của thành phố. Thành phố này lại luôn về phe Armagnac làm cho nó khó có khả năng được dung tha nếu nó thất thủ.
Giai đoạn đầu của cuộc bao vây
Khi cuộc bắt đầu cuộc bao vây, bắt đầu vào ngày 12 tháng 10 năm 1428 dưới sự chỉ huy của Bá tước Salisbury, lực lượng của người Anh đã kiểm soát được một số thị trấn trong thung lũng sông Loire. Orléans là thành trì chính cuối cùng của phe Armagnac.
Ngay từ đầu trong cuộc bao vây, người Anh đã tấn công Augustins, một tu viện có tường bao quanh và xa hơn nó, Tourelles-một chiếc công sự kiên cố nằm ở cuối phía nam của một cây cầu dài gần ¼ dặm (400 m) trên sông Loire hướng vào thành phố (nằm ở phía bắc của con sông). Về phần mình, quân phòng thủ Orléana, đã ngay lập tức đưa ra quyết định từ bỏ Tourelles và rút lui vào đằng sau những bức tường của thành phố để thực hiện phòng thủ, họ đã phá vỡ một phần cây cầu phía sau đó.
Ngay sau khi người Anh chiếm được chiếc công sự Tourelles, vào cuối tháng Mười, Bá tước của Salisbury đã bị bắn trúng vào mặt bởi các mảnh đá vụn từ một phát đạn pháo, mặc dù đã được tận tình cứu chữa trong vòng một tuần ông này vẫn lăn quay ra chết. Khoảng một tháng sau vào đầu tháng 12 năm 1428, sau một loạt các chỉ huy tạm thời của cuộc bao vây, Sir William de la Pole, Công tước thứ nhất của Suffolk, hầ̀u tước thứ nhất của Suffolk, Bá tước thứ 6 của Suffolk nhận trách nhiệm chỉ huy chung cuộc bao vây, một vị trí mà ông sẽ giữ lại cho đến khi kết thúc cuộc vây hãm vào tháng 5 của năm tiếp theo.
Trong khi đó, trong những tháng đầu của cuộc bao vây, người Anh đã thành lập một loạt các vị trí kiên cố xung quanh thành phố. Vì họ thiếu một lực lượng đủ lớn để bao vây kín thành phố nên quân phòng thủ vẫn có thể di chuyển người và lương thực vào trong và ngoài, mặc dù những di chuyển này cũng thường hay bị cản trở bởi quân Anh. Cuộc phong tỏa lỏng lẻo này đã được tiến hành với một loạt các pháo đài ở phía tây và phía bắc, trong khi Tourelles và một pháo đài ở ngay trước mặt bảo vệ phía nam. Phía Đông là pháo đài Saint Loup nằm trên 2 km từ phía cửa ngõ phía Đông của thành phố. Ngoài Les Augustins, Tourelles và đầu cầu phía nam, các pháo đài khác chỉ được đồn trú bởi rất ít quân.
Trận Cá trích
Hành động quân sự quan trọng nhất sau khi thành phố bị bao vây và trước khi Joan đến vào lúc cuối tháng Tư năm 1429 đã nổ ra ở phía bắc thành phố Orléans, bên ngoài một thị trấn nhỏ của Pháp tên là Rouvray. Ở đây vào ngày 12 tháng Hai, một vài ngàn binh sĩ Pháp và Scotland đã cố gắng không thành công để đánh chặn và chuyển hướng một đoàn xe tải chở đồ cung cấp người Anh trong một trận chiến được biết đến trong lịch sử như là trận chiến Cá trích ( battle of Herrings), trận chiến này được đặt tên như vậy là bởi vì đoàn xe cung cấp chở một số lượng lớn cá cho mùa Chay sắp tới. Người Anh được chỉ huy bởi Sir John Fastolf (1380-1459) của Caister ở Norfolk, người sau này bị cáo buộc là đã ‘chạy tháo thân’ trong trận Patay.
Vào ngày của cuộc chiến này mà Joan đã gặp Robert de Baudricourt tại Vaucouleurs ( quan Tổng trấn của Pháp ở Vaucouleurs ) lần cuối cùng để xin hỗ trợ trước khi bắt đầu chuyến đi để gặp nhà Dauphin tại Chinon. Có chuyện nói rằng tại cuộc họp này với Baudricourt, Joan đã tiết lộ với ông rằng ngày hôm đó huy hiệu của Dauphin sẽ bị đảo ngược ( quân Pháp bị thua một trận lớn) ở gần Orléans và rằng nếu nàng không được đến chỗ ông ta sớm thì sẽ có những trận thua khác nữa. Một lần nữa, theo phiên bản này, đó là khi tin tức về thất bại tại Rouvray đến được Vaucouleurs thì Baudricourt, lúc này đã hoàn toàn bị thuyết phục bởi khả năng tiên đoán của cô gái, đã mủi lòng và đồng ý cho cô một đội hộ tống đến Chinon. Dù sự thật của câu chuyện là như thế nào đi chăng nữa, nó cũng không được chấp nhận bởi tất cả nhà văn-Joan rời Vaucouleurs vào ngày 23 tháng 2 để đến Chinon và sau đó là đến Orléans.
Quân số của người Anh không đủ để bao vây thành phố một cách thực sự và đại bác của họ cũng không có khả năng phá vỡ các bức tường đá dày của thành phố. Tuy nhiên, vào mùa xuân năm 1429 mặc dù đã có một số đoàn xe cung cấp của Pháp chở được đồ tiếp tế vào thành phố nhưng tình hình vẫn ngày càng trở nên tuyệt vọng.
Joan d’Arc đến Orléans
Trong nhiều năm, một lời tiên tri mơ hồ đã được đồn đại tại Pháp liên quan đến một cô gái có mặc áo giáp sẽ cứu vớt nước Pháp. Rất nhiều lời tiên tri như vậy đã báo trước rằng cô gái có mặc áo giáp sẽ đến từ khu vực vùng Lorraine-làng Domrémy, nơi Joan được sinh ra. Kết quả là khi câu chuyện cuộc hành trình của Joan đi để gặp nhà vua đến được với các công dân của thành phố Orléans đang bị bao vây đã làm dâng cao lên mọi mong đợi và hy vọng.
Joan đến Chinon vào đầu tháng ba, lúc đó nàng đã gặp nhà Dauphin. Sau này, nàng đã được gửi đến Poitiers để các quan chức nhà thờ, chức sắc khác để kiểm tra. Sau khi nhận được sự chấp thuận của Giáo Hội và hoàng gia, nàng gia nhập quân đội cứu viện lúc này đang được tập hợp tại Blois.
