Trần Trung Đạo
(Xuân từ người Ly hương)
Tháng
Tư năm ngoái, trong một bài phỏng vấn của anh Duy Ái, đài VOA, tôi có
trả lời “quê hương Việt Nam sau năm 1975 là quê hương để nhớ để thương
chứ không phải để sống”. Thoạt nghe dễ bị hiểu lầm chỉ đi ra khỏi quê
hương mới thấy nhớ thương còn ở lại thì không. Không phải thế, quê
hương không còn là nơi để sống bình yên nhưng tình yêu dành cho quê
hương đã lớn lên trong tôi ngay những ngày còn ở đó.
Dọc
hành lang các công ty Mỹ thường treo tranh ảnh. Có khi là bản sao một
danh họa và có khi chỉ là một tấm ảnh nghệ thuật để làm kín bức tường.
Bức tranh treo bên ngoài phòng làm việc của tôi là một ngọn đồi xanh
với những bụi hoa dại nhiều màu mọc đó đây, và xa hơn là một cánh rừng.
Bức
tranh đơn giản, không phải là một tuyệt phẩm hội họa nhưng với tôi lại
quá đẹp. Mỗi ngày đi ngang qua, nhìn bức tranh, tự nhiên cảm thấy một
chút gì đó ấm áp trong lòng. Bởi vì cảnh trong bức tranh rất giống
ngọn đồi phía sau nhà, nơi cha mẹ tôi sống trong những ngày tản cư ở
Quế Sơn, Quảng Nam. Nơi đó, những buổi chiều, tôi đứng lặng nhìn ngọn
đồi như cố thu hết từng hoa sim tím, từng giọt nắng vàng vào trong trí
nhớ còn rất nhiều chỗ trống của mình như để một ngày nào đó còn đem ra
xem lại. Cuốn phim thời thơ ấu đầy bất trắc còn rất rõ. Tôi vẫn xem lại
đoạn phim trong những ngày giỗ cha mẹ tôi, những chiều mưa rất buồn,
những đêm trăng rất sáng.
Tôi thường chỉ bức
tranh và hãnh diện khoe với các đồng nghiệp người Mỹ “Quê hương tao
giống hệt như vậy đó”. Các bạn Mỹ thường hỏi xã giao “Mày có về thăm
quê mày lần nào chưa?” “Chưa”. Tôi trả lời và rồi chỉ vào đầu “nhưng
không sao, quê hương là ở đây, trong ký ức của tao.”
Nói
thế, vì tôi biết dù có trở về, quê hương cũng không còn như thế nữa.
Ngọn đồi sim tím có thể đã bị san bằng và cụm rừng kia chắc đã bị khai
hoang. Nếu về lại, tôi sẽ làm gì? Tôi sẽ ngồi xuống như đang ngồi đây
và hình dung một khoảng thời gian, một khoảng không gian đã mất. Tôi sẽ
cảm thấy rất đau khi tất cả những gì gần gũi nhất của tôi trên thế gian
không còn nữa. Mơ mộng thì ở đâu mà chẳng mơ mộng được. Ngày mới tới
đây, tinh thần chưa ổn định, nhiều buổi chiều tôi thường đi bộ một mình
dọc bờ biển Đại Tây Dương nhìn những chiếc tàu hàng đi qua mà nhớ ngày
nào mình từng cầu mong một con tàu như thế đi qua trên Thái Bình Dương.
Trong
ngôn ngữ Việt Nam, quê hương là một trong những danh từ gây nhiều cảm
xúc nhất. Một phần phát xuất từ tình yêu sâu đậm dành cho nơi chôn nhau
cắt rốn và phần khác mang đặc tính rất con người, đó là quyền sở hữu.
Khi nhắc đến quê hương, dù hai người cùng lớn lên trong cùng một tỉnh,
một quận huyện hay cả một thôn xóm, vẫn cảm thấy quê hương là của riêng
mình. Cũng một dòng sông, một bến đò, một đồi sim nhưng hình ảnh của
chúng khác nhau trong mỗi tâm hồn.
