Thứ Ba, 10 tháng 11, 2015

Chiến tranh trăm năm giữa Pháp và Anh - Bài 4



Một số trận đánh trong cuộc chiến của nhà Caroline năm 1369 -> 1389

Cuộc chiến Trăm năm trong giai đoạn từ năm 1369 -> 1389 được gọi là cuộc chiến của nhà Caroline vì vua Charles V của nước Pháp đã khởi đầu cuộc chiến này vào năm 1369 và kết thúc nó vào năm 1389 sau khi Charles VI-con trai ông-ký hiệp ước hòa bình với Richard II của Anh quốc-con trai của Hoàng tử đen.

Tóm tắt về cuộc đời và sự nghiệp của Charles V

Charles V (ngày 21 tháng 1 năm 1338 – ngày 16 tháng 9 năm 1380), được gọi là The Wise ( khôn ngoan), là vua của nước Pháp từ năm 1364 cho đến khi ông chết vào năm 1380 và là thành viên của Nhà Valois. triều đại của ông đánh dấu một thời đỉnh cao cho nước Pháp trong cuộc Chiến tranh Trăm năm với việc quân đội của ông đã thu hồi nhiều vùng lãnh thổ vốn đã phải cắt cho nước Anh ttheo Hiệp ước Brétigny.
Tuổi trẻ
Charles được sinh ra tại Château de Vincennes ở ngoại ô Paris-Pháp, ông là con trai của vua John II của Pháp với Bonne của Luxembourg. Sau khi cha của ông kế vị lên ngôi vào năm 1350, Charles đã trở thành Dauphin của Pháp. Ông là người Pháp đầu tiên thừa kế và sử dụng danh hiệu vốn đặt tên theo tên của vùng đất Dauphine được mua lại bởi ông nội của Charles từ Đế quốc La mã Thánh thần.Vị vua tương lai là một cậu bé rất thông minh nhưng có thể chất yếu với làn da nhợt nhạt và một cơ thể gầy ốm và cân đối. Ông có một hình dáng trái ngược với người cha của mình-người rất cao lớn, mạnh mẽ và có mái tóc mầu cát, và theo đồn đại tại thời điểm đó thì ông không con trai đẻ của John. Những tin đồn tương tự cũng sẽ theo đuổi Charles VII-cháu trai của ông.
Thời nhiếp chính và cuộc nổi dậy của the Third Estate
Vua John là một chiến binh dũng cảm nhưng bị coi là nhà cai trị kém cỏi và bị xa lánh bởi tầng lớp quý tộc của mình qua việc độc đoán về pháp luật và sử dụng những cộng sự bị coi là không xứng đáng. Sau khi ngừng nghỉ ba năm, cuộc chiến Trăm năm tiếp tục trong năm 1355 với việc Edward-Hoàng tử đen, dẫn đầu một đội quân Anh-Gascon tiến hành một cuộc càn quét đốt phá trên khắp vùng tây nam nước Pháp.
Sau khi chặn đứng một cuộc tấn công của người Anh vào xứ Normandy, John đã dẫn một đội quân khoảng 16.000 người vượt qua sông Loire trong tháng Chín năm 1356 và cố gắng vây bắt đạo quân gồm khoảng 8.000 binh sĩ của Hoàng tử đen tại Poitiers. Từ chối lời khuyên từ một Thống chế là bao vây và bỏ đói Hoàng tử đen-một chiến thuật Edward sẽ chắc chắn bị đánh bại-John đã tấn công các vị trí mạnh mẽ của đối phương.
Trong trận Maupertuis (Poitiers) sau đó cung thủ Anh đã đánh bại hoàn toàn kỵ binh Pháp và John đã bị bắt. Charles đã dẫn đầu một đạo binh Pháp tại Poitiers và đạo quân này đã rút lui ngay đầu trận chiến. Ngày nay người ta cũng không hoàn toàn rõ ràng liệu vua John hay chính Thái tử Charles đã ra lệnh rút lui này. ( mời tham khảo lại trận Poitiers để xem chi tiết)Kết quả của trận chiến để lại nhiều cay đắng và giận dữ nhằm vào giới quý tộc, những người mà theo quan điểm đại chúng là đã phản bội lại nhà vua, nhưng Charles và những người anh em của ông lại thoát khỏi bị đổ lỗi và ông đã nhận được vinh dự khi trở về Paris. Nhà Dauphin triệu tập các thành viên của Estates General ( người đứng đầu các giai cấp ở các vùng, lúc đó nước Pháp có ba giai cấp: Quý tộc, tăng lữ và bình dân – đây là tiền thân của Nghị viện Pháp ) vào tháng 10 để tìm kiếm nguồn tiền cho công cuộc bảo vệ đất nước.
Tức giận với những gì mà họ coi là quản lý yếu kém, nhiều người đã tập hợp lại và tổ chức thành một hội đồng do Etienne Marcel- the Provost of Merchant/ Người đứng đầu của tầng lớp thương nhân (một danh hiệu tương đương với thị trưởng của Paris ngày nay). Marcel đòi bãi nhiệm bảy Bộ trưởng của Hoàng gia, thay thế họ bằng một Hội đồng 28 người, được chọn từ quý tộc, tu sĩ và tư sản và trả tự do cho Charles II của Navarre, một quý tộc hàng đầu người Norman vốn tuyên bố đòi quyền thừa kế ngai vàng của nước Pháp, người vốn bị giam giữ bởi vua John vì đã giết chết vị Nguyên soái của ông ta.
Nhà Dauphin từ chối yêu cầu này, cho miễn nhiệm các thành viên của Estates-General và rời khỏi Paris.Một cuộc thi ý chí tiếp theo sau đó. Trong một nỗ lực để huy động tiền, Charles đã cố gắng để phá giá đồng tiền của Pháp ( chắc là in thêm tiền ); Marcel đã ra lệnh đình công, và nhà Dauphin đã bị buộc phải hủy bỏ kế hoạch của mình và gọi lại các thành viên của Estates vào tháng Hai năm 1357.The Third Estate ( đại diện của tầng lớp bình dân ) trình lên nhà Dauphin sắc lệnh Grand Ordinance-đây là một danh sách 61 điều luậtvốn giao cho the Estates-General quyền phê duyệt các loại thuế trong tương laivà bầu Hội đồng gồm 36 thành viên với 12 người từ mỗi Estate để cố vấn cho nhà vua.
Cuối cùng Charles đã phải ký sắc lệnh này, nhưng những cố vấn vốn đã bị giải tán của ông đã mang tin tức về tài liệu này đến vua John, người đang bị giam giữ tại Bordeaux. Nhà vua đã từchối chấp nhận sắc lệnh này trước khi được đưa tới Anh bởi Hoàng tử Edward.
Charles đã thực hiện được một tiến bộ của hoàng gia trên toàn quốctrong mùa hè năm đó-những chiến thắng có sự hỗ trợ của các địa phương. Trong khi đó Marcel với sự tham gia của Charles de Navarre- người luôn khẳng định rằng yêu cầu lên ngôi của mình cũng phải ít nhất như là của Edward III. Nhà Dauphin quay lại Paris và giành lại được thành phố.
Trong khi đó Marcel sử dụng một vụ sát hại một công dân đang tìm nơi trú ẩn để thực hiện một cuộc tấn công gần vào nhà Dauphin. Triệu tập một nhóm các thương gia, Vị Thị trưởng này đã dẫn đầu cuộc tuần hành của một đội quân 3.000 người, tiến vào cung điện Hoàng gia và đám đông giết chết ngay hai viên Thống Chế của nhà Dauphin ngay trước mắt ông ta. Charles hoàn toàn kinh hoàng, cố gắng chấn tĩnh đám đông trong giây lát và tìm cách gửi gia đình của ông đi xa rồi trốn khỏi thủ đô ngay khi có thể.
Hành động của Marcel đã làm chấm dứt sự hỗ trợ trong số các quý tộc cho the Third Estate và sự ủng hộ tiếp theo của ông ta với phong trào nông dân khởi nghĩa Jacquerie làm suy yếu sự hỗ trợ cho ông từ các thị trấn, ông đã bị ám sát bởi một đám đông trong ngày 31 Tháng 7 năm 1358. Charles đã có thể khôi phục lại Paris vào tháng tiếp theo, sau đó ông đã ban hành một lệnh ân xá chung cho tất cả, ngoại trừ các cộng sự thân thiết nhất của Marcel.
Hiệp ước Bretigny