Tại Blois việc đầu tiên là Joan đã gửi ít nhất hai lá thư gửi tới lực lượng Anh đang bao vây Orléans. Trong thư này nàng kêu gọi người Anh chấm dứt cuộc bao vây và từ bỏ tất cả các thành phố và vùng lãnh thổ mà họ đã chiếm đóng ở Pháp và trở về nước Anh. Nếu họ từ chối, nàng thề rằng nàng sẽ phát động một “cuộc chiến tranh … thảm khốc với họ và rằng cuộc chiến này sẽ kéo dài mãi mãi cho đến khi người Anh phải tháo chạy.” Sau đó, nàng nói: “Tôi sẽ không viết thêm nữa”. Đó là một lời hứa táo bạo vào thời điểm đó nhưng sự thật đã xảy ra theo đúng lời hứa của nàng. 
Joan Arc đã đến với quân đội cứu viện ở ngoại ô Orléans vào ngày 28 Tháng Tư năm 1429 và sau khi nghỉ một đêm tại Checy và ngày hôm sau họ tiến vào thành phố trong niềm hân hoan của cư dân ở đây.Chuẩn bị để giải tỏa vòng vây Cuốn sách ”The Journal du siege d’Orléans” đã được trích dẫn trong những ghi lại của sử gia Pernoud nói về một số cuộctranh cãi dữ dội trong tuần tiếp theo liên quan đến các chiến thuật quân sự giữa Joan và Jean de Dunois, Bastard của Orléans, viên chỉ huy quân sự của thành phố. Dunois rời thành phố quay lại Bloisvào ngày 1 tháng để thu thập thêm quân tiếp viện và lại trở về vào ngày 4.Trong khi đó, Joan đi ra ngoài bức tường thành phố và trinh sát tất cả các công sự của người Anh, tại một thời điểm nàng đã nói chuyện với chính Glasdale ( chỉ huy của quân Anh và đương nhiên là phải ở ngoài tầm tên rồi ).
Ngày 04 tháng 5, Joan cưỡi ra khỏi thành phố và chỉ huy quân tiếp viện của Pháp tấn công vào một pháo đài của Anh đượcxây dựng tại St. Loup. Pháo đài đã bị chiếm hơn một trăm quân phòng thủ người Anh bị giết chết với hơn 40 người khác bịbắt làm tù binh. Việc chiếc pháo đài tại St Loup bị chiếm cho phép việc giao thông tương đối không bị cản trở và di chuyển giữa thành phố và một phần của lực lượng Pháp đã đóng quân ở phía nam của sông Loire trở nên thông suốt kể từ khi họđến từ Blois vào tuần trước đó. Sau trận đánh này, Joan đã viết lại một lần nữa tới người Anh yêu cầu họ từ bỏ cuộc bao vây hoặc phải đối mặt với những hậu quả thảm khốc.Hai ngày sau, sau một vụ tranh cãi gần như diễn ra hàng ngày liên quan đến các chiến thuật quân sự mà trong đó Joan đã kêu gọi tấn công, đi ngược lại với các khuyến nghị của các chỉ huy quân sự thận trọng hơn của người Pháp ( mà đại diện làJean Dunois ), một lực lượng lớn quân Pháp rời khỏi thành phố, vượt qua phía nam của sông Loire và phát động một cuộctấn công trực tiếp từ phía trước vào một vị trí vốn đã được tăng cường phòng thủ của người Anh tại tu viện Augustins trên bờ phía nam của con sông ở phía trước của pháo đài Tourelles. Trận chiến đấu kéo dài từ sáng cho đến chiều tối, cuối cùng thì bức tường bao quanh tu viện đổ sụp làm cho quân Anh đồn trú tại pháo đài Les Tourelles trở nên bị cô lập.Tấn công Les Tourelles
Trong khi các chỉ huy quân sự khác trong thành phố tổ chức một cuộc họp mà không có mặt của Joan và ra một quyết định là chờ phải chờ quân tiếp viện đến trước khi tổ chức một cuộc tấn công vào chính pháo đài Les Tourelles, nhưng Joan với sự ủng hộ của toàn thể binh lính lại chuẩn bị cho trận chiến vào sáng hôm sau.
Sáng ngày 07 tháng 5, các cuộc tấn công vào chiếc cổng thành phố được tăng cường phòng thủ và gọi tên là Les Tourelles đã được bắt đầu. Đó là những cuộc tấn công trực tiếp phía trước. Quân Pháp đã cố gắng làm suy yếu các cung thủ anh đứng trên cây cầu vốn là một phần nền tảng móng của tòa pháo đài và họ đẩy một chiếc sà lan được đốt cháy ra để tấn công nó ( cây cầu và các cung thủ Anh đứng trên cầu ), mặc dù viên chỉ huy DeVries có ý kiến ​​rằng chiến thuật này sẽ không có tác dụng nhiều.Giữa trận đấu, Joan đã bị thương bởi một cung thủ Anh (có thể sử dụng mũi tên kiểu cây trâm). Người Anh (nhiều người cho rằng bất kỳ người phụ nữ dẫn đầu một đội quân đều là phù thủy) đã bắt đầu nhảy múa và hò hát ” mụ phù thủy đã chết! Mụ phù thủy đã chết! ” Trong lời để phục hồi danh dự cho nàng, Jean Pasquerel- cha giải tội của Joan, tuyên bố rằng bản thân Joan đã có một số linh cảm hoặc biết trước sự kiện này, nàng đã nói rõ vào ngày trước khi tấn công bắt đầu rằng “ngày mai sẽ chảy máu từ cơ thể của tôi ở trên ngực của tôi.” Joan rút mũi tên ra khỏi vai của chính mình. Sau khi nhận được chăm sóc y tế cho vết thương, Joan đã trở lại chiến đấu.Sau ngày hôm đó trong cuộc họp vào buổi tối, Dunois đã chuẩn bị ra lệnh chấm dứt cuộc tấn công, nhưng Joan đã ép ông ta phải trì hoãn mệnh lệnh này. Sau đó, sau khi lui vào khu rừng gần đó để cầu nguyện, nàng đã quay trở lại và phát động một cuộc tấn công mới, lần này quân Pháp đã thành công. Pháo đài Les Tourelles đã bị chiếm và toàn bộ quân phòng thủ người Anh đã bị giết chết hoặc bị bắt làm tù binh. Chính bản thân Sir William Glasdale, người chỉ huy Les Tourelles đã bị chết đuối ở sông Loire.

