Ai Về Sông Tương
Nhạc sĩ: Thông Đạt
Giọng hát: Ánh Tuyết
http://www.youtube.com/watch?v=twwYnlrEGxM&feature=email
Tương Giang hay Tương Thuỷ hay sông Tương ( 湘江 hay "湘水"), là một con sông, chi lưu chính của sông Trường Giang, bên Trung Hoa. Sông này có chiều dài 856 km, bắt nguồn từ huyện Lâm Quý của Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc và chảy vào Hồ Nam. Đến Hào Giang Khẩu, huyện Tương Âm, thì Tương Giang phân thành hai dòng và cùng đổ vào hồ Động Đình.
Không biết Nhạc sĩ Thông Đạt có lấy ý từ sông Tương ở Hồ Nam hay không.
Riêng trong Văn học có những giai thoại thật lý thú về sông Tương. Thời cuối đời Đường, nhà Hậu Chu (907-955), thời Ngũ Quí, ở tỉnh Hồ Nam có nàng Ý Nương ( 意娘 ) con gái phú hộ Lương Công (Lương Tiêu Hồ:梁瀟湖 ), rất xinh đẹp và hay chữ. Một hôm có người khách trọ ở nhà nàng là Lý Sinh ( 李生) để ý, sau 2 người yêu nhau. Lương Công biết chuyện giận dữ đuổi Lý Sinh đi. Ý Nương đau buồn, sinh bệnh tương tư. Nhân trời Thu, Nàng làm khúc "Trường Tương Tư" để gởi Tình lang. Bài Khúc có 12 câu, trong đó có 4 câu hình thức như bài Tứ tuyệt, nên được người đời sau đã tách ra thành 1 bài Thơ riêng. Lý Sinh đọc được bài Khúc thì cảm thương vô cùng, đầm đìa nước mắt, cậy nhờ mai mối đến năn nỉ Lương Ông. Khi đọc bài Khúc của con gái, Lương Ông động lòng không kém, cho 2 trẻ kết mối lương duyên.
Trong truyện Kiều của Đại Thi hào Nguyễn Du có câu:
Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia.
Sông Tương là biểu tượng lòng "Tương tư" của 2 người yêu nhau phải xa nhau, "người đầu sông Tương, kẻ cuối sông Tương". Có thể Nhạc sĩ Thông Đạt mượn ý sông Tương mà tả nỗi thương nhớ chăng?
Trường Tương Tư
Lương Ý Nương
Hoa hoa diệp diệp lạc phân phân
Chung nhật tư quân bất kiến quân
Trường dục đoạn hề trường dục đoạn
Lệ châu ngân thượng cánh thiêm ngâm
Ngã hữu nhất thốn tâm
Vô nhân cộng ngã thuyết
Nguyện phong xuy tán vân
Tố dữ thiên biên nguyệt
Huề cầm thướng cao lâu
Lâu cao nguyệt hoa mãn
Tương tư đàn vị chung
Lệ trích cầm huyền đoạn
Nhân đạo Tương giang thâm
Vị để tương tư bán
Giang thâm chung hữu để
Tương tư vô biên ngạn
Quân tại Tương giang đầu
Thiếp tại Tương giang vĩ
Tương Tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương giang thủy
Mộng hồn phi bất đáo
Sở khiếm duy nhất tử
Nhập ngã tương tư môn
Tri ngã tương tư khổ
Trường tương tư hề trường tương tư
Trường tương tư hề vô tận cực
Tảo tri như thử quải nhân tâm
Hồi bất đương sơ mạc tương thức.
Trường Tương Tư
(Hải Đà: Bản dịch)
Tơi bời hoa lá rụng bay
Nhớ chàng đâu thấy …tháng ngày đợi mong
Đau lòng thiếp xót xa lòng
Ruột rà quặn thắt từng dòng lệ tuôn
Một mình thiếp hiểu thiếp buồn
Ai người chia sẻ cội nguồn ưu tư
Mây tan gió thổi phù hư
Nguyệt Hằng xao động lòng từ tâm giao
Ôm đàn đứng giữa lầu cao
Trăng khuya nở đóa hoa đào nguyên tiêu
Tương tư gẩy khúc nguyệt kiều
Lệ châu lã chã hồn phiêu du sầu
Sông Tương thăm thẳm đáy sâu
Tương tư da diết nỗi sầu hơn sông
Sông có đáy dễ dò sông
Sầu tương tư chỉ mênh mông vô bờ
Đầu sông chàng đứng thẫn thờ
Bẽ bàng mình thiếp đợi chờ cuối sông
Nhớ thương xa cách mịt mùng
Nước sông thắm thiết ta cùng uống chung
Hồn mơ nhập cõi mông lung
Hẹn nhau chín suối ta cùng gặp nhau
Tương tư có bước qua cầu
Hẳn ai mới thấu nỗi sầu mênh mang
Trường tương tư mãi thênh thang
Nỗi thương vô tận cưu mang tháng ngày
Nếu mà hiểu được lòng này
Thà không quen biết phút giây từ đầu
Source Nguyen Nam Son - Lá Thư Úc Châu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.