Vụ bắt giữ John tạo cho người Anh ưu thế trong các cuộc đàm phán hòa bình. Nhà vua đã ký kết một hiệp ước trong năm 1359 theo đó phải nhượng lại phần lớn phía tây nước Pháp cho nước Anh và ấn định một khoản tiền chuộc 4 triệu Ecu cho cả nước. Nhà Dauphin (được hỗ trợ bởi Hội đồng cố vấn của ông và Estates General) đã bác bỏ hiệp ước này và vua Edward sử dụng điều này như là một cái cớ để xâm lược Pháp vào năm sau đó. Edward đến được Reims trong tháng 12 và Paris vào thánh 3, nhưng Charles tin tưởng vào hệ thống phòng thủ của thành phố vốn đã được cải thiện và ông cấm binh lính của mình đối đầu trực tiếp với người Anh.Charles dựa vào các công sự của Paris vốn được tu bổ bởi Marcel và sau đó cho xây lại Bức tường thành phía Bờ trái (Rive Gauche) và xây một bức tường thành mới ỏ Bờ phải, sau đó nó được mở rộng thành một pháo đài mới được gọi là Bastille ( sau này được gọi là pháo đài nhà ngục Bastille- biểu tượng của nền quân chủ chuyên chế Pháp).
Edward cướp phá và lục soát các vùng nông thôn nhưng không thể ép quân Pháp vào một trận đánh quyết định, và cuối cùng đã đồng ý cắt giảm các điều khoản của mình. Chiến lược tránh đối đầu này có thể đã chứng minh là rất có lợi cho nước Pháp trong suốt triều đại củaCharles.Hiệp ước Bretigny, ký kết ngày 8 Tháng Năm 1360, nhượng lại một phần ba phía tây nước Pháp, chủ yếu là ở các vùng Aquitaine và Gascony – cho nước Anh và giảm tiền chuộc nhà vua xuống còn 3 triệu Ecu. Jean được phóng thích vào tháng 10 sau khi người con trai thứ hai của ông-Louis I của Anjou mang chính bản thân đến làm con tin.
Mặc dù cha của ông đã được thả tự do, Charles lại phải chịu những bi kịch cá nhân. Joan-con gái ba tuổi và Bonne-người con trai sơ sinh của ông đã chết trong vòng hai tuần khác nhau; nhà Dauphin đã nói tại lễ tang của hai con là ” nỗi buồn chưa bao giờ ông phải chịu từ trước tới nay” Bản thân Charles đã bị bệnh nặng với tóc và móng tay bị rụng ra, một số gợi ý cho thấy đây là các triệu chứng của ngộ độc asen.Vua John đã chứng minh mình là nhà cầm quyền không hiệu quả khi ông được phóng thích trở về Pháp . Khi Louis của Anjou trốn thoát khỏi nơi giam giữ của người Anh, John tuyên bố ông không có lựa chọn nào khác ngoài việc quay trở lại nơi mình bị giam giữ. Ông đã tới London vào tháng 1 năm 1364 mắc bệnh và đã qua đời vào tháng Tư ở đó.
Lên ngôi vua
Charles lên ngôi vua của nước Pháp trong năm 1364 tại nhà thờ ở Reims, Pháp. Nhà vua mới đã được rất thông minh nhưng ít nói và hay giấu ý nghĩ của mình, với đôi mắt sắc nét, mũi dài và có yểu tướng. Ông bị bệnh gout ở tay phải và abscess ở bên tay trái, có thể đây là một tác dụng phụ của một cố gắng đầu độc ông trong năm 1359. Các bác sĩ có thể điều trị vết thương, nhưng nói với ông rằng nếu nó bị khô thì ông sẽ chết trong vòng 15 ngày. “Không ngạc nhiên”, sử gia Barbara Tuchman nói “nhà vua sống trong ý thức về một sự cấp bách.” Cử chỉ bên ngoài của ông có thể giấu nhiều cảm xúc bên trong; hôn nhân của ông với Joan de Bourbon được xem là rất bền vững và ông đã không cố gắng để che giấu nỗi buồn của mình tại tang lễ của vợ hoặc của những đứa con của ông, năm trong số đó đã chết trước ông ta.
Triều đại của ông đã bị chi phối bởi các cuộc chiến tranh với nước Anh và hai vấn đề chính: phục hồi các vùng lãnh thổ bị mất tại hòa ước Bretigny và Tard-Venus (tiếng Pháp “những người đến muộn”) đó là việc các đại đội lính đánh thuê đã quay sang cướp bóc sau khi Hiệp ước được ký kết. Để đạt được những mục tiêu này, Charles đã chọn một quý tộc trẻ tuổi người Brittany tên là Bertrand du Guesclin làm chỉ huy của họ, người có biệt danh là “con chó đen của Brocéliande”, du Guesclin chiến đấu với người Anh và thu được thành công trong Cuộc chiến kế thừa Breton và là một chuyên gia về chiến tranh du kích. Du Guesclin cũng đã đánh bại Charles II của Navarre trong trận Cocherel năm 1364 và loại bỏ mối đe dọa của vị quý tộc này đến Paris.
Để tìm cách thoát khỏi những người Tard-Venus, đầu tiên Charles đã thuê họ cho một cuộc thập tự chinh vào Hungary, nhưng do tiếng xấu về sự cướp bóc trước đó của họ và các công dân của Strasbourg đã từ chối không để cho họ qua sông Rhine để tiếp tục cuộc hành trình của họ. Tiếp theo Charles lại gửi các đại đội đánh thuê (dưới sự lãnh đạo của du Guesclin) để chiến đấu trong một cuộc nội chiến ở Castile giữa vua Peter Cruel và Henry-người anh em trai ngoài giá thú của ông. Peter được sự ủng hộ của người Anh, trong khi Henry được sự hỗ trợ của Pháp.
Sau chiến dịch Castillan, Hoàng tử đen đã trở nên chìm ngập trong bệnh tật và nợ nần. Sự cai trị của ông ở Gascony ngày càng trở nên độc đoán. Các quý tộc ở Gasconyyêu cầu Charles viện trợ và khi Hoàng tử đen từ chối trả lời một giấy triệu tập tới Paris để trả lời các cáo buộc, Charles đãphán quyết làông ta không trung thành và tuyênchiếnvào tháng 5 năm 1369. Về mặt pháp lý, Charles có đủ quyền để làm điều này, ông không bao giờ chấp nhận việc từ bỏchủ quyền quốc gia và do đó xứ Gascony vẫn thuộc về nhà vua một cách hợp pháp.
Thay vì tìm kiếm một trận chiến lớn như những người tiền nhiệm đã làm, Charles chọn một chiến thuật đánh tiêu hao và chỉ chấp nhận chiến đấu tại địa điểm mà ông có lợi thế. Lực lượng hải quân Pháp và Castillan phá hủy một hạm đội Anh tại La Rochelle vào năm 1372. Sau đó, du Guesclin liên tung ra các cuộc tấn công đột kích bằng hải quân vào bờ biển của Anh, để trả thù cho các cuộc càn quét chevauchée của người Anh.
Bertrand du Guesclin được bổ nhiệm làm Nguyên soái của Pháp trong năm 1370 và ông đã đánh bại một cuộc tấn công lớn của người Anh ở miền bắc nước Pháp bằng chiến thuật sử dụng các cuộc đột kích, bao vây và những trận tấn công dữ dội. Đặc biệt là ông đã nghiền nát Robert Knolles ( một chỉ huy nổi tiếng của Anh) trong trận Pontvallain.Hầu hết các chỉ huy quân sự cao cấp của Anh đã thiệt mạng trong một vài tháng và Hoàng tử đen đã bỏ về Anh nơi ông qua đời vào năm 1371. Tại năm 1374 Charles đã thu hồi tất cả tất cả các vùng đất của Pháp, ngoại trừ Calais và Aquitaine và vô hiệu hoá hậu quả của Hiệp ước Bretigny.
Cái chết của Nhà vua
Những năm tháng còn lại của Charles được sử dụng vào việc củng cố Normandy (và trung hòa sức mạnh của Charles de Navarre). các cuộc đàm phán hòa bình với người Anh vẫn tiếp tục không thành công. Những sắc thuế mới để hỗ trợ cho cuộc chiến tranh của ông chống lại người Anh đã gây bất mãn sâu sắc trong tầng lớp nhân dân lao động.
Vết áp xe trên cánh tay trái của nhà vua đã khô cạn vào đầu tháng Chín năm 1380, và Charles chuẩn bị để chết. Ngày, giờ phút lâm chung có lẽ ông lại cảm thấy sợ hãi cho chính linh hồn của mình, Charles công bố việc bãi bỏ thuế lò sưởi, nền tảng của tài chính của chính phủ. Sắc thuế này là không thể thực thực hiện nổi, nhưng người ta đã biết đến các điều khoản chi tiết của nó và chính phủ đã từ chối cắt giảm các loại thuế khác điều này đã châm ngòi cho cuộc nổi dậy ở Maillotin trong 1381.
Nhà Vua qua đời vào ngày 16 tháng 9 năm 1380 và được kế vị bởiCharles VI-người con trai 12 tuổi của ông. Ông được chôn cất tại Vương Cung Thánh Đường St Denis ở St Denis, Pháp.