Trận chiến Herrings (Cá trích) 

Trận Herrings là một trận đánh ở gần thị trấn Rouvray tại nước Pháp, ở phía bắc của thành phố Orléans, nó diễn ra vào ngày 12 tháng 2 năm 1429 trong thời gian xảy ra cuộc vây hãm thành phố Orléans.
Nguyên nhân trực tiếp của trận chiến là một nỗ lực của lực lượng quân đội Pháp, được dẫn đầu bởi Charles Bourbon, Bá tước của Clermont, để đánh chặn và chuyển hướng một đoàn xe chở đồ cung cấp cho lực lượng quân Anh. Người Anh đã thành lập cuộc bao vây thành phố Orléans kể từ tháng 10 năm trước.
Người Pháp được hỗ trợ bởi một lực lượng Scotland được chỉ huy bởi quan Nguyên soái của quân đội Scotland, Sir John Stewart của Darnley. Có hai nơi được gọi là Rouvray trong khu vực mà trận đánh có thể đã xảy ra. Trong cuấn tiểu sử của Sir John Fastolf, Stephen Cooper đã cho người đọc thấy rằng trận chiến có thể đã diễn ra ở gần Rouvray-Sainte-Croix, chứ không phải là ở Rouvray-Saint-Denis.
Đoàn xe chở đồ cung cấp này được chỉ huy bởi Sir John Fastolf và được trang bị ở Paris, từ nơi mà nó đã khởi hành trong một khoảng thời gian trước đó. Theo Régine Pernoud, đoàn xe này bao gồm “khoảng 300 chiếc xe và toa xe, có mang theo các cây nỏ, đại bác và súng thần công cùng với rất nhiều thùng cá trích.” Một đoàn xe thứ hai đã được gửi đi từ những ngày kế cận Mùa Chay. Vì có sự hiện diện của các thùng cá trích này mà chúng đã tạo cho trận chiến một cái tên hơi bất thường.
Trận chiến
Địa điểm của Trận chiến là một đồng bằng phẳng gần như không có gì đặc biệt. Quân đội Pháp với số lượng ở khoảng 3000 và 4000 người đã đối đầu với lực lượng Anh nhỏ hơn nhiều, người Anh đã thiết lập vị trí phòng thủ bằng cách dựng các toa xe chở đồ cung cấp thành một chiếc pháo đài tạm thời. Sau đó đội hình phòng thủ này tiếp tục được bảo vệ từ các vị trí các vũ khí sắc bén, tất cả các điểm xung quanh để ngăn chặn kỵ binh Pháp tấn công, một chiến thuật đã được sử dụng và thu được thành công lớn trong trận Agincourt. Cuộc tấn công của quân Pháp được bắt đầu bằng một bắn phá bằng pháo binh có sử dụng thuốc súng, đây là một loại vũ khí tương đối mới trong thời gian này và thậm trí những người sử dụng nó còn có thể chưa hiểu rõ về chúng một cách tường tận.
Khoảng 400 binh sỹ tinh nhuệ người Scotland, đã làm trái với mệnh lệnh của Bá tước Clermont (Pernoud đã công bố rằng “Clermont đã liên tục gửi các tín sứ thông báo cấm bất kỳ một cuộc tấn công nào”) đã tiến lên và tấn công vào đội hình của quân Anh. Điều này, theo DeVries, đã buộc quân Pháp phải sớm chấm dứt các cuộc bắn phá bằng pháo binh vì sợ rằng sẽ gây thiệt hại cho lực lượng của chính họ. Quân sỹ Scotland đã không có những chiếc áo giáp bảo vệ tốt và bị gây thiệt hại lớn trong khi tiến lên bởi các cung thủ và xạ thủ bắn nỏ của Anh, những người được bảo vệ kín đáo từ chiếc pháo đài bằng các toa xe của họ.
Pernoud công bố rằng quân đội liên minh Pháp/ Scotland bị mất khoảng 400 người, bao gồm cả Stewart-chỉ huy của quân Scotland. Trong số những người bị thương là Jean de Dunois, ông này được biết đến với biệt hiệu Bastard of Orléans, ông này đã trốn thoát và giữ lại cuộc sống của mình một cách cực kỳ khó nhọc và ông cũng là người sau này sẽ đóng một vai trò quan trọng, cùng với Joan Arc giải vây cho thành phố Orléans bị vây hãm và chiến dịch sông Loire toàn thắng của người Pháp tiếp sau đó.
Hậu quả và ý nghĩaTrong khi ngày nay người ta thường cho rằng trận chiến Cá trích bị thất bại vì việc cho chấm dứt bắn phá bằng pháo binh quá sớm làm cho nó không có hiệu quả một cách đầy đủ, nhưng vào thời điểm đó người ta lại không cho là như vậy, ít nhất là ở trong thành phố Orléans đang bị bao vây. Theo cuấn the Journal du siege d’Orléans, khi đã vào đến bên trong bức tường thành phố, Bá tước Clermont thường bị đổ lỗi cho thất bại này, ông thường bị coi là một kẻ hèn nhát và bị đối xử với thái độ khinh thị. Ngay sau đó, Bá tước Clermont cùng với Công tước Dunois lúc này đã bị thương đã rời khỏi Orléans cùng với khoảng 2000 binh sĩ. Tinh thần của dân chúng trong thành phố và giữa các chỉ huy của nó đã xuống đến điểm thấp nhất, vì vậy đã có nhiều ý kiến đưa ra rằng thành phố phải chấp nhận đầu hàng.Trận chiến Cá trích là hoạt động quân sự quan trọng nhất trong cuộc vây hãm Orléans từ khi nó được bắt đầu vào tháng 10 năm 1428 cho đến khi Joan Arc xuất hiện vào tháng 5 năm sau,. Mặc dù có tính chất quan trọng như vậy, nhưng theo các ghi chép lịch sử nó lại là một trận đánh khá nhỏ và không cho thấy ngay những ảnh hưởng mà nó đã tạo ra, thậm chí có nhiều khả năng nó còn bị đánh xuống hạng trong các ghi chép trong lịch sử quân sự hoặc thậm chí bị lãng quên hoàn toàn.Nhưng không chỉ là một phần của một trong cuộc bao vây nổi tiếng nhất trong lịch sử, câu chuyện về trận đánh đã trở nên thịnh hành vì nó đóng một vai trò quan trọng trong việc thuyết phục Robert de Baudricourt tại Vaucouleurs chấp nhận yêu cầu của Joan để hỗ trợ và đưa nàng an toàn đến Chinon. Vào ngày mà trận chiến xảy ra (12 tháng 2 năm 1429) cũng là ngày mà Joan đã gặp de Baudricourt lần cuối cùng. Theo câu chuyện được kể lại ở một vài nơi (ví dụ, trong Sackville-West), Joan đã đưa ra một thông điệp rằng ” ngày hôm đó Gia huy của nhà Dauphin sẽ bị đảo ngược ở gần Orléans”. Khi mà vài ngày sau đó tin tức của thất bại quân sự ở gần Rouvrey đã đến được Vaucouleurs và de Baudricourt khi biết câu chuyện, đã cảm thấy mủi lòng và đồng ý tài trợ cho cuộc hành trình của nàng đến gặp nhà Dauphin ở Chinon. Cuối cùng Joan đã rời Vaucouleurs đến Chinon vào ngày 23 tháng Hai năm 1429.
Chiến dịch sông Loire năm 1929Trận chiến JargeauTrận chiến Jargeau diễn ra vào ngày 11-ngày 12 Tháng Sáu năm 1429. Đó là trận tấn công đầu tiên của Joan Arc. Ngay sau khi giải vây Orléans, lực lượng Pháp đã chiếm lại các quận huyện lân cận dọc theo sông Loire. Chiến dịch này là chiến dịch tấn công đầu tiên của người Pháp và nó được duy trì trong một thế hệ trong chiến tranh Trăm năm.Bối cảnhCuối năm 1428, trong những năm cuối của cuộc Chiến tranh Trăm năm, quân Anh và đồng minh Burgundian của họ đã chiếm đóng hầu như tất cả các thành phố lớn của Pháp ở về phía bắc của sông Loire. Nhiều điểm chiến lược dọc theo dòng sông Loire cũng đã bị chiếm đóng và Orléans-thành phố lớn cuối cùng trên con sông này đã bị vây hãm từ tháng 5 trong năm đó ( năm 1428).
Quân Anh muốn có thể bảo đảm kiểm soát hoàn toàn vùng thung lũng Loire-phần phía nam của Pháp, các vị trí còn lại cuối cùng của nhà Dauphin sẽ hoàn toàn rộng mở cho một cuộc xâm lược.
Trong đầu tháng ba năm 1429, Joan of Arc đã có mặt tại Chinon để gặp mặt nhà Dauphin và sau khi được kiểm tra bởi các quan chức nhà thờ ở Poitiers, nàng đã tham gia cùng với một lực lượng lớn quân Pháp, khởi hành để giải tỏa cuộc bao vây tại Orléans. Hoạt động quân sự này đã được chứng minh là hoàn toàn thành công sau khi cuộc bao vây đã bị dỡ bỏ vào tháng 9.
Cây cầu ở Thành phố Orléans đã bị phá hủy ngay trước khi cuộc bao vây bị dỡ bỏ. Người Pháp đã mất quyền kiểm soát tất cả các cây cầu vượt sông khác. Ba trận chiến nhanh chóng với số lượng quân nhỏ đã nổ ra tại Jargeau, Meung-sur-Loire, và Beaugency đã càng làm tăng sự tự tin của quân Pháp và đặt nền tảng các cuộc hành binh tiếp theo của người Pháp ở Rheims và Paris. Chiến dịch Loire đã giết, bắt tù binh, hoặc làm thất sủng một phần lớn tầng chỉ huy cao cấp của quân Anh và tàn sát một số lượng đáng kể các cung thủ trường cung Anh có tay nghề cao.

