Nhà báo Bùi Tín
Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa qua đời ngày 4/10/2013, quá tuổi 102, (đến 25-8-2011 là tròn trăm tuổi).
Thọ hơn 1 thế kỷ là cực hiếm, cực quý trong đời một người, vượt qua Đại Thọ Bách Niên. Người xưa nói khi nắp quan tài đậy lại là dịp luận bàn đánh giá đầy đủ về cuộc đời của người mới mất.Tuy vậy, do hoàn cảnh lịch sử, đấu tranh chính trị và chiến tranh kéo dài, sự phân chia Nam Bắc sau trận Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ, do hòa giải hòa hợp dân tộc vẫn còn ở phía trước, nên việc đánh giá tướng Giáp còn là một vấn đề tranh cãi, tranh cãi quyết liệt, kéo dài, với những chính kiến khác nhau, xa nhau, trái ngược hẳn nhau. Đây là điều không có gì lạ. Cho nên một đánh giá thống nhất về tướng Giáp là điều khó xảy ra, là hoàn toàn ảo tưởng. Qua bài viết này, tôi giữ thái độ khách quan công bằng, cũng là tưởng niệm khi ông mới đi xa.
Tôi gặp tướng Giáp từ những ngày đầu khởi nghĩa tháng 8-1945 ở Hà Nội. Năm 1948 – 1949 tôi gặp lại ông ở Bộ Tư lệnh Quân khu 4, thành phố Vinh. Sau 1955 tôi dự nhiều cuộc họp ở Bộ Quốc phòng – Tổng tham mưu, do tướng Giáp chủ tọa. Đầu tháng 5-1975, khi vào Sài Gòn tìm hiểu tình hình, ông điện chọn «nhà báo quân đội Bùi Tín làm người lên kế hoạch và hướng dẫn đại tướng thăm thú phố xá Sài Gòn – Chợ lớn, thăm gia đình vài anh chị em biệt động thành, thăm bà mẹ chiến sỹ tiêu biểu», trong 2 ngày, sau đó ông mới làm việc chính thức với Ủy ban Quân quản, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 và xuống Cần Thơ thăm Quân khu 9, tôi cùng đi theo.
Năm 1976 và 1977, tướng Giáp cầm đầu Đoàn đại biểu quân sự Việt Nam đi thăm chính thức lần lượt các nước Trung Quôc, Cộng hòa Dân chủ Đức, Ba Lan, Hungary, Romania, Liên Xô. Tôi ở trong đoàn, làm Trợ lý báo chí cho Bộ trưởng kiêm phóng viên cho báo Quân đội Nhân dân, giúp ông theo dõi thời sự quốc tế, trả lời phỏng vấn của báo chí, truyền hình các nước, đồng thời làm tin về hoạt động hằng ngày của đoàn. Mỗi buổi sáng, Cục trưởng đối ngoại của Bộ Quốc phòng và tôi là 2 người thường ăn sáng riêng cùng tướng Giáp để báo cáo tình hình và bàn công việc trong ngày.
Những năm 1986, 1990 vào dịp Đại hội đảng CS khóa VI và chuẩn bị Đại Hội VII, ông thường nhắn tôi đến nhà riêng ăn cơm gia đình để tìm hiểu tình hình xã hội, quân đội, dư luận quốc tế. Ông là người ưa nghe hơn là nói, thường kín đáo, không cởi mở, ít bạn tâm giao; ông cũng không hút thuốc, không uống rượu, không uống cà phê, chỉ uống nước trà pha rất loãng, không đánh bài tulơkhơ để giải trí như các ông tướng khác. Một thời khi bị xét nét về cái gọi là vụ «án xét lại chống đảng» (1966-1967) ông giải tỏa tinh thần bằng cách học đánh đàn dương cầm, mới chơi được vài bài phổ thông, chưa chơi được bài cổ điển như Dòng sông Danube hay Phiên chợ Ba Tư.
Công danh và những điều hạn chế
Về tài năng, ông Giáp quả có tài, mới đứng vững trên vị trí chỉ huy cao nhất của Quân đội Nhân Dân từ 1946 cho đến 1982, nghĩa là suốt 36 năm, qua 2 cuộc chiến tranh lâu dài, ác liệt. Tất nhiên trong cơ chế lãnh đạo tập thể, còn có Bộ Chính trị, có Đảng ủy Quân sự Trung ương, có các tướng lãnh và sỹ quan giúp việc dưới quyền, lại còn có cố vấn quân sự Trung Quốc, Liên Xô và vài nước khác, nên những chủ trương chiến lược, chiến dịch thường được bàn bạc chung.
Như khi chủ trương mở chiến dịch Biên giới năm 1950, lúc đầu tướng Giáp đề xuất đánh vào thị xã Cao Bằng trước, nhưng các cố vấn Trung Quốc do tướng Trần Canh cầm đầu đề nghị đánh theo kiểu «công điểm diệt viện», trước hết đánh vào Đông Khê trên đường số 4, ở giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, tiêu diệt cả binh đoàn Charton từ Cao Bằng rút chạy và binh đoàn Lepage từ Lạng Sơn lên đón, đều bị tiêu diệt hay bắt sống ở ngoài công sự, khi hành quân trong rừng; kết quả là giải phóng luôn cả Cao Bằng, Lạng Sơn và một vùng biên giới rộng lớn, thu rất nhiều vũ khí, bắt nhiều tù binh. Biên giới Việt – Trung rộng mở là chuyển biến chiến lược, có ý nghĩa quyết định cho những chến thắng sau này.
Về chiến địch Điện Biên Phủ, có thể nói chủ trương chiến dịch mang đậm tài năng chỉ huy của tướng Giáp. Năm 1989, nhân kỷ niệm 35 năm chiến dịch này, ông đã kể lại cho tôi nghe diễn biến cụ thể của chiến dịch, có ghi âm, được nhà văn Hữu Mai cùng dự ghi lại, thành bài hồi ký «Quyết định khó khăn nhất» đăng trên tuần báo Nhân dân Chủ nhật. Khi quân Pháp vừa nhảy dù xuống lòng chảo Điện Biên hồi cuối tháng 11-1953, Bộ Tổng tham mưu đã phác họa ngay kế hoạch bao vây và tấn công theo phương châm «đánh nhanh giải quyết nhanh» (khoái tả khoái diệt), theo học thuyết quân sự của Lâm Bưu khi địch mới lâm thời phòng ngự, chưa có hệ thống phong thủ vững chắc. Tổng cố vấn Vi Quốc Thanh và đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tán thành phương châm này, theo kiểu ồ ạt, thường gọi là «biển người». Đầu tháng 1-1954, tướng Giáp lên đến mặt trận, vòng vây được xiết dần, pháo lớn được kéo vào đặt trên sườn núi, được ngụy trang kỹ, với nhiều ụ pháo nghi binh, dự định khai hỏa vào lúc 18 giờ ngảy 26-1, dự tính sau 2 đêm 1 ngày sẽ diệt xong cả tập đoàn cứ điểm.