Trận Castillon

Thời gian: Ngày 17 Tháng Bảy năm 1453
Địa điểm: Castillon-la-Bataille, Gascony
Kết quả: Quân Pháp giành chiến thắng quyết định
Các bên Tham chiến
Vương quốc Anh
Chỉ huyJohn Talbot, Bá tước của Shrewsbury
Lực lượng :6.000-7.000 người
Tổn thất : 4.000 chủ yếu là bị thương hoặc bị bắt giữ
Vương quốc Pháp
Lãnh địa Công tước xứ Brittany
Chỉ huy : Jean Bureau
Lực lượng : 7.000-10.000 người
Tổn thất : 100 người chết hoặc bị thương
Trận Castillon năm 1453 là trận đánh cuối cùng giữa Pháp và Anh trong Chiến tranh Trăm năm. Đây là trận đánh đầu tiên trong lịch sử châu Âu, nơi mà pháo binh là một nhân tố chính trong việc quyết định yếu tố thành bại của trận chiến.Sau khi quân Pháp chiếm được Bordeaux trong năm 1451, dường như Chiến tranh năm trăm đã đi vào kết thúc. Tuy nhiên sau ba trăm năm dưới sự cai trị của nước Anh, các công dân của Bordeaux tự coi mình là thần dân của vua Anh và gửi sứ giả đến Henry VI của Anh quốc yêu cầu ông này cử binh chiếm lại tỉnh này.Ngày 17 tháng 10 năm 1452, John Talbot, Bá tước Shrewsbury đã đổ bộ xuống gần Bordeaux với một lực lượng khoảng 3.000 kị sỹ và cung thủ. Các đơn vị đồn trú của Pháp đã bị xóa sổ bởi các công dân của Bordeaux, những người sau đó hân hoan mở cửa cho người Anh. Phần lớn phía tây của Gascony đã theo gương của Bordeaux và hoan nghênh ngườiAnh.Trong những tháng mùa đông, vua Charles VII của Pháp tập trung quân đội của mình để sẵn sàng cho một chiến dịch. Khi mùa xuân đến Charles tiến về phía Bordeaux dọc theo ba tuyến đường khác nhau với ba đội quân cùng một lúc.
Talbot nhận được 3.000 lính tăng viện nữa để đối mặt với cuộc phản công của Pháp, nhưng một lực lượng như vậy vẫn đủ về mặt số lượng để chặng hàng nghìn quân Pháp đang tiến về biên giới với Gascony. Khi đội quân đi đầu của Pháp tiến hành bao vây Castillon, Talbot từ bỏ kế hoạch ban đầu của mình và tiến hành một cuộc tấn công để giải vây cho nó. Jean Bureau -chỉ huy của Pháp, đã rất cảnh giác trước sự tiến quân của Talbot, và ra lệnh tập trung từ 7.000 đến 10.000 quân đóng trung quanh doanh trại của mình với một con hào cùng với hệ thống hàng rào và triển khai 300 khẩu pháo trên bờ công sự. Đây là một công cuộc xây dựng hệ thống phòng thủ phi thường của người Pháp, người được hưởng ưu thế về số lượng. Họ đã không thực hiện những cố gắng để tấn công vào Castillon.
Talbot tiến gần đến doang trại của Pháp vào ngày 17 tháng Bảy năm 1453, ông đến đó trước phần chính của quân đội của mình và chỉ đi với một đội xung kích gồm 1.300 kị sỹ.Ông ta cũng đã đánh bại một lực lượng có số lượng tương tự của các cung thủ Pháp (lực lượng dân binh) trong khu rừng trước mặt doanh trại của quân Pháp, chiến thắng này làm cho người của ông tăng sỹ khí lên một cách đáng kể.
Một vài giờ sau cuộc giao tranh ban đầu, một người đưa tin từ thị trấn đến và báo cáo với Talbot-lúc này đang cho quân của ông nghỉ ngơi (họ đã hành quân qua đêm) rằng toàn quân Pháp đang rút lui toàn và rằng hàng trăm người đang cưỡi ngựa để chạy trốn ra khỏi các công sự. Từ trên bức tường thành một đám mây bụi khổng lồ có thể được nhìn thấy từ một khoảng cách khá xa. Thật không may cho ông ta, họ chỉ là những người đi theo doanh trại và đã ra lệnh phải rời khỏi đó trước khi trận chiến nổ ra.
Talbot vội vàng tổ chức lại người của mình và tấn công về phía doanh trại của quân Pháp, và rất ngạc nhiên khi thấy rằng bờ công sự được bảo vệ bởi hàng ngàn cung thủ và tay nỏ cùng hàng trăm khẩu pháo. Tuy ngạc nhiên nhưng không hề nản chí, Talbot đã đưa ra tín hiệu tấn công vào quân đội Pháp. Talbot đã không thể tham gia vào trận chiến một cách trực tiếp. Ông đã bị bắt tù binh và được ân xá trước đó, do đó đã không được phép mang vũ khí chống lại người Pháp ( lời thề trước khi được phóng thích ).
Quân Anh tấn công vào doanh trại của Pháp sau khi vượt qua một con hào, và chỉ để nhận được một trận mưa tên và nỏ cũng với những loạt đạn bắn ra dữ dội từ các khẩu pháo và súng tay hạng nhẹ. Hỏa lực bắn tập trung có thể được giải thích bởi thực tế là com mương- có thể là do tình cờ là một phần của một dòng suối nhỏ, tạo ra một tầm quan sát lý tưởng cho quân đồn trú để phòng thủ.
Khi trận chiến bắt đầu, Talbot nhận thấy rằng lực lượng bộ binh hàng đầu của ông là quá mỏng. Sau đó một giờ các kỵ binh của đội quân người Breton dưới sự chỉ huy của Công tước xứ Brittany đã đến nơi và tấn công vào sườn phải của ông. Người Anh đã bỏ chạy và ngay lập tức bị truy đuổi bởi lực lượng chính của quân đội Pháp.
Trong lúc tháo chạy con ngựa của Talbot đã bị giết bởi một viên đạn pháo hình cầu và ông đã bị mắc kẹt bên dưới nó, cho đến khi một người Pháp-một tay cung thủ Pháp đã nhận ra và giết chết ông ta bằng một chiếc rìu trận. Sau cái chết của ông thì người Pháp đã chiếm lại Bordeaux ba tháng sau đó, hậu quả của nó là mang lại sự kết thúc cho cuộc Chiến Trăm năm .
Một năm sau đó-năm 1453 vua Henry VI của Anh quốc ( phe Lancaster ) bị tâm thần, tiếp sau đó cuộc chiến tranh của Hoa Hồng đã bùng nổ ( nội chiến giữa phe York và phe Lancaster ở nước Anh ) và rõ ràng đã bị mất ưu thế về quân sự trước người Pháp, người Anh đã không còn vị trí nào để tiếp tục theo đuổi các tuyên bố của họ về ngôi vua nước Pháp và bị mất hết đất đai trên lục địa châu Âu (trừ thành phố Calais, sở hữu cuối cùng của Anh tại Pháp, nhưng cuối cùng cũng mất nốt vào năm 1558) và các đảo trên English Channel vẫn thuộc về Anh.
Bertrand du Guesclin
Bertrand du Guesclin (c. 1320 – ngày 13 tháng 7 năm 1380), được gọi là Đại bàng của xứ Brittany hoặc Chó đen của Brocéliande, là một hiệp sĩ người Breton và là vị chỉ huy quân sự của Pháp trong cuộc Chiến tranh Trăm năm. Ông là Nguyên soái của Pháp quốc từ năm 1370 đến khi ông chết. Nổi tiếng với chiến thuật Fabian của mình ( tránh giao chiến đối mặt ), ông đã tham gia vào sáu trận đánh dàn trận cự kỳ dữ dội và thắng bốn trận mà ông nắm quyền chỉ huy.
Bertrand du Guesclin được sinh ra tại Chateau de la Motte de Broen tại Broons, gần Dinan ở Brittany. Gia đình của ông là một gia đình quý tộc nhỏ người Breton- seigneurs của Broons ( ông là con trai thứ trong một gia đình quý tộc địa phương nhỏ, theo phong tục phong kiến hồi đó thì con trưởng sẽ được thừa kế danh hiệu của cha, còn những người con thứ sẽ được gửi đi xa để đào được đào tạo làm Hiệp sỹ và tìm kiếm vinh quang và tiền bạc trên chiến trường, hoặc hề hề lấy vợ để kiếm của hồi môn-máy bay bà già cũng ok).
Ban đầu ông phục vụ Charles của Blois trong chiến tranh Kế vị Breton (1341-1364). Charles nhận được sự hỗ trợ của Hoàng gia Pháp trong khi Jean de Montfort-đối thủ của ông là đồng minh của người Anh. Du Guesclin đã được phong tước hiệp sĩ vào năm 1354 trong khi phục vụ cho Arnoul d’Audrehem sau một trận chiến chống lại một cuộc tấn công của Hugh Calveley vào lâu đài của Montmuran.
Năm 1356-1357, Du Guesclin phòng thủ thành công chống lại một cuộc bao vây nhằm vào Rennes của người Anh dưới sự chỉ huy của Henry de Grosmont bằng cách sử dụng chiến thuật du kích. Trong suốt cuộc bao vây, ông đã giết chết một hiệp sĩ người Anh tên là William Bamborough-người đã thách ông đánh một trận chiến tay đôi.Cuộc kháng chiến dũng cảm của du Guesclin đã giúp khôi phục sự an toàn cho Pháp sau trận Poitiers và du Guesclin đã gây được sự chú ý tới Charles Dauphin.
Sau khi trở thành vua trong năm 1364, Charles cử Du Guesclin đi để đối phó với Charles II của Navarre, người hy vọng đòi được Lãnh địa Công tước Burgundy mà Charles muốn phong cho Philip-em trai của ông. Ngày 16 tháng Năm, ông đã gặp với một đội quân Anh-Navarrese dưới sự chỉ huy của Jean de Grailly và Đại úy de Buch tại Cocherel và đã chứng tỏ khả năng của mình trong trận chiến này khi đánh bại đối phương. Chiến thắng này buộc Charles II của Navarre phải ký kết một nền hòa bình mới với vị vua Pháp và bảo đảm việc Burgundy sẽ được giao cho Philip.
Ngày 29 tháng 9 năm 1364, trong trận Auray, Charles của Blois đã bị đánh bại hoàn toàn bởi John V, Công tước xứ Brittany và lực lượng Anh dưới sự chỉ huy của Sir John Chandos. Charles đã bị giết trong chiến đấu, việc này kết thúc vọng của nhà Blois về việc thừa kế xứ Brittany. Mặc dù đã chiến đấu một cách anh dũng, Du Guesclin vẫn bị bắt tù binh và Charles V của Pháp đã trả khoản tiền 100.000 franc để chuộc ông.
Năm 1366, Bertrand thuyết phục các chỉ huy của những “Đồng ngũ tự to”, những lính đánh thuê đã quay ra cướp bóc dân Pháp sau khi Hiệp ước Brétigny được ký kết, tham gia với ông trong chuyến viễn chinh tới Tây Ban Nha để giúp Henry của Trastamara chống lại Pedro the Cruel. Năm 1366, du Guesclin chiếm nhiều pháo đài (Magallon, Briviesca và cuối cùng là thủ đô Burgos).
Nhưng quân đội của Henry đã bị đánh bại bởi lực lượng ủng hộ Pedro nằm dưới sự chỉ huy của Edward-Hoàng tử đen tại Najera trong năm 1367. Du Guesclin lại một lần nữa bị bắt tù binh và một lần nữa được chuộc bởi Charles V-người coi ông ta là vô giá. Tuy nhiên, quân đội Anh bị tổn thất nặng trong trận chiến khi cứ bốn trên năm lính Anh đã chết trong Chiến dịch Castillan.
Hoàng tử đen bị ảnh hưởng bởi bệnh lỵ đã phải sớm rút lui sự ủng hộ cho Pedro. Du Guesclin và Henry của Trastamara kéo dài các cuộc tấn công và đánh bại ông này ở trận đánh quyết định Montiel (năm 1369). Henry đã đâm chết Pedro trong lều của du Guesclin và đoạt được ngai vàng của Castile. Bertrand đã được phong tước hiệu Công tước của Molina và liên minh Pháp-Castllian đã được ký kết.
Chiến tranh với nước Anh được nối lại trong năm 1369 và Du Guesclin đã được rút về từ Castile trong 1370 theo lệnh của Charles V, người đã quyết định chọn ông làm Nguyên soái của Pháp-nhà lãnh đạo quân sự của vương quốc. Theo truyền thống chức vụ này luôn được trao cho một nhà Đại quý tộc chứ không phải một quý tộc nhỏ như Du Guesclin, nhưng vua Charles V cần một ai đó nổi bật như là một người lính chuyên nghiệp. Trong thực tế Du Guesclin liên tục gặp nhiều khó khăn trong việc ép các Đại quý tộc phục vụ dưới quyền của ông và cốt lõi của quân đội luôn luôn là đoàn tùy tùng của cá nhân ông.
Ông đã được chính thức phong chức vụ Nguyên soái của nhà vua vào ngày 02 tháng Mười năm 1370. Ngay lập tức ông đã đánh bại một đội quân Anh do Robert Knolles chỉ huy trong trận Pontvallain và sau đó chinh phục hoàn toàn xứ Poitou và Saintonge và buộc Hoàng tử đen phải rời khỏi nước Pháp.
Năm 1372, hạm đội Pháp-Castillan tiêu diệt hạm đội Anh trong trận La Rochelle, trận này hơn 400 hiệp sỹ và 8.000 binh sĩ người Anh đã bị bắt. Làm chủ English Channel, du Guesclin tổ chức các cuộc tấn công đốt phá vào bờ biển Anh để trả đũa cho các cuộc càn quét Chevauchée của người Anh.
Du Guesclin đuổi theo quân Anh tại xứ Brittany trong những năm 1370-1374 và một lần nữa đánh bại quân đội Anh trong trận Chizé năm 1373.
Là một chiến binh trung thành, có năng lực về mặt chiến thuật và kỷ luật, Du Guesclin đã tái chinh phục nhiều vùng của nước Pháp từ tay người Anh cho đến khi ông qua đời vì bệnh tật ở Chateauneuf-de-Tế trong khi dẫn đầu một chuyến viễn chinh quân sự ở xứ Languedoc vào năm 1380. Ông được chôn cất tại Saint-Denis trong khu lă.ng mộ của các nhà vua của nước Pháp. Trái tim của ông được lưu giữ tại nhà thờ của Saint-Sauveur tại Dinan.
Vì lòng trung thành của du Guesclin với nước Pháp, vào thế kỷ 20 những người theo chủ nghĩa dân tộc người Breton coi ông là một ‘kẻ phản bội’ lại xứ Brittany. Trong Thế chiến II, những phần tử xã hội quốc gia Breton thân Nazi thuộc Phong trào Lao động Xã hội Quốc gia đã phá hủy một bức tượng của ông ở Rennes.