Chiến dịch Loirecủa Pháp trong năm 1429 bao gồm năm trận chiến sau:

1. Giải vây Thành phố Orléans.
2. Trận chiến Jargeau.
3. Trậnchiến Meung-sur-Loire.
4. Trận chiến Beaugency.
5. Trận chiến Patay.
Từ Orléans đến Jargeau
Sau khi phá bỏ được cuộc bao vây nhắm vào Orléans, lực lượng quân đội Pháp đã dành tháng tiếp theo để tuyển dụng và phát triển lực lượng cho hoạt động quân sự ở các giai đoạn tiếp theo. Vào đầu tháng Sáu, tại một cuộc họp của các chỉ huy quân sự có sự hiện diện của nhà Dauphin, họ đã đi đến một quyết định theo đuổi một chiến lược quét sạch các đơn vị đồn trú của quân đội Anh tại thung lũng sông Loire. Quân đội đã được tập hợp tại Orléans, nơi mà Joan tái gia nhập với họ vào ngày 09 tháng 6. Ngày hôm đó, quân đội Pháp khởi hành về phía Jargeau, điểm dừng chân đầu tiên của họ tại chiến dịch thung lũng Loire.
Trong khi đó, vào ngày 08 tháng 6, Sir John Fastolf cuối cùng đã rời Paris với một quân đội tăng cường gồm hàng ngàn binh sỹ Anh, ông này cũnghướng về phía thung lũng sông Loire.
Thị trấn Jargeau
Jargeau là một thị trấn nhỏ trên bờ phía nam của sông Loire ở miền trung nước Pháp, khoảng mười dặm về phía đông của Orléans. Bị chinh phục bởi quân Anh trong một vài năm trước đó như là một điểm trung chuyển cho các kế hoạch của một cuộc xâm lược của người Anh vào miền Nam nước Pháp, thành phố được bảo vệ bởi một bức tường với các tháp canh và các cánh cổng kiên cố. Một chiếc hào được đào bên ngoài các bức tường làm tăng cường hơn nữa khả năng phòng thủ. Bên ngoài các bức tường, các khu ngoại ô đã bắt đầu mọc lên. Có một cây cầu nối tăng cường duy nhất-có ý nghĩa cực kỳ chiến lược cho phần sau của cuộc chiến tranh, vượt qua sông Loire để đến bờ phía bắc. Thành phố này được bảo vệ bởi khoảng 700 binh sỹ Anh được vũ trang bởi gồm cả hỏa khí.
Chiến thuật
Joan Arc và Công tước John II của Alençon thống lĩnh một lực lượng bao gồm đại úy Jean d’Orléans, Gilles de Rais, Jean Poton de Xaintrailles và La Hire. Công tước Suffolk William de la Pole chỉ huy lực lượng phòng thủ Anh.
Cuộc chiến bắt đầu với một cuộc tấn công của người Pháp được bắt đầu ở các vùng ngoại ô. Quân phòng thủ Anh rời khỏi bức tường thành phố rồi tiến hành phản công và quân Pháp đã bị đẩy lui trở lại. Joan Arc dương cao lá cờ của mình để bắt đầu một cuộc tấn công mới của quân Pháp. Quân Anh rút lui vào bên trong các bức tường của thành phố và quân Pháp bị kẹt trong các vùng ngoại ô vào ban đêm.
Buổi sáng hôm sau Joan Arc kêu gọi quân phòng thủ hạ vũ khí đầu hàng. Họ đã từ chối. Quân Pháp lại tiến lên sau những đợt bắn phá bằng pháo hạng nặng kiểu sơ khai và những động cơ bao vây-công thành. Một chiếc tháp của thị trấn đã sụp đổ. Suffolk cử người đi điều đình việc đầu hàng đầu hàng với La Hire-một viên Đại úy của Pháp. Việc này bị bãi bỏ vì đã vi phạm vào quân lệnh của quân Pháp.
Joan Arc lại cho bắt đầu một cuộc tấn công mới vào các bức tường thành phố,nàng vừa may mắn còn sống sót sau khi một viên đạn đá bị vỡ làm hai và bắn vào chiếccủa mình khi nàng đang trèo lên một chiếc thang rộng. Quân Anh bị tổn thất nặng nề. Hầu hết các văn bản ghi chép lại đều ước tính số lượng lính Anh tử trận là khoảng 300-400 trên tổng số 700 quân phòng thủ Anh. Công tước Suffolk đã trở thành một tù binh. Người Pháp cósố lượng khoảng 1.200 binh lính và thiệt hại của họ dường như là khá nhẹ.