Nhưng cả đêm 25-1, tướng Giáp thao thức trăn trở về khả năng chiến thắng. Trưa 26-1 ông họp đảng ủy mặt trận cùng 3 tướng: Hoàng Văn Thái,Tổng tham mưu trưởng kiêm Tham mưu trưởng Mặt trận; Lê Liêm, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị kiêm Chủ nhiệm chính trị Mặt trận; Đặng Kim Giang, Phó chủ nhiệm hậu cần kiêm Chủ nhiệm hậu cần Mặt trận. Sau khi nêu rõ tuyến phòng thủ đã trở nên kiên cố của quân Pháp, tướng Giáp đưa ra ý kiến ngừng cuộc tiến công, rút pháo ra phía sau, chuẩn bị lại theo phương châm «đánh chắc tiến chắc», nghĩa là: đánh dũi theo đường hào bao vây chia cắt, diệt từng cứ điểm, dùng chiếc xẻng cán ngắn làm công cụ tiến công chính. Cả 3 tướng Thái, Liêm, Giang đều sững sờ vì bị bất ngờ, muốn giữ nguyên phương châm cũ, vì bộ đội đã được động viên cao, chỉ chờ lệnh là xông tới, nay đình lại là như dội nước lạnh, sau này động viên trở lại rất khó. Đã xế chiều, tranh luận còn gay go, tướng Giáp hỏi lại rằng có ai tin là sẽ chắc thắng trăm phần trăm, theo phương châm cũ không, thì cả 3 tướng nói trên đều không trả lời được. Ông dùng quyền bí thư đảng uỷ mặt trận, quyền tư lệnh chiến dịch kết thúc cuộc họp, dùng điện thoại ra lệnh trực tiếp cho các tư lệnh dưới quyền giữ vững quyết tâm diệt địch nhưng đình chỉ tiến công, kéo pháo ra, chấp hành triệt để, vì tình hình đã thay đổi, địch đã phòng thủ vững chắc, cần thay phương châm tác chiến sang «đánh chắc tiến chắc», ai còn thắc mắc sẽ giải thích sau. Việc thay đổi phương châm, rút pháo ra, chuẩn bị thêm gần 50 ngày đêm, để đêm 10-3 mở cuộc tiến công vào cứ điểm Him Lam, Độc Lập cho đến chiều 7 tháng 5-1954 toàn thắng, cũng qua hơn 50 ngày đêm chiến đấu, được tướng Giáp coi là «Quyết định khó khăn nhất» trong đời ông. Cần công bằng công nhận đây là biểu hiện tài chỉ huy mang dấu ấn riêng của ông. Như ông kể, Đại tá Nguyễn Hiếu ở Sở chỉ huy chiến dịch và Đại tá Cục phó Quân báo Cao Pha đã góp phần của mình, sớm tán đồng phương châm «đánh chắc tiến chắc» do ông đề ra. Về sau, nhiều sỹ quan công nhận rằng không thay phương châm, cứ liều húc vào một hệ thống phòng thủ vững chắc như tướng Pháp Navare và Cogny mong muốn thì 4 sư đoàn tiến công – vốn liếng quân sự của cuộc kháng chiến - sẽ bị tổn thất nặng nề ra sao, và diễn biến của cuộc chiến tranh chắc chắn sẽ khác hẳn. Các cố vấn quân sự Trung Quốc đều bất ngờ khi tướng Giáp báo tin thay đổi phương châm và sau khi nghe giải thích họ cũng tỏ ra tán thành.
Sau chiến thắng lớn như trên, các nhà bình luận quân sự phương Tây thường chỉ ra phía kháng chiến đã chịu những tổn thất khủng khiếp, gấp 3 hay 4 lần đối phương. Cái giá phải trả cho chiến thắng là quá lớn, lớn đến khủng khiếp, toàn là trai tráng thanh niên tuấn tú, có lý tưởng, chất lượng cao của dân tộc. Đây là sự thật. Hồi tháng 4-1996, trong cuộc hội thảo ở trụ sở Quốc Hội Hoa kỳ, tướng Westmoreland nói với tôi rằng: «Tôi công nhận tài năng của tướng Giáp, phải có tài mới ở lâu đến hơn 30 năm chiến tranh trên cương vị tư lệnh quân sự cao nhất; nhưng phải nói thật là nếu như tướng Giáp là một viên tướng Hoa kỳ thì ông đã bị mất chức từ lâu rồi, vì Quốc hội chúng tôi, xã hội chúng tôi không thể chấp nhận những tổn thất sinh mạng của quân đội mình cao đến vậy».
Tôi nghĩ nền độc lập của đất nước, quyền sống tự do của nhân dân là vô giá, dù cho phải trả giá cao, nhưng lãnh đạo đảng Cộng sản đã không quan tâm thật sự đến tự do của nhân dân, chỉ quan tâm trước hết đến quyền lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất của đảng, do đó mà vô vàn hy sinh của các liệt sỹ cuối cùng đã trở nên phũ phàng, mỉa mai, không được đáp đền một cách xứng đáng. Đây là điểm tiêu cực nhất của tướng Giáp, là tỳ vết sâu đậm nhất của một danh tướng, từng được coi là Người Anh Cả của Quân đội Nhân dân. Ông mang danh là một viên tướng «Sát Quân», sát quân một cách lạnh lùng.
Tôi đã gửi 2 lá thư cho ông (năm 1992 và 1996), nhắc ông rằng quân hàm đại tướng 4 sao của ông được mạ bằng xương máu của hàng vạn vạn chiến binh, rằng «nhất tướng công thành vạn cốt khô», mong ông hãy tham gia, ủng hộ phong trào đổi mới theo hướng dân chủ hóa thật sự đất nước; rằng ông chỉ cần ghé thăm anh Hoàng Minh Chính đang bị chính quyền đối xử rất tồi tệ, hoặc nhắn anh Đại tá Phạm Quế Dương mới ra khỏi nhà giam đến hỏi chuyện, cả 2 đều là sỹ quan từng dưới quyền trực tiếp của ông, ông vẫn làm ngơ, không động lòng. Đây là điểm yếu về ý chí, công tâm, nhân cách.
Nhiều người nhắc đến lá thư tháng 1-2004 của tướng Giáp gửi lãnh đạo đảng CS yêu cầu giải quyết «vụ án siêu nghiêm trọng» liên quan đến Tổng cục II, làm rõ vụ Năm Châu, Sáu Sứ và vụ T4, và sau này là 3 lá thư của ông hồi 2008-2009 về yêu cầu đình chỉ việc khai thác bauxite trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Đây là những việc làm có ý nghĩa tích cực, nhưng lá thư thứ nhất quá chậm trễ, vì các vụ Năm Châu, Sáu Sứ và vụ T4 đều xảy ra từ hồi 1991 – 1993 cũng như vụ dựng lên Tổng cục II từ Cục 2 Quân báo đến lúc đó cũng đã được mười năm. Ông Giáp phải chờ đến năm 2004 – năm kỷ niệm nửa thế kỷ Chiến thắng Điện Biên Phủ – mới lên tiếng. Mà nội dung lên tiếng xem kỹ ra là nặng về thanh minh cho riêng cá nhân mình, như ông bị Năm Châu, Sáu Sứ dựng lên tài liệu để vu cáo là ông có âm mưu đảo chính, hay vụ T4 là do Tổng cục II bịa ra tài liệu vu cáo ông và nhiều nhân vật khác có quan hệ với CIA của Hoa kỳ. Nói tóm lại ông chỉ trước hết nhằm bảo vệ thanh danh của cá nhân mình, cố chăm nom cho cái bộ mã của người hùng Điện Biên không bị hoen ố, cho đến khi hơn trăm tuổi.
Thái độ của ông đối với vụ khai thác bauxite cũng có phần yếu ớt, buông xuôi, so với những lá thư mạnh mẽ, lặp đi lặp lại của các tướng Đồng Sỹ Nguyên, Nguyễn Trọng Vĩnh và một số sỹ quan cấp cao khác.
Dũng khí là đức tính hàng đầu của một danh tướng, nên vào năm 1984, khi ông Lê Duẩn đến nói chuyện rất hẹp với cán bộ lãnh đạo báo Nhân Dân, ông kể rằng hồi 1968, bộ trưởng quốc phòng «nhát như thỏ đế», tránh mặt ra nước ngoài. Sự thật kế hoạch quân sự Mậu Thân 1968 là do các ông Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà đề xuất, khởi thảo và chỉ đạo thực hiện. Khi chiến sự bùng nổ Tết Mậu Thân, ông Giáp đang dưỡng bệnh 2 tháng ở Hungary sau khi mổ cắt túi mật ở đó. Thật ra ông không tán thành tham vọng tổng tiến công và nổi dậy, ông chỉ có ý thực hiện tập kích chiến lược, đánh rồi rút bảo toàn lực lượng, đánh lâu dài. Ý ông đúng, nhưng không cản nổi.