Trận Brignais năm1362

Trận Brignais là một thất bại gây sốc của quân đội hoàng gia Pháp trước một đội quân Routier ( Lính đánh thuê được tuyển dụng trong thời chiến nhưng trở nên bị thất nghiệp trong thời bình -> quay ra cướp bóc dân lành ) tạm thời được thành lập bởi các đại đội lính tự do ở phía đông nam nước Pháp.
Trận chiến đã nổ ra trong ngày 06 tháng 4 năm 1362 bên ngoài lâu đài Brignais ở gần Lyon. Mặc dù đây là một đòn giáng khủng khiếp vào chính quyền và sự tự tin của chính phủ của vua John II ( khoảng thời gian ngắn nhà vua quay về từ nhà tù Anh để lo tiền chuộc mình ) và một nguyên nhân gây ra hoảng loạn lớn ở phía đông Pháp, cuộc chiến đã nhanh chóng dẫn đến sự chia rẽ của các lực lượng routier và do đó các hậu quả chính trị của nó là khá nhỏ.
Tuy nhiên, thất bại buộc Hoàng gia Pháp tiếp tục những cải cách hàng đầu trong quân sự để tạo ra một quân đội thường trực ăn lương và đội quân này đã chứng minh được hiệu quả trong việc chống lại quân routier và người Anh.Khi Philip de Rouvre, vị công tước xứ Burgundy mới 15 chết bất đắc kỳ tử mà không có người thừa kế vào tháng 11 năm 1361, John II đã cho sát nhập vùng lãnh địa tước Công trù phú này vào Vương quốc Pháp.
Thông báo của nhà vua được chào đón với một sự ảm đạm trong lảnh địa, nơi mà bệnh dịch đang lan tràn, giới quý tộc thì nghi ngờ về vị lãnh chúa mới của họ và một yếu tố là Great Company-một sự kết hợp và phân rã liên tục của các băng nhóm routier ( quân vô chính phủ) đã đe dọa biên giới phía nam của Công quốc.
Trong Tháng 1 năm 1362, nhà vua ra lệnh cho nông dân địa phương phải mang chính bản thân họ và hàng hóa của họ vào bên trong nơi gần nhất của hoặc các pháo đài hoặc thị trấn có tường bao quanh và đặt Burgundy và các tỉnh phía đông dưới quyền chỉ huy quân sự của Jean de Melun-Công tước của xứ Tancarville, người mà vào giữa tháng Ba đã tập hợp được một đội quân mạnh mẽ khoảng bốn ngàn người, bao gồm cả quân đội của xứ Burgundy và các địa phương xung quanh.
Tancarville hành quân về phía nam và tiến hành bao vây một toàn lâu đài nhỏ có tên là Brignais, vốn được nắm giữ bởi một toán quân tách từ Đại đội của Hélie (hoặc Petit) Meschin-người cùng với Garciot du Chatel, đã hợp tác với thủ lĩnh của các toán thảo khấu Se’guin de Badefol, Perrin Boias và các đội trưởng của quân routier khác để trở thành một chỉ huy của Great Company. Mặc dù tầm quan trọng lâu đài Brignais được coi là nhỏ, vị thủ lãnh của quân thảo khấu không thể bỏ qua mối đe dọa từ Tancarville, đặc biệt là kể từ khi một đạo quân của Hoàng gia khác dưới sự chỉ huy của Arnoul d’Audrehem đang tiến về phía họ từ miền nam.
Đến đầu tháng Tư, Meschin và các chỉ huy của quân routier khác đã thu thập một lực lượng khoảng năm nghìn người ở phía bắc của Lyon.Vào sáng sớm ngày 06 tháng 4, Great Company đã tấn công vào quân đội Hoàng gia một cách hoàn toàn bất ngờ. Vì chủ quan khinh địch Tancarville và phó chỉ huy của ông ta là Jacques de Bourbon-Công tước La Marche, đã làm không tiến hành công tác trinh sát trong vùng này hoặc chuẩn bị các hệ thống phòng thủ như hào, hàng rào, cọc nhon… để bảo vệ doanh trại của họ.
Các lực lượng hoàng gia đã bị tiêu diệt hoàn toàn trước khi họ có thể cầm được vũ khí, hơn một ngàn người đã bị bắt tù binh, bao gồm cả Tancarville, và hầu hết số còn lại đã bị giết chết, bao gồm cả La Marche, người đã chết vì vết thương sau trận chiến.
Chính phủ Hoàng gia sững sờ khi nhận được tin tức về thất bại này và ở miền đông nước Pháp bị rơi vào tình trạng hỗn loạn, tất cả các địa phương hàng ngày chỉ còn biết lo sợ và đề phòng sự xuất hiện của Great Company. Tuy nhiên, vì các chỉ huy của quân routier không thể tổ chức lực lượng của họ lại với nhau một khi trận chiến đã kết thúc thắng lợi. Họ đồng ý thả tự do cho Tancarville để đổi lấy thỏa thuận ngừng bắn vốn được kéo dài đến cuối ngày 26 tháng Năm. Tuy nhiên vào lúc đó, các cuộc đàm phán giữa quân routier và chính phủ Hoàng gia đã bị phá vỡ và bản thân Great Company đã bị phân tán ra thành những toán nhỏ- mối nguy hiểm tức thì đã qua đi mà không để lại hậu quả lớn hơn nữa cho chính phủ của vương quốc Pháp, mặc dù vùng Burgundy và các tỉnh láng giềng vẫn tiếp tục bị cướp bóc, đốt phá bởi các toán quân routier.
Tuy nhiên, cú sốc về thất bại của trận Brignais đã giúp thúc đẩy cải cách mà kết quả là một sắc thuế mới để tài trợ cho một đội quân thường trực mới đã được ấn hành trong triều đại của Charles V. Vào lúc Charles V qua đời trong năm 1380, đội quân mới đã lấy lại được nhiều vùng đất thuộc xứ Aquitaine đang nằm trong tay người Anh và đã trấn áp phần lớn các toán quân routier.

Trận AURAY (1364)

Trận chiến nổ ra trong ngày 29 Tháng Chín năm 1364 ở bên ngoài cổng của bến cảng Breton, trận đánh quyết định Auray đã đã kết thúc cuộc nội chiến kéo dài ở vùng Breton.
Năm 1363, sau 23 năm chiến tranh, hai đối thủ cạnh tranh danh hiệu công tước xứ Brittany đã đồng ý phân chia công quốc Brittany giữa bọn họ, với John de Montfort, người yêu cầu người Anh hậu thuẫn, ở phía tây nam và Charles de Blois- ứng cử viên được Pháp ủng hộ, giữ phía đông bắc.
Việc trao danh hiệu chính thức-Công tước xứ Brittany được quyết định bởi các vị vua của nước Anh và Pháp, Edward III và John II, những người về mặt lý thuyết là trung lập trong cuộc tranh chấp này. Tuy nhiên, câu hỏi vẫn chưa được trả lời khi cuộc nội chiến lại được tiếp tục vào tháng Tư năm 1364. Trong tháng Bảy, de Montfort bao vây Auray, một trong những thị trấn bờ biển phía nam kiểm soát được bởi đối thủ của ông ta ( nhà Blois ).
Với sự giúp đỡ của Bertrand du Guesclin, một người Breton sau đó phục vụ cho Charles V-vị vua mới của Pháp, Charles de Blois gây dựng được một đội quân của hơn ba ngàn người.Mặc dù được ủng hộ bởi các quý tộc Hoàng gia ở Normandy, Charles de Blois lại không nhận được sự hỗ trợ chính thức từ Charles V, thậm chí ông này còn lấy mất du Guesclin làm Đại úy chỉ huy đội quân người Norman của ông để can thiệp vào Brittany (vua Charles V kết Bertrand du Guesclin chẳng khác gì Lưu Bị kết Triệu Tử Long ).
De Montfort cũng không nhận được sự hỗ trợ từ London nhưng ông này lại nhận được những viện trợ quan trọng từ những viên đại úy người Anh ở địa phương là Sir Robert Knolles và Sir Hugh Calveley. Sir John Chandos cũng ủng hộ de Montfort với một lực lượng nhỏ quân Anh ở xứ Gascony. Vào tháng Chín, quân đội của de Montfort có số lượng hơn hai nghìn người, với hầu hết trong số họ được rút ra từ những đội quân Anh ở địa phương. Như vậy, mặc dù Hoàng gia Anh và Pháp vẫn tỏ ra trung lập, bất chấp đại diện của họ tại Brittany tích cực tham gia vào cuộc chiến.Đến Auray vào ngày 29 tháng 9, Charles de Blois chuẩn bị cho trận chiến ngay lập tức.
Chỉ huy lực lượng của de Montfort, đội quân mà ông đặt trên đỉnh đoạn vượt sông, Chandos ( một cựu binh-trong trận Poitiers ) triển khai quân đội của mình thành ba đại đội, với chính ông ta và Sir Matthew Gourney chỉ huy cánh phải, Knolles chỉ huy bên cánh trái và de Montfort chỉ huy cánh trung tâm. Calveley thì cảm thấy rất thất vọng vì đã bị cử về phía sau để chỉ huy đội dự bị.
Charles de Blois cũng triển khai quân đội của mình theo một đội hình tương tự, ông đã giao quyền chỉ huy ba đại đội của mình cho du Guesclin; Jean de Chalon-con trai của Bá tước Auxerre và chính ông ta.Trong các cuộc đàm phán trước trận chiến, những người Bretons ở mỗi bên (John de Montfort và Charles de Blois) cho thấy một sự sẵn lòng thỏa hiệp hơn so với các đồng minh người Anh và người Pháp của họ. Người Anh đe dọa giết sứ giả của Charles nếu còn tiếp tục kéo dài các cuộc đàm phán và du Guesclin kêu gọi Charles giành chiến thắng để chiếm toàn bộ công quốc cho chính mình, một tình trạng đã làm cho một số người Bretons của phe Charles bỏ khỏi chiến trường ( chắc thấy mệt mỏi vì thương lượng ).
Chiến đấu trên bộ đã hạn chế hiệu quả của các cung thủ Anh, trận chiến mở với việc quân đội Anh-Breton bắt tù binh Jean de Chalon và đẩy cánh quân của ông này vào làm rối loan đội quân của du Guesclin. Sau đó Chandos tập trung các đội quân của ông để tấn công vào Charles de Blois, vốn lúc này rất dễ bị tổn thương bởi số người đào ngũ lúc càng cao hơn nữa từ đội quân của mình. Đội quân của Charles bị áp đảo, ông này đã bị giết và quân đội của ông đã bị đánh tan. Trận chiến bây giờ đã trở thành một cuộc tháo chạy hỗn loạn. Người của De Montfort đã giết gần tám trăm bắt tù binh hơn một ngàn năm trăm quân đối phương kể cả du Guesclin, người đã phải nộp cho Chandos gần 20.000 £ tiền chuộc ( và tiền chuộc được trả bởi vua Charles V của Pháp ).
Với việc Charles de Blois bị giết chết và con trai của ông cũng đã chết hoặc bị giam cầm, sự nghiệp của ông cũng bị sụp đổ và những người ủng hộ ông quay ra quy phục de Montfort. Mặc dù ông đã chiếm được công quốc Brittany với viện trợ của người Anh, lúc này de Montfort lại kết thúc mối liên minh này và nhanh chóng tỏ lòng trung thành của ông với Charles V của nước Pháp. Vua Pháp chấp nhận kết quả của trận Auray và đứng ra làm trung gian cho Hiệp ước Guerande, theo đó Jeanne de Penthievre, góa phụ của Charles de Blois-người có quyền yêu cầu thừa kế Công quốc, đã thừa nhận de Montfort như Công tước John IV của Brittany vào Tháng Tư năm 1365. ( như vậy ta có thể thấy trong trận này về mặt quân sự Liên quân Pháp-Breton đã thất bại hoàn toàn, nhưng về mặt chính trị thì người Pháp lại toàn thắng)