Những nhạc
phẩm quê hương bao giờ cũng đậm đà, tha thiết. Bài hát về quê hương tôi
thích nhất là bài Tình Quê Hương của Việt Lang.
Ngàn dâu xanh ngát mấy nếp tranh xa mờ
Tiếng sáo bay dập dìu đường về thôn xưa
Tình quê lai láng dưới trời thu
Khói xây thành chập chùng mây đưa
Cành tơ liễu thấp thoáng bên hồ
Mùa nhớ nhung dòng nước lững lờ…
Quảng
Nam là xứ trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ và dệt lụa nên tôi lại càng thấy
gần gũi hơn với câu “Ngàn dâu xanh ngát mấy nếp tranh xa mờ” trong bài
Tình Quê Hương. Làng tôi không trồng dâu nhiều bằng các nơi khác trong
quận nhưng nuôi tằm và ươm tơ rất nhiều. Tuổi thơ tôi ở quê nội Duy
Xuyên là những ngày quây quần bên những chiếc nia tròn nhìn những con
tằm trắng cuộn mình trong những chiếc lá dâu xanh. Vì ươm tơ nên thức
ăn chính trong bữa cơm gia đình ở làng tôi là nhộng. Nhộng xào, nhộng
rang khô, nhộng xúc bánh tráng, nhộng nấu canh, nhộng làm gỏi. Cô tôi
dạy tôi quay tơ và lớn hơn chút tôi được dạy ươm tơ. Quay tơ chỉ quay
đều tay là được nhưng ươm thì kỹ thuật hơn, khéo tay hơn, đánh nhiều
kén quá sợi tơ sẽ dày như sợi thao và ít quá tơ sẽ đứt đoạn nhiều,
không đều. Học ươm tơ rất vui nhưng nếu bị bắt ngồi ươm suốt mấy giờ
liên tục lại là chuyện khác. Phần lớn công việc ươm tơ là của các chị
trong làng. Đúng như các nhà thơ Quảng Nam thường hay tả thôn nữ Duy
Xuyên, các chị trong làng tôi ngày ấy ai nấy cũng đẹp. Nghề ươm tơ phải
ngồi bên nồi nước sôi nên đôi má của các chị lúc nào cũng ửng hồng.
Tôi
nghĩ hoài đến cái xứ Quảng nghèo nàn nhưng gặp quá nhiều khốn khó này.
Hạnh phúc thường hiếm hoi và ngắn ngủi nhưng tai họa lại hay chọn nơi
này để đến và ở lại rất lâu. Phải chi ngày xưa ông bà chúng tôi đi
thẳng vào Sài Gòn, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu thì hay biết bao nhiêu.
Dừng lại bên kia đèo Hải Vân làm chi. Sáu thế kỷ trôi qua, bao nhiêu
thế hệ đã sống và đã chết trên vùng đất định mệnh đó.
Đó
chỉ là vài trong vô số kỷ niệm của tôi về một quê hương trong ký ức.
Nhưng nếu quê hương chỉ là những gì trong ký ức thôi, thật là buồn tẻ,
khô khan và giới hạn. Tôi có thể viết cả cuốn sách về tuổi thơ và quê
hương trong ký ức, nhưng rồi để làm gì. Ký ức không chết khi nào con
người còn sống, nhưng ký ức chỉ là quá khứ không thay đổi, không cũ đi
và cũng chẳng mới hơn. Ký ức là chất nhựa, sức bật cần thiết để con
người từ đó vươn lên chứ không phải từ đó dừng lại. Phải sống trong hy
vọng vào một ngày mai. Nhưng hy vọng chưa đủ, phải hoạt động tích cực
để hy vọng trở thành sự thật.
Câu chuyện của
chuyên viên ngân hàng Andy Dufresne trong phim The Shawshank Redemption
là một lời khuyên tốt. Andy Dufresne, nhân vật chính trong phim bị kết
án hai bản án chung thân về tội giết người mà anh không gây ra. Oan ức
nhưng anh không xem đó như số phận an bài.