Ở Bộ Quốc phòng và Tổng tham mưu, các sỹ quan đều biết rằng suốt trong 30 năm, tướng Giáp rất ít khi ra mặt trận. Ngay ở Điện Biên Phủ ông gần như chỉ ở trong hang đá Mường Phăng, ngoài tầm pháo địch, suốt hơn 4 tháng trời, không ra gần hay sát nơi chiến trận. Sau khi chiến dịch toàn thắng ông mới ra duyệt binh tại chiến trường đã im tiếng súng và tìm hiểu những di tích của các trận đánh. Trước đó, các chiến dịch lớn Trung Du, Hòa Bình, Thượng Lào … ông cũng ở trên Việt Bắc, chỉ huy từ rất xa.
Từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc chiến tranh ở miền Nam (1959 – 1975), ông không hề đặt chân lên chiến trường miền Nam (trừ 2 ngày tháp tùng ông Fidel Castro trên một đoạn ngắn thăm đường mòn Hồ Chí Minh trên đất Cam Lộ – Quảng Trị, khi sắp kết thúc chíến tranh.). Trong khi đó các tướng Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Trần Độ, Hoàng Cầm, Lê Ngọc Hiền, Chu Huy Mân, Đoàn Khuê … đều ở chiến trường miền Nam vài năm. Do đó trong cuộc chiến tranh ở miền Nam, rút ra được những kinh nghiệm nóng hổi, thiết thực và bổ ích nhất, tướng Giáp đóng góp không có gì đáng kể, so với một loạt bài tổng kết lớn của tướng Nguyễn Chí Thanh (ký tên Trường Sơn), một số bài báo của tướng Trần Độ (ký tên Cửu Long) cũng như một số tài liệu tổng kết cho Học viện quân sự cấp cao của các tướng Lê Trọng Tấn, Hoàng Cầm, Hoàng Minh Thảo và Nguyễn Hữu An …mà cán bộ học viện thường gọi là «Binh thư mới» của Quân đội Nhân dân.
Một nhược điểm của tướng Giáp là văn phong, khẩu khí của ông, nếu không thể nói là yếu kém thì có thể nói là không có gì nổi bật. Ông mất đi, để lại hàng chục đầu sách, hàng trăm luận văn, bản báo cáo, hàng chục hồi ký (phần lớn do nhà văn quân đội Hữu Mai ghi lại), rất nhiều bài trả lời phỏng vấn trong nước và nước ngoài. Có cuốn sách nào hay, những ý tưởng quân sự nào đặc sắc của cá nhân ông, để lại cho hậu thế hay không? Điều này rất khó nói. Tôi từng dự nhiều buổi nói chuyện của ông tại Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, tại Học viện Quân sự cấp cao, ở trường Sỹ quan Lục quân, ở nhiều Quân khu, có thể nói ông không có năng khiếu truyền đạt, thông tin một cách bổ ích, hấp dẫn, rất thiếu những hình ảnh, dẫn chứng đặc sắc thú vị. Ông không có tài hùng biện, lôi cuốn của tướng Nguyễn Chí Thanh, không có tài kể chuyện thú vị của tướng Trần Độ, không có sự sống động dày dạn của lão tướng Lê Trọng Tấn, không có sự táo tợn bộc trực của tướng Phùng Thế Tài, cũng không có cái giọng bình dân lính tráng bỗ bã của tướng Đinh Đức Thiện.
Vốn là giáo sư sử học trường tư thục Thăng Long, tướng Giáp say mê nghiên cứu lịch sử, hiểu rõ thiên tài quân sự của Napoléon. Ông thông minh, đôi mắt sáng, có trí nhớ tốt. Nhưng cách trình bày, khoa sư phạm của ông thường lại sáo mòn, đầy những quy luật, nguyên tắc nhạt nhẽo, khô cứng, lặp đi lặp lại đến phát chán cho người nghe. Bao giờ cũng là do sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng, có đường lối chính trị và đường lối quân sự đúng đắn; có Quân đội Nhân dân, quân đội của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, được nhân dân bao bọc, che chở, nuôi dưỡng, gồm 3 thứ quân: chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, phối hợp chặt chẽ 3 vùng: rừng núi, trung du và đồng bằng; vùng tự do, vùng tranh chấp và vùng tạm chiếm; luôn giữ quyền chủ động cả về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật và chiến đấu, kết hợp chặt chẽ tiền tuyến với hậu phương…, quanh quẩn chỉ có thế.
Tướng Peter Mac Donald của Quân đội Hoàng gia Anh, từng sang Việt Nam gặp tướng Giáp hồi 1987 đã viết cuốn «GIAP – hai cuộc chiến tranh Đông Dương» (GIAP – les deux guerres d’ Indochine) do nhà xuất bản Perrin – Paris phát hành năm 1992, trong đó ông nhận xét: «Những tư tưởng của tướng Giáp được ghi lại trên giấy thường là chán ngán đến chết người » (ses pensées transcrites sur le papier sont souvent mortellement ennuyeuses). Đây là nhận xét gần với sự thật.
Kết luận cuốn sách 350 trang, tướng P. Mac Donald viết: «Từ khi còn trẻ, tướng Giáp đã thấm nhuần lý thuyết Cộng sản. Thật đáng tiếc là trải qua mấy chục năm dài, lẽ ra trí thông minh của ông đã có thể mách bảo ông rằng cái chế độ mà ông tham gia xây dựng là sai lầm tệ hại, để từ đó tìm ra con đường khác bảo đảm hạnh phúc cho đồng bào của ông. Như một người theo Công giáo thời Trung cổ sợ hãi bị trừng phạt khủng khiếp khi bỏ đạo, ông đã mù quáng phục vụ đường lối Marx – Lénine theo như Hồ Chí Minh dẫn giải».
Trên đây là nhận xét khách quan của một nhà quân sự già dặn từng ở trong quân đội Anh 32 năm, từng sống qua 26 nước, từng nghiên cúu kỹ trận Điện Biên Phủ, từng là chủ biên cuốn Lịch sử thế giới (1987).
Bi kịch lớn nhất của tướng Giáp khá nhiều người nhận thấy đúng là: một danh tướng, có kiến thức, thông minh nhưng lại không đủ thông minh và dũng khí để sớm nhận ra và từ bỏ một lý thuyết sai lầm tệ hại, chỉ đem lại tàn phá và tổn thất cho nhân dân, đến nay vẫn chưa có tự do và hạnh phúc khi ông nhắm mắt.
(Source: Blog Bùi Tín (VOA)).
Chú thích thêm:
(i) Ngô Nhân Dụng, NV-Online: "... Như Giáo sư Nguyễn Minh Cần phát biểu, trong lúc ông Võ Nguyên Giáp mới nhắm mắt, chúng ta hãy khoan không cần nói đến những nhược điểm của ông và vai trò yếu ớt của ông trong mấy chục năm cuối đời. Ông không đóng một vai trò quyết định nào trong chính sách của đảng Cộng sản. Có giả thuyết nói rằng Võ Nguyên Giáp chủ trương không đánh miền Nam, và bị thua phe Lê Duẩn chủ chiến. Nhưng sau khi đảng Cộng sản đã quyết định đánh, ông lại tuân thủ và tích cực thực hiện. Trong mười năm gần đây, nhiều người trong nước trông mong ông đứng ra phản đối các chính sách, đường lối của nhóm cộng sản cầm quyền tham nhũng, thối nát và bất lực trong việc đưa đất nước tiến lên, nhưng ông hoàn toàn im lặng. Chỉ có một lần ông lên tiếng phê bình việc khai thác bô xít, nêu cả lời khuyên của các cố vấn Nga ngày xưa khuyên không nên làm vì hại cho môi trường. Nhưng sau cùng, đảng Cộng sản bỏ ngoài tai. Ông cũng không dám phản đối đến cùng, vì không thể nào thay đổi chính sách của đảng Cộng sản. Bây giờ, đảng Cộng sản Việt Nam kính trọng quyền lợi và ý kiến của các cố vấn Trung quốc hơn.Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa qua đời ngày 4/10/2013, quá tuổi 102, (đến 25-8-2011 là tròn trăm tuổi).