Trận Nájera năm1367

Trận Nájera (hoặc Navarrete) là một trận chiến nổ ra ở gần phía đông bắc của thị trấn Nájera của xứ Castile ( nay thuộc Tây ban Nha ) vào ngày 03 Tháng Tư 1367 giữa quân đội Anh-Gascon được chỉ huy bởi Edward Hoàng tử đen và một lực lượng Pháp-Castilian được chỉ huy bởi Bertrand du Guesclin-Nguyên soái của Pháp và Henry của Trastámare-người có yêu cầu thừa kế ngôi vua Castile.
Là một thắng lợi lớn cho Hoàng tử đen, Nájera là kết quả của sự can thiệp của cả Anh và Pháp vào trong chiến tranh kế vị xứ Castile, một cuộc xung đột vốn tạo cho cả hai phe trong chiến tranh trăm năm một cơ hội để sử dụng các Routiers ( lính đánh thuê vô chính phủ), những người đã tàn phá đất đai của họ và một cơ hội để tấn công vào lợi ích của nhau và không công khai gây nguy hiểm cho Hiệp ước Hòa bình Bretigny ( đơn giản là để tránh vi phạm hiệp ước Hòa bình thì cả Anh và Pháp lôi nhau ra một góc rồi tẩn nhau thông qua bên thứ ba là xứ Castile).
Mặc dù đây là một thành công quân sự, trận chiến và hậu quả của nó lại là một tai họa về mặt chính trị cho Hoàng tử đen, những nỗ lực hết mình của ông để có được nguồn tài chính trang trải cho những chi phí của chiến dịch này đã bắt đầu những sự kiện cuối cùng lại dẫn đến việc nối lại cuộc chiến tranh Trăm năm.Bị nghi ngờ đã đầu độc bà vợ người Pháp của ông ( chắc là để cưới vợ trẻ đẹp hơn hé hé ) và được gọi là”Cruel-kẻ tàn bạo” vì sự cai trị khắc nghiệt của mình, Pedro I của Castile bị lật đổ bởi-Henry của Trastámare, người anh em cùng cha khác mẹ với ông vào tháng ba năm 1366.
Được hỗ trợ bởi một đội quân đánh thuê dưới sự chỉ huy của du Guesclin và gồm cả rất nhiều người Anh như Đại úy Hugh Calveley, Trastámare đã lên ngôi vua của Castile vào ngày 29 Tháng Ba, một ngày sau khi Pedro bỏ chạy khỏi Burgos- thủ đô của xứ Castile. Bằng cách ủng hộ Trastámare, Charles V và người anh em trai của ông-Louis, Công tước xứ Anjou- trung úy của Hoàng gia ở Languedoc, đã có thể quét sạch nạn lính đánh thuê-vô chính phủ, chuyên cướp bóc-ở miền nam nước Pháp và cài một đồng minh hùng mạnh của nước Pháp vào phía nam biên giới của vùng Aquitaine của nhà Plantagenet.
Vào cuối Tháng bảy, Pedro đã đến vùng Aquitaine, ở đây trong một nỗ lực để giành hỗ trợ cho sự nghiệp của ông, ông mở các cuộc đàm phán với Hoàng tử và Charles the Bad-vua của Navarre. Ngày 23 tháng Chín, cả ba đã ký kết Hiệp ước Libourne, theo đó Pedro hứa trả bằng tiền bạc và đất đai cho các đồng minh của mình để đổi lấy sự trợ giúp của họ trong việc khôi ngôi vua của ông tại xứ Castile.
Mặc dù nhiều người trong đoàn tùy tùng của hoàng tử không thích và không tin tưởng Pedro, nhưng Edward III và các bộ trưởng của ông đã được báo động về mối đe dọa của một xứ Castile thân Pháp, trong khi vị hoàng tử ( phó vương của vua Edward III tại xứ Aquitaine), ngoài việc rất muốn được tiến hành các chiến dịch quân sự, thì cũng giống như người Pháp-ông rất lo lắng trong việc giải phóng vùng đất của mình khỏi sự cướp phá của những đám lính vô kỷ luật.
Dựa vào việc Pedro giữ lời hứa của mình rằng sẽ trả tiền cho chiến dịch, vị Hoàng tử quy tập một đội quân mười ngàn người và trong tháng 2 năm 1367 đã dẫn đầu bọn họ đi vượt qua rặng núi Pyre’ne’an ( Dãy núi nổi tiếng hiểm trở giữa Pháp và Tây Ban Nha ngày nay ), vốn được mở ra cho những kẻ xâm lược bởi nhà vua của Navarre-người cũng đã gửi quân nhưng chính bản thân ông ta lại từ chối tham gia.
Nhà vua Pháp đưa ra lời khuyên nên tránh cuộc chiến và chờ cho cái đói và kiệt sức sẽ buộc Hoàng tử sẽ thu hồi quân, Trastámare đã cho mời du Guesclin và rất nhiều những viên Đội trưởng Pháp đã phục vụ ông trong các trước năm. Vì lực lượng chủ yếu của họ đã được triển khai tại Aragon, người Pháp chỉ cử một ngàn người để làm tăng viện cho quân của Trastámare ở Castilian. Khi quân đội Anh-Gascon tiến tới vùng của Trastámare, các thị trấn và các đơn vị đồn trú tại của nó trên đường hành quân của quân Anh đã chóng tuyên bố ủng hộ Pedro. Ngày 1 tháng Tư, Trastámare, lo ngại sự sụp đổ sắp xảy ra của những lực lượng hỗ trợ về chính trị của ông, đã từ bỏ chiến lược phòng thủ và kêu gọi Charles V triển khai lực lượng của ông ta trên mặt đất để khống chế con đường chính từ Logrono ở gần thị trấn Nájera-một vị trí mà sau này hoàng tử gọi là ”một tốt nơi đang chờ đợi chúng ta”.
Ngày 2 Tháng tư, hoàng tử rời Logrono, tiến tới làng Navarrete, nơi ông cho quân đội của mình tập hợp thành đội hình dã chiến. Đơn vị tiền quân bao gồm các cung thủ Anh và những kỵ sỹ-những người trên danh nghĩa do là do Joh của Gaunt, công tước xứ Lancaster, em trai của Hoàng tử đen chỉ huy, nhưng trong thực tế họ được chỉ huy bởi viên chỉ huy cực kỳ giàu kinh nghiệm-Sir John Chandos. Phần chính của quân đội Anh gồm phần lớn là những binh sỹ người Gascons, những chỉ huy ở bên cánh phải là Arnaud-Amanieu, Lord Albret và John-Bá tước của Armagnac và ở bên cánh trái là Jean de Grally, Đại úy de Buch. Ở cánh trung tâm đích thân Hoàng tử chỉ huy các nhóm lính đánh thuê khác và những người Castile lưu vong. Sau khi lập xong đội hình, quân Anh rời đường lớn và tiến theo đường bộ và hướng về phía đối phương từ phía bắc, một cuộc hành binh vốn sẽ làm họ xuất hiện ở phía cánh trái của Trastámare vào bình minh ngày 03 tháng 4.
Rất ngạc nhiên bởi tốc độ và hướng tấn công của đối phương, du Guesclin buộc phải ra lệnh cho binh lính của mình nhanh chóng di chuyển và quay từ phía đông sang phía bắc để đối mặt với quân địch. Giữa sự hoảng loạn và nhầm lẫn gây ra bởi động tác này, phần lớn các bộ binh và kỵ binh người Castilian đã đào thoát sang phía đối phương. Lo sợ có sự tan rã trong của lực lượng của ông, du Guesclin ra lệnh cho các kị sỹ người Pháp và của ông Castile xuống ngựa tấn công.
Họ phải đối mặt với đạo quân do Lancaster và Chandos chỉ huy mà đạo quân này cũng xuống ngựa để chiến đấu. Người Anh đã tổ chức tấn công bằng các cung thủ vào người Pháp để cho phép cánh quân người Gascon trong quân đội của hoàng tử để bắt đầu một bao vây nhằm vào người của du Guesclin. Được chỉ huy bởi Trastámare và anh em của ông, các kỵ binh hạng nặng người Castilian đã từ chối xuống ngựa để chiến đấu trên bộ, họ tấn công vào đối phương nhưng ngay lập tức đã bị tàn phá bởi những cơn mưa tên của người Anh, cũng giống như người Pháp đã bị tại Crécy.
Lúc này Hoàng tử đen mới ra lệnh tất cả các đội tấn công, đạo quân của chính ông tấn công vào chiến tuyến của người Castile dọc theo phía trước trận địa của họ trong khi các Bá tước Lancaster và Chandos cũng tiến lên để tấn công họ. Ngay lập tức quân đội của Trastámare tan rã, hơn một nửa số quân của ông ta đã bị tiêu diệt trong khi cố gắng bỏ trốn. Quân đội của Hoàng tử đen bị tổn thất rất nhỏ, còn Trastámare mất hơn năm ngàn người nhưng bản thân ông ta đã chạy thoát khỏi chiến trường, còn du Guesclin, viên Thống chế Pháp Arnoul d’Audrehem và hầu hết các Đội trưởng hàng đầu của Trastámare đều bị bắt tù binh.
Trận Nájera cũng tựa như ở Poitiers, đã trở nên hỗn loạn ở giai đoạn cuối của cuộc chiến do sự tranh giành các tù nhân và tiền chuộc. Mặc dù nhiều người trong đội quân của ông đã kiếm được cả một tài sản từ tiền chuộc, vị hoàng tử đã lại ngay lập tức trở nên bất hòa với Pedro, người vốn được ông khôi phục ngai vàng khi ông này tuyên bố mình không thể trả khoản nợ của ông ta cho hoàng tử đen và cũng không muốn nhường cho ông ta một phần lãnh thổ của mình vì lý do an ninh.
Vào cuối Tháng tám, khi Pedro bội ước lại lời hứa của mình và không chịu thanh toán lần đầu tiên cho những gì ông nợ, Hoàng tử đen lúc này bị bệnh lỵ-căn bệnh cuối cùng sẽ giết ông ta và không thể đủ tài chính để duy trì người của mình trong vùng này nữa và đã phải rút ​​lui về vùng Aquitaine với hai bàn tay không. Ông buộc phải tăng thuế tại vùng Aquitaine trả tiền cho chiến dịch, do đó đã làm cho các quý tộc người Gascon như Armagnac và Albret đã chở nên xa lánh và thậm trí còn kiến ​​nghị Charles V chống lại Hoàng tử, những lý do này đã tạo cho nhà vua Pháp cớ để tiếp tục cuộc Chiến tranh Trăm năm trong năm 1369.