Andy
dành gần 19 năm để khoét một đường hầm chỉ lớn đủ cho một người chui
qua bức tường dày của nhà tù bằng chiếc búa rất nhỏ thường dùng để đục
đẽo những con cờ bằng đá. Không giống như các bạn tù khác ở tù lâu năm
nên nhận thức của họ bị cơ chế hóa, Andy sống trong hy vọng và đeo đuổi
ước mơ mà anh hằng đêm thêu dệt như có lần anh ta nói với Red, một
người bạn tù “Hy vọng, có thể không phải là điều tốt nhất, nhưng là
điều tốt và trước nay chưa có điều tốt lành nào chết đi.”
Mơ
ước của Andy là được đến Zihuatanejo, Mexico , một vùng biển anh ta
chưa bao giờ đặt chân đến, để sống một cách tự do cho đến hết đời mình
vì, như anh đọc đâu đó, miền đất ấm đó là nơi không giữ một dấu vết nào
của quá khứ. Mỗi ngày Andy đục một chút vôi trên vách tường, bỏ vào
túi quần và rải xuống đất khi đi bộ trong sân nhà tù. Cuối cùng, sau
gần 19 năm, anh đục xuyên bức tường dày và vượt ngục thành công.
Trong
thời gian chính phủ Nam Hàn hiện đại hóa thủ đô Seoul bắt đầu từ thập
niên 1970, rất nhiều cơ sở thương mại phải bị dời đi, nhiều tòa nhà bị
phá hủy, ngay cả nhiều cảnh đẹp dọc dòng sông Hán cũng bị thay đổi
nhường chỗ cho các con đập lớn, đại lộ, đường xe điện cắt ngang qua
thành phố. Dòng sông Hán từ triều đại Baekje trước công nguyên đã gắn
đã liền với lịch sử và đời sống người dân Triều Tiên. Không phải ai
cũng đồng ý. Nhiều nơi trong thành phố dân chúng biểu tình phản đối.
Chính phủ Nam Hàn không thay đổi quyết định mặc dù đã xây thêm một số
công viên để người dân giải trí.
Thủ đô Seoul
từ một thành phố gần như một đống gạch vụn sau bốn lần bị đổi chủ trong
chiến tranh Triều Tiên với gần hai trăm ngàn tòa nhà bị san bằng và hơn
một triệu người không nơi nương tựa, đã vượt qua ký ức đau thương, tang
tóc để đạt đến một quê hương ngoài ký ức tự dọ, dân chủ, phồn vinh hiện
đại như hôm nay. Những người phản đối chỉ vì họ sợ mất đi hình ảnh quá
khứ mà họ trân quý nhưng đồng thời họ chưa hình dung được quê hương
ngày mai sẽ đẹp đến mức nào. Giới lãnh đạo Nam Hàn, những người có tầm
nhìn xa, biết rằng hiện đại hóa đất nước phải bắt đầu từ thủ đô Seoul.
Kết quả, Seoul được phép tổ chức Olympics 1988 và người dân Nam Hàn
hãnh diện về các công trình xây dựng, các kiến trúc tân kỳ, hiện đại
của thủ đô họ.
Hai câu chuyện nhỏ, một hư cấu
và một thực tế, cho thấy quá trình chuyển hóa giữa quá khứ, hiện tại và
tương lai trong con người quan trọng đến dường nào. Đó là một chuỗi các
chọn lựa can đảm bắt đầu từ mỗi con người cho đến phạm vi toàn đất
nước. Tôi thật sự tin, con người và cả dân tộc Việt Nam cũng thế, hơn
bao giờ hết, phải chọn lựa giữa tiếp tục đi trên một lối mòn của số
phận hay vượt qua quá khứ, hành động cho tương lai để sải cánh vào bầu
trời tự do của văn minh nhân loại.