Thọ hơn 1 thế kỷ là cực hiếm, cực quý trong đời một người, vượt qua Đại Thọ Bách Niên. Người xưa nói khi nắp quan tài đậy lại là dịp luận bàn đánh giá đầy đủ về cuộc đời của người mới mất.Tuy vậy, do hoàn cảnh lịch sử, đấu tranh chính trị và chiến tranh kéo dài, sự phân chia Nam Bắc sau trận Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ, do hòa giải hòa hợp dân tộc vẫn còn ở phía trước, nên việc đánh giá tướng Giáp còn là một vấn đề tranh cãi, tranh cãi quyết liệt, kéo dài, với những chính kiến khác nhau, xa nhau, trái ngược hẳn nhau. Đây là điều không có gì lạ. Cho nên một đánh giá thống nhất về tướng Giáp là điều khó xảy ra, là hoàn toàn ảo tưởng. Qua bài viết này, tôi giữ thái độ khách quan công bằng, cũng là tưởng niệm khi ông mới đi xa.
Tôi gặp tướng Giáp từ những ngày đầu khởi nghĩa tháng 8-1945 ở Hà Nội. Năm 1948 – 1949 tôi gặp lại ông ở Bộ Tư lệnh Quân khu 4, thành phố Vinh. Sau 1955 tôi dự nhiều cuộc họp ở Bộ Quốc phòng – Tổng tham mưu, do tướng Giáp chủ tọa. Đầu tháng 5-1975, khi vào Sài Gòn tìm hiểu tình hình, ông điện chọn «nhà báo quân đội Bùi Tín làm người lên kế hoạch và hướng dẫn đại tướng thăm thú phố xá Sài Gòn – Chợ lớn, thăm gia đình vài anh chị em biệt động thành, thăm bà mẹ chiến sỹ tiêu biểu», trong 2 ngày, sau đó ông mới làm việc chính thức với Ủy ban Quân quản, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 và xuống Cần Thơ thăm Quân khu 9, tôi cùng đi theo.
Năm 1976 và 1977, tướng Giáp cầm đầu Đoàn đại biểu quân sự Việt Nam đi thăm chính thức lần lượt các nước Trung Quôc, Cộng hòa Dân chủ Đức, Ba Lan, Hungary, Romania, Liên Xô. Tôi ở trong đoàn, làm Trợ lý báo chí cho Bộ trưởng kiêm phóng viên cho báo Quân đội Nhân dân, giúp ông theo dõi thời sự quốc tế, trả lời phỏng vấn của báo chí, truyền hình các nước, đồng thời làm tin về hoạt động hằng ngày của đoàn. Mỗi buổi sáng, Cục trưởng đối ngoại của Bộ Quốc phòng và tôi là 2 người thường ăn sáng riêng cùng tướng Giáp để báo cáo tình hình và bàn công việc trong ngày.
Những năm 1986, 1990 vào dịp Đại hội đảng CS khóa VI và chuẩn bị Đại Hội VII, ông thường nhắn tôi đến nhà riêng ăn cơm gia đình để tìm hiểu tình hình xã hội, quân đội, dư luận quốc tế. Ông là người ưa nghe hơn là nói, thường kín đáo, không cởi mở, ít bạn tâm giao; ông cũng không hút thuốc, không uống rượu, không uống cà phê, chỉ uống nước trà pha rất loãng, không đánh bài tulơkhơ để giải trí như các ông tướng khác. Một thời khi bị xét nét về cái gọi là vụ «án xét lại chống đảng» (1966-1967) ông giải tỏa tinh thần bằng cách học đánh đàn dương cầm, mới chơi được vài bài phổ thông, chưa chơi được bài cổ điển như Dòng sông Danube hay Phiên chợ Ba Tư.
Công danh và những điều hạn chế
Về tài năng, ông Giáp quả có tài, mới đứng vững trên vị trí chỉ huy cao nhất của Quân đội Nhân Dân từ 1946 cho đến 1982, nghĩa là suốt 36 năm, qua 2 cuộc chiến tranh lâu dài, ác liệt. Tất nhiên trong cơ chế lãnh đạo tập thể, còn có Bộ Chính trị, có Đảng ủy Quân sự Trung ương, có các tướng lãnh và sỹ quan giúp việc dưới quyền, lại còn có cố vấn quân sự Trung Quốc, Liên Xô và vài nước khác, nên những chủ trương chiến lược, chiến dịch thường được bàn bạc chung.
Như khi chủ trương mở chiến dịch Biên giới năm 1950, lúc đầu tướng Giáp đề xuất đánh vào thị xã Cao Bằng trước, nhưng các cố vấn Trung Quốc do tướng Trần Canh cầm đầu đề nghị đánh theo kiểu «công điểm diệt viện», trước hết đánh vào Đông Khê trên đường số 4, ở giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, tiêu diệt cả binh đoàn Charton từ Cao Bằng rút chạy và binh đoàn Lepage từ Lạng Sơn lên đón, đều bị tiêu diệt hay bắt sống ở ngoài công sự, khi hành quân trong rừng; kết quả là giải phóng luôn cả Cao Bằng, Lạng Sơn và một vùng biên giới rộng lớn, thu rất nhiều vũ khí, bắt nhiều tù binh. Biên giới Việt – Trung rộng mở là chuyển biến chiến lược, có ý nghĩa quyết định cho những chến thắng sau này.
Về chiến địch Điện Biên Phủ, có thể nói chủ trương chiến dịch mang đậm tài năng chỉ huy của tướng Giáp. Năm 1989, nhân kỷ niệm 35 năm chiến dịch này, ông đã kể lại cho tôi nghe diễn biến cụ thể của chiến dịch, có ghi âm, được nhà văn Hữu Mai cùng dự ghi lại, thành bài hồi ký «Quyết định khó khăn nhất» đăng trên tuần báo Nhân dân Chủ nhật. Khi quân Pháp vừa nhảy dù xuống lòng chảo Điện Biên hồi cuối tháng 11-1953, Bộ Tổng tham mưu đã phác họa ngay kế hoạch bao vây và tấn công theo phương châm «đánh nhanh giải quyết nhanh» (khoái tả khoái diệt), theo học thuyết quân sự của Lâm Bưu khi địch mới lâm thời phòng ngự, chưa có hệ thống phong thủ vững chắc. Tổng cố vấn Vi Quốc Thanh và đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tán thành phương châm này, theo kiểu ồ ạt, thường gọi là «biển người». Đầu tháng 1-1954, tướng Giáp lên đến mặt trận, vòng vây được xiết dần, pháo lớn được kéo vào đặt trên sườn núi, được ngụy trang kỹ, với nhiều ụ pháo nghi binh, dự định khai hỏa vào lúc 18 giờ ngảy 26-1, dự tính sau 2 đêm 1 ngày sẽ diệt xong cả tập đoàn cứ điểm.