Trận Pontvallain

Trận Pontvallain là một trận chiến quan trọng của nước Pháp với nước Anh trong chiến tranh Trăm Năm.
Đó là trận chiến nổ ra vào đầu tháng 12 năm 1370 tại vùng Sarthe giữa lực lượng Anh đã bị gãy ra khỏi quân đội chỉ huy bởi hiệp sĩ Anh-Sir Robert Knolles và một đội quân của Pháp dưới sự chỉ huy của vị Nguyên soái mới được bổ nhiệm-Bertrand du Guesclin.
Trên thực tế trận chiến bao gồm hai cuộc đụng độ riêng biệt, một tại Pontvallain và một nhỏ hơn tại thị trấn Vaas lân cận nên đôi khi chúng được đặt tên thành hai trận riêng biệt.
Mặc dù đây chỉ là trận chiến có quy mô tương đối nhỏ, nhưng nó rất có ý nghĩa bởi vì người Anh đã phải tháo chạy và nó kết thúc danh tiếng 30 năm bất khả chiến bại trong trận chiến dàn trận của người Anh.Robert Knolles đổ bộ xuống Calais trong tháng Tám năm 1370 với một đội quân khoảng 6.000 bộ binh và kị binh để thực hiện một chiến dịch theo kiểu của một cuộc tấn công cướp bóc chevauchée xuyên qua miền Bắc nước Pháp. Ông đã tiến đến gần Paris vào ngày 24 tháng Chín và đã cố gắng khiêu khích với người Pháp để mở một trận chiến dàn trận, nhưng họ đã không mắc bẫy và tính đến tháng Mười Knolles đã di chuyển về phía nam và hành quân về phía Vendôme.
Ông đã tiêu diệt lực lượng đồn trú trong các lâu đài và tu viện giữa các con sông Loir và Loire và để có thể đi tới Poitou hay chọn cách khác tiến vào miền Nam Normandy nếu vua Edward III ký kết được một thỏa thuận với Charles II của Navarre, người sẵn sàng hiến vùng đất của mình tại miền Bắc Normandy như là một căn cứ cho người Anh. Nhiều Đội trưởng cấp dưới, những người tự coi mình khi sinh ra đã giỏi hơn Knolles, lên án sự thiếu rõ ràng của ông về tinh thần thượng võ. Họ thấy những khả năng của một nhà chỉ huy trong Sir John Minsterworth, một hiệp sĩ đầy tham vọng và không ổn định từ các cuộc hành binh ở xứ Wales, người luôn chế giễu Knolles là “một tên kẻ cướp già “.
Trong khi đó Charles V của Pháp đã phong cho hiệp sĩ của ông tốt nhất-Bertrand du Guesclin chức vụ Nguyên soái của nước Pháp và giao cho ông ta nhiệm vụ tiêu diệt đạo quân của Knolles. Tháng du Guesclin tập trung lực lượng của mình tại Caen, nơi ông nhận được quân tiếp viện dưới sự chỉ huy của các Thống chế Mouton de Blainville và Arnoul d’Audrehem cũng như một đạo quân người Breton dưới sự chỉ huy của Olivier de Clisson. Như vậy ông đã có một đội quân khoảng 4.000 người.
Một đội quân thứ hai khoảng 1.200 người được tập hợp ở phía sau Knolles tại Châtellerault dưới sự chỉ huy của Thống chế Sancerre, mà sau đó di chuyển về phía Knolles từ Đông trong khi Du Guesclin bắt đầu di chuyển về phía ông ta từ phía bắc. Knolles lưu ý rằng quân Pháp đang đến gấn và lúc này đề nghị rút quân về phía tây vào vùng đất của người Anh trước khi ông có thể bị bao vây, nhưng các Đội trưởng của ông đã không đồng ý và phản ứng một cách dữ dội, họ muốn trú đông tại đó và họ sẽ tiếp tục tấn công các vùng nông thôn xung quanh, họ tự tin rằng có thể đánh bại bất kỳ cuộc tấn công nào của người Pháp.
Kết quả là quân Anh bị chia rẽ; Knolles cầm đầu một đội ngũ bao gồm đoàn tùy tùng của mình rồi đi về phía Tây, đến chỗ người Anh. Phần còn lại, có số lượng gồm khoảng 4.000 người, đã ở lại trong khu vực thung lũng sông Loir và được chia thành ba toán, một toán được chỉ huy bởi Sir Thomas cùng với Sir Grandison và Sir Hugh Calveley, hai toán kia được chỉ huy bởi Sir Walter, Lord Fitzwalter và Minsterworth.Trận chiến
Du Guesclin rời Caen với quân đội của mình vào ngày 01 tháng 12 và hành quân về phía nam với tốc độ lớn, tới gần Le Mans vào ngày 3 tháng Mười Hai. Ông đã nhận được thông tin tình báo rằng lực lượng của Grandison và Fitzwalter đang bị trải ra và cắm trại giữa Pontvallain và Mayet và mặc dù quân đội của ông đã kiệt sức, ông vẫn ra lệnh hành quân ngay lập tức vào ban đêm để đến Pontvallain và tấn công người Anh vào lúc bình minh ngày 4 tháng Mười Hai.
Cuộc tấn công hoàn toàn bất ngờ, Grandison đã cố gắng rút lui về phía bắc, nhưng người Pháp đã đuổi kịp với ông ta ở dưới chân các bức tường thành của Château de la Faigne. Mặc dù viên Thống chế của Pháp chỉ huy trận này đã bị thương nặng (Arnoul d’Audrehem sau đó đã chết vì vết thương của mình), nhưng lực lượng của Grandison đã hầu như bị xóa sổ và bản thân ông ta đã bị bắt làm tù binh. Các cung thủ Anh-những người là kiến ​​trúc sư của các chiến thắng trong những trận chiến trước đó với người Pháp, đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi chon sai vị trí nên mặc dù đã bắn tên như mưa nhưng vẫn không thể xuyên qua áo giáp của quân sỹ của du Guesclin hoặc để phá vỡ trận địa của quân Pháp.
Trong khi đó Sancerre tiếp cận được với đội quân của Fitzwalter từ phía đông. Quân Anh chạy về phía nam đến tu viện kiên cố tại Vaas, Sancerre đã ngay lập tức tấn công sau khi du Guesclin đến kịp để tiếp viện cho ông ta thì người Anh đã bị thảm sát.
Du Guesclin tuyên bố Fitzwalter là tù nhân của mình (dường như ông nghĩ Fitzwalter là một Thống chế của Anh). Ông này đã bị giữ tù nhân cho đến khi ông có thể huy động được một khoản tiền chuộc mình bằng cách thế chấp vùng đất Cumberland của mình theo các điều khoản tồi tệ cho Alice Perrers-người tình của Edward III. Đạo quân của Sir John Minsterworth đã trốn thoát vào xứ Brittamy sau Knolles-người vốn bị truy đuổi không thành công bởi Olivier de Clisson. Sir Hugh Calveley trốn thoát vào Poitou.
Khoảng 300 người Anh sống sót, cộng với các đơn vị đồn trú của nhiều lâu đài Knolles đã chiếm đóng, cố chạy về phía nam và phía Bordeaux nhưng họ đã bị truy đuổi bởi du Guesclin và Sancerre, ngay sau khi đã vượt qua Loire thì họ đã bị đuổi kịp và hầu như bị xóa sổ bên dưới các bức tường thành của lâu đài Bressuire, vốn được nắm bởi người Anh nhưng không mở cổng ra cho họ vào ( có thể sợ quân Pháp tràn vào theo ).
Knolles và Minsterworth trú qua mùa đông ở Brittany và sau đó cố gắng để dẫn dắt đại đội của họ đến cảng Saint-Mathieu để bắt tàu về Anh, nhưng tất cả các con đường của họ đã bị chặn bởi Olivier de Clisson và chỉ có hai chiếc tàu đến đón họ, do đó phần lớn người của họ đã bị để lại trên bờ và bị tàn sát bởi người Pháp. Ở Anh Minsterworth đã cáo buộc Knolles về trách nhiệm với tai họa. Trong tháng 7 năm 1372 Hội đồng của nhà vua đã quyết định lỗi chính thuộc về Knolles và đã tước bỏ các vùng đất ông để bù vào các chi phí để tổ chức chiến dịch. Minsterworth đã bị bắt và bị buộc tội đã chống lại mệnh lệnh của Knolles, nhưng sau đó ông đã trốn thoát và chạy sang Pháp, nơi ông đã đổi phe và phục vụ cho Charles V. 

Trận Montiel 

Trận chiến Montiel là một trận đánh trong thời kỳ chiến tranh trăm năm và cuộc xung đột trăm vệ tinh của nó-cuộc nội chiến của Castile. Trong đó, quân đội của Liên minh Pháp-Castile đã dành chiến thắng trước Liên minh Anh-Castile.
Liên minh Pháp-Castile được chỉ huy bởi Henri de Trastámara (sau này là Henry II của Castile) đã giành được chiến thắng trước lực lượng kia vốn được chỉ huy bởi người anh trai em của ông-Pedro the Cruel.
Nguồn gốc của cuộc xung đột
Người anh em ngoài giá thú của Vua Peter I của Castile (được gọi là the Cruel), Enrique de Trastámara với hy vọng lên ngôi của xứ Castile đã yêu cầu người Pháp hỗ trợ về quân lực để giúp đánh bại lực lượng của chính phủ xứ Castile. Do đó Bertrand du Guesclin-vị Nguyên soái vốn có tầm chiến thuật tuyệt vời của Pháp đã vượt qua dặng núi Pyrenees và cùng với Henry ( tiếng TBN là Enrique ) để đánh trận Montiel, đây là một trận đánh lớn trong lịch sử chiến tranh Tây Ban Nha (Nội chiến của xứ Castile) và là vệ tinh của cuộc xung đột kéo dài với nhiều trận đánh lớn nhỏ ở nhiều mức độ lục- chiến tranh Trăm năm.
Điều này cuộc chiến giữa anh em (nghĩa đen và nghĩa bóng) đã tồn hơn mười lăm năm.Henry bị thúc đẩy bởi tham vọng làm vua của ông nên đã quyết định xâm lược xứ Castile trong năm 1360 và dễ dàng chiếm thành phố Najera. Tuy nhiên, Peter đã nhanh chóng hành quân và tổ chức một trận đánh với người anh em trai của ông trong thành phố này và đánh bại ông ta vào cuối tháng Tư. Sau đó, thấy rằng kẻ thù của mình chạy trốn ngoài biên giới của vương quốc, nhà vua đã ký một hiệp ước dẫn độ với nhà vua Bồ Đào Nha để bắt giữ những kẻ lưu vong và ra tay trừng phạt những kẻ ủng hộ người anh em trai của mình và những kẻ chống đối khác.
Trong khi đó Henry sống sót sau trận chiến Najera đã vượt qua Pyrenees và đến nước Pháp, nơi mà triều đình đã có cảm tình với ông ta. Ông đã bỏ ra một số tiền lớn để thuê một đội quân đánh thuê và vượt qua Aragon trong năm 1366 và lần thứ hai mở ra một cuộc nội chiến ở xứ Castilla. Sau khi chiếm được Calahorra, Navarrete và Briviesca, ông đã lên ngôi vua của xứ Castile và Leon.
Liên minh của Pedro với nước Anh
Vào cuối chiến dịch này, Edward-Hoàng tử xứ Wales- con trai của vua nước Anh , người được gọi là Hoàng tử đen, muốn can thiệp vào cuộc xung đột huynh đệ tương tàn để có cơ hội tìm kiếm lợi ích bản thân trong cuộc xung đột của ông với Pháp. Khi vương quốc Castile của Trastámara được hỗ trợ bởi người Pháp, ông này quay ra ủng hộ Pedro the Cruel qua việc cung cấp vũ khí, binh lính và trang thiết bị. Năm 1367 quân đội của Liên minh Anh-Castile tiến vào xứ Castilla và lại một lần nữa đánh bại Enrique ở trận Najera. Bertrand Du Guesclin-Nguyên soái của Pháp chỉ huy của quân đội của Henry, đã bị bắt tù binh nhưng sau đó được trả tự do, ông đã trốn sang xứ Aragon.Peter đã gây thất vọng vì không chịu trả các chi phí của chiến dịch và sự trả thù khát máu mà nhà vua Castilian dùng để trừng phạt kẻ thù đã bị đánh bại của ông ta đã gây ra rất nhiều căm phẫn, Hoàng tử đen đã chấm dứt liên minh của mình với Pedro và rời khỏi bán đảo Iberia vào tháng Tám năm đó cùng quân đội của ông và để mặc Pedro ở lại xứ này. Khi biết rằng quân Anh đã bỏ đi, Enrique lại một lần nữa tiến hành xâm chiếm xứ Castile trong một chiến dịch mới kéo dài một năm rưỡi.
Trận chiến tại Montiel
Pedro đã tập hợp một đội quân lớn bao gồm người Tây Ban Nha, người Moor và cả người Do Thái để bù đắp vào sự thiếu hụt do quân đội của Edward-Hoàng tử đen đã bỏ lại. Lúc này biết được rằng người anh em của ông trên thực tế đã cai trị một nửa vương quốc và hành quân đến để lật đổ ông, Pedro cũng mang quân đội của mình đến để đối mặt với họ ở dưới chân của những bức tường thành của lâu đài Montiel.
Trận chiến diễn ra cực kỳ đẫm máu, nhưng Henry đã đánh bại được Pedro và buộc ông này phải trốn vào bên trong pháo đài vào ngày 14 tháng Ba.
Bị bao vây bởi lực lượng của người anh em trai của mình, Pedro the Cruel đã cố gắng một cách tuyệt vọng để thương lượng đầu hàng một cách riêng biệt với Du Guesclin, người mà ông coi là dễ tiếp cận hơn. Quân Pháp dường như đồng ý với ông ta và hứa hẹn cho ông đào thoát, nhưng thay vì mở một khe hở cho ông thoát ra ngoài, thì Du Guesclin lại mang ông trực tiếp đến trại của Henry. Sau đối mặt với nhau hai người anh em lao vào nhau với ý định giết đối thủ: Pedro bị Enrique đã giết chết ông ta khi Du Guesclin-một người có sức khỏe khủng khiếp, đã túm chân của nhà vua và ấn ông ta xuống và rồi Henry đè lên người anh trai rồi đâm nhà vua liên tiếp. Khi bị cáo buộc bội ước bởi Peter, vị tướng Pháp đã trả lời bằng nói nổi tiếng của ông: Tôi không làm gì để phế truất một vị vua, tôi chỉ giúp chúa của tôi ( chính xác, ông ta là quân nhân nên phải hết lòng vì chủ của mình, còn là tự ông kia ngủ mê nên sa bẫy mà thôi ).
Pedro đã bị giết chết và người em trai mang đầu và thân của xác chết vào hai tấm ván gỗ rồi treo trên các bức tường của lâu đài Montiel để tạo nên sự thất vọng cho các sĩ quan vẫn còn trung thành với người anh của. Nhìn thấy xác của nhà vua của mình, họ đã đầu hàng ngay lập tức. Sau đó, Enrique de Trastámara trở thành vua của Castilla để thay thế anh em người đã bị giết chết của ông và đã lên ngôi với danh hiệu Henry II.
Hậu quả
Henry II lên ngôi vua và tiếp tục liên minh với Charles V của Pháp, ông đã giúp cho người Pháp chiếm lại hải cảng La Rochelle ( 1372) vốn đã bị chiếm bởi quân đội Anh. Mặc dù có những lo sợ rằng ông sẽ trả thù người Moor và người Do Thái-những người đã về phe Pedro để chiến đấu chống lại ông, Henry đã chứng tỏ mình là một vị vua công bằng và đã tha thứ cho tất cả để tạo ra một nền hòa bình kéo dài.

