Giai đoạn cuối của chiến tranh Trăm năm:
Cuộc chiến của nhà Valois 1429 – 1453
Nước Pháp đang cực kỳ nguy kịch, vua Charles VII bị truất ngôi, quân Anh kéo đến bao vây thành phố d’Orleans-một thành trì của phe đ.ảngArmagnac, nếu thành phố này thất thủ thì các tỉnh miền Nam nước Pháp sẽ rung chuyển và tình hình sẽ không biết đến đâu. Nhưng lúc này có một kì tích xuất hiện và nhờ đó quân Pháp liên tục phản công thắng lợi. Đến năm 1453 chỉ còn lại mỗi Calais vẫn nằm trong tay người Anh, còn lại tất cả các vùng lãnh thổ của Pháp đã thuộc về Hoàng gia nhà Valois. Chính vì nhà Valois đã hoàn toàn thắng lợi trong giai đoạn này mà người ta gọi đó là cuộc chiến của nhà Valois.
Theo dòng lịch sử:
Ngày 12 Tháng Hai năm 1429 trận the Herrings (ROUVRAY)- quân đội Pháp tấn công bất ngờ nhưng không thành công trong việc ngăn chặn một đoàn xe chở đồ tiếp tế cho quân Anh đang bao vây thành phố Orle’ans. ( trong trận này các binh sỹ người Scotland lại tử thương nhiều đến mức quân đội Scotland hải ngoại đã gần như không còn tồn tại ).
Ngày 06 tháng 3 Joan Arc đến triều đình của nhà Dauphin tại Chinon
Ngày 22 tháng 3 năm 1429 Joan Arc viết lá thư’ ” mệnh lệnh gửi tới người Anh” yêu cầu quân Anh phải cút khỏi đất Pháp và trên đường đi phải ngỏ lời xin lỗi dân chúng những nơi họ đã cướp phá.
Ngày 29 tháng 4 năm 1429 Joan Arc tiến vào Orle’ansNgày 08 tháng 5năm 1429 lực lượng Pháp, được chỉ huy bởi Joan Arc, tiến hành giải vây cho Orle’ans
Ngày 10 tháng sáu ->18 tháng Sáu năm 1429 -chiến dịch sông Loire, quân đội Pháp được dẫn đầu bởi Joan Arc liên tục chiếm Jargeau, Beaugency, và Meung và xóa sổ các đơn vị đồn trú Anh đóng tại sông Loire
Ngày 18 tháng 6 năm 1429 Chiến thắng Patay, quân đội Pháp kết thúc chiến dịch Loire một cách toàn thắng trước quân Anh dưới sự chỉ huy của Sir John Fastolf. ( lực lượng cung thủ trường cung Anh bị một đòn gẫy xương sống)
Ngày 17 tháng 7 năm 1429 Charles Dauphin lên ngôi vua Pháp tại Rheims như là Charles VII của nước Pháp
Ngày 08 Tháng Chín năm 1429 Joan Arc dẫn đầu một cuộc tấn công không thành công vào Paris.
Ngày 08 Tháng Chín năm 1429 Joan d’Arc dẫn đầu một cuộc tấn công không thành công vào Paris
Tháng Mười Một năm 1429 người Anh làm lễ đăng quang cho Henry VI tại lâu đài Westminster
Tháng Mười Một năm 1429 người Anh làm lễ đăng quang cho Henry VI tại lâu đài Westminster
Ngày 23 Tháng 5 năm 1430 Joan d’Arc bị bắt bởi người Burgundy ở CompiegneTháng Mười Hai
năm 1430 Joan d’Arc bị chuyển đến một nhà tù quân sự Anh trong thành phố RouenNgày 21 tháng Hai năm 1431 phiên tòa xét xử Joan d’Arc đượcbắt đầu ở Rouen
Ngày 24 tháng 5 năm 1431 Joan d’Arc công khai chối bỏ lời kết tội rằng mình là một phù thủy
Ngày 30 tháng 5 năm 1431 Joan d’Arc bị thiêu đến chết với dị giá bởi người Anh ở Rouen
Ngày 11 Tháng Tám năm 1431 Trận Shepherd-lấy theo tên của một cậu bé chăn cừu người Pháp được dựng lên như là một kế thừa của Joan d’Arc
Ngày 16 tháng 12 năm 1431 vua Henry VI của Anh lên ngôi vua Pháp tại Paris
Ngày 14 tháng 11 năm 1432 Anne-Nữ công tước của Bedford, vợ của John, công tước xứ Bedford và em gái của Philip, công tước của Burgundy Tốt bụng đã qua đời ( mối liên hệ giữa người Anh và người Burgundy bắt đầu phai nhạt)
Năm 1434 người Anh ra tay đàn áp một loạt các cuộc nổi dậy ở Normandy
Tháng Chín năm 1435 Isabeau xứ Bavaria, nữ hoàng của Pháp và góa phụ của vua Charles VI qua đời.
Ngày 01 Tháng 9 người Anh rút khỏi Nghị viện Arras
Ngày 01 Tháng 9 người Anh rút khỏi Nghị viện Arras
Ngày 14 Tháng Chín John công tước của xứ Bedford qua đời
Ngày 20 tháng 9 Hiệp ước Pháp-Burgundy được ký kết ở Arras, qua đó kết thúc liên minh Anglo-BurgundyNgày 13 tháng 4 năm 1436 quân Pháp chiếm lại Paris
Ngày 03 Tháng Một năm 1437 Catherine của Valois, vợ của Henry V và mẹ của Henry VI qua đời
Ngày 20 tháng 9 Hiệp ước Pháp-Burgundy được ký kết ở Arras, qua đó kết thúc liên minh Anglo-BurgundyNgày 13 tháng 4 năm 1436 quân Pháp chiếm lại Paris
Ngày 03 Tháng Một năm 1437 Catherine của Valois, vợ của Henry V và mẹ của Henry VI qua đời
Ngày 13 tháng 2 năm 1437 John Talbot chiếm lại Pontoise cho người Anh
Ngày 21 tháng 2 năm 1437 James I, vua của Scotland bị ám sát, James II lên ngôi vuaNgày 12 tháng 11
năm 1437 Henry VI công bố đủ tuổi thành niên và đòi quyền kiểm soát Chính phủ Anh
Ngày 30 Tháng Tư năm 1439 Richard Beauchamp, bá tước của Warwick, trung úy của Anh ở Pháp qua đời.Tháng Mười Một
năm 1439 Charles VII tuyên bố tuyển dụng quân sự thuộc về độc quyền của Hoàng giaTháng Bảy năm 1440 Richard, công tước của York được tái bổ nhiệm làm trung úy của nhà vua Anh tại Pháp
Ngày 6 Tháng Sáu – 19 Tháng 9 năm 1441 quân đội Pháp tiến hành bao vây và công chiếm Pontoise
Tháng Ba năm 1443 John Beaufort, công tước của Somerset, được phong làm trung tướng và đại tướng ( lieutenant-general và captain-general) của vùng Aquitaine để chuẩn bị chỉ huy một chính chiến dịch tấn công vào quân Pháp
Tháng 7-> 8 chiến dịch của Somerset là một thất bại hoàn toàn, vị công tước này trở lại nước Anh trong nỗi ô nhục
Tháng Hai năm 1444 William de la Pole, bá tước của Suffolk căng buồm sang Pháp để bắt đầu các cuộc đàm phán dẫn đến việc kí kết Hòa ước hòa bình Tours
Ngày 27 tháng 5
năm 1444 John công tước của Somerset qua đời-có thể do chính bàn tay của ông ta
Ngày 28 Tháng 5 năm 1444 Anh-Pháp chính thức kí Hiệp ước Hòa bình Tour.
Ngày 23 tháng 4 năm 1445 kết hôn giữa Henry VI với Margaret của Anjou-cháu gái của Charles VII
Ngày 22 tháng 12 năm 1445 Henry VI bí mật đồng ý đầu hàng giao nộp Maine cho người Pháp
Ngày 23 tháng 2 năm 1447 hoàng thân Humphrey, công tước của Gloucester-chú của Henry VI và thủ lãnh của phe chủ chiến ở triều đình Anh bị bắt giữ
Ngày 11 tháng 4 năm 1447 Đức Hồng Y Henry Beaufort, giám mục của Winchester, thủ lãnh của phe chủ hòa tại triều đình Anh qua đờiTháng Mười Hai
năm 1447 Edmund Beaufort, bá tước của Somerset, trở thành trung úy của nhà vua Anh ở PhápTháng Hai năm 1448 Charles VII tiến hành cuộc bao vây Le Mans ở vùng Maine
Ngày 15 Tháng Ba năm 1448 thành phố Le Mans ở vùng Maine đầu hàng người Pháp
Ngày 15 Tháng Ba năm 1448 thành phố Le Mans ở vùng Maine đầu hàng người Pháp
Ngày 28 tháng 4 năm 1448 Charles VII đưa ra các điều luật để thành lập lực lượng cung thủNgày 24 tháng 3 năm 1449 Quân Pháp tấn công vào pháo đài Fougeres của người Anh ở Breton và phá vỡ Hiệp ước Hòa bình Tour và dẫn đến việc nối lại các hoạt động chiến tranh
Ngày 31 tháng 7 năm 1449 Charles VII của Pháp ra lệnh tiến hành một cuộc xâm lược nhằm tái chiếm xứ Normandy
Ngày 31 tháng 7 năm 1449 Charles VII của Pháp ra lệnh tiến hành một cuộc xâm lược nhằm tái chiếm xứ Normandy
Ngày 12 tháng 8 năm 1449 quân đội Pháp bắt đầu chiến dịch tái chiếm Normandy (1449-1450)
Ngày 29 tháng 10 năm 1449 Quân Pháp chiếm lại Rouen, thủ phủ của NormandyNgày 02 tháng 11
năm 1449 Charles VII tiến vào Rouen
Ngày 28 tháng Một năm 1450 Nghị viện Anh kết tội William de Pole, công tước của Suffolk, lãnh đạo của chính phủ của Henry VINgày 15 tháng 4
năm 1450 Trận chiến Formigny-quân Pháp đánh bại quân Anh một trận lớn cuối cùng ở NormandyTháng 5 -> 7
năm 1450 cuộc nổi dậy của Jack Cade bùng nổ ở đông nam nước AnhNgày 02 tháng 5
năm 1450 William de la Pole, công tước của Suffolk bị bắt và bị chặt đầu bởi một toán người không rõ danh tính khi ông này cố gắng lên thuyền đi lưu vong
Ngày 01 tháng 7 năm 1450 Edmund Beaufort, công tước của Somerset, đầu hàng trước người Pháp ở Caen trong vùng Normandy.