Nhưng cả đêm 25-1, tướng Giáp thao thức trăn trở về khả năng chiến thắng. Trưa 26-1 ông họp đảng ủy mặt trận cùng 3 tướng: Hoàng Văn Thái,Tổng tham mưu trưởng kiêm Tham mưu trưởng Mặt trận; Lê Liêm, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị kiêm Chủ nhiệm chính trị Mặt trận; Đặng Kim Giang, Phó chủ nhiệm hậu cần kiêm Chủ nhiệm hậu cần Mặt trận. Sau khi nêu rõ tuyến phòng thủ đã trở nên kiên cố của quân Pháp, tướng Giáp đưa ra ý kiến ngừng cuộc tiến công, rút pháo ra phía sau, chuẩn bị lại theo phương châm «đánh chắc tiến chắc», nghĩa là: đánh dũi theo đường hào bao vây chia cắt, diệt từng cứ điểm, dùng chiếc xẻng cán ngắn làm công cụ tiến công chính. Cả 3 tướng Thái, Liêm, Giang đều sững sờ vì bị bất ngờ, muốn giữ nguyên phương châm cũ, vì bộ đội đã được động viên cao, chỉ chờ lệnh là xông tới, nay đình lại là như dội nước lạnh, sau này động viên trở lại rất khó. Đã xế chiều, tranh luận còn gay go, tướng Giáp hỏi lại rằng có ai tin là sẽ chắc thắng trăm phần trăm, theo phương châm cũ không, thì cả 3 tướng nói trên đều không trả lời được. Ông dùng quyền bí thư đảng uỷ mặt trận, quyền tư lệnh chiến dịch kết thúc cuộc họp, dùng điện thoại ra lệnh trực tiếp cho các tư lệnh dưới quyền giữ vững quyết tâm diệt địch nhưng đình chỉ tiến công, kéo pháo ra, chấp hành triệt để, vì tình hình đã thay đổi, địch đã phòng thủ vững chắc, cần thay phương châm tác chiến sang «đánh chắc tiến chắc», ai còn thắc mắc sẽ giải thích sau. Việc thay đổi phương châm, rút pháo ra, chuẩn bị thêm gần 50 ngày đêm, để đêm 10-3 mở cuộc tiến công vào cứ điểm Him Lam, Độc Lập cho đến chiều 7 tháng 5-1954 toàn thắng, cũng qua hơn 50 ngày đêm chiến đấu, được tướng Giáp coi là «Quyết định khó khăn nhất» trong đời ông. Cần công bằng công nhận đây là biểu hiện tài chỉ huy mang dấu ấn riêng của ông. Như ông kể, Đại tá Nguyễn Hiếu ở Sở chỉ huy chiến dịch và Đại tá Cục phó Quân báo Cao Pha đã góp phần của mình, sớm tán đồng phương châm «đánh chắc tiến chắc» do ông đề ra. Về sau, nhiều sỹ quan công nhận rằng không thay phương châm, cứ liều húc vào một hệ thống phòng thủ vững chắc như tướng Pháp Navare và Cogny mong muốn thì 4 sư đoàn tiến công – vốn liếng quân sự của cuộc kháng chiến - sẽ bị tổn thất nặng nề ra sao, và diễn biến của cuộc chiến tranh chắc chắn sẽ khác hẳn. Các cố vấn quân sự Trung Quốc đều bất ngờ khi tướng Giáp báo tin thay đổi phương châm và sau khi nghe giải thích họ cũng tỏ ra tán thành.
Sau chiến thắng lớn như trên, các nhà bình luận quân sự phương Tây thường chỉ ra phía kháng chiến đã chịu những tổn thất khủng khiếp, gấp 3 hay 4 lần đối phương. Cái giá phải trả cho chiến thắng là quá lớn, lớn đến khủng khiếp, toàn là trai tráng thanh niên tuấn tú, có lý tưởng, chất lượng cao của dân tộc. Đây là sự thật. Hồi tháng 4-1996, trong cuộc hội thảo ở trụ sở Quốc Hội Hoa kỳ, tướng Westmoreland nói với tôi rằng: «Tôi công nhận tài năng của tướng Giáp, phải có tài mới ở lâu đến hơn 30 năm chiến tranh trên cương vị tư lệnh quân sự cao nhất; nhưng phải nói thật là nếu như tướng Giáp là một viên tướng Hoa kỳ thì ông đã bị mất chức từ lâu rồi, vì Quốc hội chúng tôi, xã hội chúng tôi không thể chấp nhận những tổn thất sinh mạng của quân đội mình cao đến vậy».
Tôi nghĩ nền độc lập của đất nước, quyền sống tự do của nhân dân là vô giá, dù cho phải trả giá cao, nhưng lãnh đạo đảng Cộng sản đã không quan tâm thật sự đến tự do của nhân dân, chỉ quan tâm trước hết đến quyền lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất của đảng, do đó mà vô vàn hy sinh của các liệt sỹ cuối cùng đã trở nên phũ phàng, mỉa mai, không được đáp đền một cách xứng đáng. Đây là điểm tiêu cực nhất của tướng Giáp, là tỳ vết sâu đậm nhất của một danh tướng, từng được coi là Người Anh Cả của Quân đội Nhân dân. Ông mang danh là một viên tướng «Sát Quân», sát quân một cách lạnh lùng.
Tôi đã gửi 2 lá thư cho ông (năm 1992 và 1996), nhắc ông rằng quân hàm đại tướng 4 sao của ông được mạ bằng xương máu của hàng vạn vạn chiến binh, rằng «nhất tướng công thành vạn cốt khô», mong ông hãy tham gia, ủng hộ phong trào đổi mới theo hướng dân chủ hóa thật sự đất nước; rằng ông chỉ cần ghé thăm anh Hoàng Minh Chính đang bị chính quyền đối xử rất tồi tệ, hoặc nhắn anh Đại tá Phạm Quế Dương mới ra khỏi nhà giam đến hỏi chuyện, cả 2 đều là sỹ quan từng dưới quyền trực tiếp của ông, ông vẫn làm ngơ, không động lòng. Đây là điểm yếu về ý chí, công tâm, nhân cách.
Nhiều người nhắc đến lá thư tháng 1-2004 của tướng Giáp gửi lãnh đạo đảng CS yêu cầu giải quyết «vụ án siêu nghiêm trọng» liên quan đến Tổng cục II, làm rõ vụ Năm Châu, Sáu Sứ và vụ T4, và sau này là 3 lá thư của ông hồi 2008-2009 về yêu cầu đình chỉ việc khai thác bauxite trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Đây là những việc làm có ý nghĩa tích cực, nhưng lá thư thứ nhất quá chậm trễ, vì các vụ Năm Châu, Sáu Sứ và vụ T4 đều xảy ra từ hồi 1991 – 1993 cũng như vụ dựng lên Tổng cục II từ Cục 2 Quân báo đến lúc đó cũng đã được mười năm. Ông Giáp phải chờ đến năm 2004 – năm kỷ niệm nửa thế kỷ Chiến thắng Điện Biên Phủ – mới lên tiếng. Mà nội dung lên tiếng xem kỹ ra là nặng về thanh minh cho riêng cá nhân mình, như ông bị Năm Châu, Sáu Sứ dựng lên tài liệu để vu cáo là ông có âm mưu đảo chính, hay vụ T4 là do Tổng cục II bịa ra tài liệu vu cáo ông và nhiều nhân vật khác có quan hệ với CIA của Hoa kỳ. Nói tóm lại ông chỉ trước hết nhằm bảo vệ thanh danh của cá nhân mình, cố chăm nom cho cái bộ mã của người hùng Điện Biên không bị hoen ố, cho đến khi hơn trăm tuổi.
Thái độ của ông đối với vụ khai thác bauxite cũng có phần yếu ớt, buông xuôi, so với những lá thư mạnh mẽ, lặp đi lặp lại của các tướng Đồng Sỹ Nguyên, Nguyễn Trọng Vĩnh và một số sỹ quan cấp cao khác.
Dũng khí là đức tính hàng đầu của một danh tướng, nên vào năm 1984, khi ông Lê Duẩn đến nói chuyện rất hẹp với cán bộ lãnh đạo báo Nhân Dân, ông kể rằng hồi 1968, bộ trưởng quốc phòng «nhát như thỏ đế», tránh mặt ra nước ngoài. Sự thật kế hoạch quân sự Mậu Thân 1968 là do các ông Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà đề xuất, khởi thảo và chỉ đạo thực hiện. Khi chiến sự bùng nổ Tết Mậu Thân, ông Giáp đang dưỡng bệnh 2 tháng ở Hungary sau khi mổ cắt túi mật ở đó. Thật ra ông không tán thành tham vọng tổng tiến công và nổi dậy, ông chỉ có ý thực hiện tập kích chiến lược, đánh rồi rút bảo toàn lực lượng, đánh lâu dài. Ý ông đúng, nhưng không cản nổi.
Ở Bộ Quốc phòng và Tổng tham mưu, các sỹ quan đều biết rằng suốt trong 30 năm, tướng Giáp rất ít khi ra mặt trận. Ngay ở Điện Biên Phủ ông gần như chỉ ở trong hang đá Mường Phăng, ngoài tầm pháo địch, suốt hơn 4 tháng trời, không ra gần hay sát nơi chiến trận. Sau khi chiến dịch toàn thắng ông mới ra duyệt binh tại chiến trường đã im tiếng súng và tìm hiểu những di tích của các trận đánh. Trước đó, các chiến dịch lớn Trung Du, Hòa Bình, Thượng Lào … ông cũng ở trên Việt Bắc, chỉ huy từ rất xa.
Từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc chiến tranh ở miền Nam (1959 – 1975), ông không hề đặt chân lên chiến trường miền Nam (trừ 2 ngày tháp tùng ông Fidel Castro trên một đoạn ngắn thăm đường mòn Hồ Chí Minh trên đất Cam Lộ – Quảng Trị, khi sắp kết thúc chíến tranh.). Trong khi đó các tướng Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Trần Độ, Hoàng Cầm, Lê Ngọc Hiền, Chu Huy Mân, Đoàn Khuê … đều ở chiến trường miền Nam vài năm. Do đó trong cuộc chiến tranh ở miền Nam, rút ra được những kinh nghiệm nóng hổi, thiết thực và bổ ích nhất, tướng Giáp đóng góp không có gì đáng kể, so với một loạt bài tổng kết lớn của tướng Nguyễn Chí Thanh (ký tên Trường Sơn), một số bài báo của tướng Trần Độ (ký tên Cửu Long) cũng như một số tài liệu tổng kết cho Học viện quân sự cấp cao của các tướng Lê Trọng Tấn, Hoàng Cầm, Hoàng Minh Thảo và Nguyễn Hữu An …mà cán bộ học viện thường gọi là «Binh thư mới» của Quân đội Nhân dân.
Một nhược điểm của tướng Giáp là văn phong, khẩu khí của ông, nếu không thể nói là yếu kém thì có thể nói là không có gì nổi bật. Ông mất đi, để lại hàng chục đầu sách, hàng trăm luận văn, bản báo cáo, hàng chục hồi ký (phần lớn do nhà văn quân đội Hữu Mai ghi lại), rất nhiều bài trả lời phỏng vấn trong nước và nước ngoài. Có cuốn sách nào hay, những ý tưởng quân sự nào đặc sắc của cá nhân ông, để lại cho hậu thế hay không? Điều này rất khó nói. Tôi từng dự nhiều buổi nói chuyện của ông tại Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, tại Học viện Quân sự cấp cao, ở trường Sỹ quan Lục quân, ở nhiều Quân khu, có thể nói ông không có năng khiếu truyền đạt, thông tin một cách bổ ích, hấp dẫn, rất thiếu những hình ảnh, dẫn chứng đặc sắc thú vị. Ông không có tài hùng biện, lôi cuốn của tướng Nguyễn Chí Thanh, không có tài kể chuyện thú vị của tướng Trần Độ, không có sự sống động dày dạn của lão tướng Lê Trọng Tấn, không có sự táo tợn bộc trực của tướng Phùng Thế Tài, cũng không có cái giọng bình dân lính tráng bỗ bã của tướng Đinh Đức Thiện.
Vốn là giáo sư sử học trường tư thục Thăng Long, tướng Giáp say mê nghiên cứu lịch sử, hiểu rõ thiên tài quân sự của Napoléon. Ông thông minh, đôi mắt sáng, có trí nhớ tốt. Nhưng cách trình bày, khoa sư phạm của ông thường lại sáo mòn, đầy những quy luật, nguyên tắc nhạt nhẽo, khô cứng, lặp đi lặp lại đến phát chán cho người nghe. Bao giờ cũng là do sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng, có đường lối chính trị và đường lối quân sự đúng đắn; có Quân đội Nhân dân, quân đội của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, được nhân dân bao bọc, che chở, nuôi dưỡng, gồm 3 thứ quân: chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, phối hợp chặt chẽ 3 vùng: rừng núi, trung du và đồng bằng; vùng tự do, vùng tranh chấp và vùng tạm chiếm; luôn giữ quyền chủ động cả về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật và chiến đấu, kết hợp chặt chẽ tiền tuyến với hậu phương…, quanh quẩn chỉ có thế.
Tướng Peter Mac Donald của Quân đội Hoàng gia Anh, từng sang Việt Nam gặp tướng Giáp hồi 1987 đã viết cuốn «GIAP – hai cuộc chiến tranh Đông Dương» (GIAP – les deux guerres d’ Indochine) do nhà xuất bản Perrin – Paris phát hành năm 1992, trong đó ông nhận xét: «Những tư tưởng của tướng Giáp được ghi lại trên giấy thường là chán ngán đến chết người » (ses pensées transcrites sur le papier sont souvent mortellement ennuyeuses). Đây là nhận xét gần với sự thật.
Kết luận cuốn sách 350 trang, tướng P. Mac Donald viết: «Từ khi còn trẻ, tướng Giáp đã thấm nhuần lý thuyết Cộng sản. Thật đáng tiếc là trải qua mấy chục năm dài, lẽ ra trí thông minh của ông đã có thể mách bảo ông rằng cái chế độ mà ông tham gia xây dựng là sai lầm tệ hại, để từ đó tìm ra con đường khác bảo đảm hạnh phúc cho đồng bào của ông. Như một người theo Công giáo thời Trung cổ sợ hãi bị trừng phạt khủng khiếp khi bỏ đạo, ông đã mù quáng phục vụ đường lối Marx – Lénine theo như Hồ Chí Minh dẫn giải».
Trên đây là nhận xét khách quan của một nhà quân sự già dặn từng ở trong quân đội Anh 32 năm, từng sống qua 26 nước, từng nghiên cúu kỹ trận Điện Biên Phủ, từng là chủ biên cuốn Lịch sử thế giới (1987).
Bi kịch lớn nhất của tướng Giáp khá nhiều người nhận thấy đúng là: một danh tướng, có kiến thức, thông minh nhưng lại không đủ thông minh và dũng khí để sớm nhận ra và từ bỏ một lý thuyết sai lầm tệ hại, chỉ đem lại tàn phá và tổn thất cho nhân dân, đến nay vẫn chưa có tự do và hạnh phúc khi ông nhắm mắt.
(Source: Blog Bùi Tín (VOA)).
Chú thích thêm:
Ông Võ Nguyên Giáp là một “đảng viên cộng sản tốt.” Nghĩa là lúc nào cũng tôn trọng các chính sách do đảng quyết định. Ðảng bảo làm gì thì ông làm, không bảo thì ông không cần làm gì cả. Trong đảng, thời chiến cũng như thời bình, ông lúc nào cũng tuân thủ lệnh đảng. Cá nhân của ông không quan trọng. Ông theo đảng Cộng sản và suốt đời gánh chịu các hậu quả của lựa chọn đó. Cho nên việc đánh giá cá nhân ông không quan trọng. Ông đã được đưa ra chỉ huy quân đội, nhưng ông phải là người lãnh đạo. Quân đội đó được đảng Cộng sản sử dụng thế nào, dùng vào việc gì, chuyện đó nằm ngoài lãnh vực ông phụ trách. Gần đây, báo chí của đảng Cộng sản nêu ra khẩu hiệu “Quân đội trung thành với Ðảng,” chứ không phải với Quốc gia. Không thấy ông Giáp bày tỏ ý kiến. Lúc nào ông cũng là một đảng viên trung thành với đảng.
Một độc giả báo Người Việt mới góp ý kiến sau khi nghe tin ông Võ Nguyên Giáp qua đời. Bạn đọc này viết: “Tôi thấy dường như cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay ông Võ Nguyên Giáp không một lần tỏ ra ân hận về những việc của ông làm trong thời gian tại chức. Bằng chứng là khi trả lời phỏng vấn của một phóng viên ngoại quốc hỏi, “Général Giap, regrettez-vous de quatre millions de Vietnamiens... morts dans la guerre du Vietnam? “Thưa Ðại Tướng Giáp, ông có hối tiếc gì về việc bốn triệu người Việt đã chết trong chiến tranh Việt Nam không?) Và Tướng Giáp đã không đắn đo trả lời ngay, “Non, je ne regrette rien. NON, PAS DU TOUT!” (Không, tôi không hề hối tiếc. Không một mảy may nào).
Một đảng viên cộng sản gương mẫu bao giờ cũng chỉ tận tụy thi hành công tác do đảng giao phó, không cần suy nghĩ. Ý kiến cá nhân không đáng kể. Ông Giáp nói ông không hối tiếc về bốn triệu mạng người Việt đã chết. Không biết trong đáy lòng ông có cảm thấy thương xót hay không?