Trận chiến Meung-sur-Loire

Trận chiến Meung-sur-Loire diễn ra vào ngày 15 Tháng 6 năm 1429, quân đội Pháp với số lượng khoảng 7.000 người dưới sự chỉ huy của Arc và công tước John II Alençon đã đánh bại một đạo quân nhỏ hơn của Anh dưới sự chỉ huy của John Talbot, Bá tước thứ I của Shrewsbury và Thomas Scales tại thị trấn Meung-sur-Loire bên bờ sông Loire, không có văn bản nói về số lượng thương vong cụ thể của cả hai bên nhưng về phía quân Anh là nặng nề vì Pháp sử dụng hỏa khí ngày càng thành thạo hơn.
chiến thuật
Quân đồn trú Anh phòng thủ tại Meung-sur-Loire thành ba lớp: lớp trong thành phố có tường bao quanh, đóng tại chiếc pháo đài trên cầu và một lâu đài lớn có tường bao quanh bên ngoài thị trấn. Chiếc lâu đài trở thành sở chỉ huy của John Talbot, Bá tước của Shrewsbury và Thomas.
Joan Arc và Công tước John II Alençon chỉ huy một lực lượng bao gồm các Đại úy Jean d’Orléans, Gilles de Rais, Jean Poton de Xaintrailles và La Hire. Ước tính số lượng quân Pháp khhoảng 6000 – 7000 người, theo tạp chí ( the Journal du Siège d’Orléans ). Một phần trong số họ có thể không phải là chiến binh chuyên nghiệp. Vượt qua thành phố và lâu đài, họ đã tổ chức một cuộc tấn công trực diện vào chiếc công sự trên cây cầu và đã chiếm được nó sau một ngày chiến đấu dữ dội và đặt một lực lượng đồn trú ở đó. Sự kiện này đã cản trở những cơ động của quân Anh ở phía nam sông Loire.

Trận chiến Beaugency

Trận chiến Beaugency diễn ra vào ngày 16 và 17 tháng Sáu 1429, quân đội Pháp dưới sự chỉ huy của Arc và công tước John II Alençon đã đẩy lui được quân trấn thủ của Anh dưới sự chỉ huy của John Talbot ra khỏi thị trấn Beaugency-một thị trấn có một cây cầu rất quan trọng bắc qua sông Loire. Quân đội Pháp tăng lên rất nhanh sau chiến thắng tại Orléans. Trong cuộc tấn công vào Beaugency có một tình nguyện viên gây ra một sự xôn xao trong bộ chỉ huy của quân Pháp. Đó là Nguyên soái Arthur de Richemont-người đang bị thất sủng (không rõ lý do) tại triều đình Pháp trong hai năm gần đó, ông này đã xuất hiện với một lực lượng gồm 1000 người và tình nguyện xin được phục vụ. Bất chấp nguy cơ bị căm tức bởi Hoàng gia Pháp, Joan Arc vẫn chấp nhận lực lượng tăng viện này. 
Joan Arc và Công tước John v II chỉ huy một đội quân Pháp bao gồm các đại úy Jean d’Orléans, Gilles de Rais, Jean Poton de Xaintrailles, và La Hire. John Talbot, Bá tước thứ nhất của Shrewsbury chỉ huy quân phòng thủ Anh. Phá tập quán của chiến tranh vây hãm, trong ngày 15 tháng 6 quân đội Pháp tiến vào và chiếm cây cầu tại Meung-sur-Loire mà không tổ chức một cuộc tấn công nào vào thị trấn hoặc lâu đài của nó, nhưng họ lại mở một cuộc tấn công vào thị trấn lân cận-Beaugency vào ngày hôm sau. Không giống như ở Meung-sur-Loire, pháo đài chính của Beaugency ở bên trong bức tường thành phố. Nó còn tồn tại đến tận ngày nay và là một tòa pháo đài hình chữ nhật. Trong ngày đầu tiên của cuộc chiến quân Anh đã từ bỏ bức tường của thị trấn và rút lui vào tòa lâu đài. Quân Pháp đã tổ chức bắn phá mãnh liệt vào lâu đài bằng hỏa lực pháo binh. Buổi tối hôm đó Nguyên soái de Richemont và lực lượng của ông đã kéo đến tăng viện cho quân Pháp.Nghe tin rằng có một lực lượng tiếp viện của Anh đang kéo đến từ Paris dưới sự chỉ huy của Sir John Fastolf, Công tước Alençon chấp nhận cho quân Anh hạ vũ khí và cho họ an toàn rời khỏi Beaugency. Ngay sau đó trận chiến Patay lại tiếp tục nổ ra vào ngày 18 Tháng Sáu.