Ngày 12 tháng 8 năm 1450 Thành phố Cherbourg thất thủ trước người Pháp qua đó kết thúc Chiến dịch Norman.
Ngày 30 Tháng Sáu năm 1451 Bordeaux đầu hàng người PhápNgày 23 tháng 10 năm 1452 John Talbot, bá tước của Shrewsbury, tái chiếm Bordeaux
Ngày 17 tháng 7 năm 1453 Trận Castillon-lực lượng Pháp dưới sự chỉ huy Jean Bureau đánh bại hoàn toàn quân đội Anh dưới sự chỉ huy của John Talbot, bá tước của Shrewsbury, trong vùng Gascony, báo hiệu Chiến tranh Trăm năm kết thúc với thắng lợi hoàn toàn thuộc về người Pháp.Ngày 19 tháng 10
Ngày 17 tháng 7 năm 1453 Trận Castillon-lực lượng Pháp dưới sự chỉ huy Jean Bureau đánh bại hoàn toàn quân đội Anh dưới sự chỉ huy của John Talbot, bá tước của Shrewsbury, trong vùng Gascony, báo hiệu Chiến tranh Trăm năm kết thúc với thắng lợi hoàn toàn thuộc về người Pháp.Ngày 19 tháng 10
năm 1453 người Pháp lấy lại Bordeaux-sự sụp đổ tiếp theo của tất cả các vị trí của người Anh tại Aquitaine thường được coi là sự kết thúc của Chiến tranh Trăm năm
Ngày 21 tháng năm 1455 Trận St Albans thường được coi như là bắt đầu của hàng loạt các cuộc nội chiến Anh còn được gọi là cuộc chiến Hoa HồngTháng Ba năm 1461 Henry VI bị lật đổ và sống lưu vong ở Scotland, Edward, công tước của York-anh em họ ông trở thành vua của nước Anh như là Edward IV
Ngày 22 Tháng 7 năm 1461 Charles VII vua của nước Pháp qua đời; con trai ông nối ngôi làm vua Louis XI của nước PhápNgày 15 tháng 6 năm 1467 Philip tốt bụng, công tước của Burgundy qua đời
Ngày 21 tháng năm 1471 Henry VI bị ám sát ở trong ngục tháp London
Ngày 22 Tháng 7 năm 1461 Charles VII vua của nước Pháp qua đời; con trai ông nối ngôi làm vua Louis XI của nước PhápNgày 15 tháng 6 năm 1467 Philip tốt bụng, công tước của Burgundy qua đời
Ngày 21 tháng năm 1471 Henry VI bị ám sát ở trong ngục tháp London
Ngày 04 tháng Bảy năm 1475 Edward IV tiến hành cuộc xâm lược vào nước Pháp của Anh lần đầu tiên kể từ khi kết thúc Chiến tranh Trăm nămNgày 29 tháng 8
năm 1475 kí kết luận Hiệp ước Picquigny, nhờ đó mà Edward IV của Anh đồng ý rút khỏi Pháp để đổi lấy một khoản tiền hàng năm được trả từ từ Louis XITháng Một năm 1558 Calais, vị trí cuối cùng của người Anh ở Pháp đã rơi vào tay người Pháp.
Giới thiệu một số nhân vật quan trọng trong thời kỳ này
Charles VII of France
Charles VII (22 tháng hai năm 1403 – 22 tháng 7 1461), còn được gọi là nhà vua Chiến Thắng hoặc Phục vụ tốt, là vua của nước Pháp từ năm 1422 đến khi ông qua đời, mặc dù ban đầu ông bị tranh giành bởi Henry VI của nước Anh, người có Công tước của Bedford làm nhiếp chính và cai trị rất nhiều vùng đất của nước Pháp bao gồm cả thủ đô Paris.Ông là thành viên của Nhà Valois, con trai của Charles VI, nhưng việc thừa kế ngai vàng nước Pháp của ông đã gặp khó khăn bởi sự chiếm đóng của người Anh ở miền bắc nước Pháp. Tuy nhiên, ông đã được đăng quang tại Reims năm 1429 nhờ những nỗ lực của Joan d’Arc để giải phóng nước Pháp khỏi người Anh. Cuối triều đại của Charles VII được đánh dấu bằng cuộc đấu tranh của ông với con trai mình-vua Louis XI trong tương lai.
Sinh ra tại Paris, Charles là con trai thứ năm của Charles VI của Pháp và Isabella của Bayern-Ingolstadt. Bốn người anh của ông, Charles (1386), Charles (1392-1401), Louis (1397-1415) và John (1398-1417) đã từng nắm giữ danh hiệu Dauphin của Pháp, người thừa kế ngôi vua của Pháp, lần lượt từng người một chết mà không có con, làm cho Charles được thừa kế hàng loạt các chức danh.Hầu như ngay sau khi nhận danh hiệu Dauphin ( một danh hiệu dành cho Thái tử Pháp, tựa như danh hiệu Hoàng tử xứ Wales của Anh ), Charles đã bị buộc phải đối mặt với những mối đe dọa cho quyền thừa kế của mình và buộc phải chạy trốn khỏi Paris vào tháng 5 năm 1418 sau khi binh sĩ của John the Fearless, Công tước xứ Burgundy cố gắng để chiếm thành phố. Trong năm sau, Charles đã cố gắng để tiến hành một cuộc hòa giải giữa ông và vị Công tước này ( chú họ của ông ), hai người đã gặp nhau trên một cây cầu ở Pouilly, gần Melun, trong tháng 7 năm 1419. Sự kiện này được chứng minh là chưa đủ để xóa hiềm khích, hai người lại tổ chức gặp mặt vào ngày 10 tháng chín năm 1419, trên cây cầu tại Montereau. Vị công tước bất chấp những vấn đề trước đây, đã tỏ ra quá tin tưởng vào người cháu họ trẻ tuổi của mình, đã cho rằng cuộc họp là hoàn toàn hòa bình và ngoại giao và ông này chỉ mang theo một hộ tống nhỏ; người của Dauphin đã ra tay hạ sát vị Công tước xứ Burgundy. Mức độ tham gia của Charles vẫn là câu hỏi không bao giờ có lời giải: mặc dù ông đã tuyên bố là không hề biết gì về ý định của người của mình, nó đã bị coi là một lời chối tội không hợp lý về vụ giết người này và đẩy mạnh mối hận thù giữa gia đình của Charles VI và Công tước xứ Burgundy ( đều cùng thuộc nhà Valois ). Bản thân Charles sau đó đã được yêu cầu kí hiệp ước với Philip Tốt bụng-con trai của John, để trả tiền đền tội cho tội giết người, nhưng ông không bao giờ chịu làm như vậy;. Dù sao, đó là tuyên bố, sự kiện này đã làm cho ông ta luôn phải sống với một nỗi ám ảnh suốt đời vềụ việc trên cây cầu.
Trong những năm vị thành niên của mình, Charles đã được ghi nhận là một người dũng cảm và có phong cách của một nhà lãnh đạo: tại một thời điểm sau khi trở thành nhà Dauphin, ông đã dẫn một đội quân để chống lại người Anh, trong bộ trang phục màu đỏ, trắng và xanh như một đại diện cho nước Pháp. Tuy nhiên, hai sự kiện trong 1421 đã phá vỡ sự tự tin của ông: ông đã bị buộc phải rút lui khỏi cuộc chiến chống lại Henry V của nước Anh một cách cực kỳ nhục nhã và sau đó cha mẹ ông bác bỏ ông như là người thừa kế hợp pháp ngôi vua nước Pháp và tuyên bố rằng ông là sản phẩm của một trong những cuộc ngoại tình của mẹ mình ( mà bà này lại rất nổi tiếng về mấy vụ này). Bị làm nhục, và sống trong nỗi sợ hãi, Charles Dauphin chạy trốn để cầu xin sự bảo vệ của Yolande của Aragon-người được gọi là Nữ hoàng của Bốn Vương quốc ở miền nam nước Pháp, nơi ông được bảo vệ bởi Nữ Hoàng Yolande hùng mạnh và kiêu hãnh và kết hôn với con gái bà ta-Marie.Sau cái chết của người cha mất trí Charles VI của Charles, vấn đề thừa kế đã tạo ra những nghi ngờ: nếu Dauphin là người con hợp pháp thì sau đó ông là người thừa kế hợp pháp ngai vàng. Nếu không, người thừa kế sẽ là Công tước xứ Orléans, người đang bị giam giữ bởi người Anh sau trận Agincourt. Ngoài ra, Hiệp ước Troyes được ký bởi Charles VI năm 1420, đã bắt buộc rằng ngai vàng phải được trao cho Henry VI của nước Anh, con trai của Henry V vừa mới qua đời và Catherine của Valois, con gái của Charles VI.
Không ai trong số ba ứng cử viên có một tuyên bố không thể nghi ngờ về ngôi vua; tuy nhiên người Anh đang kiểm soát miền Bắc nước Pháp, trong đó có Paris, đã có thể thực thi tuyên bố ngai vị của họ trong những phần lãnh thổ của Pháp mà họ chiếm đóng. Do đó miền Bắc nước Pháp được cai trị bởi một nhiếp chính người Anh ở Normandy, thay mặt cho Henry VI.Charles, không đáng ngạc nhiên khi tuyên bố danh hiệu Vua Pháp cho mình, tuy nhiên do dự và cảm giác thất vọng, ông đã không thực hiện bất kỳ nỗ lực nào để đuổi người Anh đi. Thay vào đó, ông vẫn ở phía nam sông Loire, nơi ông vẫn có thể tạo được một số quyền lực nhỏ và duy trì triều đình lưu động ở thung lũng Loire tại những lâu đài như Chinon, theo phong tục ông vẫn được gọi là “Dauphin”, nhưng cũng thường bị chế giễu là ” Vua của Bourges “(đặt theo tên thị trấn nơi ông thường sống-vua của đúng 1 thị trấn), người ta còn cho rằng có thể ông sẽ lại tới bán đảo Iberia để tị nạn và cho phép người Anh thẳng tiến bằng sức mạnh.
Tuy nhiên trong năm 1429 đã có một sự thay đổi lớn lao. Orléans đã bị vây hãm từ tháng 10 năm 1428. Vị quan nhiếp chính Anh-Công tước xứ Bedford (chú của Henry VI) đã tiến vào lãnh thổ công quốc Bar, được cai trị bởi René-anh rể của Charles,. Các lãnh chúa và chiến binh trung thành với Charles đã ngày càng trở nên tuyệt vọng.Trong khi đó, trong ngôi làng nhỏ của Domrémy, trên biên giới giữa Lorraine và Champagne, một cô gái vị thành niên có tên là Jeanne d’Arc ( tiếng Anh: Joan of Arc), tin rằng cô đã được trao một nhiệm vụ thiêng liêng sau khi dường như nghe tiếng nói của thiên thần, yêu cầu Công tước xứ Lorraine, những người lính và những thứ cần thiết để đưa cô đến Chinon và nhà Dauphin. Được cấp đội hộ tống gồm năm binh sĩ kỳ cựu và một lá thư giới thiệu của viên thống đốc Vaucouleurs-Robert Baudricourt tới Charles, Jeanne cưỡi ngựa đến Chinon, nơi Charles đang cư trú trong ngày 10 tháng 3 năm 1429.