Ba mươi sáu
năm trước, ngồi trước chén bo bo, tô nước muối khuấy lỏng, dĩa rau
muống luộc, niềm ao ước của mỗi người dân là thấy được chén cơm ngon,
một tô canh ngọt, một dĩa thịt thơm. Nhưng ngày nay, giữa thời đại con
người đang du lịch cung trăng, nếu vẫn tiếp tục mơ một chén cơm trắng,
tô canh ngọt, dĩa thịt thơm, làm sao đất nước sẽ đuổi kịp đà tiến văn
minh?
Ba mươi sáu năm trước, Việt Nam là một
quốc gia cô lập từ thế giới, tiếng động nửa khuya là tiếng động của
xích xiềng, ánh sáng le lói trong căn nhà tranh được thắp lên từ que
diêm cuối cùng trong đêm dài lịch sử, mơ ước của người dân là được sống
bình an dù bình an trong cơ chế, được xem phim ảnh dù đã được kiểm tra
từng chi tiết, được hát một bài tình ca dù đã được chọn lọc kỹ càng.
Nhưng
ngày nay, ngoại trừ các nhóm thổ dân trong thung lũng Javari vùng
Amazon, Brazil và năm nước Cộng Sàn còn sót lại, phần lớn nhân loại
đang bước vào thời kỳ văn minh mới, trong đó ngay cả các khái niệm dân
chủ pháp trị cũng đang bị xem là lạc hậu, nếu người dân Việt Nam bằng
lòng được sống bình an trong cơ chế, được xem phim ảnh dù đã được kiểm
tra từng chi tiết, được hát một bài tình ca dù đã được chọn lọc kỹ
càng, dân tộc này sẽ đi lùi cho đến bao sâu?
Từ
nhiều năm qua, hàng loạt người Việt Nam đã ý thức các hiểm họa dân tộc
lạc hậu đó và lên đường dấn thân cho một Việt Nam mới. Phần lớn còn rất
trẻ. Một số hy sinh, một số đang ở trong tù, và một số còn đang tranh
đấu. Tình yêu nước trong tâm hồn họ vô cùng trong sáng. Nếu ai hỏi họ
tranh đấu để được gì, tôi tin, câu trả lời chắc chắn không phải được gì
cho bản thân họ. Nếu muốn thăng tiến trên con đường danh lợi cho bản
thân, những bạn trẻ đó có thừa điều kiện để leo nhanh hơn lên nấc thang
xã hội mà nhiều người đang chen lấn để leo. Nhưng các bạn chọn con
đường khác, khó khăn nhiều nhưng cũng rất vinh quang, con đường đi dựng
mùa xuân dân tộc.
Mùa xuân trên quê hương
ngoài ký ức mà nhiều người Việt Nam yêu nước đang theo đuổi sẽ không có
tù chính trị, không có đấu tranh giai cấp, không có tuổi thơ lây lất ăn
xin trên các vỉa hè, không có những em bé cất tiếng khóc chào đời trong
thùng rác, không có các em học sinh mỗi ngày hai bận phải bơi qua sông
đi học, không có các thiếu nữ Việt Nam trần truồng sắp hàng để được
các ông Đài Loan, Hàn Quốc mua như mua thịt ngoài chợ, không có những
ngư dân bị bắn chết chỉ vì đi đánh cá trên vùng biển của tổ tiên để
lại. Giòng sông quê hương trong ý thức của họ là giòng sông của tình
người và tình dân tộc trong xanh dịu mát. Bài hát họ mơ học sinh Việt
Nam sẽ hát mỗi ngày bắt đầu bằng lòng kính nhớ đến ơn đức tổ tiên, công
ơn cha mẹ, tình thương yêu dành cho đồng bào ruột thịt và kết thúc bằng
ý chí vươn lên sánh ngang vai cùng thời đại con người đang không ngừng
đổi mới.