Trận Patay

Trận Patay (18 Tháng Sáu, 1429) là trận chiến đỉnh điểm của Chiến dịch Loire trong Chiến tranh Trăm năm giữa Pháp và Anh ở phía bắc miền trung nước Pháp. Đó là một chiến thắng quyết định cho người Pháp và hoàn toàn xoay chuyển cục diện của chiến tranh. Chiến thắng này của người Pháp có thể nói là có ý nghĩa tương đương với trận Agincourt của Anh. Chiến thắng được ghi công cho Joan Arc và hầu như chỉ có đội quân tiên phong của quân Pháp ( khoảng 1.500 kỵ sỹ) là tham gia vào trận đánh và trận chiến đã kết thúc trước khi đội hình chính của quân Pháp có thể đến được chiến trường. Khoảng 2.500 quân Anh ( đa số là các cung thủ trường cung Anh ) trên tổng số 5.000 người đã bị giết và bị bắt làm tù binh, từ đây danh tiếp bất khả chiến bại của lực lượng này đã bị tan biến.Quân Anh bao gồm cả quân phòng thủ còn lại tại Meung-sur-Loire. QuânPháp chỉ chiếm cây cầu tại vị trí này, chứ không phải là lâu đàihoặc thị trấn lân cậnvới nó. Quân phòng thủ Anh rút lui từ Beaugency cũng gia nhập vào đạo quân này. Người Anh rất xuất sắc trong một trận đánh mở, họ đã đóng ở một vị trí nào đó mà ngày nay người ta chưa biết chính xác, nhưng theo truyền thống thì được cho là ở gần ngôi làng nhỏ Patay. Sir Fastolf, Sir John Talbot và Sir Thomas Scaleslà các chỉ huy của người Anh.
Chiến thuật phòng thủ tiêu chuẩn của cung thủtrường cung Anh chỉ là cắm những cọc gỗ nhọn vào mặt đất gần vị trí của họ và hướng về phía tấn công của kẻ thù.Chiến thuật này ngăn chặn các cuộc tấn công của kỵ binh và làm chậm các bước tiến của bộ binh địch đủ lâu để cho các cung thủ trường cung Anh có thể dội những con mưa tên, những đòn đánhmang tính chất quyết định vào đội hình của đối phương. Tuy nhiên, các cung thủ Anh đã vô tình để lộ vị trí của họ cho các đội trinh sát của Pháp trước khi công việc chuẩn bị chiến đấu của họ được hoàn tất khi mới chỉ cắm được một vài chiếc cọc đơn độc trên một cánh đồng gần đó và do đó các cung thủ lại chẩn bị trở thành những con mồi cho một cuộc săn bắn khủng khiếp.
Khi biết chính xác vị trí của người Anh, khoảng 1.500 thiết kỵ hạng nặng của Pháp dưới sự chỉ huy của các đại úy La Hire và Jean Poton de Xaintrailles- đây chính là đội kỵ binh bọc thép tiên phong của quân đội Pháp, dưới sự dẫn đầu của Joan Arc đã tấn công vào vị trí của người Anh. Trận chiến đã nhanh chóng trở thành một cuộc tháo chạy toán loạn, tất cả các kị sỹ Anh đã phi ngựa ngựa chạy trốn trong khi lực lượng bộ binh của họ-chủ yếu là lính cung thủ trường cung đã bị chém hạ hàng loạt. Cung thủ trường cung không bao giờ được trang bị để chống lại các hiệp sĩ thiết giáp ở tầm gần mà không có sự hỗ trợ từ những vị tríđược chuẩn bị kỹ lưỡng vốn qua đó các hiệp sĩ Pháp không thể chạm được vào họ và họ (cung thủ trường cung Anh ) đã bị thảm sát. Đó là lần đầu tiên chiến thuật tấn công bằng kỵ binh với một số lượng rất lớn về phía trước của người Pháp đã thành công và tạo ra một kết quả quyết định.
Đại úy Jean Dagneau đã bắt tù binh được John Talbot-một viên chỉ huy nổi tiếng của Anh. Sau chiến công này đã được Dagneau phong tước hiệu quý tộc vàotháng 3 năm 1438 bởi Charles VII, vua của nước Pháp và đây cũng là nguồn gốc của gia đình của Dagneau de Richecour. Về phía người Anh, Talbot đã buộc tội Fastolf bỏ rơi đồng đội của mình trong khi đang đối mặt với kẻ thù, và ông này vẫn tiếp tục lời buộc tội trong khi phải thương lượng về một khoản tiền chuộc để được trả tự do từ nơi bị giam giữ. Fastolf từ chối lời buộc tội này tới cùng và cuối cùng đã được xoá tội bởi một chương đặc biệt của tổ chức the Order of the Garter. ( một tổ chức hiệp sỹ Anh do Hoang tử Đen thành lập)