Những gì xảy ra tiếp theo sau này sẽ đi vào huyền thoại. Khi Jeanne đến Chinon, Charles-thử thách Jeanne để xem liệu cô có nhận ra ông ta mặc dù đã bao giờ gặp mặt-bằng cách đóng giả như là một trong những triều thần của mình và đứng ở giữa họ khi Jeanne ( bản thân nàng cũng mặc quần áo của đàn ông) bước vào buồng. Jeanne, ngay lập tức nhận ra ông ta, cô cúi thấp và ôm đầu gối của ông, tuyên bố “Thiên Chúa trao cho ngài một cuộc sống hạnh phúc, ngọt ngào thưa nhà vua!” Mặc dù đã cố gắng chối rằng một người đàn ông khác mới thực sự là nhà vua, cuối cùng Charles cũng buộc phải thừa nhận rằng đó chính là ông ta. Sau đó Jeanne gọi ông là “Dauphin” hoặc “Dauphin Gentle” cho đến khi ông lên ngôi ở Reims bốn tháng sau đó. Sau khi trò chuyện riêng giữa hai người (trong đó, Charles nói sau Jeanne biết bí mật về ông rằng ông đã lên tiếng chỉ khi im lặng trong khi cầu nguyện Thiên Chúa) Charles đã trở nên dũng cảm và đầy tự tin. Sau đó, ông hoàn toàn quyết tâm đòi quyền thừa kế của mình bằng cách hành quân đến Reims.
Một trong những yếu tố quan trọng cho sự thành công cuối cùng của Charles VII là sự hỗ trợ của gia đình của Marie d’Anjou-nhà vợ của ông, vốn là một gia đình hùng mạnh và giàu có (1404-1463), đặc biệt là bà mẹ vợ-Nữ hoàng Yolande xứ Aragon. Bất chấp mọi thứ ông dành cho vợ mình, thì tình yêu lớn của cuộc sống của Charles VII được dành cho người tình của ông-Agnès Sorel.
Sau đó Jeanne d’Arc dẫn đầu quân Pháp tiến về Orléans, buộc người Anh phải hủy bỏ cuộc bao vây và do đó xoay chuyển cục diện của cuộc chiến. Sau khi Pháp thắng trận Patay, Charles lên ngôi vua Charles VII của Pháp ngày 17 Tháng Bảy 1429, tại Nhà thờ Reims như là một nhà vua đích thực.
Sau đó Jeanne đã bị bắt bởi người Burgundy và chuyển giao cho quân Anh. Bị kết tội Dị giáo cô đã bị thiêu sống vào ngày 30 tháng 5 năm 1431. Charles VII đã không làm gì để cứu một trong những người mà ông mang nợ ngai vàng của mình, mặc dù ông có thể chuộc được cô.
Sau đó Charles và Philip tốt bụng-Công tước xứ Burgundy đã ký Hiệp ước Arras, do đó cho phép người Burgundy để trở về bên người Pháp cũng giống như mọi thứ đều đang xấu đi đối với đồng minh người Anh của họ ( người Burgundy). Với sự kiện này, Charles đạt được mục tiêu đó là cần thiết, đó là không một hoàng tử cùng dòng máu nào lại công nhận Vua Henry VI là vua của Pháp.
Trong hai thập kỷ sau đó, người Pháp chiếm lại Paris từ tay người Anh và cuối cùng đã phục hồi tất cả các vùng lãnh thổ của nước Pháp với ngoại lệ là cảng Calais và phía bắc của quần đảo Channel.
Cuối triều đại của ông
Những năm sau đó của Charles được đánh dấu bởi sự thù địch ngày càng tăng giữa ông và người thừa kế của ông, Louis. Louis yêu cầu có quyền lực thực sự đi cùng với vị thế của mình như là nhà Dauphin; Charles đã từ chối. Sau đó, Louis đã khuấy động những bất đồng chính kiến
và nỗ lực thực hiện những âm mưu làm cha mình mất ổn định. Ông ta cãi nhau với người tình của cha mình, Agnès Sorel, theo một nguồn tài liệu một lần ông đẩy bà này vào giường của Charles với một thanh kiếm trần. Cuối cùng, vào năm 1446, sau khi người con trai cuối cùng của Charles, cũng được đặt tên là Charles, được sinh ra, nhà vua đã trục xuất nhà Dauphin tới Dauphiny này. Hai cha con không bao giờ gặp lại nhau; sau đó Louis từ chối yêu cầu của nhà vua rằng ông ta phải trở lại triều đình, cuối cùng Louis Dauphin đã bỏ chạy đến chỗ Philip tốt bụng-Công tước xứ Burgundy để được bảo vệ, trong 1456.Năm 1458, Charles đã đổ bệnh: ông luôn bị đau nhức chân (có lẽ là một triệu chứng của bệnh tiểu đường) và không thể được chữa lành và việc nó lây nhiễm gây ra một cơn sốt nghiêm trọng. Nhà vua đã cho triệu tập Louis vốn sống tại nơi lưu vong của ông ở Burgundy, nhưng nhà Dauphin đã từ chối và dùng một nhà chiêm tinh để báo trước chính xác giờ chết của cha mình. Nhà vua tục sống thêm trong hai năm rưỡi sau đó: ngày càng bệnh nặng nhưng không chết. Trong thời gian này ông cũng vẫn phải đối phó với các trường hợp chư hầu của ông nổi loạn như John V của Armagnac.
Cuối cùng, tuy nhiên đến một thời điểm trong tháng 7 năm 1461 khi bác sĩ của vua Charles kết luận rằng ông không thể sống qua tháng Tám. Bị bệnh và mệt mỏi, nhà vua đã trở nên mê sảng, và bị thuyết phục rằng ông được bao quanh bởi những kẻ phản bội chỉ trung thành với con trai mình. Dưới áp lực của bệnh tật và sốt, nhà vua đã phát điên. Vào lúc này những lây nhiễm đã lan đến hàm răng của ông và gây ra một khối u hoặc áp xe trong miệng; chỗ sưng này đã trở nên quá lớn, cho tuần cuối cùng của cuộc đời mình, Charles đã không thể nuốt được thức ăn hoặc nước. Mặc dù ông tiếp tục cho gọi nhà Dauphin đến bên giường bệnh của ông, Louis vẫn từ chối và tiếp tục chờ đợi cha mình chết tại Avesnes ở Burgundy. Như vậy, tại Mehun-sur-Yèvre chỉ có sự có mặt của người con trai trẻ tuổi của ông-Charles và biết được sự phản bội cuối cùng người con trai cả của mình, nhà vua bị chết đói. Ông mất ngày 22 Tháng Bảy năm1461 và được chôn cất, theo yêu cầu của mình, bên cạnh cha mẹ của ông ở Saint-Denis.
Tranh vẽ Jeanne d’Arc dẫn đầu quân Pháp đi giải vây cho thành phố Orléans
Jeanne d’Arc
Jeanne d’Arc (tiếng Việt: Gian-đa, 6 tháng 1 năm 1412 – 30 tháng 5 năm 1431) là một nữ anh hùng người Pháp trong cuộc Chiến tranh Trăm năm giữa Pháp và Anh. Ngày 16 tháng 5 năm 1920, Jeanne d’Arc được chính thức phong thánh và là một trong những vị thánh chính của Giáo hội nước Pháp.Sinh ra trong một gia đình nông dân ở phía đông nước Pháp, cô chỉ huy quân Pháp giành được một số chiến thắng quan trọng trong cuộc Chiến tranh trăm năm. Cô cho biết mình được Thiên chúa dẫn dắt giúp giải phóng nước Pháp đánh bại quân Anh, và như vậy gián tiếp đưa Charles VII lên ngôi. Cô bị người Anh bắt giữ, bị tòa án giáo hội xét xử, bị kết tội là phù thủy và bị hỏa thiêu khi chỉ 19 tuổi. Sự nghiệp của cô như vậy chỉ gói gọn trong hai năm cuối đời, một năm chiến đấu và một năm bị cầm tù. Hai mươi bốn năm sau, Giáo hoàng Callixtus III cho tra xét lại vụ án, và tuyên bố cô vô tội, rồi phong cô là một người tử vì đạo. Cô được ban phúc lành năm 1909, rồi đến năm 1920 được phong thánh.Jeanne chứng thực là cô nhận được mặc khải từ Chúa muốn cô giải phóng quê hương mình từ ách thống trị của người Anh trong cuộc Chiến tranh trăm năm. Vua Charles VII của Pháp, khi đó còn chưa lên ngôi, gửi cô cùng một đoàn quân đến đánh giải vây cho thành Orléans. Cô trở nên nổi bật sau khi vượt qua được thái độ coi thường của các chỉ huy dày dặn kinh nghiệm, và phá vây chỉ trong vòng chín ngày. Một loạt chiến thắng chóng vánh khác mở đường cho việc Charles VII đăng quang tại Reims.Jeanne d’Arc tiếp tục là một hình tượng quan trọng trong nền văn minh phương Tây. Kể từ thời Napoléon cho tới thời hiện đại, các nhà chính trị Pháp thuộc tất cả các nhóm chính kiến tiếp tục gợi đến hình ảnh cô. Trong số các nhà văn và nhà soạn nhạc viết các tác phẩm về cô có thể kể đến Shakespeare, Voltaire, Schiller, Verdi, Tchaikovsky, Twain, và Shaw. Hình tượng cô tiếp tục được sử dụng trong phim ảnh, truyền thông, ca nhạc, múa hát…
Nước Pháp trong cuộc Chiến tranh Trăm năm