Trận La Rochelle

Tóm tắt
Trận hải chiến La Rochelle diễn ra vào ngày 22 và ngày 23 tháng 6 năm 1372 giữa một Hạm đội Castile được chỉ huy bởi Ambrosio Boccanegra- người sinh ra tại Genova và một đoàn công voa của Anh được chỉ huy bởi John Hastings, Bá tước thứ 2 của Pembroke.
Hạm đội của Castile đã được gửi đến để tấn công đoàn tầu của Anh tại La Rochelle vốn đang bị bao vây bởi quân Pháp. Bên cạnh Boccanegra còn có các chỉ huy xứ Castile khác là Cabeza de Vaca, Fernando de Peón và Basque Ruy Díaz de Rojas. Pembroke đã được phái đến thành phố với một đoàn tùy tùng nhỏ gồm 160 binh sĩ và nhận được lệnh phải tuyển dụng một đội quân khoảng 3.000 binh sĩ ở vùng xung quanh Aquitanie.
Từ ngày 22-> 23 tháng sáu cả hai Hạm đội đã liên tục đụng độ. Sức mạnh của Hạm đội Castile gồm 12 tầu Galley theo nhà viết sử người Castile và thuyền trưởng hải quân López de Ayala nhưng theo sử gia người Pháp Jean Froissart thì họ có 40 chiếc tầu và 13 chiếc sà lan trong khi đó đoàn tầu Anh có khoảng gồm 20 tàu, trong đó chỉ 3 chiếc tàu chiến hộ tống có tháp chiến trong khi đó 17 chiếc khác là những chiếc sà lan nhỏ khoảng 50 tấn.Nhờ ưu thế rõ ràng của họ trên cả hai mặt tàu chiến và chiến binh, người Castile đã đánh bại người Anh.
Những tài liệu khác nhau mô tả những diễn biến rất khác nhau trong trận đánh. Những mâu thuẫn chủ yếu xuất phát từ tính chất dân tộc; các sử gia người Anh, Castile và Pháp đã mô tả trận chiến theo những cách khác nhau, họ nhấn mạnh vào một khía cạnh nhất định, nhưng lại luôn phủ nhận ý kiến của người khác. Tuy nhiên chiến thắng là hoàn tất và cả đoàn Công voa Anh đã bị phá hủy. Trên đường trở về bán đảo Iberia, Boccanegra còn bắt thêm bốn chiếc tàu Anh.Hoàn cảnh
Năm 1372 vua Edward III của Anh quốc lên kế hoạch cho một chiến dịch quan trọng trong Aquitanie dưới sự chỉ huy của Bá tước của Pembroke-trung úy mới được bổ nhiệm của Công quốc này, ông đã ký hợp đồng để phục vụ một năm ở công quốc với một đoàn tùy tùng gồm 24 hiệp sĩ, 55 hộ sỹ và 80 cung thủ bên cạnh một Đại đội được chỉ huy bởi Sir Hugh Calveley và Sir John Devereux, người cuối cùng (Sir John Devereux ) đã không muốn phục vụ hoặc không muốn xuất hiện. Pembroke đã nhận được chỉ thị rằng khi đến Pháp ông phải tuyển dụng một đội quân gồm 500 hiệp sĩ, 1.500 hộ sỹ và 1.500 cung thủ. Sir John Wilton-một trong những sỹ quan của Edward, được bổ nhiệm đi cùng với vị Bá tước này cùng với một số lượng lớn tiền để trả công cho các binh sĩ.
Bá tước Pembroke và đoàn tùy tùng của mình cùng với Wilton lên tầu tại Plymouth trên một đội tàu vận tải và không chuẩn bị cho một trận đánh nghiêm trọng. Nhà viết sử người Castile Pero López de Ayala ước tính rằng hạm đội này có khoảng 36 tàu, các nhà sử gia của triều đình Pháp đưa ra con số 35. Jean Froissart theo một trong hai mô tả của ông về trận chiến đã nói lực lượng Anh có lẽ vào khoảng 14 chiếc tàu. Một hạm đội khoảng 20 chiếc tàu được coi là một lực lượng hợp lý. Vì hầu hết trong số họ là những tầu vận tải nhỏ, Sir Philip Courtenay-đô đốc của Hạm đội phía Tây đã cho tách 3 tàu có trọng tải lớn với những chiếc tháp vốn rất hữu ích cho các cung thủ ra để hộ tống họ.
Sự cai trị của Anh ở tại Aquitanie đang ở trong tình trạng bấp bênh. Từ năm 1370 phần lớn vùng này đã quay trở lại dưới sự cai trị của người Pháp và trong năm 1372 Bertrand du Guesclin tiến hành bao vây thành phố cảng La Rochelle. Thể theo yêu cầu của Liên minh Pháp-Castile từ năm 1368, vua của Castile-Henry II của Trastámara, đã phái đến Aquitanie một hạm đội dưới sự chỉ huy của Ambrosio Boccanegra. Kích cỡ của hạm đội này còn đang bàn cãi nhưng con số 50 chiếc tầu trong đó có 20 chiếc Galley là hợp lý.
Trận đánh
Ngày 22 tháng Sáu, đoàn công voy của Anh đến được La Rochelle và trận chiến bắt đầu khi các tàu của Pembroke tiếp cận theo hướng chiếc bến cảng. Trận đánh này nổ ra ở phần đầu của một chiếc vịnh vốn không dễ dò tìm tại vùng nước thấp. Cuộc tấn công đầu tiên của Castile đã gặp một sự kháng cự cương quyết của người Anh,. Mặc dù thua thiệt về mặt số lượng nhưng người Anh vẫn phòng thủ rất tốt. Vào chiều tối, khi nước lên cả hai hạm đội phải tách nhau ra. Mặc dù họ đã mất 2 hoặc 4 chiếc tàu, theo Froissart thì người Anh đã bất khả chiến bại.
Sau đó Pembroke rút lui một cách vào đất liền, trong khi Boccanegra thả neo ở phía trước La Rochelle. Quấn biên niên sử Quatre Premiers Valois, lại viết không giống như López de Ayala và Froissart, nó ngụ ý rằng chỉ có một số cuộc giao tranh nhỏ đã diễn ra trong ngày đầu tiên bởi vì Boccanegra đã ra lệnh cho các tầu Galley của mình rút lui, để đưa chúng vào những hoạt động chính. Theo quấn biên niên sử này thì vị trí neo đậu của hai Hạm đội này đã bị đảo ngược: người Anh ở ngoài thị trấn và còn người Castile ở ngoài biển.
Froissart mô tả có một cuộc thảo luận giữa Pembroke và người của ông trong đêm ngày 22-23 tháng Sáu về việc làm thế nào để thoát khỏi cái bẫy. Một số cho rằng cố gắng để thoát dưới sự che đêm do e sợ các tầu Galley của Castile, còn nhóm còn lại muốn tìm một con đường khác vào La Rochelle vì mức nước xuống rất thấp. Cuối cùng thuỷ triều xuống quá thấp làm cho các con tàu của Anh bị mắc cạn.
Khi cuộc chiến tiếp tục vào sáng ngày thứ 23, người Castile đã cố gắng để đốt một số tầu trong số họ bằng cách phun dầu trên sàn tầu của họ và sau đó đốt cháy nó bằng những mũi tên lửa. Rất nhiều binh sỹ Anh đã hoặc bị giết chết hoặc bị thiêu sống, trong khi những người khác phải đầu hàng trong đó có cả Pembroke. Nhà viết sử của hải quân Castile-Cesareo Fernández Duro tuyên bố rằng tù binh Anh lên tới 400 hiệp sĩ và 8.000 binh sĩ, mà không tính số thiệt mạng và không đưa nguồn Sherborne và Tuck nói rằng ước tính chỉ được ghi lại trong. Biên niên sử có đề cập đến cuộc chiến nói khoảng 800 người chết và từ 160 và 400 tù nhân. Cả đoàn côngvoa đã bị phá hủy hoặc bị bắt và 12.000 £ rơi vào tay Castile. Một thất bại không thể tránh khỏi vì sự bất cân bằng giữa hai hạm đội.
Hậu quả
Trận chiến tại La Rochelle là một thất bại quan trọng đầu tiên của hải quân Anh trong cuộc Chiến tranh Trăm năm “. Ảnh hưởng của nó vào quá trình chiến tranh có ý nghĩa:. Thành phố La Rochelle thất thủ vào ngày 07 tháng Chín, chỉ trong một nửa thứ hai của năm đó tại gần như tất cả các vùng Poitou, Angoumois và Saintonge, Bertrand du Guesclin đã xóa sạch các đơn vị đồn trú của Anh Một số tác giả cho rằng.cuộc chiến hải quân làm cho nước Anh mất uy thế ở dọc theo bờ biển nước Pháp, nhưng những người khác không đồng ý, mặc dù họ cũng khẳng định rằng chính sách của hải quân Anh đã trở thành sai lầm. Một mặt các nguồn tài nguyên dự kiến ​​để hỗ trợ cho đòi hỏi của John của Gaunt về ngôi vua Castile đã bị đình chỉ lâu dài và các chuyến viễn chinh lớn khác của chính Edward III đã phải bị đình chỉ vì trái gió.
Một năm sau trận đánh, hạm đội Anh đã được xây dựng lại nhờ vào nỗ lực của mười bốn thị xã khác nhau. Vào tháng Tư năm 1373 một lực lượng mạnh mẽ dưới sự chỉ huy của William-Bá tước Salisbury, với Đô Đốc Neville và Courtenay và chia thành hai bán đội. Bán đội đầu tiên gồm 15 tàu và 9 sà lan và bán đội thứ hai gồm 12 tàu và 9 sà lan, tổng cộng có tất cả 44 chiếc tàu chiến căng buồm về phía Bồ Đào Nha. Những chiếc tàu và sà lan khác cũng dần tham gia vào cuộc hành quân lớn và vào tháng Bảy, Salisbury đã có 56 tàu chiếc được điều khiển bởi 2.500 thủy thủ và một đội quân gồm 2.600 binh sĩ.