Trận chiến Gerberoy

Trận chiến Gerberoy còn được gọi là Trận Arundel là một chiến thắng của người Pháp trước quân Anh vào ngày 9 tháng 5 năm 1435 trong chiến tranh trăm năm ở Gerberoy tại Beauvais thuộc vùng Picardie.Với vị trí địa lý của nó, Gerberoy đã thực sự là chiến trường cho nhiều trận chiến trong thời Trung cổ và Phục hưng, nhưng ngày nay thuật ngữ Trận chiến Gerberoy không còn thường được để mô tả trận chiến của năm 1435.Vào mùa xuân 1435 chiến tranh Trăm năm lại tiếp tục diễn ra cực kỳ ác liệt. Quân đội Anh dù đã chiếm gần như tất cả các miền Bắc nước Pháp và ở Aquitaine, đặc biệt là Paris, Saint-Denis, và toàn bộ Normandy. Nhưng họ cũng liên tục gặp phải những khó khăn mặc dù bắt được và hành hình Joan Arc vào năm 1431, đặc biệt là khó khăn trong việc kiểm soát vùng lãnh thổ kể từ khi Hiệp ước Troyes ( Hiệp ước lập lại hòa bình giữa Pháp và Burgundy ).
Trong 1434, vua Charles VII của Pháp đã nắm quyền kiểm soát của một số thị trấn phía bắc của Paris, trong đó Soissons, Compiègne, Senlis và Beauvais. Với vị trí của nó, Gerberoy là có khả năng một tiền đồn là có khả năng đe dọa đến vùng Normandy của Anh và kiểm soát và bảo vệ hạt Beauvaisis mà người Pháp mới tái chiếm gần đó. Người Pháp đã chiếm lại thị trấn này (Gerberoy) trong năm 1432, nhưng sau đó do không đủ về lực lượng họ đã rời bỏ thành phố sau khi đã bị phá hủy hệ thống công sự để tránh cho người Anh có thể tái sử dụng nó. Kể từ đó, cán cân quyền lực đã thay đổi và Charles VII, áp dụng một chiến lược táo bạo hơn, ông đã quyết định một vào mùa xuân 1435 là phải tái chiếm Gerberoy, sửa chữa các tường thành và bố trí quân đồn trú.
Nhiệm vụ này được giao cho một đạo quân có số chính xác chưa rõ là bao nhiêu nhưng, theo ghi chép của Jean Canon Pillet (chính sử của Gerberoy), có thể là ở khoảng từ 600 đến 1.800 người. Đạo quân này được đặt dưới sự chỉ huy của Jean de Vignolles-La Hire và Etienne Poton Xaintrailles, những viên đại úy đã từng nằm dưới quyền chỉ huy của Joan Arc. Họ rời Beauvais cách kín đáo và đến Gerberoy vào ban đêm và tiến hành khôi phục lại các công sự cũ đã bị phá huy.
Trong khi đó, tại thị trấn biên giới Gournay Epte ở vùng Normandy (nay là Gournay Bray en Seine- Maritime), khoảng một vài chục dặm về phía tây nam của Gerberoy, một đạo quân nằm dưới sự chỉ huy của chỉ huy người Anh Fitzalan John-Bá tước Arundel, vốn được thành lập để tiến hành một cuộc tái chiếm nhằm vào phố Marquenterre, vốn cũng bị quân Pháp tái chiếm gần thời gian đó. Đội quân này được trang bị các thiết bị vây hãm thành. Khi tin tức về quân Pháp chiếm đóng và sửa chữa các bức tường thành ở Gerberoy bay đến, người Anh thấy rằng đó mới là một mối đe dọa trực tiếp đến vùng Normandy-vốn đang nằm trong tay họ và Gerberoy đã trở thành một mục tiêu được ưu tiên. Có thể do đánh giá thấp tầm quan trọng và lòng quyết tâm của quân đội Pháp được đồn trú ở đó, và vội vàng để xua đuổi họ khỏi thành phố một lần nữa trước khi quân Pháp kịp bố trí phòng thủ, Arundel Gournay đã cho xuất phát vào đêm ngày mồng 8 hoặc rạng sáng ngày 09 tháng 5 năm 1435 với đội quân của mình (trong đó bao gồm không chỉ người Anh mà còn có cả đại diện của giới quý tộc ở Normandy) và hành quân bằng đường bộ đến Gerberoy một cách rất thiếu thận trọng. Lực lượng của ông (khoảng 3.000 người theo sử gia Jean Pillet, nhưng con số này có lẽ cũng là được phóng đại) và có lẽ là đông hơn nhiều so với quân đồn trú của Pháp, nhưng ông này đã sai lầm khi cho rằng người Pháp sẽ không có sự lựa chọn nào hơn ngoài việc rút vào Gerberoy để cố thủ hoặc phải rút lui, người Anh đã không chuẩn bị để bị tấn công.
Người Pháp nhờ có những vị trí quan sát rất cao ở Gerberoy, cao hơn so với vùng xung quanh thành phố, đã nhanh chóng nhận thấy rằng quân Anh chỉ có một đội tiên phong nhỏ, ngoài ra đạo binh chính của đối phương đang tiến theo đội hình một cột lớn bằng đường bộ từ Gournay. Biết rằng không thể an toàn trong những công sự vốn chưa được phục hồi một cách hoàn toàn, họ quyết định chủ động tấn công vào trong một khu vực mở và đánh bại người Anh một cách hoàn toàn bất ngờ.
Một đội kỵ binh Pháp được dẫn đầu bởi La Hire tiến ra khỏi thành phố, bỏ qua vị trí mà đội tiên phong của Arundel đang đóng quân và tấn công bất ngờ vào đội hình hình cột của người ở Anh trên con đường đến từ Gournay. Lúc này tại đội hình chính, quân Anh tin rằng đội tiên phong của họ sẽ chặn đứng được mọi hiểm họa có thể đến từ Gerberoy và không có khả năng bị tấn công bất ngờ, nên họ vẫn tiến theo đội hình hành quân và không sửa soạn chiến đấu. Mặc dù có số lượng rất đông nhưng quân Anh vẫn dễ dàng bị đẩy lùi và ù té bỏ chạy đến một nơi được gọi là “Spruce” ở ngoại ô Laudencourt, một thôn ở gần Gournay ngày nay.
Trong khi đó, phần còn lại của quân Pháp dưới sự chỉ huy của Đại úy Xaintrailles đã tấn công trực diện vào toán quân tiên phong của Arundel. Đội quân tiên phong của Anh bị cô lập và có khả năng bị tiêu diệt trước khi quân tiếp viện được dự kiến có thể đến, họ đã phải tự bảo vệ mình bằng cách lập những hàng ràochắn với những chiếc cọc gỗ nhọn. Trong trận chiến này, Bá tước Arundel bị thương nặng ở chân do một phát đạn súng thần công (quân Pháp đã bắt đầu thành thạo với các loại hỏa khí).
Khi người của La Hire quay trở lại sau cuộc đột kích thắng lợi của họ ở Gerberoy thì người Anh không còn trụ được nữa.Lúc này họ đã bị hoàn toàn cô lập và bị áp đảo về số lượng, cuối cùng họ đã quyết định đầu hàng.
Bá tước Arundel bị bắt làm tù binh, ông đã chết ngay sau đó vì hậu quả của vết thương của ông. Người Anh tổn thất rất nặng, có thể tới hàng trăm người (mặc dù các số liệu không mang tính chắc chắn), trong khi người Pháp có vẻ như chỉ bị mất khoảng hai mươi binh sỹ.
Hậu quả của trận đánh
Sau chiến thắng này, quân đội của Charles VII tiếp tục chỉ tạm thời kiểm soát Gerberoy. Thành phố lại bị bao vây và thất thủ vào tay người Anh trong tháng 10 năm 1437. Cuối cùng nó chỉ được tái chinh phục hoàn toàn bởi người Pháp trong năm 1449. Sau đó do vùng Normandy hoàn toàn nằm trong kiểm soát của vua Pháp năm 1451 nên Gerberoy đã bị mất vai trò chiến lược trong khoảng không gian ở vùng biên giới của nó. Tuy nhiên, sự thay đổi tình hình cũng không có hiệu lực để chấm dứt các cuộc xung đột dữ dội sau đó.
Mặc dù trận chiến ngày 9 tháng 5 năm 1435 không phải là một trong những sự kiện quyết định nhất của Chiến tranh Trăm năm, nó dường như là một trong những bước đầu tiên của chặng đường dài của sự thành công của người Pháp bắt đầu bằng chiến thắng của Joan Arc tại thành phố Orleans và nó cũng là một trong những nguyên nhân để người Pháp có thể chiếm lại Paris vào năm 1436…