Vào thời Jeanne d’Arc, nước Pháp đang trong tình trạng thê thảm. Cuộc chiến tranh trăm năm bắt đầu từ năm 1337 khi cuộc tranh cãi về quyền thừa kế ngai vàng nước Pháp nổ ra, xen lẫn với các giai đoạn tương đối yên bình. Gần như tất cả các cuộc giao tranh đều diễn ra trên nước Pháp. Người Anh sử dụng chiến thuật chevauchée, tức chiến thuật dùng các cánh quân kỵ binh nhỏ đột kích, đốt phá, tàn sát để tàn phá nước Pháp. Dân số Pháp chưa kịp hồi phục sau nạn Đại dịch hạch từ thế kỷ trước, thương mại bị cắt đứt khỏi thị trường nước ngoài. Người Anh lúc đó đã gần như đạt được mục tiêu của mình nhằm thiết lập một hệ thống lưỡng đầu chế, dưới quyền điều khiển của người Anh, ngược lại quân Pháp chưa bao giờ giành được một chiến thắng đáng kể nào trong suốt cả một thế hệ. Theo lời sử gia DeVries, “vương quốc Pháp không còn đáng là cái bóng của chính nó ở thế kỷ mười ba.”Vị vua trị vì nước Pháp khi Joan ra đời là Charles VI, thỉnh thoảng lại lên cơn điên, nên không thể trị vì được. Em trai nhà vua, Công tước Louis xứ Orléans và em họ vua Jean sans Peur, Công tước xứ Burgundy, tranh giành ngôi nhiếp chính nước Pháp và quyền bảo trợ cho con cái nhà vua. Cuộc tranh giành này dẫn tới việc họ buộc tội Hoàng hậu Isabeau xứ Bavaria ngoại tình, và bắt cóc con cái nhà vua. Đỉnh điểm của cuộc xung đột diễn ra khi Công tước xứ Burgundy hạ lệnh cho người ám sát Công tước xứ Orléans năm 1407.Những người ủng hộ hai phe này được gọi là phe Armagnac và phe Burgundy. Lợi dụng tình hình rối ren, vua Anh là Henry V xâm lược Pháp rồi chiến thắng oanh liệt trong trận Agincourt năm 1415, đánh chiếm các thành phố ở miền bắc nước Pháp. Vị vua tương lai của nước Pháp, Charles VII, thụ phong danh hiệu Dauphin ( thái tử Pháp) khi mới 14 tuổi, vì cả bốn anh trai của ông đều đã qua đời trước đó. Hành động quan trọng đầu tiên của ông là ký hiệp ước hòa bình với phe Burgundy năm 1419. Nhưng nỗ lực này thất bại khi những người ủng hộ phe Armagnac đã chà trộn vào người của ông và ám sát John Dũng cảm trong buổi họp mặt ( thực ra thì ông đâu có lợi lộc gì khi ám sát chú mình ), dù Charles đã hứa bảo đảm an toàn cho ông. Vị công tước mới xứ Burgundy, Philippe le Bon, buộc Charles phải chịu trách nhiệm cho sự phản trắc này và liên minh với người Anh, với kết quả là một phần lớn lãnh thổ của Pháp bị người Anh chiếm mất.Năm 1420, Hoàng hậu Isabeau xứ Bavaria ký Hiệp ước Troyes, theo đó vua Henry V nước Anh và con cháu của ông được kế vị ngai vàng nước Pháp, thay cho con trai bà là Charles. Thỏa thuận này làm sống lại lời đồn đại là bà có quan hệ tình ái với vị Công tước xứ Orléans đã mất, và khiến người ta nghi ngờ vị Thái tử “Dauphin” là con hoang, chứ không phải con nhà vua. Henry V và Charles VI chết chỉ cách nhau hai tháng năm 1422, để lại một đứa con nhỏ, Henry VI của Anh, vua trên danh nghĩa của cả hai vương quốc. Em trai Henry V, John xứ Lancaster, Quận công Bedford đệ nhất làm nhiếp chính.
Kể từ năm 1429, gần như toàn bộ miền bắc nước Pháp và một số vùng ở vùng tây nam bị ngoại bang chiếm đóng. Người Anh cai quản Paris, trong khi người Burgundy giữ Reims. Thành phố này rất quan trọng, vì nó theo truyền thống là nơi đăng quang của các nhà vua Pháp, đặc biệt khi cả hai nhân vật tranh giành ngai vàng nước Pháp đều chưa được đăng quang làm vua. Người Anh lúc đó đang tiến hành cuộc vây hãm Orléans, thành phố duy nhất ở phía bắc sông Loire còn trung thành với triều đình Pháp. Nó có vị trí chiến lược án ngữ dòng sông, là lá chắn cho trung tâm của nước Pháp. Theo lời các sử gia hiện đại, “số mệnh vương quốc treo trên đầu thành phố Orléans.” Không ai tin tưởng thành phố có thể kháng cự được trong một thời gian dài nữa.
Cuộc đời và sự nghiệp
Joan là con ông Jacques d’Arc và bà Isabelle Romée tại Domrémy, một làng khi đó thuộc lãnh địa quận công xứ Bar (về sau nhập vào tỉnh Lorraine và đổi thành Domrémy-la-Pucelle). Cha mẹ cô sở hữu 50 mẫu đất (0.2 km2) và để thêm thu nhập cha cô còn làm viên chức thu thuế trong làng, cũng như chỉ huy đội dân quân của làng mình. Họ sống tại một vùng đất hẻo lánh thuộc vùng đông bắc còn trung thành với triều đình Pháp, dù nằm lọt thỏm trong lãnh địa của phe Burgundy. Khi cô còn nhỏ, thỉnh thoảng làng của cô bị đột kích và đốt phá.
Joan cho biết cô 19 tuổi khi phiên tòa xử cô diễn ra, như vậy cô sinh năm 1412; cô sau này cho biết cô nhận được thiên khải đầu tiên vào khoảng năm 1424 lúc 12 tuổi, khi đó cô đang ở ngoài đồng một mình thì nghe thấy tiếng nói (của thiên sứ). Cô thuật lại là đã òa lên khóc khi họ biến mất vì họ quá sức đẹp đẽ. Cô cho biết Tổng thiên sứ Michael, nữ Thánh Catherine xứ Alexandria, và nữ Thánh Đồng trinh Margaret truyền cho cô đánh đuổi người Anh và đưa nhà Dauphin đến Reims để lên ngôi vua.
Khi 16 tuổi, cô nhờ một người họ hàng, Durand Lassois, đưa cô đến Vaucouleurs để thỉnh cầu viên chỉ huy quân Pháp đồn trú tại đó là Bá tước Robert de Baudricourt cho phép tiếp kiến triều đình Pháp tại Chinon. Bá tước Baudricourt chế giễu cô, nhưng không làm cô nhụt chí. Tới tháng 1, cô lại quay trở lại và lần này được hai nhân vật quan trọng ủng hộ là Jean de Metz và Bertrand de Poulengy. Nhờ được họ bảo trợ, cô được gặp Bá tước lần thứ hai và tiên đoán hết sức chính xác về việc quân Pháp thất trận Herrings ở gần Orléans.
Thành công
Robert de Baudricourt cấp một toán quân bảo vệ để đưa cô đến Chinon, sau khi nhận được tin tức từ mặt trận xác nhận lời tiên đoán của cô trước đó. Cô băng qua lãnh địa của phe đối nghịch Burgundy bằng cách ăn mặc giả trai. Tới triều đình, cô gây ấn tượng trong buổi hội đàm kín đến mức Charles VII phải hết sức kinh ngạc. Ông sau đó cho người thẩm tra lý lịch và giáo lý cô tại Poitiers. Cùng lúc đó, mẹ vợ Charles là Yolande xứ Aragon bỏ tiền ra để tài trợ cho một đạo quân đi cứu viện Orléans. Joan thỉnh cầu được gia nhập đoàn quân và vũ trang như một hiệp sỹ, với áo giáp trắng, ngựa, cờ, thị đồng đều do người ta quyên góp. Sử gia Stephen W. Richey cho biết cô là niềm hy vọng duy nhất của cả một vương triều sắp sụp đổ:
“ Sau bao năm thua hết trận này đến trận khác, các lãnh đạo quân sự và dân sự của Pháp đã mất hết tinh thần và uy tín. Lúc mà Dauphin Charles chấp thuận đề nghị khẩn thiết của Joan được phép vũ trang và chỉ huy quân đội, ông hẳn hiểu rằng tất cả mọi phương sách thông thường và hợp lý khác đều đã thất bại. Chỉ có một vương triều ở thế tuyệt vọng cùng cực mới lắng nghe một cô thôn nữ thất học tự xưng mình là sứ giả của Thượng Đế truyền cho mình lãnh đạo quân đội để giành chiến thắng.”
“Hỡi Nhà vua nước Anh, và ngươi, Quận công Bedford, người tự xưng là nhiếp chính nước Pháp… hãy trả món nợ của các người cho Thượng Đế; trả lại cho người Thiếu nữ, chìa khóa tất cả các thành phố Pháp tươi đẹp mà các người đã xâm phạm.”
Thư gửi cho người Anh, tháng3-4 năm 1429;
Thư gửi cho người Anh, tháng3-4 năm 1429;
Cô đến Orléans ngày 29 tháng 4 năm 1429, nhưng Jean de Dunois (tức Jean d’Orléans), trưởng dòng công tước xứ Orléans, ban đầu không để cô tham gia họp trong hội đồng quân sự, và cũng không thông báo cho cô biết khi quân Pháp giao chiến với địch quân. Tuy nhiên việc này không ngăn cản được cô có mặt tại hầu hết các cuộc họp và các trận giao tranh. Người ta vẫn còn tranh cãi về ảnh hưởng và quyền chỉ huy trên thực tế của cô, với các sử gia truyền thống như Édouard Perroy cho rằng cô chỉ có ý nghĩa tượng trưng, mang lại hiệu quả tinh thần là chính. Tuy nhiên sự phân tích này dựa trên bản chép phiên toà xét xử cô, khi cô tuyên bố ưa cầm cờ hơn là cầm kiếm. Các học giả hiện đại tập trung vào phiên toà phục hồi danh dự của cô, nhấn mạnh là các sỹ quan tùy tùng rất khâm phục cô như một chiến thuật gia cừ khôi và là một nhà chiến lược giỏi. Ví dụ như Stephen W. Richey cho biết: “Cô dẫn quân đội đến một loạt chiến thắng ngoạn mục, xoay chiều cuộc chiến.” Dù thế nào đi chăng nữa, các sử gia cũng đồng ý là quân Pháp giành được nhiều thắng lợi vang dội trong thời kỳ sự nghiệp ngắn ngủi của cô.