(ii) Phóng viên Morley Safer của chương trình 60 Minutes trên đài truyền hình CBS ở Mỹ: "... Trở lại Việt Nam sau chiến tranh Safer có cơ hội gặp tướng Giáp. Trong tác phẩm Flashback, ông viết rằng Tướng Giáp là một người rất cứng rắn trong chiến tranh và không hề hối tiếc đã phải hy sinh hàng trăm nghìn thanh niên Việt cho cuộc chiến.
Một cựu tướng Mỹ, Trung tướng Neil Creighton của Lục quân, đến Việt Nam cuối năm 1995 được Tướng Giáp tiếp kiến. Vị tướng Mỹ có nêu câu hỏi với những hy sinh nhân mạng, như thế có đáng giá cho chiến thắng không, Tướng Giáp trả lời: “Tôi hỏi Ngài nếu có một nước nào mà đến đánh nước Mỹ thì Ngài có đánh chúng không? Thế còn chúng tôi, đối với dân chúng có câu: ‘Thà chết chứ nhất định không làm nô lệ’. Hồ Chủ tịch có nói rằng: ‘Không có gì quí hơn độc lập, tự do’. Có lẽ các Ngài cũng nghe rồi.”
Sang thời bình vai trò lãnh đạo của Tướng Giáp lu mờ dần. Ông chỉ còn là biểu tượng của một thời đất nước anh hùng.
Đầu thập niên 1990, giáo sư Steven Young của trường luật Đại học Havard có gửi thư mời Tướng Giáp qua Mỹ nhưng không hiểu vì lý do gì Bộ Chính trị không cho ông đi.
Trước Đại hội VII của Đảng Cộng sản, Tướng Giáp đã mạnh mẽ lên tiếng chỉ trích quân đội tham ô và Đại hội năm 1991 đã có một cuộc vận động đầy căng thẳng để đưa Tướng Giáp trở lại chính quyền nhưng không đạt kết quả.
Sau đó ông im tiếng trước những bức xúc của xã hội nên làm mất đi ít nhiều ngưỡng mộ của những người từng xem ông như một lãnh đạo đáng kính.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã lìa trần. Ước mơ được thấy nước Mỹ vĩ đại bị ông đánh bại đã không thành. Tuy đánh bại cường quốc mạnh nhất thế giới, Tướng Giáp có nhận định người Mỹ là những “kẻ thù đáng kính”, như ông đã nói với Thượng Nghị sĩ John McCain và đã được vị dân cử và cũng là một ứng viên tổng thống Mỹ nhắc lại khi hay tin Tướng Võ Nguyên Giáp qua đời.
(iii) Nguyễn Thu Trâm: "... Để có được cái gọi là chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954, thì tướng Giáp đã nướng hơn 15,000 thanh niên Việt Nam vào một cuộc chiến hết sức vô nghĩa, bởi không phải do chiến thắng Điện Biên Phủ mà Việt nam được trao trả độc lập như luận điệu tuyên truyền của CS, mà đó là xu thế của thời đại, từ sau Thế Chiến Thứ Hai, tất cả các thuộc địa của Pháp đều lần lượt được trả độc lập, mà không cần một tiếng súng. Hãy xem tất cả các thuộc địa của Pháp ở Châu Phi, Châu Á có còn nước nào chưa được độc lập hay không? Họ đâu cần phải áp dụng "chiến thuật biển người", để nướng cả vạn quân cho một trận chiến như tướng Giáp đã làm!".
(iv) Nguyễn Hùng, BBC: "Tướng Giáp qua đời khi Việt Nam chỉ còn hai năm nữa là đã thống nhất được 40 năm.
Nhưng chuyện Việt Nam 'sánh vai với các cường quốc năm châu' được nói tới cách đây gần 70 năm vẫn chưa có dấu hiệu sẽ sớm thành hiện thực. Nhà thơ cách mạng của Việt Nam Tố Hữu đưa vào thơ những dòng: "Người ta lớn bởi vì ngươi quỳ xuống.". Chuyện Đảng ép các báo để Tướng Giáp sống thêm nhiều tiếng là hành động bắt giới truyền thông "quỳ xuống" trước truyền thông quốc tế. Và tương tự, nhiều người dân có lẽ cũng đang bị bắt "quỳ" khi mà vị thế của Việt Nam đang còn bấp bênh trong khu vực và quốc tế sau 27 năm Đổi Mới".
Nhưng chuyện Việt Nam 'sánh vai với các cường quốc năm châu' được nói tới cách đây gần 70 năm vẫn chưa có dấu hiệu sẽ sớm thành hiện thực. Nhà thơ cách mạng của Việt Nam Tố Hữu đưa vào thơ những dòng: "Người ta lớn bởi vì ngươi quỳ xuống.". Chuyện Đảng ép các báo để Tướng Giáp sống thêm nhiều tiếng là hành động bắt giới truyền thông "quỳ xuống" trước truyền thông quốc tế. Và tương tự, nhiều người dân có lẽ cũng đang bị bắt "quỳ" khi mà vị thế của Việt Nam đang còn bấp bênh trong khu vực và quốc tế sau 27 năm Đổi Mới".
(v) Ngoại trưởng Pháp Laurent Fabius, AFP: Ngoại trưởng Pháp đã gởi lời chia buồn trước sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp của Việt Nam hôm thứ Bảy ngày mùng 5/10, tức chỉ một ngày sau khi Tướng Giáp từ trần.“Tôi rất xúc động khi nhận được tin Tướng Giáp qua đời. Đây là một người Việt Nam yêu nước vĩ đại, được tất cả người dân Việt Nam yêu quý và kính trọng với vai trò nổi bật và sáng lập của ông trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc,”
(vi) The New York Times: "Tướng Giáp đã học các lý luận quân sự của Mao Trạch Đông, người đã viết rằng tuyên truyền chính trị, chủ nghĩa khủng bố và chiến tranh du kích kéo dài là điều kiện tiên quyết cho một cuộc cách mạng thành công".
Nay những "người bạn " Trung quốc... năm xưa cùng sát cánh bên Tướng Giáp ở chiến hào Điện Biên Phủ, và cả người Nga sau này... không lấy một lời Phân Ưu như Ngoại trưởng (thực dân) Pháp đã làm? Tệ đến thế là cùng!
(vii) Bs Hồ Hải: Thần Tượng là thuốc phiện. " Thần tượng được định nghĩa là hình hoặc ảnh của người đã chết. Nó cũng là hình một đấng coi là thiêng liêng, được tôn sùng và chiêm ngưỡng. Người hay vật được quí trọng hay tôn sùng một cách say mê. Ví dụ, con bò bằng vàng là thần tượng của người Do Thái; văn hóa phồn thực thì thờ linga và yoni, những nhà độc tài phát xít cho rằng mình là thần tượng của nhân dân; người Hồi giáo có thánh Ala; người theo đạo Phật có ông Thích Ca, v.v...
Suy cho cùng, thần tượng dù vật, hay người thì cũng là một loại tôn giáo, không hơn không kém. Ông tổ về chủ thuyết cộng sản - Karl Marx - đã nói: "Tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng" chẳng sai. Vì không ai trên thế giới này đều thỏa mãn với những gì mình đạt được. Khi sự đòi hỏi cho những thỏa mãn ấy đưa đến sự bất lực trước nghịch cảnh của cuộc đời, làm người ta mất niềm tin với khả năng của mình, và tôn giáo xuất hiện để tạo dựng niềm tin. Ở đâu tôn giáo đang trở thành chốn cuồng tín thì ở đó đang có một trật tự xã hội đang chuyển động ngầm ít ai thấy. Lúc Karl Marx nói câu này, ông ám chỉ Ki Tô giáo. Nhưng ông cũng không đủ khả năng để tiên đoán được chính những học trò của ông sau này, và ngay cả ngày nay cũng biến ông thành một thần tượng cho một tôn giáo mới. Tôn giáo cộng sản còn ghê gớm hơn Ki Tô giáo.