Chiến dịch năm 1373

Trận chiến Otterburn
Trận Otterburn diễn ra vào ngày 05 tháng 8 năm 1388, như là một phần của cuộc xung đột biên giới kéo dài tưởng như bất tận đến hàng trăm năm giữa người Scotland và người Anh.
Tác dụng phụ của trận chiến này này là người Anh phải chấp nhận ký hòa ước với người Pháp trong năm 1389, bất chấp những thua thiệt của họ trong giai đoạn Chiến tranh của nhà Caroline từ năm 1369 -> 1389, để quay lại đối phó với một kẻ thù truyền kiếp của họ-đó chính là người Scotland
Tài liệu có chất lượng nhất về trận chiến là từ quấn Biên niên sử của Jean Froissart, trong đó ông tuyên bố rằng đã thu thập tin tức từ những cựu chiến binh ở cả hai phía của cuộc chiến. Tuy nhiên tài liệu của ông vẫn còn một số vấn đề phải xem xét về mặt chi tiết, chẳng hạn như khoảng cách giữa Newcastle upon Tyne và Otterburn là không chính xác. James Douglas-Bá tước thứ 2 nhà Douglas- của người Scotland đã quyết định tiến hành một cuộc tấn công vào lãnh thổ Anh -một trong một loạt các trận đánh tục của cả hai phía ở vùng biên giới.
Ông muốn tận dụng khai thác lợi thế về khoảng cách về mặt không gian giữa các đạo quân của Lord Neville và Henry Percy-Bá tước Northumberland, người trực tiếp chỉ huy tuyến phòng thủ biên giới.Trận chiến nổ ra trong buổi đêm và kết thúc với thắng lợi của người Scotland vốn được bởi James Douglas, người đã đánh bại Henry Percy, biệt danh “Hotspur” và con trai của vị Bá tước đầu tiên của Northumberland. Douglas đã tử trận ngay trong trận chiến, mặc dù chiến thắng của ông làm tăng thêm uy tín của gia tộc của ông-vốn là một gia tộc có những chiến binh nổi tiếng ở vùng biên giới Anh- Scotland. Tham gia vào trận chiến có những gia tộc khác của Scotland như Johnstone, Graham, Gordon, Swinton và Lindsay …
Tại Newcastle
Vào mùa hè 1388, sau khi vừa kết thúc một thỏa thuận ngừng bắn với người Anh, người Scotland đã bắt đầu tấn công trên cả hai tuyến biên giới phía đông và phía tây, lợi dụng sự xa cách của hai nhà Percy và Nevill- những người nhận nhiệm vụ phòng bị vùng biên giới. Trong tháng Tám, Bá tước Douglas đã tiến hành một cuộc tấn công đặc biệt dữ dội vào thành phố cảng Newcastle. Đây là một cuộc hành quân đầy rủi ro: ông không có đủ các phương tiện cần thiết để tiến hành một cuộc bao vây, Newcastle là một trong những căn cứ chính của quân đội Anh ở phía miền Bắc, do đó, thành phố đã được bảo vệ bởi một số lượng rất đông binh lính Anh. Vì Bá tước Northumberland đang ở Alnwick, quân đội Anh được chỉ huy bởi người anh em của ông ta-Bá tước Harry Hotspur. Tuy nhiên, sự vắng mặt của vị Bá tước này cũng là một mối nguy hiểm tiềm năng cho quân Scotland ( ông ta có thể xuất hiện bất cứ lúc nào với quân tiếp viện ), vì khả năng vẫn còn đó nên họ buộc phải rút lui vì nếu vị Bá tước này quay trở lại Newcastle thì có thể ông ta sẽ dẫn đầu một cuộc tấn công chống lại họ. Tuy nhiên, sự linh hoạt của cuộc tấn công được chỉ huy bởi Lord Douglas đã làm người Anh rằng đội quân của ông chỉ là đội tiên phong của một đội quân lớn hơn nhiều, có lẽ và có lẽ đội quân lớn này đang tìm cách tiếp cận Newcastle, bởi vì họ thường xuyên tiến hành các cuộc giao tranh ở bên ngoài rất gần với bức tường phòng thủ phía tây của thành phố. Jean Froissart kể lại rằng thậm chí Douglas đã chiếm được lá cờ của Hotspur, mặc dù người ta tin rằng rằng đây chỉ là chi tiết được thêm vào để câu chuyện lịch sử càng thêm phong phú-cái cách mà các nhà viết sử thường sử dụng để hấp dẫn người nghe.
Sau khi rời Newcastle, Douglas hướng về phía tây bắc vùng thung lũng sông Rede, với ý định tìm một cách quay trở lại Scotland một cách an toàn theo cùng một con đường mà ông đã đến nước Anh. Cuộc rút lui này không có gì là vội vàng một cách đặc biệt, bất chấp những nguy cơ rõ ràng đang dần dần kết hợp lại. Cùng đi với đội quân của ông còn là các đàn gia súc bị chiếm đoạt và cướp phá từ các nơi trên đất Anh nên làm tiến độ hành quân chở nên tương đối chậm. Tuy nhiên, đến khi được tháp Ponteland, chỉ một vài dặm từ Newcastle, ông đã quyết định cho quân đội của mình dừng lại và cuộc tấn công truy kích là không thể gây trở ngại, sự kiện này tạo cơ hội cho Hotspur được thông báo về hướng rút lui của họ
Vào chiều ngày hôm đó, Lord Douglas đi ngược lên thung lũng Rede để đến Otterburn. Ông đã quyết định hạ một cái trại ở giữa con đường: phía bên phải của vị trí đóng quân của ông ở gần một con sông và bên trái được kéo dài đến một con dốc ở phía trước của một đầm lầy, khoảng một dặm ngoài ngọn tháp của Otterburn. Vào phần lớn ngày hôm sau (19 tháng 8), người Scotland đã tấn công không thành công các tòa tháp gần đó. Với một lực lượng bị suy yếu bởi những nỗ lực những nỗ lực không thành công, Douglas vẫn ngoan cố cắm trại cho một đêm thứ hai để chuẩn bị cho một đợt công thành tiếp theo. Tin tưởng rằng mình sẽ an toàn trước bất kỳ cuộc tấn công nào, ông này đã thậm chí không bận tâm đến việc chuẩn bị phòng ngự.Cuộc tấn công của HotspurTrong khi đó, Hotspur đã hành quân một thành công từ Newcastle, nhưng dường như có khả năng ông ta cho rằng người Scotland vẫn còn ở khá xa. Ông tiến đến thung lũng Rede vào lúc hoàng hôn của ngày 19, và cũng đang tìm kiếm một nơi để cắm trại: binh sĩ đã mệt mỏi và đóng trại theo một đội hình hình cột hướng từ Ponteland. Tuy nhiên, thay vì chờ cho mặt trời mọc vào sáng hôm sau để cho phép người của mình nghỉ ngơi và tập hợp lại trước khi cuộc chiến bắt đầu và tận dụng ưu thế về số lượng của người Anh, ông này đã quyết định tiến hành các cuộc tấn công ngay lập tức, trong một nỗ lực để tạo bất ngờ với người Scotland khi họ đang ngủ; ông cử một phần quân của mình tiến về phía bắc, qua phía bên trái của người Scotland để đảm bảo rằng họ không thể chạy trốn, trong khi phần lớn hơn trong đội quân của ông sẽ khởi động một cuộc tấn công trực diện.Phản ứng của người ScotlandTừ lúc bắt đầu cuộc tấn công đêm đột ngột của người Anh, đã có sự hỗn loạn đáng kể trong doanh trại của quân Scotland. Vì vậy, tình hình được mô tả trong quấn biên niên sử của Pluscarden:
“Họ nhổm dậy ngay lập tức và vội vã lấy vũ khí, nhưng dường như chưa đến một nửa số người của họ có thể tìm thấy vũ khí. Bá tước Douglas cũng nhỏm dậy và trong lúc vội vàng thì hầu như ông không kịp mặc áo giáp của hay thậm chí là cãi những chiếc khóa, Do sự hoảng bị gây ra bởi đợt tấn công bất ngờ của kẻ thù, ônh phải xông lên tuyến đầu tiên của trận chiến để cố gắng sắp xếp lại đội hình . “
Thu thập càng nhiều người càng tốt, Douglas đã tiến hành những đợt phản công. Ông đã đi đến phía bên phải của Percy từ phía bắc, rồi nhanh chóng tiến xuống chỗ dốc của khu rừng bằng một đoạn đường cong nhỏ ( tìm cách đánh bọc sườn đối phương ), nó cho phép ông tiếp cận đến khoảng 182 mét cuối cùng mà không bị quân Anh phát hiện trước khi quân Scotland tấn công đổ ập vào quân Anh một cách bất ngờ. Bởi vì tầm nhìn kém, trận chiến vẫn tiếp tục mà Percy đã thực sự không thể sử dụng được các cung thủ của mình, những người lính của cả hai bên đã chiến đấu một trận chiến tay đôi ở tầm gần và trong ánh sáng lờ mờ của một đêm tối trời ít trăng nhiều mây, trận chiến vẫn tiếp tục diễn ra trong nhiều giờ.
Vào một khoảng nào đó trong buổi đêm, Bá tước James Douglas đã bị giết mặc dù người ta không thể biết được ông bị giết như thế nào hoặc vào lúc nào, mặc dù theo kể lại của Froissart thì xác của ông đã được tìm thấy vào sáng hôm sau với một vết thương sâu ở trong cổ họng ( vì ông này không kịp mặc giáp ). Bất chấp cái chết của James Douglas, phần còn lại của quân Scotland vẫn tiếp tục chiến đấu và đẩy quân Anh vào một khe núi. Vào lúc bình minh, quân của Hotspur đã bắt đầu bị tan rã với một số lớn người bị đánh bại đã quay đầu tháo lui. Hotspur đã bị bắt làm tù binh bởi Sir John Montgomery và đồng thời Ralph-anh trai của ông cũng bị thương nặng. Mặc dù lực lượng của Percy có lợi thế 3:1, người ta ước tính 1.040 khoảng người Anh bị bắt và 1860 bị giết trong khi 200 người Scotland bị bắt và 100 bị giết. Quấn biên niên sử Westminister đưa ra một ước tính đáng tin cậy hơn về số thương vong của người Scotland là khoảng 500 hoặc xấp xỉ như vậy. Khi Giám mục Durham tiến đến từ Newcastle với 10.000 người, có vẻ như ông đã bị mất tinh thần bởi những toán quân Anh bị bại trận đang tháo chạy và sự xuất hiện của lực lượng Scotland với những âm thanh ầm ỹ từ những chiếc tù và sừng trâu của họ, dường như thấy rằng không thể công kích vị trí của họ nên ông đã quyết định từ bỏ ý định tấn công.
Những trận chiến Anh-Pháp, Anh-Scotland thời Trung cổ cho thấy một nghịch lý là: nước Anh với diện tích và dân số chỉ bằng nửa dân Pháp, người Anh cũng không có những đội kị sỹ thiết giáp đông đảo nhưng của Pháp, nhưng người Anh lại đánh bại người Pháp hết trận này đến trận khác. Ngược lại đất nước Scotland và dân số của người Scotland chỉ bằng non nửa người Anh ( chưa tính đến trong quân đội Anh còn có các thành phần lính đánh thuê đến từ xứ Wales, Ailen, xứ Aquitany …) nhưng hoàn toàn không dễ dàng cho người Anh để đánh bại được người Scotland, thậm chí người Anh còn phải chuốc lấy những thất bại đau đớn như trận Otterburn này chẳng hạn. Sau trận Otterburn thì hàng loạt trận đánh giữa người Scotland và người Anh lại nổ ra và kéo dài cho đến thế kỷ 16 như các trận Duns – Nesbit Moor – Humbleton Hill – Yeavering – Piperdean – Sark – Berwick – Lochmaben Fair – Flodden Field –Haddon Rig – Solway Moss – Ancrum Moor – Pinkie Cleugh – Haddington – Broughty Castle – Redeswire… Thậm trí đánh nhau ở biên giới Anh-Scotland chưa đủ, ở giai đoạn sau của chiến tranh Trăm năm người Scotland còn kéo sang Pháp và thành lập quân đội Scotland hải ngoại để liên minh với Pháp và tiếp tục chiến đấu với người Anh. Sau trận Verneuil năm 1424, Liên quân Scotland-Pháp hoàn toàn bại trận, 4.000 lính Scoland cùng tất cả các chỉ huy của họ đều tử trận, đến đây thì quân đội Scotland hải ngoại hoàn toàn bị xóa sổ. Tuy vậy vì khâm phục lòng dũng cảm và trung thành của họ, rất nhiều vị vua Pháp ( bắt đầu là từ vua Charles VII ) đã tuyển những thanh niên Scotland làm vệ binh cho mình và từ đó bắt đầu xuất hiện đội vệ binh cung thủ Scotland nổi tiếng.
Source: http://nghiencuulichsu.com/2015/09/04/chien-tranh-tram-nam-giua-phap-va-anh-bai-4/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.