Chiến tranh xoay chiều
Cô không lặp lại chiến thuật khi đó của các chỉ huy Pháp vốn tỏ ra quá thận trọng. Trong vòng 5 tháng bị vây hãm, quân Pháp chỉ đột kích có đúng một lần, và thất bại thảm hại. Tới ngày 4 tháng 5, quân Pháp công kích và đánh chiếm được tòa thành ngoại vi Saint Loup. Thừa thắng, cô cho quân tiến đánh pháo đài thứ hai, gọi là Saint Jean le Blanc. Pháo đài này hóa ra bị bỏ trống, nên quân Pháp giành được thắng lợi mà chẳng bị tổn thất gì. Ngày tiếp theo, trong cuộc họp hội đồng quân sự, cô bác lại kế hoạch của Jean d’Orleans và đòi tiến hành một cuộc đột kích nữa vào địch quân. Jean D’Orleans hạ lệnh khóa cửa thành lại để ngăn không cho cô giao chiến với quân địch, nhưng cô triệu tập dân chúng và binh sỹ lại và đòi thị trưởng phải mở cửa thành. Chỉ có một viên đại úy ( La Hire) hỗ trợ, cô dẫn quân tiến ra và đánh chiếm pháo đài Saint Augustins. Trong tối đó, cô được tin mình đã bị loại ra khỏi hội đồng quân sự, và các chỉ huy hội đồng đã quyết định chờ viện quân trước khi tiếp tục giao tranh. Bất chấp quyết định đó, cô vẫn cương quyết đòi tấn công cứ điểm chính của quân Anh là “les Tourelles” ngày 7 tháng 5. Người đương thời ghi nhận sự anh hùng của cô trong trận chiến, dù trúng một mũi tên vào cổ, cô vẫn quay trở lại chiến trường để dẫn quân xông lên trong đợt xung phong cuối cùng và hạ được công sự này
Joan of d’Arc đốc thúc quân Pháp tấn công cứ điểm les Tourelles của Anh
“…hỡi dân chúng, trong tám ngày, người Thiếu nữ đã đánh đuổi quân Anh khỏi tất cả các đồn lũy của chúng bên bờ sông Loire bằng cách này hay cách khác: chúng hoặc chết hoặc bị bắt, hoặc phải tháo lui trên chiến trường. Những gì các bạn được nghe về bá tước Suffolk, huân tước la Pole cùng em trai, huân tước Talbot, huân tước Scales, và hiệp sỹ Fastolf đều là sự thật; chúng ta đã đánh bại còn nhiều hiệp sỹ và chỉ huy hơn thế nữa.”
Thư gửi dân chúng Tournai, 25 tháng 6 năm 1429;Chiến thắng bất ngờ tại Orléans làm quân Pháp phấn chấn, rất nhiều người muốn tiến hành chiến dịch phản công quân Anh. Quân Anh dự tính quân Pháp có lẽ sẽ tìm cách đánh chiếm Paris hoặc mở cuộc tấn công vào Normandy. Sau chiến thắng tại Orleans, cô thuyết phục Charles VII giao quyền đồng chỉ huy quân đội cho cô và Công tước John II xứ Alençon và được nhà vua chấp thuận cho phép cô đánh chiếm các cây cầu bắc qua sông Loire để chuẩn bị tiến đánh Reims. Đây là một kế hoạch táo bạo, vì Reims nằm cách xa gấp đôi Paris, sâu trong lãnh thổ đối phương.
Quân Pháp tái chiếm Jargeau ngày 12 tháng 6, đánh thắng trận Meung-sur-Loire ngày 15, rồi trận Beaugency ngày 17. Công tước Alençon chấp thuận tất cả các đề xuất của Joan. Các chỉ huy khác, bao gồm cả Jean d’Orléans vốn đã hết sức khâm phục cô kể từ trận Orléans, nay trở thành những người nhiệt thành ủng hộ cô. Alençon ghi công cô cứu mạng tại Jargeau, khi cô cảnh báo ông về một cuộc pháo kích bằng súng đại bác. Cũng trong trận này, cô trúng một phát đạn súng tay bằng đá vào mũ sắt khi đang leo lên thang công thành. Một đạo quân Anh cứu viện bất ngờ xuất hiện ngày 18 tháng 6 dưới quyền chỉ huy của Hầu tước John Fastolf. Trận Patay diễn ra và quân Pháp đại thắng, chiến thắng này có thể coi là bản sao ngược của trận Agincourt. Tiền quân Pháp xung trận trước khi xạ thủ Anh dùng trường cung kịp chuẩn bị trận địa phòng ngự, kết quả là quân Anh bị đánh tơi bời, rút chạy toán loạn. Quân Pháp truy kích và tiêu diệt phần lớn đạo quân này, phần lớn sỹ quan chỉ huy quân Anh bị bắt sống. Hầu tước Fastolf chạy thoát với một dúm quân và trở thành một con dê tế thần cho người Anh trút mối nhục chiến bại. Quân Pháp thắng trận với chỉ tổn thất chỉ 100 kị binh.Quân Pháp xuất phát từ Gien-sur-Loire, hướng về Reims ngày 29 tháng 6, chấp nhận đầu hàng từ thành phố Auxerre do phe Burgundy giữ ngày 3 tháng 7. Tất cả các thị trấn nằm trên đường tiến quân của họ đều hạ vũ khí quay về với vua Pháp. Thành Troyes, nơi ký kết hiệp định tước quyền thừa kế của Charles VII, qui hàng sau khi bị vây hãm có bốn ngày mà không cần giao chiến. Quân Pháp lúc tiến tới Troyes thì thiếu lương thực trầm trọng. Edward Lucie-Smith dùng việc này như một ví dụ rằng Joan may hơn khôn: trước đó một vị thày tu lang thang tên là Tu sỹ Richard thuyết giáo về sự tận thế tại Troyes và thuyết phục dân chúng trồng đậu là một thứ cây lương thực ngắn ngày. Đạo quân đói khát đến nơi khi đậu vừa kịp thu hoạch.”Hoàng thân xứ Burgundy, tôi cầu nguyện ngài — tôi khẩn khoản cầu xin ngày – ngừng chiến với vương quốc Pháp thiêng liêng. Xin hãy nhanh chóng rút binh lính của ngài tại một số đất đai và pháo đài trong vương quốc, và nhân danh nhà vua nhân từ của Pháp, tôi thông báo nhà vua đã sẵn sàng lấy danh dự ra để đảm bảo hòa bình với ngài.”- “Thư gửi cho Philip Tốt bụng, Công tước Burgundy
Thành Reims mở cổng đầu hàng ngày 6 tháng 7. Sáng hôm sau, buổi lễ lên ngôi vua bắt đầu. Dù cả Joan và công tước Alençon thúc giục nhà vua cho tiến đánh Paris gấp, nhưng triều đình lại muốn đàm phán ngưng chiến với công tước Burgundy. Công tước Philip Tốt bụng vi phạm thỏa thuận giữa hai bên, dùng nó để kéo dài thời gian và tăng viện cho Paris. Quân Pháp trong lúc đó hành binh và tiếp tục nhận thêm các thành phố gần Paris đầu hàng. Quận công Bedford tập hợp một đạo quân Anh tiến ra chặn giữ quân Pháp ngày 15 tháng 8. Tới ngày 8 tháng 9, quân Pháp bắt đầu công phá Paris. Dù bị trúng một mũi tên vào chân, nhưng Joan tiếp tục chỉ huy binh sỹ cho tới khi giao tranh kết thúc khi trời tối. Ngày hôm sau, cô nhận được lệnh từ triều đình hạ lệnh ngưng chiến và rút quân. Phần lớn sử gia đổ lỗi cho tể tướng Pháp là Georges de la Trémoille đã phạm phải nhiều sai lầm chính trị tai hại kể từ sau lễ đăng quang của nhà vua Pháp.
Bị cầm tù
Sau một trận giao chiến nhỏ tại La-Charité-sur-Loire trong tháng 11 và 12, Joan đến Compiègne trong tháng 4 để bảo vệ thành phố chống lại quân Anh và Burgundy vây hãm. Cô bị bắt sống trong một trận chạm trán ngày 23 tháng 5 năm 1430. Khi hạ lệnh rút lui, cô là người rút cuối cùng để đoạn hậu, quân Burgundy vây bọc toán quân đoạn hậu của cô.”Sự thật là nhà vua đã hưu chiến với công tước xứ Burgundy trong 15 ngày, và công tước phải giao lại Paris sau khi hạn 15 ngày chấm dứt. Nhưng các bạn chớ có ngạc nhiên nếu như tôi không nhanh chóng tiến quân vào thành phố đó. Tôi chưa hài lòng với các cuộc hưu chiến, và không chắc rằng tôi sẽ chấp nhận chúng, nhưng nếu tôi chấp thuận hưu chiến, thì đó chỉ là để bảo toàn danh dự cho nhà vua: dù họ có xâm phạm hoàng gia như thế nào đi chăng nữa, thì tôi cũng sẽ duy trì quân đội đề phòng trường hợp họ không tôn trọng hòa bình sau 15 ngày.”
“Thư gửi nhân dân Reims, 5 tháng 8 năm 1429″Sau khi Joan d’Arc bị bắt, các tướng lĩnh và sỹ quan của cô như đại úy la Hire, Công tước Alencon, Jean de Rais… đã tổ chức một đội giải cứu đông đến 4.000 tình nguyện viên ( lúc này chỉ có Hoàng gia mới có tiền để mộ quân) để tấn công vào Vermandois và giải cứu cho cô nhưng trận chiến đã thất bại. Ấm ức vì thái độ vô ơn của Charles với Joan d’Arc, một loạt các tướng lĩnh đã tỏ ra bất phục nhà vua, ví dụ Jean de Rais đang là một Nguyên soái đã bỏ về nhà mình ( Ông này sau bị kết tội là yêu râu xanh), Công tước Alencon-em họ của vua Pháp, sau cũng liên tục chống đối lại nhà vua và 2 lần bị kết tội tử hình nhưng được giảm án phải chết trong tù…
Theo lệ thường thì thân nhân có thể dùng tiền để chuộc lại tù binh. Không may là gia đình cô không có tiền. Nhiều sử gia lên tiếng chỉ trích vua Charles VII không làm gì cả để can thiệp. Cô mấy lần định vượt ngục, có lần nhảy từ tòa tháp cao 70 bộ (21 m) ở Vermandois xuống một cái hào khô, rồi sau đó bị chuyển đến thị trân Arras do quân Burgundy kiểm soát. Người Anh mua lại cô từ tay của Công tước Philip xứ Burgundy. Giám mục Pierre Cauchon xứ Beauvais, một người thân Anh, đóng vai trò chính trong việc đàm phán mua lại cô và trong phiên tòa xét xử cô sau này.Phiên tòa xét xửTòa án dị giáo này được thúc đẩy bởi lý do chính trị. Công tước Bedford thay mặt cho cháu trai của mình là Henry VI tranh giành ngai vàng của nước Pháp. Joan là người đã trợ giúp cho việc đăng quang của vị vua đối nghịch, do đó việc kết tội cô là một nỗ lực nhằm hạ bệ tính hợp pháp của lễ đăng quang của vua Charles VII. Các thủ tục pháp lý đã được tiền hành từ ngày 9 tháng 1 năm 1431 tại Rouen, thuộc khu vực kiểm soát của chính quyền Anh. Vụ xét xử này có một số điểm bất thường.Tóm tắt một vài vấn đề chính như sau:
Theo luật của Giáo hội, Giám mục Cauchon thiếu thẩm quyền xét xử trường hợp này. Ngài được bổ nhiệm xét xử nhờ sự chống đỡ thiên vị của chính quyền Anh, và chính quyền Anh đã tài trợ cho cuộc xét xử này. Giáo sĩ công chứng viên Nicolas Bailly được bổ nhiệm đi thu thập lời chứng chống lại Joan nhưng đã không thể tìm thấy bất kỳ chứng cứ chống đối nào. Tòa án đã mở cuộc xét xử mà không hề có chứng cứ nào như thế. Tòa án cũng vi phạm luật của Giáo hội khi từ chối quyền được có cố vấn pháp lý của Joan. Trong cuộc thẩm tra công khai đầu tiên, Joan tố cáo rằng tất cả những người hiện diện lúc đó đều là những người theo phe Anh chống lại cô, và yêu cầu phải có những giáo sĩ của phía Pháp được mời.