Không những thế, các học trò làm chính trị của Karl Marx, ngoài việc tôn thờ ông như một thần tượng, mà còn tôn thờ những hậu duệ độc tài khát máu làm thần tượng. Hậu quả của nó, từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc trên quả địa cầu này trải qua cả thế kỷ đẫm máu, lầm than không biết bao nhiêu dân tộc phải khổ đau.
Cho đến nay, không có lý thuyết nào gần như đúng tuyệt đối như Thuyết Tương Đối của Albert Einstein. Dù tuyệt đối đến đâu cũng có những cái sai hữu hạn của nó. Nếu khoa học xã hội giúp xã hội loại người có những chế độ chính trị tốt, thì cũng có những chế độ chính trị xấu. Khoa học tự nhiên cũng thế, những phát minh của thế giới tự nhiên nếu sử dụng cho những mục đích khác nhau sẽ mang lại kết quả tốt xấu khác nhau.
Chính vì thế, cả đời mình chả biết thần tượng ai, hay chủ thuyết nào. Nếu nói theo đúng nghĩa, thì mình thuộc loại vô thần. Đôi khi thấy cũng có cái hay, cũng có cái dở. Hay là vì, trong một đám đông đi theo một phong trào, hay một thần tượng thì mình lại đứng riêng một chỗ, nhìn ngắm và chật lưỡi cho nhân tình thê thái. Dở vì, không ít thì nhiều có những người đả kích quan điểm của mình, thậm chí bôi nhọ vì đức tin của họ. Nhưng, để tìm ra một cái gì đó có tính sáng tạo, thì đòi hỏi phải có tư duy độc lập, và một lập luận có tính phản biện tích cực, thì đòi hỏi con người đó phải khách quan, trung thực, và có óc quan sát để đưa vào lý luận. Lúc đó, yếu tố thần tượng và tôn giáo là vật cản làm con người chủ quan và cảm tính trong mọi vấn đề. Thủ đoạn của các chính khách luôn đi ngược quy luật của xã hội và tự nhiên để ru ngủ đám đông vô thức. Trong đó, thần tượng là trò lừa bịp phi khoa học, chủ quan và duy ý chí tai hại nhất của chính khách đối với dân tộc và tổ quốc. Nhưng khi truyền thông bị chính khách thâu tóm, thì tôn giáo và thần tượng sẽ là 2 phương tiện tốt nhất cho chính khách, và là tại hại nhất cho dân tộc và tổ quốc. Vì họ biến cả xã hội mắc một chứng tâm thần yêu thần tượng, theo cái quán tính tư duy mà chính khách đã vạch ra cho cộng đồng.
Mấy hôm nay ở nước Việt có một thần tượng ra đi, thông tin tràn ngập làm mệt mỏi cả xã hội. Nhưng có cái đặc biệt là, trước khi thần tượng này ra đi thì đất trời nơi chôn nhau cắt rún của thần tượng nổi cơn thịnh nộ với cơn bão Wutip lớn nhất trong 7 năm qua. Đã thế, vài hôm sau, ở đó lại diễn ra cơn lốc xoáy cũng lớn nhất, sau 1 ngày là thần tượng ra đi. Thật khó nghĩ, khi đảng cộng sản của thần tượng đang trong cơn bỉ cực, nên kéo dài đám tang của thần tượng đến 10 ngày. Liệu liều thuốc phiện này có cứu được những con nghiện giai đoạn cuối hết tiền, cùng đường trộm cướp giết người?". (Blog bshohai)
(viii) Văn Thùy (Hanoi): "Dẫu là gươm ngắn giáo dài / Xuôi tay cũng chỉ một bài điếu văn".Suy cho cùng, thần tượng dù vật, hay người thì cũng là một loại tôn giáo, không hơn không kém. Ông tổ về chủ thuyết cộng sản - Karl Marx - đã nói: "Tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng" chẳng sai. Vì không ai trên thế giới này đều thỏa mãn với những gì mình đạt được. Khi sự đòi hỏi cho những thỏa mãn ấy đưa đến sự bất lực trước nghịch cảnh của cuộc đời, làm người ta mất niềm tin với khả năng của mình, và tôn giáo xuất hiện để tạo dựng niềm tin. Ở đâu tôn giáo đang trở thành chốn cuồng tín thì ở đó đang có một trật tự xã hội đang chuyển động ngầm ít ai thấy. Lúc Karl Marx nói câu này, ông ám chỉ Ki Tô giáo. Nhưng ông cũng không đủ khả năng để tiên đoán được chính những học trò của ông sau này, và ngay cả ngày nay cũng biến ông thành một thần tượng cho một tôn giáo mới. Tôn giáo cộng sản còn ghê gớm hơn Ki Tô giáo.
Không những thế, các học trò làm chính trị của Karl Marx, ngoài việc tôn thờ ông như một thần tượng, mà còn tôn thờ những hậu duệ độc tài khát máu làm thần tượng. Hậu quả của nó, từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc trên quả địa cầu này trải qua cả thế kỷ đẫm máu, lầm than không biết bao nhiêu dân tộc phải khổ đau.
Cho đến nay, không có lý thuyết nào gần như đúng tuyệt đối như Thuyết Tương Đối của Albert Einstein. Dù tuyệt đối đến đâu cũng có những cái sai hữu hạn của nó. Nếu khoa học xã hội giúp xã hội loại người có những chế độ chính trị tốt, thì cũng có những chế độ chính trị xấu. Khoa học tự nhiên cũng thế, những phát minh của thế giới tự nhiên nếu sử dụng cho những mục đích khác nhau sẽ mang lại kết quả tốt xấu khác nhau.
Chính vì thế, cả đời mình chả biết thần tượng ai, hay chủ thuyết nào. Nếu nói theo đúng nghĩa, thì mình thuộc loại vô thần. Đôi khi thấy cũng có cái hay, cũng có cái dở. Hay là vì, trong một đám đông đi theo một phong trào, hay một thần tượng thì mình lại đứng riêng một chỗ, nhìn ngắm và chật lưỡi cho nhân tình thê thái. Dở vì, không ít thì nhiều có những người đả kích quan điểm của mình, thậm chí bôi nhọ vì đức tin của họ. Nhưng, để tìm ra một cái gì đó có tính sáng tạo, thì đòi hỏi phải có tư duy độc lập, và một lập luận có tính phản biện tích cực, thì đòi hỏi con người đó phải khách quan, trung thực, và có óc quan sát để đưa vào lý luận. Lúc đó, yếu tố thần tượng và tôn giáo là vật cản làm con người chủ quan và cảm tính trong mọi vấn đề. Thủ đoạn của các chính khách luôn đi ngược quy luật của xã hội và tự nhiên để ru ngủ đám đông vô thức. Trong đó, thần tượng là trò lừa bịp phi khoa học, chủ quan và duy ý chí tai hại nhất của chính khách đối với dân tộc và tổ quốc. Nhưng khi truyền thông bị chính khách thâu tóm, thì tôn giáo và thần tượng sẽ là 2 phương tiện tốt nhất cho chính khách, và là tại hại nhất cho dân tộc và tổ quốc. Vì họ biến cả xã hội mắc một chứng tâm thần yêu thần tượng, theo cái quán tính tư duy mà chính khách đã vạch ra cho cộng đồng.
Mấy hôm nay ở nước Việt có một thần tượng ra đi, thông tin tràn ngập làm mệt mỏi cả xã hội. Nhưng có cái đặc biệt là, trước khi thần tượng này ra đi thì đất trời nơi chôn nhau cắt rún của thần tượng nổi cơn thịnh nộ với cơn bão Wutip lớn nhất trong 7 năm qua. Đã thế, vài hôm sau, ở đó lại diễn ra cơn lốc xoáy cũng lớn nhất, sau 1 ngày là thần tượng ra đi. Thật khó nghĩ, khi đảng cộng sản của thần tượng đang trong cơn bỉ cực, nên kéo dài đám tang của thần tượng đến 10 ngày. Liệu liều thuốc phiện này có cứu được những con nghiện giai đoạn cuối hết tiền, cùng đường trộm cướp giết người?". (Blog bshohai)
Source: Lá Thư Úc Châu & http://www.voatiengviet.com/content/dai-tuong-vo-nguyen-giap-nhu-toi-tung-biet/1763195.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.