Trận Formigny

Trận Formigny (diễn ra ngày 15 tháng 4 năm1450) là một trận chiến của chiến tranh Trăm năm giữa Anh và Pháp. Đó là một chiến thắng quyết định cho người Pháp và là trận chiến lớn áp chót của cuộc chiến này.Bối cảnh Người Pháp, dưới sự lãnh đạo của Charles VII, đã tận dụng được khoảng thời gian hưu chiến ngắn ngủi của Hiệp ước Tours năm 1444 để tổ chức lại và tiếp bô sung thêm sức mạnh cho quân đội của họ. Người Anh vốn không nhận được sự lãnh đạo cương quyết từ nhà vua Henry VI vốn rất yếu đuối và ở vào các vị trí rải rác và suy yếu một cách nguy hiểm. Khi người Pháp phá vỡ thỏa thuận ngừng bắn trong tháng 6 năm 1449, họ đã ở một vị trí được cải thiện nhiều. Pont-Audemer, Pont-L’Evêque và Lisieux đã thất thủ vào tay người Pháp trong tháng Tám và Normandy bị tái chiếm vào tháng Mười. Cắt đôi vùng phía bắc và phía đông, anh em nhà Bureau ( các chỉ huy quân sự của Charles VII) giám sát việc tái chiếm Rouen (tháng 10 năm 1449), Harfleur (tháng 12 năm 1449), Honfleur và Fresnoy (tháng 1 năm 1450), trước khi chuyển đến để xâm nhập vào Caen.Người Anh đã tập hợp được một đội quân nhỏ trong mùa đông năm 1449. Số lượng lên đến khoảng 3.000 người, đội quân này được phái từ Portsmouth đến Cherbourg dưới sự chỉ huy của Sir Thomas Kyriell. Đổ bộ xuống Cherbourg vào ngày 15 tháng 3 năm 1450, nó lại tiếp tục được tăng cường khoảng 2.000 binh sỹ nằm dưới sự chỉ huy của Sir Matthew Gough vào cuối tháng Ba.
Trận đánh
Kyriell cho tiến quân về phía nam và chiếm được Valognes sau một cuộc đụng độ đẫm máu, về phía nam hai đội quân của Pháp cũng đã nhập làm một (khoảng 5.000 người dưới Charles de Bourbon I, người cũng là Bá tước của Comte de Clermont) và hành quân về phía bắc để tiến đến Carentan.
Quân đội Anh bao vây Carentan ngày 12 tháng 4, người Pháp từ chối xông ra đánh phá vây mặc dù có một số cuộc giao tranh nhỏ hơn. Kyriell quay về phía đông hướng tới Bayeux, đến làng Formigny vào ngày 14 tháng tư. Đồng thời một đội quân thứ ba của Pháp dưới sự chỉ huy của Arthur de Richemont đã đến được Saint-Lô từ phía nam.
Ngày 15 Tháng Tư, lực lượng của Bá tước Clermont đã bị quan sát thấy bởi người Anh. Quân đội hai bên đã đối mặt với nhau trên một đường từ Carentan-Bayeux, gần một nhánh nhỏ của con suối Aure, người Anh quay lưng về phía dòng suối. Người Anh có khoảng 4.000 người với ưu thế vượt trội theo tỷ lệ ba trên một về lực lượng cung thủ và họ tập hợp thành một đường dài phía sau một hàng rào bằng các cây cọc nhọn và các công trình phòng thủ thấp.
Clermont mở đầu trận đánh với các cuộc tấn công vào hai bên sườn của quân Anh bằng các toán quân nhỏ, người Pháp có rất ít cơ hội thành công và dễ dàng bị đẩy lùi. Sau đó ông cho đẩy lên hai khẩu đại bác. Sau một thời gian nổ súng gây ra một số thương vong, Quân Anh buộc phải tấn công và chiếm giữ được các khẩu súng.
Những cuộc đụng độ đầu tiên này diễn ra trong khoảng ba giờ đồng hồ. Vào thời điểm này, đội quân người Breton dưới sự chỉ huy của Arthur de Richemont xuất hiện từ phía nam, vượt qua con suối Aure và lúc này tiếp cận lực lượng quân Anh từ bên cánh. Họ là 1.200 kỵ sĩ người Bretons – hầu như tất cả đều là những kỵ binh tinh nhuệ và phi nước kiệu vào trận đánh.
Kyriell đã rút lui trở lại sau khi tấn công vào đạo quân của Clermont và cho chuyển lực lượng của mình thành đội hình của mình chữ “L” trải hơi dài. Với việc quân Anh đã từ bỏ vị trí ban đầu vốn được chuẩn bị kỹ lưỡng ( để tiến lên tấn công vào đạo quân của Clermont ) và bị chia cắt bởi hỏa lực của đối phương, họ ( quân Anh) đã nhanh chóng bị tràn ngập sau một loạt các cuộc tấn công. Kyriell bị bắt tù binh và quân đội của ông đã bị đánh tan.
Hậu quả 
Người Anh đã phải nhận một cú đánh cực kỳ mạnh, 2.500 người đã bị giết hoặc bị thương nặng và 900 người bị bắt tù binh trong khi phe Pháp và Breton chỉ phải chịu mức thương vong thấp hơn nhiều với khoảng 1000 người chết và bị thương. Vì không có một lực lượng quân Anh đáng kể nào khác ở Normandy, toàn bộ vùng này đã thất thủ vào tay người Pháp một cách nhanh chóng sau chiến thắng này. Quân Pháp ở nơi khác lại tiếp tục tiến lên một cách nhanh chóng và quét tất cả quân Anh ra khỏi các vùng đất của Pháp ngoại trừ Calais.
Trận chiến này thường được mô tả như là trận chiến đầu tiên trong đó súng đại bác đã đóng một vai trò quan trọng (trận đánh đầu tiên súng đại bác mang yếu tố quyết định thường được xem là trận chiến Castillon). Điều này là khá khó khăn để đánh giá, các ghi chép còn tồn tại đến hiện đại không ghi chép rõ ràng và người ta còn có thể thấy sự xuất hiện đội quân người Breton của Arthur de Richemont, Công tước tương lai của xứ Brittany-Arthur III, với một lực lượng kỵ binh mạnh mẽ đã tấn công vào bên sườn của quân Anh, buộc họ phải rời khỏi vị trí phòng thủ đã được chuẩn bị kỹ càng của họ là điều rất quan trọng, mặc dù hỏa lực pháo binh từ hai khẩu súng của người Pháp ngay từ ban đầu cũng đóng một vai trò trong đó ( hút quân Anh ra khỏi vị trí của họ ).
Trận chiến Formigny chỉ là trận chiến lớn áp chót của chiến tranh trăm năm, trận chiến lớn cuối cùng của chiến tranh trăm năm là trận Castillon. Như chúng ta đã biết, sau trận chiến này thì quân Anh đã bị đuổi khỏi toàn bộ lãnh thổ của nước Pháp chỉ trừ Calais ( phải mất một thế kỷ nữa thì Pháp mới thu hồi lại được Calais ). Sau khi kết thúc trận chiến thì Anh và Pháp lại ở hai hoàn cảnh hoàn toàn trái ngược nhau. Nước Pháp tương đối hòa bình và phát triển, mặc dù vẫn có những cuộc xung đội và nội chiến đặc biệt là với xứ Burgundy) và trở thành một cường quốc ở Tây Âu, nhưng rồi trên bộ họ lại gặp một đối thủ mới-đó chính là Đế quốc La Mã Thánh thần. Còn nước Anh thì đen đủi hơn nhiều, hậu quả của việc bại trận trong chiến tranh Trăm năm đã đẩy nước Anh vào cuộc nội chiến kéo đến hơn 30 năm giữa hai phe: York-Hoa hồng trắng và Lancaster-Hoa hồng đỏ, nhưng cuộc chiến này sẽ chỉ được tiếp tục giới thiệu ở phần cuối của câu chuyện

Source: http://nghiencuulichsu.com/2015/09/04/chien-tranh-tram-nam-giua-phap-va-anh-bai-7/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.