Nhiều viên chức tòa án sau này đã làm chứng rằng những phần quan trọng của bản ghi chép đã được sửa đổi nhằm chống lại cô. Nhiều giáo sĩ đã bị cưỡng bức tham gia, trong đó có cả quan tòa Jean Le Maitre, thậm chí một số người còn bị chính quyền Anh đe dọa giết. Theo những hướng dẫn dành cho tòa án dị giáo thì Joan phải được nhốt trong một nơi giam giữ thuộc Giáo hội dưới sự trông nom của những người canh gác thuộc nữ giới, nghĩa là các nữ tu. Nhưng không, chính quyền Anh đã giữ cô trong một nhà tù thế tục được canh gác bởi những người lính của họ. Giám mục Cauchon đã từ chối đơn kháng án của Joan lên Hội đồng Basel và Giáo hoàng vì điều này có thể ngừng việc xét xử của ông.
Mười hai lời buộc tội tóm tắt bản tuyên án của tòa mâu thuẫn với hồ sơ tòa án đã bị sửa đổi. Bị cáo mù chữ dưới áp lực bị đe dọa tử hình ngay lập tức đã ký vào một văn kiện tuyên bố bội giáo mà cô không hiểu. Tòa án đã thay thế một lời tuyên bố bội giáo khác trong hồ sơ chính thức.
Bị hành quyết
Tội dị giáo chỉ bị kết án tử hình nếu đương sự liên tục phạm tội. Thoạt đầu Joan chấp nhận mặc quần áo phụ nữ, nhưng trong khi bị giam cầm, cô đã bị quấy rối tình dục. Vì thế nên cô mặc lại quần áo đàn ông để tự vệ khỏi bị quấy nhiễu, hoặc là theo lời chứng của Jean Massieu, vì quần áo của cô bị lấy trộm và cô không có đồ gì khác để mặc.
Các nhân chứng kể lại cuộc hành quyết bằng cách thiêu sống trên dàn thiêu ngày 30 tháng 5 năm 1431. Bị trói trên một cây cọc cao tại Vieux-Marche ở Rouen, cô xin hai vị giáo sỹ, linh mục Martin Ladvenu và linh mục Isambart de la Pierre, nâng cây thánh giá trước mặt mình. Một người nông dân cũng làm một cây thập tự nhỏ mà cô dùng để gài trước áo. Sau khi cô chết, người Anh gạt đống tro ra, để lộ thân xác cháy thiêu của cô, để không ai có thể cho là cô đã trốn thoát, rồi lại đốt thi thể cô hai lần nữa để biến nó thành tro bụi, sao cho không ai có thể thu thập được mảnh thân xác nào làm thánh tích. Họ ném tro bụi xác cô xuống sông Seine. Viên đao phủ, Geoffroy Therage, về sau nói là ông ta “…khiếp sợ sẽ bị đày xuống địa ngục.”
Phục hồi danh dự
Philippe-Alexandre Le Brun de Charmettes là sử gia đầu tiên viết một cuốn sách hoàn chỉnh về Joan d’Arc năm 1817, trong nỗ lực nhằm khôi phục danh tiếng của gia đình cô. Ông trở nên quan tâm về Joan khi nước Pháp vẫn còn phải nỗ lực tìm bản sắc của mình sau cuộc Cách mạng Pháp chiến tranh Napoleon. Đặc trưng quốc gia của Pháp khi ấy là tìm kiếm một anh hùng chân chính, không có tai tiếng. Với tư cách một người ủng hộ nhiệt thành nhà vua và đất nước, Joan d’Arc là một hình mẫu có thể chấp nhận được với những người theo đường lối bảo hoàng. Là một người yêu nước và là con gái của một gia đình bình dân, cô được xem như hình tượng ban đầu của những chiến sỹ tình nguyện thuộc tầng lớp dưới đáy của xã hội, (the soldats de l’an II), những người đã anh dũng chiến đấu và chiến thắng cho cuộc cách mạng Pháp năm 1802, và như vậy có thể được xem như hình tượng của một người Cộng hòa. Là một người tử vì đạo, cô rất được lòng giới giáo dân Công giáo mộ đạo. Cô được phong Thánh năm 1920 bởi Đức giáo hoàng Bênêdictô XV. Cuốn Orleanide của De Charmette, ngày nay đã bị quên lãng, là một ví dụ về việc người ta tạo ra một “đặc trưng quốc gia”, giống như các nhà văn Virgil (với cuốn Aeneid), hay Camoens (cuốn Lusiad) đã làm cho La Mã và Bồ Đào Nha.
Đoạn kết cuộc chiến
Cuộc chiến tranh trăm năm còn tiếp tục kéo dài thêm 22 năm kể từ ngày cô mất. Charles VII giữ được địa vị vua chính thống của Pháp, dù phe đối địch với ông làm lễ đăng quang cho Henry VI tháng 12 năm 1431, khi cậu bé tròn 10 tuổi. Trước khi nước Anh kịp tái tổ chức lực lượng chỉ huy và đạo quân cung thủ dùng trường cung, bị tiêu diệt năm 1429, họ mất đi đồng minh Burgundy sau Hòa ước Arras năm 1435. Quận công Bedford cũng qua đời cùng năm đó, và Henry VI trở thành vị vua thiếu niên trẻ nhất của Anh cai trị không có nhiếp chính, và sự non yếu của ông có lẽ là lý do quan trọng nhất khiến cuộc chiến chấm dứt. Sử gia Kelly DeVries cho rằng chiến thuật tấn công bằng đại bác và tập kích vỗ mặt mà Joan d’Arc sử dụng có ảnh hưởng đến chiến thuật mà quân Pháp sử dụng cho tới hết chiến tranh.
Minh oan và vinh danh
Joan d’Arc trở thành một nhân vật gần như huyền thoại trong suốt bốn thế kỷ tiếp theo. Nguồn thông tin chính về cô đến từ các bản kỷ yếu, năm bản chép tay về phiên tòa xét xử cô được tìm thấy trong đống tư liệu cổ vào thế kỷ 19. Không lâu sau đó, các sử gia tìm được toàn bộ bản ghi về phiên tòa minh oan cho cô, trong đó bao gồm lời chứng từ 115 nhân chứng, và nguyên bản tiếng Pháp của bản thảo tiếng Latin của phiên tòa xét xử cô. Nhiều bức thư đương thời cũng được tìm thấy, ba trong số đó mang chữ ký “Jehanne”, với nét chữ run run của một người đang tập viết. Nguồn tư liệu phong phú bất ngờ này là lý do để DeVries phải thốt lên, “Không có nhân vật nào từ thời Trung Cổ, đàn ông hay phụ nữ, lại được quan tâm nghiên cứu đến như thế”.
Joan d’Arc xuất thân từ một làng quê hẻo lánh, chỉ là một cô thôn nữ thất học mà nổi lên như một nhân vật xuất chúng khi còn chưa quá tuổi thiếu niên. Cuộc chiến tranh giành ngôi giữa vua Anh và vua Pháp dựa trên bộ luật Salic cổ kéo dài đằng đẳng, sự xuất hiện của cô mang lại ý nghĩa cho câu hỏi “Liệu có nên đuổi nhà vua khỏi vương quốc; và liệu chúng ta có trở thành người Anh?” Theo Stephen Richey, “Cô biến một cuộc chiến giành ngai vàng giữa hai triều đại, khiến nhân dân trở nên vô cảm vì mất mát, thành một cuộc chiến tranh ái quốc được nhân dân ủng hộ.” Theo Richey:
“Những người quan tâm đến cô trong suốt năm thế kỷ sau đó tìm cách gán cho cô đủ loại phẩm chất: cuồng tín ma quỉ, tâm linh huyền bí, ngây thơ và bị sử dụng một cách bi thảm bởi những kẻ có thế lực, người sáng lập và biểu tượng của chủ nghĩa ái quốc hiện đại, nữ anh hùng được yêu quí, nữ thánh. Cô kiên định, dù bị đe dọa tra tấn và chết trên giàn hỏa, rằng mình được dẫn dắt bởi giọng nói của Thượng Đế. Dù có thế nào đi chăng nữa, thành quả mà cô gặt hái được khiến người nghe không khỏi lắc đầu kinh ngạc.”
Năm 1452, trong một cuộc điều tra, Nhà Thờ tuyên bố một vở kịch tôn giáo để tưởng niệm cô tại Orléans có giá trị như một đặc ân hành hương tới đất thánh. Cô trở thành biểu tượng cho Liên minh Công giáo (Pháp) thời thế kỷ 16. Ngài Félix Dupanloup, Giám mục xứ Orléans từ 1849 tới 1878 là người đi đầu trong nỗ lực phong thánh cho cô, nhưng ông không còn sống để thấy điều đó trở thành hiện thực.
Lá cờ của chính phủ lưu vong của Charles de Gaulle thời Đệ nhị thế chiến. Phong trào kháng chiến Pháp sử dụng cây Thập tự Lorraine như biểu tượng gợi nhớ đến Joan of Arc.
Người Công giáo truyền thống tại Pháp và các nơi khác xem cô như biểu hiện của nguồn cảm hứng, và so sánh việc rút phép thông công Marcel Lefebvre năm 1988 (người sáng lập ra Hội thánh Pius X và người bất đồng với các cải cách Vatican II) với việc cô bị rút phép thông công. Ba con tàu của Hải quân Pháp được đặt theo tên cô, gồm cả hàng không mẫu hạm cho máy bay trực thăng Jeanne d’Arc (R 97) nay vẫn còn hoạt động.