Mùa xuân trên quê hương ngoài ký ức
là một Việt Nam dân chủ hiện đại với các trường đại học tiêu chuẩn quốc
tế, với các hạm đội hải quân trang bị tận răng mang tên Ngô Quyền, Trần
Hưng Đạo, Hàm Tử, Bạch Đằng, Vạn Kiếp, với những binh đoàn, phi đoàn
trang bị vũ khi tối tân mang tên Chi Lăng, Đống Đa, Nhật Tảo, với
những công ty kỹ thuật, những nhà máy công nghiệp, nông nghiệp cao cấp
cạnh tranh ngang ngửa với các công ty Nam Hàn, Đài Loan, Nhật Bản. Từ
hầm mỏ cho đến ruộng đồng, từ xa lộ thênh thang đến sông dài, biển
rộng, từ thôn làng xã ấp xa xôi cho đến chính phủ trung ương, tất cả
nối liền nhau như những mạch sống trong cùng một cơ thể Việt Nam tự do,
khỏe mạnh và cường tráng.
Con đường những
người đang đi tìm một quê hương ngoài ký ức hôm nay, dù sao, còn khá ít
bởi vì giai đoạn từ kiến thức chuyển sang nhận thức trước khi dẫn tới
hành động cụ thể vẫn còn là những chiếc cầu dài. Ngoài ra, không ít
người Việt còn đang bị cơ chế hóa và số khác không đủ can đảm tự chặt
đi một cánh tay lầm lỗi của chính mình.
Nhưng
không giống như các bạn tù của Andy Dufresne trong phim The Shawshank
Redemption, các thế hệ Việt Nam sẽ lần lượt đứng lên như đã chứng minh
nhiều lần trong suốt dòng lịch sử Việt Nam.
Nguyễn
Trãi đã từng than “tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu”
để nói lên cảnh khó khăn trong giai đoạn Lê Lợi mới dấy binh từ núi
rừng Lam Sơn, Thanh Hóa. Những trận đánh đầu tiên là những lần thất
bại. Từ năm 1418 đến năm 1422, quân khởi nghĩa phải ba lần phải rút
lên núi Chí Linh, giết ngựa, hái rau, luột măng, đào củ chuối mà ăn.
Nhiều trận đánh thua, quân tướng mỗi người mỗi ngả và có lần nhóm quân
của Lê Lợi tan tác chỉ còn mỗi một mình ngài . Nhưng cũng từ đó, lớp
lớp người dân, anh hùng hào kiệt từ khắp nơi về tụ hội dưới ngọn cờ
chính nghĩa. Ý chí tự chủ dân tộc như ngọn lửa thiêng lại bùng cháy lên
trong mỗi trái tim, trong mỗi tâm hồn Việt Nam để rồi 5 năm sau, ngày
20 tháng 9 năm 1427, chém đầu danh tướng nhà Minh là An Viễn Hầu Liễu
Thăng tại Mã Yên, giành lại chủ quyền độc lập như Nguyễn Trải khẳng
định trong Bình Ngô Đại Cáo “Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu, muôn thuở
nền thái bình vững chắc”.
Mùa xuân trên quê
hương ngoài ký ức sẽ đến nếu mỗi chúng ta biết hy sinh một ít công sức
cho công cuộc vận động tự do dân chủ đang chuyển mình trên đất nước hôm
nay. Như một lần kẻ viết bài này đã viết, ba mươi sáu năm là một quãng
đường dài, chúng ta đã hơn một lần trễ hẹn với non sông, nhưng không
phải vì thế mà không còn cơ hội nào khác. Cơ hội vẫn còn đó nếu chúng
ta biết đoàn kết, thấy được hướng đi chung của dân tộc và thời đại.
Chúng
ta có nhiều quá khứ nhưng đất nước chỉ có một tương lai, đó là tương
lai tự do, dân chủ, nhân bản và khai phóng cho những ai, sau những điêu
tàn đổ vỡ, còn biết nhận ra nhau, còn biết yêu thương mảnh đất thiêng
liêng, vinh quang và thống khổ Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.