Jean II, Duke of Alençon
John II của Alençon (2 tháng Ba năm 1409, Château d’Argentan – 08 tháng 9 năm 1476, Paris) Con của John I của Alençon và Marie của Brittany. Ông đã thừa kế cha mình làm Công tước của Alençon và Bá tước của Perche vào năm 1415 khi còn là một cậu bé 6 tuổi, sau cái chết của cha mình trong trận Agincourt.
Ông được trông thấy đã từng tham gia chiến đấu như một chiến binh trẻ tuổi trong trận Verneuil trong ngày 17 tháng Tám năm 1424 và bị bắt tù binh bởi người Anh. Ông bị giam giữ trong tù cho đến năm 1429, khi ông được phóng thích sau khi phải nộp một khoản tiền chuộc lớn, khoản tiền chuộc này đã làm cho ông chở nên nghèo khó và vùng đất công tước của ông nằm trong sự kiểm soát của người Anh. Trước khi ông bị bắt tại tù binh tại Verneuil, ông đã kết hôn với Jeanne của Valois, con gái của Charles, Công tước xứ Orleans và Isabella của Valois tại Blois, năm 1424, bà này qua đời năm 1432.
Ngay sau khi được thả tự do, ông trở thành người ủng hộ cô nổi bật nhất trong số các hoàng thân cùng huyết thống với Hoàng gia Pháp. Ông trở thành một người bạn thân của Thánh nữ-người có biệt danh là “Công tước cao quý.” Ông đi cùng cô trên các chiến dịch của mình, bao gồm cả cuộc bao vây của Orleans. Sau đó ông được bổ nhiệm làm trung tướng của nhà vua và chiến đấu trên Loire cùng với Jeanne.
Ngày 12 tháng 6 năm 1429, ông đã giành chiến thắng của Jargeau và chiếm được thành phố, và đã làm cho Bá tước Suffolk phải bỏ chạy khỏi. chiến thắng của ông cũng góp phần vào sự thành công của trận Patay. Ông tham gia vào cuộc hành quân đến Reims tháng Bảy, sau đó ngày 17 tháng 7 ông là một trong những hiệp sỹ của Charles VII trước khi ông này tham dự lễ đăng quang của mình.Bất chấp thỏa thuận ngừng bắn ký kết tại Compiegne với người Burgundy Alençon cho dựng trại vào mùa đông 1429-1430 để tiến hành các cuộc chinh phục tới Normandy, nhưng không thu được thành công, cũng như Jeanne đang bị bế tắc bởi sự trì hoãn của viên Tể tướng La Trémoille.
Cay đắng, ông hiểu rằng ông không có gì để mong đợi từ La Trémoille và rời triều đình, và nhận làm Trung úy của Bá tước Vendome. Trong những tháng sau đó ông tham gia một cuộc chiến riêng rẽ chống lại Công quốc của Brittany. Ngày 30 tháng 4 năm 1437, tại Chateau L’Isle-Jourdain, Ông kết hôn với Marie của Armagnac (c. 1420-1425 tháng 7 năm 1473, Cloister Mortagne-au-Perche), con gái của Jean IV của Armagnac.John đã tỏ ra bất mãn với Hiệp ước Arras, vì đã từng hy vọng làm giảm cái nghèo của mình qua việc bắt ép người Burgundy ( kẻ thù của ông trong nội chiến Pháp ) phải nộp tiền.
Ông đã có nhiều mâu thuẫn với Charles VII và tham gia vào một cuộc nổi dậy từ năm 1439-40, ( cuộc nổi dậy Praguerie) nhưng được nhà vua Pháp tha thứ. Ông tham gia vào cuộc tái chiếm Normandy trong năm 1449, ông cũng đã có những trao đổi liên lạc một cách hạn chế với người Anh 1440. (Ông đã chấp nhận danh hiệu Golden Fleece của người Anh vào lúc này.) Ngay sau khi đứng ra làm chứng tại cuộc ” phúc thẩm phục hồi danh dự” cho Joan của Arc trong 1456, ông đã bị bắt bởi Jean Dunois và bị giam cầm tại Aigues-Mortes. Năm 1458, ông bị kết án tội phản bội tổ quốc và bị kết án tử hình, bản án đã được giảm nhẹ và ông bị giam giữ tại Loches.
Ông được phóng thích bởi Louis XI vào năm 1461 nhân dịp ông này mới đăng quang nhưng John từ chối công nhận nhà vua và vẫn tiếp tục bị cầm tù một lần nữa. Ông bị xử án lần thứ hai trước Nghị viện Paris và bị kết án tử hình một lần nữa vào ngày 18 tháng bảy năm 1474 và Công quốc của ông bị tịch thu. Tuy nhiên, bản án đã không được thực hiện, và ông đã chết trong tù tại cung điện Louvre năm 1476.
Jean de Dunois
John bastard của Orléans, Bá tước của Dunois, được sinh ra như là “John Levieux of Orleans” vào ngày 23 tháng 11 năm 1402, qua đời ngày 24 tháng 11 năm 1468 tại lâu đài Lay) là một trong những Đại úy của người Pháp trong Chiến tranh Trăm năm . Ông cũng là một đồng chí của Joan d’Arc.
Chân dung công tước Dunois-Con hoang của xứ OrleansÔng là con trai ngoài giá thú của Louis-Công tước xứ Orleans (1372-1407) và Mariette d’Enghien, con gái của Jacques d’Enghien. Ông là em trai cùng cha khác mẹ của Charles của Orleans. Ông lớn lên trong gia đình hợp pháp của cha mình, đặc biệt là trong những năm đầu đời và được nuôi dậy bởi một trong các bà vợ của Valentina Visconti (1366-1408)-Nữ bá tước của Vertus. Phong cách sống này là rất phổ biến trong các gia đình quý tộc lớn hay thuộc dòng dõi hoàng gia.
Ông thường được gọi là Bastard của Orleans-thằng con hoang của xứ Orleans ( thời gian này người ta không phân biệt nhiều lắm giữa con chính thức và con hoang ) và Dunois (viết tắt của Danh hiệu Bá tước của ông, từ khi ông nhận được nó).Từ năm 1422, Dunois chấp nhận nguyên nhân mà Charles VII bị tước đoạt mất vương quốc của mình sau Hiệp ước Troyes (1420) và chạy sang Bourges (vì thế có biệt danh “Vua của Bourges”). Ông sớm nổi bật bởi lòng can đảm của mình: ở tuổi 25 ông đã chiến đấu với 1600 người của mình, dưới chân bức tường của Montargis với 3000 quân Anh được chỉ huy bởi Lord Warwick, Lord Suffolk, và Sir John de la Pole
Ông là một người đồng chí của Joan d’Arc tại Chinon và tham gia với cô trong nhiều trận đánh. Cần lưu ý hoàn toàn là giai thoại, sự tương đồng của các biệt danh Maid of Orleans-của Joan d’Arc (do việc giải vây cho thành phố) và Bastard của Orleans (do uy tín của Dunois).Ông đã chia sẻ những giờ phút hiểm nguy và vinh quang cùng với Joan d’Arc ở dưới chân bức tường thành của Thành phố Orleans và có đóng góp to lớn vào chiến thắng Patay năm 1429. Ông lại làm cho mình nổi bật một lần nữa sau cái chết của Maid of Orleans, năm 1432 ông đã chiếm thành phố Chartres và Paris năm 1436 khi đang bị chiếm đóng bởi người Anh.Ông được tặng thưởng, danh hiệu Grand Chamberlain của Pháp với danh dự của một hoàng thân hợp pháp vào ngày 21 tháng 7 năm 1439.
Sau đó ông gia nhập Hội đồng cố vấn của nhà vua, được hỗ trợ bởi Nữ hoàng Yolande hùng mạnh của xứ Aragon, mẹ vợ của nhà vua. Tuy nhiên, Dunois đã tỏ ra không hài lòng với việc có quá ít nỗ lực được thực hiện bởi Charles VII để tiến hành chuộc người anh trai cùng cha khác mẹ của mình-Charles của Orleans, một tù nhân đang nằm trong tay người Anh kể từ trận Azincourt ( khổ quá vì lý do nếu Charles VII là con hoang thì Charles của Orleans mới xứng đáng làm vua nên ông này phải rũ tù trong tay người Anh là hay nhất ). Bởi vì bức xúc này, ông đã tham gia một âm mưu chống lại Georges Trémoille và Charles VII trong năm 1440 và tham gia vào cuộc nổi dậy Praguerie của các lãnh chúa phong kiến và cuộc nổi dậy này
cũng có cả sự tham gia của nhà Dauphin (vua Louis XI tương lai). Sau đó ông được ân xá bởi chính nhà vua Pháp. Ông tham gia vào các cuộc bao vây các thành phố Harfleur và Dieppe Gallardon. Năm 1444, nhà vua bổ nhiệm ông trung tướng của mình, đây là một vị trí cao nhất mà ông nắm giữ, ông đã trục xuất người Anh ra khỏi xứ Normandy sau chiến thắng Formigny, năm 1450 năm ông chinh phục đã chinh phục được xứ Guyenne, lúc này cũng đang bị chiếm đóng bởi người Anh.
Sau cái chết của Charles VII, Dunois cảm thấy không hài lòng với người kế vị ngai vàng, ông đã đứng về phe Liên minh vì hạnh phúc chúng sinh trong 1465 ( đây là Liên minh của các chư hầu phong kiến chống lại nhà vua Louis XI mới lên ngôi ). Trong cuộc bao vây của Paris, ông đã được tưởng thưởng chiến công của mình bằng tòa lâu đài castle of Beauty ở thủ đô mà ông đã ép được nó phải đầu hàng. Nhưng tòa lâu đài này lại bị đe dọa chiếm mất bởi các thuộc hạ của Louis XI. Ông tham gia đàm phán hiệp ước Conflans và được khôi phục quyền lợi, ông cũng chủ trì Hội đồng cải cách vì lợi ích dân chúng ( đương nhiên là các lãnh chúa phong kiến mị dân nên đặt tên kêu như vậy thôi ), và tham gia Hội đồng Ba mươi sáu. Sau khi hòa giải với Louis XI, ông đã sử dụng Hội đồng này như là một công cụ trung thành với hoàng gia.
Ông qua đời ngày 23 tháng 11 năm 1468 và được chôn cất tại nhà thờ Đức Bà Clery-Saint-André.
Gilles de Rais
Gilles de Montmorency-Laval, Tử tước de Rais (1404-1440) là một hiệp sĩ người Breton, một chỉ huy trong quân đội Pháp và là một đồng chí của Joan d’Arc. Ông được biết đến như một kẻ chuyên giết trẻ em ( Yêu râu xanh ). Có rất nhiều tranh cãi về tội lỗi lịch sử này; Một số người cho tằng ông bị khép tội bởi lý do chính trị.
Cuộc sống tuổi thơ
Joan d’Arc còn được minh oan, nhưng có vẻ như chẳng ai minh oan cho Gilles de Rais và người anh hùng của Pháp phải chết như một tên Yêu râu xanhGilles de Rais đã được sinh ra vào cuối năm 1404 bởi Guy II de Montmorency-Laval và Marie de Craon trong tòa lâu đài của gia đình ở Machecoul, hoặc theo các nguồn khác là tại Champtocé-sur-Loire, 35 dặm ở phía đông của Nantes. Ông từng là một đứa trẻ thông minh, nói thông thạo tiếng Latinh, có chữ viết rất đẹp và được giáo dục cả về kỷ luật quân sự, đạo đức và trí tuệ. Sau cái chết của cha và mẹ của ông năm 1415, Gilles và em trai của mình René de La Suze được đặt dưới sự giám hộ của Jean de Craon, ông ngoại của họ. Jean de Craon là người đã cố gắng sắp xếp một cuộc hôn nhân cho cậu bé Gilles mười hai tuổi với Jeanne Paynel bốn tuổi-một cô bé có của thừa kế giàu nhất Normandy, và, khi kế hoạch thất bại, ông lại cố gắng không thành công để kết hợp cậu bé với Beatrice de Rohan, cháu gái của Công tước xứ Brittany. Tuy nhiên vào ngày 30 tháng 11 năm 1420, Craon đã làm tăng đáng kể tài sản cháu trai của mình bằng cách cho cậu bé kết hôn với Catherine de Thouars của Brittany, nữ thừa kế của La Vendée và Poitou. Người con của họ Marie được sinh ra trong năm 1429.
Sự nghiệp quân sự Trong những năm sau của chiến tranh Kế thừa Breton, Gilles mới mười sáu tuổi đã đứng ở phía phe của Công tước Brittany thuộc nhà Montfort để chống lại đối thủ được chỉ huy bởi Olivier de Blois, Bá tước của Penthièvre. phe Blois, người vẫn từ chối từ bỏ quyền lực của họ ở vùng Brittany, đã bắt công tước John V của Brittany làm tù nhân. Rais đã có thể giải cứu cho vị Công tước và được khen thưởng với khoản lãnh địa hào phóng và đã được quy đổi đổi thành quà tặng ở dạng tiền tệ.
Năm 1425, Rais được giới thiệu vào triều đình của Charles VII tại Saumur và học được cách cư xử lịch sự quý tộc từ nhà Dauphin. Trong các trận chiến tại Saint-Lô và Le Mans giữa các năm 1427 và 1429, Gilles đã cho thấy sự dũng cảm và tàn bạo của ông trong chiến đấu. Ở trận chiến Château của Lude, ông leo lên các bậc thang và tấn công hạ gục viên Đại úy người Anh. Ông lại một lần nữa lao vào tấn công các pháo đài của người Anh Rainefort (Rennefort) và lâu đài của Malice-sur-Sarthe, ở hạt Maine.
Từ 1427-1435, Rais phục vụ như là một chỉ huy trong quân đội Hoàng gia, tự phân biệt mình bằng cách cho thấy sự dũng cảm liều lĩnh trên chiến trường trong thời gian cuộc Chiến Trăm năm được tiếp tục. Năm 1429,. Ông đã chiến đấu cùng với Joan d’Arc trong một số các chiến dịch chống lại người Anh và Burgundy-đồng minh của họ. Ông đã có mặt cùng với Joan khi cuộc bao vây thành phố Orléans kết thúc. Vào chủ nhật ngày 17 tháng 7 năm 1429, Gilles được chọn là một trong bốn lãnh chúa được trao vinh dự mang bình đựng dầu thánh từ Tu viện Saint-Remy đến Notre-Dame de Reims để làm lễ xoa dầu thánh tấn phong Charles VII làm vua của Pháp. Trong cùng ngày, ông đã chính thức được phong làm Thống chế của quân đội Pháp.Ông lại tiếp tục làm cho mình trở nên nổi bật trong năm 1430, khi quyết định tấn công Melun và một năm sau khi triệt phá cuộc bao vây của người Anh vào Lagny-sur-Marne. Năm 1436 ông cùng Thống chế Pierre de Rieux dẫn đầu quân tiên phong của Pháp dưới sự tiết chế của Nguyên soái Richemont. Đây là đội quân đi đến Sille-le-Guillaume ở Maine để giao chiến với quân Anh.
Etienne de Vignolles – Đại úy la Hire
Etienne de Vignolles, còn được gọi là “The Hire” (Vignoles, 1390 – Montauban, ngày 11 Tháng Một năm 1443), là một chỉ huy người Pháp trong Chiến tranh Trăm năm.
Chân dung của La Hire thường được mô tả như là một chiến binh xù xì và thô lỗÔng có biệt danh của mình trên chiến trường bởi bản tính bạo lực và bản tính hay tức giận đã làm cho ông trở lên nổi tiếng (trong thực tế, ire trong tiếng Pháp vào thời điểm đó có nghĩa là sự tức giận).Gia huy của Đại úy La Hire, Charles đã tưởng thưởng cho La Hire vì chiến công của ông với danh hiệu Lord of Montmorillon
Trong dân gian Pháp ông chính là biểu tượng của quân bài Jack heart
La Hire tham gia chiến đấu lần đầu tiên ở Coucy để chống lại người Burgundy và quân Anh. Ba năm sau, ông quay trở lại chiến đấu, và giống như tất cả các binh sỹ khác của quân đội Pháp, chiến đấu để bảo vệ quê hương của họ trong trận Baugé. Kỹ năng của ông với thanh kiếm khiến ông trở nổi tiếng khắp nước Pháp và ông đã được chiêu mộ bởi Charles VII, người yêu cầu ông tham gia vào cuộc giải vây ở Orleans. Ông đã chấp nhận và vào năm 1429 để đến Orléans. Trận chiến đã cho thấy phía Pháp đã xuất hiện những anh hùng trong chiến đấu trong đó có Joan d’Arc và Jean de Poton Xaintrailles, đó là những người bạn rất gần gũi của Etienne. Trong cùng năm, ông là người có công lớn nhất trong những chiến thắng của người Pháp tại Patay Anh và Jargeau. Năm 1431, đến Rouen với một nỗ lực để cứu Joan d’Arc, nhưng nỗ lực đó đã thất bại thảm hại, vì bản thân ông rơi vào tay của người Anh. Ông đã cố gắng chốn tthoát để tiếp tục cuộc chiến và thu được nhiều thành công ở Dourdan tại Artois, trong Ile-de-France và cũng như trong Picardy. Anh trai của ông de-Amadoc Vignolles đã bị giết trong một con đường hầm ở Creil bởi John Talbot ( trong mùa xuân 1434). Ông đã giành được chiến thắng trong trận Gerbevoy (1435) Và kết quả là ông được phong làm Đại úy của vua Pháp ở vùng Normandy ( năm 1438). Ông đã giành được rất nhiều thắng lợi nhưng cũng bị thương nặng nhất trong trận chiến cuối cùng của mình, tuy nhiên ông vẫn qua khỏi và trở thành chỉ huy đội vệ sĩ riêng của vua Charles VII ở Montauban. Sau này ông bị ốm nặng và qua đời vì một một căn bệnh không rõ tên, có thể là hậu quả nghiêm trọng của một chấn thương trong chiến đấu. Ngôi mộ của ông là một ngôi mộ kiểu gisant ( Ngôi mộ có một bức tượng nằm ở mặt trước mô tả người đàn ông hay người phụ nữ được chôn cất ở đó) và nó đã bị phá hủy trong thời gian của cuộc Cách mạng Pháp.
Jean Poton de Xaintrailles
Poton Jean, Lord của Xaintrailles, một quý tộc của xứ Gascony, phụ trách đàn ngựa của vua, người quản lý Berry và cũng là người được ủy nhiệm vùng Limousin, ông đã tham gia vào Chiến tranh Trăm năm và cụ thể là đã tham dự trận Verneuil (1424).Gia huy Poton Jean de XaintraillesÔng đã được ghi nhận cho sự can đảm, sự táo bạo, lòng nhiệt thành của mình trong việc chống lại người Anh trong cuộc Chiến tranh Trăm năm. Bị bắt làm tù binh tại trận Cravant, ông đã được đổi lấy John Talbot của Anh. Hưởng ứng Joan d’Arc ngay từ khi cô mới xuất hiện, ông đã tham gia vào cuộc bao vây Orleans lần thứ hai, ông đã bị thương ở Patay và nỗ lực ép người Anh phải hủy bỏ cuộc bao vây Compiegne.
Cùng với Étienne de Vignolles (thường được gọi là La Hire), ông đã giành được chiến thắng trong trận Gerberoy nơi ông bắt tù binh Bá tước Arundel. Ông hoạt động rất tích cực trong các cuộc tái chinh phục xứ Normandy và Guyenne. Như một phần thưởng cho tất cả sự phục vụ trung thành của ông, vua Charles VII bổ nhiệm ông Nguyên soái của Pháp trong năm 1454 và phong thưởng cho ông ngôi làng St Macarius làm lãnh địa phong kiến.Tham gia EcorcheursSau lễ ký Hiệp ước hòa bình Arras, rất nhiều binh lính đánh thuê đã thành lập các băng đả.ng đôi khi đông đến hàng ngàn chiến binh và tổ chức cướp bóc dân lành: quân lột da. Poton Xaintrailles và người đồng chí của ông, Etienne de Vignolles cùng với các đại úy của Joan d’Arc đã công phá và cướp cướp bóc các vùng đất thuộc Hà Lan và Lorraine trong năm 1444.Vào ngày 26 tháng năm 1445 vua Charles phải công bố the Companies Ordinance đầu tiên cho quân đội để đảm bảo một cam kết lâu dài vĩnh viễn cho các cựu lính đánh thuê.Ông qua đời ở Trompette Chateau, Bordeaux ngày 07 tháng 10 năm 1461, mà không có con cái nối dõi. Theo văn bản di chúc của ông trong tiếng Gascon mà chúng tôi có trong tay. Ông để lại phần lớn các bất động sản của mình để làm công việc tôn giáo. Một số tài liệu của Nghị viện Pháp đã viết rằng: ” Xaintrailles là một trong những đại úy dũng cảm của vương quốc Pháp và là người cùng với La Hire đẩy lui được quân Anh.”
Source: http://nghiencuulichsu.com/2015/09/04/chien-tranh-tram-nam-giua-phap-va-anh-bai-6/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.